Quy chế đấu thầu cơ sở pháp lý và thực tiễn áp dụng tại Tổng Công ty Sông Đà

Lời mở đầu Cơ chế kinh tế thị trường xuất hiện cùng với công cuộc cải cách kinh tế ở Việt Nam đã được trên 15 năm. Nhờ đó nền kinh tế đã thu được những thành tựu bước đầu quan trọng, tốc độ tăng trưởng được duy trì ở mức độ tương đối cao trong một thời gian dài. Cùng với sự phát triển của đất nước, hoạt động xây dựng trong những năm gần đây đã có sự chuyển mình và đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Ngành xây dựng nước ta đã có những bước phát triển không ngừng về mọi mặt, trưởng thành nhanh chóng

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1220 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quy chế đấu thầu cơ sở pháp lý và thực tiễn áp dụng tại Tổng Công ty Sông Đà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong mọi lĩnh vực của hoạt động xây dựng, có thể thiết kế, thi công hoàn thiện nhiều công trình có quy mô lớn, hiện đại và ngày càng đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ xây dựng các công trình công nghiệp, công trình dân dụng và hạ tầng kỹ thuật. Đóng góp một phần không nhỏ vào thành tích này, ta phải kể đến hoạt động đấu thầu. Đấu thầu xây dựng là công việc tuy mới được áp dụng ở nước ta từ năm 1994 nhưng đến nay, qua nhiều bước hoàn thiện, cơ chế đấu thầu đã chứng tỏ phù hợp với nền kinh tế thị trường, thực sự mang lại hiệu quả kinh tế to lớn, tiết kiệm chi phí đầu tư xây dựng, thúc đẩy sự hoàn thiện của bản thân nhà thầu về năng lực và tổ chức để đảm bảo các yêu cầu về tiến độ thi công và chất lượng các công trình. Tuy nhiên, công tác đấu thầu là lĩnh vực tương đối mới nên trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những lúng túng, bất cập thậm chí có những sai lầm gây thất thoát tài lực của đất nước, đòi hỏi Nhà nước phải có sự nghiên cứu, cập nhật đổi mới phương thức phù hợp trong quản lý và điều hành công tác đấu thầu nói chung. Khi đất nước bước sang thiên niên kỷ mới, Đại hội Đảng IX đã thông qua một số văn kiện quan trọng đề ra mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội trong những năm tới, thực hiện chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu trên, trong thời gian qua, Nhà nước đã xây dựng và ban hành các biện pháp, cơ chế, chính sách nhằm phát huy nội lực đất nước, phù hợp với các cam kết quốc tế. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đầu tư xây dựng đặc biệt là hoạt động đấu thầu ngày càng được bổ sung, hoàn thiện phục vụ đắc lực cho công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực này, tạo ra một thị trường xây dựng trong sạch, mang tính cạnh tranh cao. Qua thời gian thực tập tại phòng Kinh tế Tổng công ty Sông Đà, em đã nhận thức được tầm quan trọng của phương thức đấu thầu đối với nền kinh tế nói chung và đối với Tổng công ty Sông Đà nói riêng. Hơn nữa, để hiểu sâu hơn về phương thức đấu thầu từ đó thấy được những ưu điểm, tồn tại cùng các giải pháp để phương thức đấu thầu ngày càng hoàn thiện nên em chọn đề tài: “Quy chế đấu thầu cơ sở pháp lý và thực tiễn áp dụng tại Tổng công ty Sông Đà” . Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, chuyên đề gồm các phần: Chương i: Những vấn đề pháp lý chung về đấu thầu, đấu thầu xây lắp Chương II: Vấn đề áp dụng pháp luật về đấu thầu xây lắp tại Tổng công ty Sông Đà Chương III: Kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ pháp lý về đấu thầu xây lắp tại Tổng công ty Sông Đà Để hoàn thành chuyên đề thực tập này, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô khoa Luật kinh tế cùng các chuyên viên phòng Kinh tế Tổng công ty Sông Đà, đặc biệt là sự tận tình hướng dẫn của cô giáo Ts. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ và anh Nguyễn Đức Thành trong quá trình thực tập. Do kiến thức có hạn nên chuyên đề này không tránh khỏi thiếu sót, mong thầy cô cùng các bạn đóng góp ý kiến để chuyên đề hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Chương i- Những vấn đề pháp lý chung về đấu thầu, đấu thầu xây lắp I - Khái quát chung về đấu thầu 1- Sự cần thiết phải tiến hành đấu thầu trong hoạt động xây dựng Khi một dự án đã được phê duyệt, công việc tiếp theo là triển khai thực hiện dự án. Để triển khai thực hiện dự án có rất nhiều việc phải làm như: tư vấn, thiết kế kỹ thuật, thi công, mua sắm thiết bị, xây lắp... Có hai cách để thực hiện các công việc này: - Chủ dự án tự mình làm tất cả các công việc của dự án - Thuê các đối tác bên ngoài Đối với cách thứ nhất, chủ dự án sẽ tự mình thực hiện toàn bộ dự án bằng các nguồn lực sẵn có, phát triển những công nghệ sẵn có của mình. Nếu theo cách thứ hai, chủ đầu tư sẽ phải tìm kiếm các đối tác cho các công việc cụ thể, chi tiết của dự án từ một công ty khác bằng cách sử dụng hình thức đấu thầu( khi đó chủ dự án sẽ là chủ đầu tư và các đối tác tham gia là các nhà thầu) để lựa chọn nhà thầu thích hợp nhất hoặc chủ dự án có thể thoả thuận, thuyết phục trực tiếp bên đối tác nhất định thực hiện dự án cho mình. Tuy nhiên trong một nền kinh tế phát triển luôn tồn tại rất nhiều các doanh nghiệp xây dựng( chính là các đối tác của chủ dự án) có các thế mạnh và nhược điểm khác nhau, giữa các doanh nghiệp này luôn có sự cạnh tranh gay gắt. Do đó, chủ dự án có rất nhiều cơ hội lựa chọn cho mình một đối tác tốt nhất, để lựa chọn được thì chủ dự án nên chọn phương thức đấu thầu. Vậy, đấu thầu là phương thức cần thiết để lựa chọn những nhà thầu tốt nhất phù hợp nhất để thực hiện toàn bộ hay từng phần dự án một cách có hiệu quả. Việc tiến hành đấu thầu đem lại rất nhiều thuận lợi cho cả ba bên: nhà nước, chủ đầu tư và nhà thầu. Đứng trên phương diện Nhà nước, nhờ có đấu thầu, Nhà nước đã lựa chọn được các nhà thầu đáp ứng yêu cầu cơ bản của chủ đầu tư; các cơ quan quản lý nhà nước có đủ thông tin thực tế và cơ sở khoa học để đánh giá đúng năng lực thực sự của các nhà thầu đồng thời tạo ra được thị trường xây dựng minh bạch, cạnh tranh và bình đẳng. Mặt khác, đấu thầu đã nâng cao hiệu quả dự án, chất lượng các công trình được cải thiện rất nhiều, tiết kiệm cho Nhà nước hàng ngàn tỷ đồng. Xét về phía nhà thầu, qua đấu thầu đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong cạnh tranh, tiếp thu được kiến thức về khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại trong việc xây dựng dự án lớn, có cơ hội để cạnh tranh với nhau trên thương trường trong nước và quốc tế, từ đó có điều kiện để khẳng định mình ở hiện tại và tương lai. Còn về phía chủ đầu tư, có rất nhiều thuận lợi phải kể đến như có khả năng tăng thêm nguồn lực từ bên đối tác, tạo cơ hội lựa chọn được nhà thầu tốt nhất với chi phí thấp nhất trong số rất nhiều ứng cử viên nếu có sẵn. Bên cạnh đó có thể tăng chất lượng dự án, tăng cường các mối quan hệ, uy tín của công ty và chủ đầu tư tăng lên rất nhiều. Vậy, trong nền kinh tế thị trường, hoạt động đấu thầu là một phương thức phổ biến và thực sự cần thiết để thực hiện dự án một cách hiệu quả. 2- Khái niệm, đặc điểm, yêu cầu đối với đấu thầu. 2.1 Khái niệm Trên thực tế hiện nay tồn tại rất nhiều khái niệm, cách hiểu về đấu thầu. Xuất phát từ Từ điển Tiếng việt, “ đấu thầu ” được hiểu là việc tổ chức cuộc so đọ công khai ai nhận làm, nhận bán với điều kiện tốt nhất thì được chấp nhận. Theo đó thì “đấu thầu” là một cuộc đọ sức công khai giữa các tổ chức về kỹ thuật và tài chính. Còn theo quan niệm chủ thầu( Bên mời thầu), cũng như theo định nghĩa trong Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ- CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ thì “đấu thầu” là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu của Bên mời thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu. Xét theo quan niệm nhà thầu thì “đấu thầu” là cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nhà thầu để nhận được dự án cung cấp các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ từ Bên mời thầu. Vậy đứng trên quan niệm nhà thầu và chủ thầu, “đấu thầu” là cuộc “thi tuyển” trong hoạt động xây dựng giữa các nhà thầu thoả mãn các yêu cầu của chủ thầu từ đó lựa chọn được nhà thầu thích hợp nhất. Một số thuật ngữ liên quan theo Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ- CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ: “Dự án” là tập hợp các đề xuất để thực hiện một phần hay toàn bộ công việc đáp ứng mục tiêu hoặc yêu cầu nào đó. Dự án bao gồm dự án đầu tư và dự án không có tính chất đầu tư. “Người có thẩm quyền” là người đứng đầu hoặc người được uỷ quyền theo quy định của pháp luật thuộc tổ chức, cơ quan nhà nước hoặc doanh nghiệp. “Cấp có thẩm quyền” là tổ chức, cơ quan được người có thẩm quyền giao quyền hoặc uỷ quyền theo quy định của pháp luật. “ Bên mời thầu ” là chủ dự án, chủ đầu tư hoặc pháp nhân đại diện hợp pháp của chủ dự án, chủ đầu tư được giao trách nhiệm thực hiện công việc đấu thầu. “ Nhà thầu” là tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự, đối với cá nhân còn phải có năng lực hành vi dân sự để ký kết và thực hiện hợp đồng. Nhà thầu là nhà xây dựng trong đấu thầu xây lắp; là nhà cung cấp hàng hoá trong đấu thầu mua sắm hàng hoá; là nhà tư vấn trong đấu thầu tuyển chọn tư vấn; là nhà đầu tư trong đấu thầu lựa chọn đối tác đầu tư. “Gói thầu” là toàn bộ dự án hoặc một phần công việc của dự án được phân chia theo tính chất kỹ thuật hoặc trình tự thực hiện dự án, có quy mô hợp lý để bảo đảm tính đồng bộ của dự án. Trong trường hợp mua sắm, gói thầu có thể là một loại đồ dùng trong thiết bị hoặc phương tiện. Gói thầu được thực hiện theo một hoặc nhiều hợp đồng( gói thầu được chia thành nhiều phần). “Xây lắp” là những công việc thuộc quá trình xây dựng và lắp đặt thiết bị các công trình, hạng mục công trình. Tóm lại, “đấu thầu” thực chất là quá trình thoả mãn các yêu cầu về kỹ thuật, tài chính của cả hai chủ thể cơ bản tham gia vào quá trình đấu thầu để thực hiện một dự án sao cho có hiệu quả nhất với chi phí thấp, tạo ra các công trình có chất lượng cao. 2.2 Đặc điểm Từ các khái niệm nêu trên ta có thể thấy có một số đặc điểm riêng đặc trưng cho phương thức đấu thầu. Thứ nhất, xét về chủ thể, chủ thể của đấu thầu có thể là cá nhân( trong đấu thầu tuyển chọn tư vấn) hay bắt buộc phải là tổ chức( đấu thầu xây lắp và đấu thầu mua sắm hàng hoá). Các tổ chức, cá nhân này muốn tham gia đấu thầu phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Thứ hai, khác với hình thức đấu giá chỉ có một người bán mà có nhiều người mua, đấu thầu là phương thức có một người mua nhưng có rất nhiều người bán. Trong đó chủ đầu tư là người mua, nhà thầu là người bán, người bán nào trả giá thấp nhất với chất lượng cao sẽ được người mua lựa chọn hay chính là trúng thầu. Chính các đặc điểm trên đã tạo ra cho đấu thầu những ưu điểm riêng mà các hình thức lựa chọn nhà thầu khác không có. 2.3 Yêu cầu với đấu thầu trong hoạt động xây dựng Khi chủ đầu tư muốn tổ chức đấu thầu để lựa chọn nhà thầu cho dự án của mình, cả quy trình đấu thầu đó phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu nhất định theo quy định của pháp luật. Yêu cầu đầu tiên đối với đấu thầu là việc lựa chọn nhà thầu phù hợp nhất nhưng phải đảm bảo tính cạnh tranh. Nếu không đảm bảo tính cạnh tranh thì quy trình đấu thầu đó sẽ không bao giờ tồn tại được. Thứ hai, chủ đầu tư muốn tiến hành đấu thầu chỉ khi đã xác định được nguồn vốn để thực hiện dự án, điều này đảm bảo tính minh bạch và tiến độ của hoạt động đấu thầu. Yêu cầu thứ ba đặt ra đối với đấu thầu là cả bên mời thầu và nhà thầu không được kéo dài thời gian thực hiện đấu thầu, phải luôn bảo đảm tiến độ, hiệu quả của đấu thầu trong hoạt động xây dựng đồng thời bên dự thầu phải có phương án kỹ thuật, công nghệ tối ưu, có giá dự thầu hợp lý khi tham gia đấu thầu, điều này tạo tính hiệu quả, chất lượng cho dự án. Bên cạnh đó để tránh các tiêu cực thường xuất hiện trong hoạt động đấu thầu, các nhà thầu không được sử dụng tư cách pháp nhân của tổ chức khác để tham gia dự thầu; dàn xếp; mua bán thầu; dùng ảnh hưởng của mình làm sai lệch kết quả đấu thầu hoặc bỏ giá thầu thấp dưới giá thành xây dựng công trình. Để thúc đẩy hoạt động xây dựng của nước ta phát triển thì khi nhà thầu trong nước tham gia đấu thầu quốc tế tại Việt Nam sẽ được hưởng chế độ ưu đãi theo quy định trong Quy chế đấu thầu. Bất cứ hành vi của nhà thầu nào vi phạm các yêu cầu trên đều bị xử lý một cách thích đáng như bị loại bỏ Hồ sơ dự thầu, không công nhận kết quả đấu thầu... 3- Các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động đấu thầu Bất cứ hoạt động nào xuất hiện trong nền kinh tế đều có một quá trình phát triển và đấu thầu cũng vậy. Đấu thầu đã manh nha xuất hiện ở nước ta tư rất lâu nhưng trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, khi mà mọi công trình xây dựng đều được thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh, Nhà nước chỉ định cho các đơn vị thực hiện xây lắp tuỳ theo khả năng hoặc căn cứ vào mối quan hệ móc ngoặc giữa các đơn vị đó với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà không qua đấu thầu. Với cơ chế này, không tồn tại khái niệm cạnh tranh trong tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế nói chung và trong hoạt động đầu tư xây dựng nói riêng, từ đó tạo ra nhiều tiêu cực, sai lầm gây thất thoát lớn cho xã hội. Tuy nhiên, khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, khái niệm cạnh tranh trở nên thông dụng. Trong hoạt động đầu tư xây dựng, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đều bình đẳng trước pháp luật, đều có cơ hội tham gia xây dựng các công trình ngang nhau nên giữa các doanh nghiệp luôn tồn tại sự cạnh tranh. Nền kinh tế càng phát triển thì mức độ cạnh tranh càng gay gắt. Đứng trước thực tế đó, hoạt động đấu thầu đã xuất hiện và tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp xây dựng có cơ hội được thể hiện mình một cách tốt nhất. ở các nước phát triển, đấu thầu đã được áp dụng từ lâu và mang lại hiệu quả to lớn, còn ở Việt Nam hình thức này còn rất mới. Để tạo ra môi trường pháp lý nhằm tăng cường hiệu quả của hình thức đấu thầu, cùng với việc tổ chức thực hiện, các văn bản có tính quy chế được xây dựng, bổ sung và sửa đổi ngày càng hoàn thiện hơn. Đầu những năm 1990, trong các văn bản quản lý đầu tư xây dựng đã xuất hiện “ Quy chế đấu thầu trong xây dựng” nhưng chưa rõ ràng. Tháng 3/1994- Bộ Xây dựng ban hành “ Quy chế đấu thầu xây lắp” ( Quyết định số 06/BXD- VKT thay cho Quyết định số 24/BXD- VKT trước đây). Đây là văn bản được coi là Quy chế đấu thầu đầu tiên, theo đó quy định tất cả công trình xây dựng thuộc sở hữu Nhà nước đều phải thực hiện đấu thầu. Đến ngày 16/4/1994, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 183 TTg. Theo Quy chế này, các dự án dùng vốn Nhà nước( bao gồm Ngân sách cấp, vốn vay, vốn viện trợ, vốn Nhà nước ở các doanh nghiệp) đều phải qua đấu thầu, kết quả đấu thầu có vốn đầu tư trên 10 triệu USD phải thông qua Hội đồng xét thầu quốc gia thẩm định để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và phê duyệt. Năm 1996, Chính phủ ban hành Quy chế đấu thầu kèm theo Nghị định số 43/CP ngày 16/7/1996. Văn bản này mang tính pháp lý cao hơn và phạm vi điều chỉnh rộng hơn, theo đó, “gói thầu” lần đầu tiên đã trở thành đối tượng quản lý của công tác đấu thầu. Nghị định 43/CP của Chính phủ đã được thay thế bằng Nghị định số 88/CP ngày 1/9/1999 và Nghị định này đã được bổ sung, sửa đổi bởi Nghị định số 14/CP ngày 5/5/2000. Từ năm 1999 đến năm 2003, công tác đấu thầu được điều chỉnh chủ yếu bằng Nghị định số 88/CP và Nghị định số 14/CP, so với cơ chế cũ thì nhiều vấn đề đã sáng tỏ hơn, phương pháp đánh giá để đấu thầu đã khoa học hơn, chuẩn mực hơn... Nền kinh tế ngày càng phát triển, yêu cầu đặt ra với đấu thầu ngày càng cao. Để đáp ứng các yêu cầu đó, năm 2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/CP ngày 12/6/2003 sửa đổi bổ sung Quy chế đấu thầu kèm theo Nghị định số 88/CP và Nghị định số 14/CP. Với 45% số điều bổ sung Nghị định 88/CP và 13% số điều sửa đổi bổ sung Nghị định 14/CP đã tăng cường tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch trong đấu thầu, bảo đảm hiệu quả kinh tế của dự án, tăng cường một bước công tác thanh tra quản lý hoạt động đấu thầu và thực hiện hợp đồng, nâng cao công tác quản lý thông tin về đấu thầu và nhà thầu... Đặc biệt là việc ban hành Luật Xây dựng với chương VI về lựa chọn nhà thầu và hợp đồng xây dựng đã thực sự là bước tiến cơ bản trong công tác quản lý nhà nước về đấu thầu, tạo cho hoạt động đấu thầu ngày càng phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay. 4- Phạm vi, đối tượng áp dụng đấu thầu Nhà nước ta chỉ quy định một số dự án bắt buộc phải tiến hành đấu thầu, còn các dự án khác chỉ khuyến khích áp dụng. Trong đó các dự án bắt buộc phải áp dụng phương thức đấu thầu: Các dự án đầu tư thực hiện theo Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng có quy định phải thực hiện Quy chế đấu thầu. Các dự án liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc cổ phần có sự tham gia của các tổ chức kinh tế nhà nước( các doanh nghiệp nhà nước) từ 30% trở lên vào vốn pháp định, vốn kinh doanh hoặc vốn cổ phần. Các dự án sử dụng nguồn vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế hoặc của nước ngoài được thực hiện trên cơ sở nội dung văn bản thoả thuận được hai bên ký kết( bên tài trợ và bên Việt Nam). Trường hợp có những nội dung liên quan tới quy định về đấu thầu trong dự thảo văn bản thoả thuận khác với Quy chế đấu thầu này thì cơ quan được giao trách nhiệm đàm phán ký kết thoả thuận phải trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trước khi ký kết. Trường hợp văn bản thoả thuận đã ký có những nội dung liên quan với quy định về đấu thầu khác với Quy chế đấu thầu của Việt Nam thì áp dụng theo văn bản đã ký. Riêng thủ tục để trình duyệt, thẩm định phê duyệt kế hoạch đấu thầu và kết quả lựa chọn nhà thầu thực hiện theo Quy chế đấu thầu tại Việt Nam. Các dự án cần lựa chọn đối tác đầu tư để thực hiện: Đối với các dự án đầu tư trong nước, chỉ thực hiện khi có từ hai nhà đầu tư trở lên cùng muốn tham gia một dự án; Đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài, chỉ tổ chức đấu thầu theo Quy chế đấu thầu khi có từ hai nhà đầu tư trở lên cùng muốn tham gia một dự án hoặc Thủ tướng Chính phủ yêu cầu phải đấu thầu để lựa chọn đối tác đầu tư thực hiện dự án. Đầu tư mua sắm đồ dùng, vật tư, trang thiết bị, phương tiện làm việc của các cơ quan nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp nhà nước; đồ dùng và phương tiện làm việc thông thường của lực lượng vũ trang. Bộ Tài chính quy định chi tiết phạm vi mua sắm, trách nhiệm, quyền hạn của đơn vị mua sắm theo Luật Ngân sách nhà nước. Với các dự án trên, các quy định của Nhà nước đang ngày càng mở rộng đối tượng áp dụng phương thức đấu thầu. 5- Phân loại đấu thầu trong xây dựng Trên thực tế có rất nhiều cách phân loại đấu thầu khác nhau nhưng có một số cách phân loại phổ biến như sau: 5.1- Phân loại theo phạm vi gói thầu đối với các nhà thầu: Dựa theo các lĩnh vực hoạt động khác nhau của dự án đem đấu thầu, người ta có thể nhóm thành các loại đấu thầu như sau: Đấu thầu trong nước: Đây là phương thức đấu thầu chỉ có các nhà thầu trong nước tham dự. Đấu thầu quốc tế: Đây là phương thức đấu thầu có sự tham gia của nhà thầu trong nước và nhà thầu ngoài nước tham dự. Đối với đấu thầu quốc tế chỉ được áp dụng trong một số dự án nhất định. 5.2- Phân loại theo nội dung chung của công việc gọi thầu( đối tượng của đấu thầu) Dựa theo các lĩnh vực hoạt động khác nhau của dự án đem đấu thầu, người ta có thể nhóm thành các loại đấu thầu như sau: Đấu thầu tuyển chọn tư vấn là quá trình đấu thầu nhằm tuyển chọn một công ty hoặc một cá nhân tư vấn có kinh nghiệm chuyên môn để thực hiện các công việc có liên quan trong quá trình chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư. Đấu thầu mua sắm hàng hoá là phương thức đấu thầu nhằm tuyển chọn nhà cung cấp hàng hoá, thiết bị, công nghệ( gồm cả việc cung cấp thiết bị công nghệ cho việc thi công dự án) phù hợp đáp ứng các yêu cầu của dự án đầu tư. Đấu thầu xây lắp là phương thức đấu thầu mà sau khi giai đoạn chuẩn bị dự án được hoàn tất, chủ đầu tư phải tổ chức tuyển chọn nhà thầu xây dựng phù hợp, thực hiện các công việc xây dựng và lắp đặt các công trình đáp ứng các yêu cầu của dự án đầu tư. Đây cũng là một trong những giai đoạn rất quan trọng trong đầu tư xây dựng. Đấu thầu để chọn đối tác thực hiện dự án là loại đấu thầu để chọn nhà đầu tư thực hiện dự án khi có những dự án chưa có nhà đầu tư hoặc cần gọi thêm nhà đầu tư. Loại đấu thầu này áp dụng cho những dự án thuộc danh mục đầu tư hàng năm do Chính phủ công bố hoặc nhà đấu tư đề xuất. Nếu có từ hai đối tác trở lên quan tâm thực hiện dự án thì phải tổ chức đấu thầu để người có thẩm quyền có cơ sở xem xét lựa chọn đối tác thực hiện dự án. 5.3- Đấu thầu theo hình thức lựa chọn nhà thầu Theo cách phân loại này đấu thầu được chia làm các loại đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế và chỉ định thầu. Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia. Khi đó bên mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện, thời gian dự thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc thông báo trên tờ thông tin về đấu thầu và trang Web về đấu thầu của Nhà nước và của Bộ, ngành địa phương tối thiểu 10 ngày trước khi phát hành hồ sơ mời thầu. Đây là hình thức chủ yếu áp dụng trong đấu thầu hiện nay. Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu mời một số nhà thầu( tối thiểu là 5 người) có đủ kinh nghiệm và năng lực tham dự. Hình thức này chỉ được xem xét áp dụng khi có một trong các điều kiện sau: Chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng được yêu cầu của gói thầu Do nguồn vốn sử dụng yêu cầu phải tiến hành đấu thầu hạn chế Do tình hình cụ thể của gói thầu mà việc đấu thầu hạn chế có lợi thế. Chỉ định thầu là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu để thương thảo hợp đồng. Hình thức này chỉ được áp dụng trong các trường hợp đặc biệt có tính chất nghiên cứu thử nghiệm, cấp bách do thiên tai địch hoạ, hay có liên quan đến bí mật quốc gia. Một số dự án trong loại này thường do Thủ tướng Chính phủ quyết định và cho phép. Các dự án được chỉ định thầu hay gói thầu thường có giá trị nhỏ. Đối với các gói thầu lớn phải thông qua Thủ tướng Chính phủ xét duyệt. Chào hàng cạnh tranh là hình thức áp dụng cho những gói thầu mua sắm hàng hoá có giá trị dưới 2 tỷ đồng. Mỗi gói thầu phải có ít nhất 3 chào hàng của 3 nhà thầu khác nhau trên cơ sở yêu cầu chào hàng của Bên mời thầu. Mua sắm trực tiếp là hình thức được áp dụng trong trường hợp bổ sung hợp đồng cũ đã thực hiện xong( dưới 1 năm) hoặc hợp đồng đang thực hiện với điều kiện chủ đầu tư có nhu cầu tăng thêm số lượng hàng hoá hoặc khối lượng công việc mà trước đó đã được tiến hành đấu thầu nhưng phải đảm bảo không được vượt mức giá hoặc đơn giá trong hợp đồng đã ký trước đó. Tự thực hiện là hình thức chỉ được áp dụng đối với các gói thầu mà chủ đầu tư có đủ năng lực thực hiện trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật, khi đó chủ đầu tư sẽ thực hiện toàn bộ các công việc của một dự án. Mua sắm đặc biệt: hình thức này được áp dụng đối với các ngành hết sức đặc biệt mà nếu không có những quy định riêng thì không thể đấu thầu được. Khi đó cơ quan quản lý ngành phải xây dựng quy trình thực hiện đảm bảo các mục tiêu của Quy chế đấu thầu và có ý kiến thoả thuận của Bộ Kế hoạch và Đầu tư để trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. 5.4- Phân loại theo phương thức đấu thầu Căn cứ vào phương thức đấu thầu người ta chia thành các loại như: Đấu thầu một túi hồ sơ là phương thức mà nhà thầu nộp tất cả các hồ sơ dự thầu, các đề xuất kỹ thuật, tài chính trong một túi hồ sơ. Phương thức này được áp dụng đối với đấu thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp. Đấu thầu hai túi hồ sơ là phương thức mà nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về giá trong từng túi hồ sơ riêng vào cùng một thời điểm. Túi hồ sơ đề xuất kỹ thuật sẽ được xem xét trước để đánh giá. Các nhà thầu đạt số điểm kỹ thuật từ 70% trở lên sẽ được mở tiếp túi hồ sơ đề xuất về giá để đánh giá. Phương thức này chỉ được áp dụng đối với đấu thầu tuyển chọn tư vấn Đấu thầu hai giai đoạn là phương thức đấu thầu hai giai đoạn được áp dụng cho các dự án lớn có giá trị từ 500 tỷ đồng trở lên, phức tạp về công nghệ và kỹ thuật hoặc dự án chìa khoá trao tay. Quá trình thực hiện phương thức này như sau: Giai đoạn thứ nhất: các nhà thầu nộp hồ sơ dự thấu sơ bộ gồm đề xuất về kỹ thuật và phương án tài chính( chưa có giá) để Bên mời thầu xem xét và thảo luận cụ thể với từng nhà thầu, nhằm thống nhất về yêu cầu và tiêu chuẩn kỹ thuật để nhà thầu chuẩn bị và nộp hồ sơ dự thầu chính thức của mình; Giai đoạn thứ hai: Bên mời thầu mời các nhà thầu tham gia trong giai đoạn thứ nhất nộp hồ sơ dự thầu chính thức với đề xuất kỹ thuật đã được bổ sung hoàn chỉnh trên cùng một mặt bằng kỹ thuật và đề xuất chi tiết về tài chính với đầy đủ nội dung về tiến độ thực hiện, điều kiện hợp đồng, giá dự thầu. 6- Nguyên tắc trong đấu thầu Toàn bộ quy trình của đấu thầu đều tuân theo một số các nguyên tắc nhất định nhằm đưa hoạt động đấu thầu theo một quy chế chung. Các nguyên tắc chính điều chỉnh đấu thầu như sau: 6.1- Nguyên tắc cạnh tranh với điều kiện ngang nhau: Mỗi cuộc đấu thầu đều phải được thực hiện với sự tham gia của một số nhà thầu có đủ năng lực để hình thành một cuộc canh tranh mạnh mẽ. Điều kiện đặt ra với các đơn vị ứng thầu là thông tin cung cấp cho họ phải ngang nhau, nhất thiết không có sự phân biệt đối xử, phải tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà thầu, đảm bảo cho các nhà thầu khi tham dự thấy mình bình đẳng như các nhà thầu khác. 6.2- Nguyên tắc dữ liệu đầy đủ Các nhà thầu phải nhận được đầy đủ tài liệu đấu thầu từ Bên mời thầu với các thông tin chi tiết, rõ ràng và có hệ thống về quy mô, khối lượng, quy cách, yêu cầu chất lượng của công trình hay hàng hoá dịch vụ cần cung ứng, về tiến độ và điều kiện thực hiện( có nghĩa là chủ công trình phải nghiên cứu, tính toán, cân nhắc thấu đáo để tiên liệu rất kỹ và rất chắc về mọi yếu tố có liên quan, phải cố tránh tình trạng chuận bị sơ sài, tắc trách). Khi có đầy đủ dữ liệu, các nhà thầu tham dự mới thấy được hết các tiêu chuẩn dự án đề ra, từ đó xem xét mình có đáp ứng các yêu cầu của dự án hay không. 6.3- Nguyên tắc đánh giá công bằng Các hồ sơ đấu thầu phải được đánh giá một cách không thiên vị theo cùng một chuẩn mực đã được xây dựng sẵn và được đánh giá bởi một Hội đồng xét thầu có đủ năng lực và phẩm chất. Lý do để “ được chọn” hay “ bị loại” phải được giải thích đầy đủ để tránh sự ngờ vực, điều này cũng đảm bảo cho nguyên tắc cạnh tranh được thực hiện. 6.4- Nguyên tắc trách nhiệm phân minh Không chỉ các nghĩa vụ, quyền, quyền lợi của các bên liên quan được đề cập và chi tiết hoá trong Hợp đồng mà phạm vi trách nhiệm của mỗi bên ở từng phần việc đều được phân định rạch ròi để không một sai sót nào không có người chịu trách nhiệm. Mỗi bên có liên quan đều biết rõ mình phải gánh chịu những hậu quả gì nếu có lỗi vô ý hay cố ý kể cả do sơ suất và do đó mỗi bên đều phải nỗ lực tối đa trong việc kiểm soát bất trắc và phòng ngừa rủi ro. 6.5- Nguyên tắc ba chủ thể Thực hiện dự án theo thể thức đấu thầu luôn có sự hiện diện đồng thời của ba chủ thể: cơ quan tư vấn, chủ đầu tư và nhà thầu. Trong toàn bộ dự án, mỗi chủ thể này đảm đương các công việc khác nhau theo đúng quyền và trách nhiệm của mình để dự án được hoàn thành một cách hiệu quả nhất. 6.6- Nguyên tắc bảo lãnh, bảo hành và bảo hiểm thích đáng Với mỗi giai đoạn của đấu thầu, nhà thầu khi tham dự đều phải đảm bảo sự tham gia của mình trước Bên mời thầu bằng cách bảo lãnh. Việc bảo lãnh có thể bằng tiền hay bằng sự xác nhận của một Ngân hàng có uy tín. Mặt khác, để thực hiện dự án, Bên mời thầu phải mua bảo hiểm cho chính các dự án các công trình của mình một các thích đáng. 6.7- Nguyên tắc bí mật Chủ đầu tư đảm bảo giữ bí mật về giá trần( thường lấy theo giá dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt) của gói thầu và lưu giữ hồ sơ dự thầu gốc của các nhà thầu theo chế độ bảo mật của nhà nước. Các Hồ sơ dự thầu, trước sự chứng kiến của hội đồng mở thầu Hồ sơ dự thầu được bóc niêm phong. Trên đây là một số nguyên tắc chính trong đấu thầu, ngoài ra còn rất nhiều nguyên tắc khác điều chỉnh đấu thầu. 7- Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong hoạt động đấu thầu Khi tham gia hoạt động đấu thầu, người có thẩm quyền, Bên mời thầu và nhà thầu có các quyền và nghĩa vụ khác nhau nhưng tổng thể tạo ra sự nhịp nhàng cho hoạt động đầu tư xây dựng. 7.1- Quyền và nghĩa vụ của Bên mời thầu Quyền: Yêu cầu các bên dự thầu cung cấp thông tin cần thiết phục vụ cho việc lựa chọn nhà thầu. Lựa chọn nhà thầu trúng thầu hoặc huỷ bỏ kết quả lựa chọn nhà thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu. Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ: Lập Hồ sơ mời thầu, kế hoạch đấu thầu phù hợp với nội dung của dự án đầu tư xây dựng công trình đã được phê duyệt. Kiểm tra việc kê khai năng lực hoạt động xây dựng, giấy phép hành nghề xây dựng và tình trạng tài chính của bên dự thầu được lựa chọn. Đáp ứng đầy đủ, kịp thời nguồn vốn để thực hiện công việc theo tiến độ; Thông báo những yêu cầu cần thiết cho các bên dự thầu và thực hiện đúng các nội dung đã thông báo; Công bố công khai các đơn vị trúng thầu và giá trúng thầu đối với các công trình xây dựng thuộc nguồn vốn nhà nước sau khi có kết quả lựa chọn nhà thầu; Mua bảo hiểm công trình; Bồi thường thiệt hại cho các nhà thầu tham gia dự thầu trong trường hợp do lỗi của mình gây ra; Chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi dàn xếp thầu, mua, bán thầu, tiết lộ thông tin khi xét thầu hoặc thông đồng với nhà thầu và những hành vi vi phạm pháp luật về đấu thầu; Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật; 7.2- Quyền và nghĩa vụ của bên dự thầu Quyền: Tham gia dự thầu độc lập hoặc liên danh với các nhà thầu khác để dự thầu Yêu cầu cung cấp đầy đủ thông tin, khảo sát hiện trường để lập Hồ sơ dự thầu Khiếu nại, tố cáo khi phát hiện hành vi vi phạm các quy định về lựa chọn nhà thầu; Các quyền khác theo quy định của pháp luật; Nghĩa vụ: Lập Hồ sơ dự thầu trung thực, chính xác, đảm bảo các yêu cầu của Hồ sơ mời thầu; Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật; Bồi thường thiệt hại do các hành vi vi phạm của mình gây ra dẫn đến huỷ đấu thầu hoặc đấu thầu lại; Thực hiện bảo lãnh dự thầu theo quy định; Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Khi trúng thầu, nhà thầu có trách nhiệm thực hiện dự án theo đúng tiến độ, đúng thiết kế trong Hồ sơ dự thầu và trên hết phải đảm bảo chất lượng của dự án. 7.3- Trách nhiệm của người quyết định đầu tư xây dựng công trình Kiểm tra, xử lý các vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lựa chọn nhà thầu; Đình chỉ việc lựa chọn nhà thầu, huỷ bỏ kết quả lựa chọn nhà thầu khi xuất hiện có những hành vi vi phạm trong lựa chọn nhà thầu; Chịu trách nhiệm trước pháp luật, bồi thường thiệt hại do các quyền của mình gây ra. 8- Quản lý nhà nước về đấu thầu Đấu thầu là một hoạt động quan trọng trong nền kinh tế cho nên đứng về phía Nhà nước, cần phải phân cấp cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động đấu thầu nhằm tạo ra sự ổn định, sự nề nếp cho hoạt động đấu thầu. Theo đó cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu bao gồm: Chính phủ thống nhất quản lý công tác đấu thầu trên phạm vi cả nước Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối giúp Chính._. phủ thực hiện quản lý công tác đấu thầu. Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quản lý nhà nước về đấu thầu trong phạm vi và trách nhiệm của mình, đồng thời cử một Thứ trưởng hoặc các cấp phó tương ứng( ở cơ quan ngang Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ) trực tiếp chỉ đạo công tác đấu thầu. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường, xã, thị trấn quản lý nhà nước về đấu thầu đối với các gói thầu thuộc quyền quản lý của mình, đồng thời cử một cấp phó trực tiếp chỉ đạo công tác đấu thầu. Các cơ quan trên sẽ quản lý hoạt động đấu thầu trên một số nội dung: Soạn thảo, ban hành hoặc trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu. Tổ chức hướng dẫn thực hiện. Tổ chức thẩm định kế hoạch đấu thầu của dự án và thẩm định kết quả đấu thầu. Phê duyệt kế hoạch đấu thầu của dự án và kết quả đấu thầu. Tổ chức kiểm tra công tác đấu thầu. Tổng kết, đánh giá, báo các tình hình đấu thầu và thực hiện Quy chế Đấu thầu. Giải quyết các vướng mắc, khiếu nại về đấu thầu. Quản lý hệ thống thông tin về đấu thầu. Quản lý hệ thống dữ liệu thông tin về nhà thầu. Thực hiện kiểm tra, thanh tra về đấu thầu và việc thực hiện hợp đồng( đã ký giữa chủ đầu tư và nhà thầu). Đây chỉ là một số nội dung mà các cơ quan Nhà nước quản lý về đấu thầu. ngoài các quy định trên thì các nội dung khác theo sự thoả thuận của các bên trong đấu thầu. Điều này đảm bảo sự tự do trong đấu thầu cho các bên. II- Chế độ pháp lý về đấu thầu xây lắp Đấu thầu xây lắp là một trong các hình thức của đấu thầu, đối tượng của đấu thầu xây lắp là các công việc xây dựng và lắp đặt thiết bị, do đó yêu cầu, hình thức cũng như các điều kiện tiến hành cũng có nhiều điểm khác biệt. 1-Lựa chọn nhà thầu trong đấu thầu xây lắp Lựa chọn nhà thầu trong hoạt động xây dựng là một công việc vô cùng quan trọng bởi vì có lựa chọn được nhà thầu tốt nhất thì dự án mới được hoàn thành có hiệu quả, chất lượng công trình mới được đảm bảo. Việc lựa chọn này được thực hiện đối với các công việc, nhóm công việc hoặc toàn bộ công việc lập quy hoạch chi tiết xây dựng, lập dự án đầu tư xây dựng công trình, khảo sát, thiết kế, riêng đối với xây lắp thì lựa chọn nhà thầu để thi công xây dựng, giám sát và các hoạt động xây dựng khác. Mặt khác, việc lựa chọn nhà thầu là nhằm tìm được nhà thầu chính, tổng thầu, thầu phụ có đủ điều kiện năng lực hoạt động xây dựng, năng lực hành nghề xây dựng phù hợp với loại và cấp công trình. Nhà thầu chính hoặc tổng thầu có thể giao một phần công việc của hợp đồng cho các thầu phụ. Thầu phụ phải có đủ năng lực hoạt động xây dựng, năng lực hành nghề xây dựng tương ứng và được chủ đầu tư xây dựng công trình chấp nhận; thầu phụ không được giao toàn bộ hoặc phần việc chính theo hợp đồng cho các nhà thầu khác. Để chọn được nhà thầu tốt nhất thì việc lựa chọn phải đảm bảo những yêu cầu sau: Đáp ứng được hiệu quả của dự án đầu tư xây dựng công trình Chọn được nhà thầu có đủ điệu kiện năng lực hoạt động xây dựng, năng lực ngành nghề xây dựng phù hợp, có giá dự thầu hợp lý; Khách quan, công bằng, công khai, minh bạch; Trong việc lựa chọn nhà thầu, người quyết định đầu tư, chủ đầu tư xây dựng công trình có quyền quyết định hình thức lựa chọn nhà thầu. 2- Điều kiện thực hiện đấu thầu xây lắp Việc thực hiện đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng luôn đi kèm các điều kiện mà các bên chủ thể của đấu thầu phải đáp ứng thì đấu thầu mới được tổ chức. Các điều kiện được đặt ra đối với dự án, bản thân các nhà thầu và bên mời thầu. 2.1- Điều kiện tổ chức đấu thầu Điều kiện đối với dự án, bắt buộc trước khi tổ chức đấu thầu phải có được văn bản quyết định đầu tư hoặc giấy phép của người có thẩm quyền phê duyệt, đồng thời kế hoạch đấu thầu, các thiết kế cho dự án và Hồ sơ mời thầu cũng phải được người có thẩm quyền phê duyệt. Nếu không có đầy đủ các điều kiện trên mà các chủ thể vẫn tiến hành đấu thầu thì sẽ vi phạm vào Quy chế quản lý hoạt động đầu tư xây dựng. 2.2- Điều kiện đối với các nhà thầu Nhà thầu khi muốn tham dự đấu thầu hoặc các hình thức lựa chọn nhà thầu( trong đấu thầu xây lắp, nhà thầu chỉ có thể là tổ chức) tại Việt Nam phải đáp ứng các điều kiện: Thứ nhất phải có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự. Năng lực pháp luật dân sự đối với nhà thầu trong nước được căn cứ theo quy định của Bộ Luật Dân sự nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, còn đối với nhà thầu nước ngoài được căn cứ theo pháp luật của nước nhà thầu mang quốc tịch. Thứ hai là sự độc lập về tài chính: Nhà thầu được coi là độc lập về tài chính nếu đáp ứng đủ các yêu cầu: là một đơn vị hạch toán kinh tế độc lập và phải không có cùng lợi ích kinh tế với các tổ chức và cá nhân liên quan. Các nhà thầu chỉ được tham gia một đơn dự thầu trong một gói thầu, dù dưới hình thức độc lập hay liên danh; Thứ ba phải có tên trong hệ thống dữ liệu thông tin về nhà thầu( hệ thống thông tin này do Bộ Kế hoạch và Đầu tư quản lý); Và cuối cùng là đại diện hợp pháp của nhà thầu không có thân nhân là vợ, chồng, cha, mẹ, con hoặc anh, chị, em ruột tham gia bên mời thầu, tổ chuyên gia, tư vấn đánh giá hồ sơ dự thầu, thẩm định kết quả đấu thầu của gói thầu mà mình tham dự; Cụ thể các nhà thầu phải đáp ứng các yêu cầu sau: 2.2.1- Đối với nhà thầu là tổ chức trong nước: Khi đó nhà thầu( các doanh nghiệp xây dựng) phải có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép kinh doanh và thực hiện đúng theo đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép kinh doanh do cơ quan có thẩm quyền cấp hoặc có quyết định thành lập( đối với các đơn vị không có đăng ký kinh doanh) do cơ quan có thẩm quyền cấp và thực hiện đúng theo quyết định thành lập. Đây là yêu cầu đầu tiên đối với bất cứ một doanh nghiệp muốn tham gia bất cứ lĩnh vực, hoạt động kinh tế nào. 2.2.2- Đối với nhà thầu nước ngoài Nhà thầu nước ngoài có đăng ký hoạt động hợp pháp do cơ quan có thẩm quyền của nước nơi nhà thầu mang quốc tịch. Bên cạnh đó, để được tham dự đấu thầu tại Việt Nam các nhà thầu nước ngoài phải lập hồ sơ xin cấp Giấy phép thầu xây dựng công trình. Giấy phép này được cấp cho từng hợp đồng nhận thầu, đây là chứng chỉ pháp lý để nhà thầu nước ngoài thực hiện xây lắp công trình, để quan hệ với các cơ quan Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện các quy định của pháp luật có liên quan tại Việt Nam. 2.3- Điều kiện đấu thầu quốc tế 2.3.1- Điều kiện tiến hành đấu thầu quốc tế Đấu thầu quốc tế là một hình thức vô cùng quan trọng trong nền kinh tế hiện nay nhưng do để đảm bảo quyền lợi cho sự phát triển của ngành Xây dựng trong nước thì chỉ được tổ chức đấu thầu quốc tế trong các trường hợp: Thứ nhất là gói thầu mà không có nhà thầu nào trong nước có khả năng đáp ứng yêu cầu của gói thầu về kỹ thuật cũng như về tài chính; Thứ hai là các dự án sử dụng nguồn vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế hoặc của nước ngoài có quy định trong Điều ước là phải đấu thầu quốc tế. Ngoài các trường hợp trên thì bắt buộc phải tổ chức đấu thầu trong nước. 2.3.2- Điều kiện đối với nhà thầu nước ngoài tham dự đấu thầu quốc tế tại Việt Nam Nhà thầu nước ngoài tham dự đấu thầu quốc tế tại Việt Nam về xây dựng phải liên danh với nhà thầu Việt Nam hoặc phải cam kết sử dụng thầu phụ Việt Nam, trong đó nêu rõ sự phân chia giữa các bên về phạm vi công việc, khối lượng và giá trị tương ứng. Mặt khác khi trúng thầu, nhà thầu trúng thầu phải thực hiện cam kết về tỷ lệ % khối lượng công việc cùng với đơn giá tương ứng dành cho phía Việt Nam là liên danh hoặc thầu phụ như đã nêu trong Hồ sơ dự thầu. Trong khi thương thảo hoàn thiện hợp đồng, nếu nhà thầu nước ngoài trúng thầu không thực hiện các cam kết nêu trong Hồ sơ dự thầu thì kết quả đấu thầu sẽ bị huỷ bỏ. Các nhà thầu nước ngoài tham gia đấu thầu ở Việt Nam phải cam kết mua sắm và sử dụng các vật tư thiết bị phù hợp về chất lượng và giá cả, đang sản xuất, gia công hoặc hiện có tại Việt Nam. Nếu không đảm bảo được các yêu cầu trên thì các nhà thầu nước ngoài sẽ không được tham dự thầu tại Việt Nam. 2.4- Ưu đãi nhà thầu Khi tham gia đấu thầu tại Việt Nam, các nhà thầu sẽ được hưởng các ưu đãi trúng thầu trong một số trường hợp nhất định. Thứ nhất, trong trường hợp hai Hồ sơ dự thầu của nhà thầu nước ngoài được đánh giá ngang nhau, Hồ sơ dự thầu có tỷ lệ công việc dành cho phía Việt Nam( là liên danh hoặc thầu phụ) cao hơn sẽ được chấp nhận; Thứ hai là khi nhà thầu trong nước tham dự đấu thầu quốc tế( đơn phương hoặc liên danh) được xét ưu tiên khi có Hồ sơ dự thầu được đánh giá tương đương với các Hồ sơ dự thầu của nhà thầu nước ngoài; Mặt khác trong trường hợp hai Hồ sơ dự thầu được đánh giá ngang nhau, sẽ ưu tiên Hồ sơ dự thầu có tỷ lệ lao động trong nước nhiều hơn và các nhà thầu trong nước, trong các gói thầu xây lắp, khi xác định giá đánh giá việc ưu đãi thực hiện bằng cách cộng thêm 7.5% giá trị dự thầu. 3- Hình thức, phương thức đấu thầu xây lắp Do đặc điểm riêng của đấu thầu xây lắp là việc lựa chọn nhà thầu để xây dựng và lắp đặt thiết bị công trình nên để tổ chức đấu thầu, Bên mời thầu chỉ có thể áp dụng các hình thức, phương thức nhất định. Trong đó các hình thức thường được áp dụng trong đấu thầu xây lắp như đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế và chỉ định thầu với các phương thức như đấu thầu một túi hồ sơ; đấu thầu hai túi hồ sơ và đấu thầu hai giai đoạn nhiều khi cả hình thức tự thực hiện cũng được áp dụng. Trên thực tế hiện nay, hình thức phổ biến nhất là hình thức đấu thầu rộng rãi. 4- Quy trình thực hiện đấu thầu xây lắp Việc tổ chức đấu thầu xây lắp được thực hiện theo trình tự sau: 4.1- Sơ tuyển nhà thầu (nếu có) Việc sơ tuyển nhà thầu phải được tiến hành đối với các gói thầu xây lắp có giá trị từ 200 tỷ đồng trở lên( giá trị gói thầu được xây dựng trong kế hoạch đấu thầu, phải phù hợp với cơ cấu mức tổng đầu tư do chủ đầu tư xây dựng được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt) nhằm lựa chọn các nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm thực hiện, đáp ứng yêu cầu của hồ sơ mời thầu Việc sơ tuyển nhà thầu được thực hiện theo các bước sau: Lập Hồ sơ sơ tuyển, bao gồm: Thư mời sơ tuyển Chỉ dẫn sơ tuyển Tiêu chuẩn đánh giá Phụ lục kèm theo Thông báo mời sơ tuyển Nhận và quản lý hồ sơ dự sơ tuyển Đánh giá hồ sơ dự sơ tuyển Trình duyệt kết quả sơ tuyển Thông báo kết quả sơ tuyển Thời gian sơ tuyển từ khi phát hành Hồ sơ mời thầu đến khi công bố kết quả đối với đấu thầu quốc tế không quá 90 ngày và 60 ngày đối với đấu thầu trong nước. 4.2- Lập hồ sơ mời thầu Hồ sơ mời thầu là toàn bộ tài liệu do Bên mời thầu lập( có thể do chính Chủ đầu tư tự xây dựng hoặc thuê tổ chức tư vấn ), đó là các yêu cầu cho một gói thầu được dùng làm căn cứ để nhà thầu chuẩn bị Hồ sơ dự thầu và Bên mời thầu đánh giá Hồ sơ dự thầu. Hồ sơ mời thầu phải được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt trước khi phát hành. Để chuẩn bị tốt cho cuộc đấu thầu nội dung của Hồ sơ mời thầu gồm: Thư mời thầu; Mẫu đơn dự thầu; Chỉ dẫn đối với nhà thầu; Các điều kiện ưu đãi nếu có; Các loại thuế theo quy định của pháp luật; Hồ sơ thiết kế kỹ thuật kèm theo bản tiên lượng và chỉ dẫn kỹ thuật; Tiến độ thi công; Tiêu chuẩn đánh giá( bao gồm cả phương pháp và cách thức quy đổi về cùng mặt bằng để xác định giá đánh giá); Ngoài ra các Hồ sơ mời thầu cần phải được quy định một đầy đủ và tỉ mỉ về điều kiện chung và điều kiện cụ thể của hợp đồng, bảo lãnh dự thầu, Mẫu thoả thuận hợp đồng, bảo lãnh thực hiện hợp đồng. 4.3- Gửi thư mời thầu hoặc thông báo mời thầu Thư hoặc thông báo mời thầu bao gồm các nội dung như: tên và địa chỉ của Bên mời thầu; khái quát dự án, địa điểm, thời gian xây dựng và các nội dung khác; chỉ dẫn việc tìm hiểu Hồ sơ mời thầu; các điều kiện tham gia dự thầu; thời gian, địa điểm nhận Hồ sơ mời thầu... Tuỳ theo hình thức đấu thầu mà thời gian và cách gửi thư hoặc thông báo mời thầu có khác nhau. 4.4- Nhận và quản lý hồ sơ dự thầu Hồ sơ dự thầu là các tài liệu do nhà thầu lập theo yêu cầu của Hồ sơ mời thầu. Nội dung Hồ sơ dự thầu xây lắp gồm: Các nội dung về hành chính, pháp lý: Đơn dự thầu hợp lệ( phải có chữ ký của người có thẩm quyền); Bản sao giấy đăng ký kinh doanh; Tài liệu giới thiệu năng lực và kinh nghiệm của nhà thầu kể cả nhà thầu phụ( nếu có); Văn bản thoả thuận liên danh( trường hợp liên danh dự thầu); Bảo lãnh dự thầu; Các nội dung về kỹ thuật: Biện pháp và tổ chức thi công đối với gói thầu; Tiến độ thực hiện hợp đồng; Đặc tính kỹ thuật, nguồn cung cấp vật tư, vật liệu xây dựng; Các biện pháp đảm bảo chất lượng; Các nội dung về thương mại và tài chính: Giá dự thầu kèm theo thuyết minh và biểu giá chi tiết; Điều kiện về tài chính( nếu có); Điều kiện thanh toán; Nhà thầu phải nộp bảo lãnh dự thầu cùng với Hồ sơ dự thầu. Giá trị bảo lãnh dự thầu bằng từ 1% đến 3% giá dự thầu( theo Quy chế đấu thầu). Bên mời thầu sẽ nhận và quản lý Hồ sơ dự thầu theo phương thức “mật” cho đến ngày mở thầu. 4.5- Mở thầu Mở thầu là thời điểm tổ chức mở các Hồ sơ dự thầu được quy định trong Hồ sơ mời thầu. Sau khi tiếp nhận các Hồ sơ dự thầu( đủ niêm phong, nộp theo đúng yêu cầu của Hồ sơ mời thầu và được quản lý theo chế độ quản lý hồ sơ “ mật”), việc mở thầu được tiến hành công khai ngay sau thời điểm đóng thầu theo ngày, giờ và địa điểm ghi trong Hồ sơ mời thầu. Thông tin chính nêu trong Hồ sơ dự thầu của từng nhà thầu phải được thông báo công khai trong buổi mở thầu và ghi lại trong biên bản mở thầu. Trong buổi mở thầu, đại diện của Bên mời thầu, đại diện các nhà thầu được mời tham dự, nếu có mặt phải ký vào biên bản mở thầu. Bản gốc Hồ sơ dự thầu sau khi được mở phải được Bên mời thầu ký xác nhận từng trang để đảm bảo nguyên trạng trước khi tiến hành đánh giá và quản lý theo chế độ quản lý hồ sơ “ mật”. 4.6- Đánh giá, xếp hạng nhà thầu Sau khi mở thầu, Bên mời thầu tiến hành xét thầu. Đây là quá trình Bên mời thầu nghiên cứu, đánh giá chi tiết và xếp hạng các Hồ sơ dự thầu đã được mở căn cứ theo yêu cầu của Hồ sơ mời thầu và tiêu chuẩn đánh giá được người có thẩm quyền phê duyệt trước khi mở thầu để lựa chọn nhà thầu trúng thầu. Việc đánh giá Hồ sơ dự thầu dựa theo các tiêu chuẩn được quy định trong pháp luật( kinh nghiệm nhà thầu khi thực hiện trên các vùng địa lý tương tự; số lượng, trình độ cán bộ công nhân viên; khả năng đảm bảo chất lượng...) và khi đánh giá Bên mời thầu phải căn cứ theo các tiêu chuẩn đó một cách đầy đủ. Ngoài tiêu chuẩn đánh giá quy định trong Hồ sơ mời thầu không được bỏ bớt, bổ sung hoặc thay đổi bất kỳ nội dung nào của tiêu chuẩn đánh giá trong quá trình xét thầu. Việc đánh giá Hồ sơ dự thầu được thực hiện theo trình tự sau: Đánh giá sơ bộ: việc đánh giá sơ bộ là nhằm loại bỏ các Hồ sơ dự thầu không đáp ứng yêu cầu, bao gồm: Kiểm tra tính hợp lệ của Hồ sơ dự thầu ; Xem xét sự đáp ứng cơ bản của Hồ sơ dự thầu đối với Hồ sơ mời thầu; Làm rõ Hồ sơ dự thầu( nếu cần); Đánh giá chi tiết: Việc đánh giá chi tiết Hồ sơ dự thầu gồm hai bước: Bước 1: Đánh giá về mặt kỹ thuật để lựa chọn danh sách ngắn( danh sách các nhà thầu đáp ứng yêu cầu về mặt kỹ thuật theo tiêu chuẩn đánh giá); Sử dụng thang điểm( 100 hoặc 1.000) hoặc tiêu chí “ đạt”, “ không đạt” để xác định các nội dung quy định tại bước này. Tiêu chuẩn đánh giá cần quy định mức điểm tối thiểu về mặt kỹ thuật nhưng không được thấp hơn 70% tổng số điểm về mặt kỹ thuật( đối với gói thầu có yêu cầu kỹ thuật cao, mức điểm tối thiểu quy định không thấp hơn 90% tổng số điểm về mặt kỹ thuật) khi sử dụng thang điểm để đánh giá Hồ sơ dự thầu. Trường hợp sử dụng tiêu chí “ đạt”, “ không đạt” cũng phải quy định rõ mức yêu cầu tối thiểu về mặt kỹ thuật. Hồ sơ dự thầu có tổng số điểm đạt hoặc vượt mức điểm tối thiểu đối với phương pháp chấm điểm hoặc các đạt yêu cầu theo tiêu chí “ đạt”, “ không đạt” được coi là đạt yêu cầu về mặt kỹ thuật. Trong quá trình đánh giá, Bên mời thầu có quyền yêu cầu nhà thầu giải thích những nội dung chưa rõ, chưa hợp lý trong Hồ sơ dự thầu của các nhà thầu như khối lượng, số lượng. Bước 2: Đánh giá về mặt tài chính, thương mại Tiến hành đánh giá tài chính, thương mại các nhà thầu thuộc danh sách ngắn trên cùng một mặt bằng theo tiêu chuẩn đánh giá được duyệt nhằm xác định giá đánh giá trong đó phải chuyển đổi giá dự thầu sang một đồng tiền chung. Trong quá trình đánh giá, Bên mời thầu có quyền yêu cầu nhà thầu làm rõ về những đơn giá bất hợp lý và nếu văn bản giải trình của nhà thầu không đủ rõ, thì được coi là sai lệch để đưa vào giá đánh giá của nhà thầu đó. Sau khi đánh giá, Bên mời thầu xếp hạng Hồ sơ dự thầu theo giá đánh giá và kiến nghị nhà thầu trúng thầu với giá trúng thầu tương ứng. 4.7-Trình duyệt kết quả đấu thầu Nhà thầu có Hồ sơ dự thầu hợp lệ, đáp ứng cơ bản các yêu cầu của Hồ sơ mời thầu, có giá đánh giá thấp nhất và có giá đề nghị trúng thầu không vượt giá gói thầu hoặc dự toán, tổng dự toán được duyệt( nếu dự toán, tổng dự toán được duyệt thấp hơn giá gói thầu được duyệt) sẽ được xem xét trúng thầu. Khi đó chủ đầu tư hoặc chủ dự án có trách nhiệm trình kết quả đấu thầu lên người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền để xem xét phê duyệt. Bên mời thầu phải nộp lệ phí thẩm định kết quả đấu thầu được tính trong chi phí chung của dự án đầu tư và bằng 0.01%( một phần vạn) giá trị gói thầu, nhưng tối đa không quá 30 triệu đồng. 4.8- Công bố trúng thầu, thương thảo hoàn thiện hợp đồng Ngay sau khi có quyết định của người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền, Bên mời thầu tiến hành công bố kết quả đấu thầu qua việc thông báo bằng văn bản cho các nhà thầu tham dự, bao gồm nhà thầu trúng thầu và nhà thầu không trúng thầu về kết quả đấu thầu. Với nhà thầu trúng thầu ngoài thông báo trúng thầu, Bên mời thầu phải gửi kèm theo dự thảo hợp đồng và những điểm cần lưu ý, cần trao đổi khi thương thảo hoàn thiện hợp đồng. Khi nhận được thông báo trúng thầu, nhà thầu trúng thầu phải gửi cho Bên mời thầu thư chấp thuận thương thảo hoàn thiện hợp đồng. Theo lịch biểu đã được thống nhất, hai bên sẽ tiến hành thương thảo hoàn thiện hợp đồng để tiến tới ký hợp đồng chính thức. Thương thảo hoàn thiện hợp đồng bao gồm những nội dung nhằm giải quyết các vấn đề còn tồn tại, chưa hoàn chỉnh về hợp đồng đối với nhà thầu trúng thầu. Việc thương thảo hoàn thiện hợp đồng cũng bao gồm cả việc nghiên cứu các sáng kiến, giải pháp ưu việt do nhà thầu đề xuất ra. 4.9-Trình duyệt nội dung hợp đồng và ký hợp đồng Sau khi thương thảo hoàn thiện hợp đồng, Bên mời thầu phải trình duyệt nội dung hợp đồng lên cấp có thẩm quyền phê duyệt. Bên cạnh đó, nhà thầu trúng thầu phải nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng trước khi ký hợp đồng cho Bên mời thầu để đảm bảo trách nhiệm thực hiện hợp đồng đã ký. Giá trị bảo lãnh thực hiện hợp đồng không quá 10% giá trị hợp đồng tuỳ theo loại hình và quy mô của hợp đồng, trong trường hợp đặc biệt cần yêu cầu mức bảo lãnh cao hơn phải được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền chấp thuận. Hình thức bảo lãnh dưới dạng tiền mặt, séc, bảo lãnh ngân hàng hoặc hình thức tương đương. Điều kiện để nhà thầu chuẩn bị bảo lãnh thực hiện hợp đồng là quyết định phê duyệt kết quả đấu thầu của người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền và công bố trúng thầu của Bên mời thầu. Sau khi nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng nhà thầu trúng thầu sẽ nhận lại bảo lãnh dự thầu. Sau khi hoàn thiện việc bảo lãnh thực hiện hợp đồng, hai bên sẽ tiến tới ký hợp đồng chính thức. 5- Hợp đồng trong đấu thầu xây lắp Hợp đồng trong đấu thầu xây lắp được xác lập cho việc thi công, xây lắp công trình giữa Bên mời thầu và nhà trúng thầu. 5.1- Các loại hợp đồng trong đấu thầu xây lắp 5.1.1-Phân loại theo phương thức giao nhận thầu thì hợp đồng trong đấu thầu xây lắp gồm ba loại sau: Hợp đồng về tổng thầu xây lắp: đây là hợp đồng ký giữa chủ đầu tư và nhà thầu đã trúng thầu trong đó nhà thầu nhận thầu về toàn bộ các công việc của một, một số bước hoặc tất cả các bước trong quá trình xây lắp. Hợp đồng về giao thầu chính: hợp đồng ký giữa chủ đầu tư và nhà thầu chính nhận thầu trực tiếp với chủ đầu tư để thực hiện chính một giai đoạn trong quá trình thi công xây lắp. Phương thức này áp dụng cho những công trình mang tính phức tạp. Hợp đồng giao thầu phụ: hợp đồng mà tổng thầu hoặc nhà thầu chính ký với nhà thầu phụ trong đó nhà thầu phụ thực hiện một phần công việc của nhà thầu chính hoặc tổng thầu. 5.1.2- Căn cứ thời hạn và tính chất của gói thầu được quy định trong kế hoạch dự thầu, hợp đồng được thực hiện theo các loại sau: Hợp đồng trọn gói: là hợp đồng theo giá khoán gọn, được áp dụng cho những gói thầu được xác định rõ về số lượng. Yêu cầu về chất lượng và thời gian. Trường hợp có những phát sinh ngoài hợp đồng nhưng không do nhà thầu gây ra thì sẽ được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định; Hợp đồng chìa khoá trao tay: là hợp đồng bao gồm toàn bộ các công việc thiết kế, cung cấp thiết bị, vật tư và xây lắp của một gói thầu được thực hiện thông qua một nhà thầu( viết tắt tiếng Anh là EPC). Hợp đồng có điều chỉnh giá: là hợp đồng áp dụng cho những gói thầu mà tại thời điểm ký kết hợp đồng không đủ điều kiện xác định chính xác về số lượng và khối lượng hoặc có biến động lớn về giá cả do chính sách của Nhà nước thay đổi và hợp đồng có thời gian thực hiện trên 12 tháng. Việc thực hiện hợp đồng có điều chỉnh giá phải tuân theo quy định tại Quy chế pháp luật. Xét về bản chất pháp lý của hợp đồng thì theo pháp luật hiện hành đó là hợp đồng kinh tế( chủ yếu) và hợp đồng dân sự. 5.2- Chủ thể ký kết hợp đồng Chủ thể ký kết hợp đồng trong đấu thầu xây lắp là hai bên: bên mời thầu và bên nhận thầu. Trong đó Bên mời thầu có thể là: Chủ đầu tư( chủ sở hữu về vốn đầu tư của dự án- nếu vốn từ ngân sách nhà nước hoặc vốn vay do Nhà nước bảo lãnh thì chủ đầu tư là cấp được chỉ định được ghi trong quyết định đầu tư). Đối với dự án lớn, thời gian thực hiện dài cần thành lập ban quản lý dự án thì ban quản lý dự án là người ký hợp đồng. Mặt khác bên giao thầu có thể là nhà thầu chính hoặc tổng thầu. Bên nhận thầu: Đó là các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây lắp, khi đó các doanh nghiệp này chỉ được ký hợp đồng phù hợp với lĩnh vực đăng ký trong giấy đăng ký kinh doanh, phù hợp với năng lực của mình. 5.3- Nội dung và hình thức của hợp đồng xây lắp Hợp đồng trong đấu thầu xây lắp được xác lập bằng văn bản phù hợp với quy định của Luật xây dựng và các quy định pháp luật có liên quan.Tùy theo quy mô, tính chất của công trình, loại hình xây lắp, các mối quan hệ của các bên, hợp đồng trong đấu thầu xây lắp có các nội dung khác nhau, nhưng nội dung chủ yếu của hợp đồng bao gồm: Nội dung công việc phải thực hiện; Chất lượng và các yêu cầu kỹ thuật khác của công việc; Thời gian và tiến độ thực hiện; Điều kiện nghiệm thu, bàn giao; Giá cả, phương thức thanh toán; Thời hạn bảo hành; Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; Các thoả thuận khác theo từng loại hợp đồng; Ngôn ngữ sử dụng trong hợp đồng. 6- Xử lý vi phạm pháp luật về đấu thầu xây lắp Khi nhà thầu có những hành vi vi phạm pháp luật về đấu thầu, người có thẩm quyền phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu có thẩm quyền và chịu trách nhiệm ra văn bản xử lý vi phạm. Văn bản xử lý vi phạm được gửi cho cho đương sự, bên mời thầu, chủ dự án, cơ quan cấp trên của chủ dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư( cơ quan quản lý Tờ thông tin về đấu thầu và trang Web về đấu thầu của Nhà nước) và các cơ quan hành chính Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật có liên quan. Trường hợp nhà thầu vi phạm pháp luật về đấu thầu, bị đăng trên Tờ thông tin về đấu thầu và trang Web về đấu thầu của Nhà nước nhiều lần, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ căn cứ vào các mức độ vi phạm ra thông báo trên Tờ thông tin đấu thầu hoặc trang Web về đấu thầu về việc cấm nhà thầu không được tham dự thầu trong phạm vi 1năm, 2 năm, 3 năm hoặc vĩnh viễn. Ngoài ra, số tiền bảo lãnh dự thầu do nhà thầu vi phạm Quy chế đấu thầu không được nhận lại sẽ được nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật. Các biện pháp này đã ngăn chặn được khá nhiều các vi phạm pháp luật về đấu thầu, đưa hoạt động đấu thầu vào nề nếp quy củ. Chương II- Thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu xây lắp tại Tổng công ty Sông Đà I- Tổng quan về Tổng công ty Sông Đà 1- Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty Sông Đà Tổng công ty Sông Đà ngày nay là sự kết tinh của một hành trình xây dựng và phát triển liên tục trong suốt hơn 40 năm gắn liền với sự phát triển của đất nước. Tiền thân của TCTSĐ là ban chỉ huy công trường thuỷ điện Thác Bà được thành lập theo Quyết định số 214/Ttg của Thủ tướng Chính phủ ngày 1/6/1961. Quyết định này đã trở thành Quyết định lịch sử khai sinh ra TCT, đồng nghĩa với ngành Xây dựng thuỷ điện Việt Nam ra đời. Nhưng chỉ đến năm 1995, theo Quyết định số 966/BXD- TCLĐ ngày 15/11/1995 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng chính thức thành lập Tổng công ty xây dựng Sông Đà (đến năm 2003 đổi tên thành Tổng công ty Sông Đà) là một TCT được tổ chức theo mô hình TCT 91 trực thuộc Bộ Xây dựng với giấy Đăng ký dinh doanh số 109676 sở Kế hoạch đầu tư Hà Nội ngày 30/3/1996. Từ khi được thành lập đến nay, các ngành nghề kinh doanh của TCT liên tục được bổ sung. Ban đầu TCT chỉ tập trung vào xây dựng các công trình thuỷ điện theo kế hoạch, chỉ thị của Nhà nước đến nay lĩnh vực kinh doanh chính của TCT mở rộng lên hơn 16 lĩnh vực khác nhau như sản xuất, khai thác vật liệu xây dựng; xây dựng nhà và hạ tầng; xây dựng các công trình giao thông và đường cao tốc; lắp đặt thiết bị; xuất khẩu lao động... Tổng công ty Sông Đà đã và đang tham gia xây dựng hầu hết các công trình thuỷ điện lớn của đất nước: Nhà máy thủy điện Thác Bà- 108MW, Hoà Bình- 1920MW, Trị An- 400MW,Vĩnh Sơn- 66MW, Yaly- 720MW, Sông Hinh- 66MW... các công trình này hiện nay cung cấp 70% sản lượng điện toàn quốc, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, TCT đã xây dựng hướng đi mới, chuyển dần từ vai trò là người làm thuê( thực hiện thi công xây lắp theo hợp đồng mang tính trợ giúp cho các doanh nghiệp khác) sang làm chủ đầu tư nhiều dự án quan trọng, thực hiện nhiều dự án tổng thầu EPC như nhà máy thuỷ điện Sê San 3, thủy điện Tuyên Quang. Cùng với sự phát triển của đất nước, TCTSĐ đã tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm trong thiết kế, thi công và trong điều hành sản xuất. Ngày nay TCT đã có một đội ngũ gần 30.000 cán bộ công nhân viên( CBCNV) lành nghề, có trình độ chuyên môn cao, đồng thời chú trọng đầu tư đổi mới trang thiết bị thi công chuyên ngành tiên tiến và hiện đại. Điều này đã giúp cho TCT thực hiện được các công trình xây dựng có chất lượng cao, kỹ mỹ thuật và tiến độ; được Đảng và Chính phủ trao tặng huy chương vàng chất lượng cao ngành Xây dựng cùng các phần thưởng cao quý khác. Bước vào giai đoạn mới, TCT chủ trương xây dựng thành một tập đoàn kinh tế mạnh với định hướng “ đa dạng hoá ngành nghề , đa dạng hoá sản phẩm”. 2- Cơ cấu tổ chức quản lý của Tổng công ty Sông Đà 2.1- Sơ đồ tổ chức của Tổng công ty Sông Đà Tổng công ty Sông Đà có cơ cấu tổ chức quản lý theo mô hình Tổng công ty Nhà nước gồm: Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc điều hành, các Phó tổng giám đốc, kế toán trưởng và bộ máy giúp việc. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức hoạt động được quy định trong pháp luật có liên quan và trong điều lệ của TCT . Ngoài ra, TCT còn có các đơn vị thành viên là Công ty Nhà nước, Công ty TNHH, Công ty Cổ phần, Công ty Liên doanh. Cơ cấu tổ chức của các đơn vị này theo quy định của pháp luật. Hội đồng quản trị Ban kiểm soát Tổng giám đốc Các phó tổng giám đốc Văn phòng TCTSĐ p.Tổ chức đào tạo p.Thiết bị công nghệ p. Kinh tế p. Quản lý kỹ thuật p. Kế hoạch p. Cơ khí cơ giới p. Đầu tư p.Quản lý vật tư SXCN p. Kế toán Ban thanh tra p. Tài chính Công ty liên doanh của TCT Công ty cp. TCT chi phối và khôngc.phối Đơn vị sự nghiệp Đơn vị hạch toán phụ thuộc Đơn vị hạch toán độc lập Các đại diện các văn phòng ĐD 2.2- Chức năng nhiệm vụ của bộ máy quản lý Tổng công ty Sông Đà Hội đồng quản trị(HĐQT) HĐQT là cơ quan đại diện trực tiếp chủ sở hữu nhà nước có quyền nhân danh TCT để quyết định mọi vấn đề liên quan đến việc xác định và thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ và quyền lợi của TCTSĐ, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của chủ sở hữu phân cấp cho các cơ quan, tổ chức khác là đại diện chủ sở hữu thực hiện. HĐQT chịu trách nhiệm trước người quyết định thành lập TCT, người bổ nhiệm và trước pháp luật. HĐQT có năm thành viên gồm Chủ tịch HĐQT và các thành viên HĐQT trong đó có thành viên chuyên trách và thành viên không chuyên trách. Chức năng của HĐQT : Nhận vốn( kể cả nợ), đất đai, tài nguyên và các nguồn lực khác do Nhà nước giao cho TCT ; Kiểm tra, giám sát mọi hoạt động trong TCT trong đó có việc sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn và nguồn lực được giao... Xem xét, phê duyệt phương án do Tổng giám đốc đề nghị về việc giao vốn cho các doanh nghiệp thành viên và phương án điều hoà vốn, có nguồn lực khác giữa các doanh nghiệp thành viên... Phê duyệt phương án huy động vốn( dưới mọi hình thức), bảo lãnh các khoản vay, phương án thanh lý tài sản các doanh nghệp thành viên để quyết định hoặc trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định. Các chức năng nhiệm vụ khác theo Quy chế hoạt động của HĐQT. Ban kiểm soát HĐQT thành lập Ban kiểm soát để giúp cho HĐQT kiểm tra, giám sát tính hợp pháp,chính xác và trung thực trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong ghi chép sổ kế toán, báo cáo tài chính và việc chấp hành Điều lệ TCT, Nghị quyết, quyết định của HĐQT, quyết định của Chủ tịch HĐQT. Ban kiểm soát báo cáo và chịu trách nhiệm trước HĐQT. Ban kiểm soát có năm người gồm Trưởng ban là thành viên HĐQT và một số thành viên chuyên trách khác do HĐQT quyết định. Tổng giám đốc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật, điều hành hoạt động hàng ngày của TCT theo mục tiêu, kế hoạch, phù hợp với Điều lệ TCT. Tổng giám đốc được bổ nhiệm với thời hạn tối đa là 5 năm và có thể được bổ nhiệm lại. Việc tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng giám đốc được thực hiện theo quy định của Bộ Xây dựng. Chức năng của Tổng giám đốc: Cùng HĐQT ký nhận ._.c doanh nghiệp trong xây dựng phải thực hiện theo hình thức đấu thầu rộng rãi. Thứ sáu, nhiều công trình TCT tham gia có chất lượng thiết kế kỹ thuật thấp dẫn đến khi triển khai thi công lại phải thay đổi nhiều dẫn đến tăng chi phí cho nhà thầu, làm cho nhà thầu không chủ động trong thi công do trong Quy chế đấu thầu không quy định về vấn đề này. Thứ bảy, trong quy chế đấu thầu chưa có quy định rõ ràng về việc quyết toán công trình sau khi nhà thầu tiến hành thi công công trình dẫn đến tình trạng doanh nghiệp xây lắp luôn luôn trong tình trạng thiếu vốn trầm trọng để tham gia các dự án khác (bản thân TCT Sông Đà dù mức lợin nhuận luôn tăng cao trong các năm nhưng khoản nợ phải thu cũng chiếm một phần không nhỏ). Ngoài ra về vấn đề khiếu nại tố cáo, Quy chế đấu thầu chưa có quy định cụ thể, rõ ràng về vấn đề này gây ra nhiều thắc mắc cho các doanh nghiệp. Ví dụ khi có dự án, một TCT lớn như Tổng công ty Sông Đà lại bị chủ đầu tư đánh giá không đủ năng lực thực hiện dự án( mà theo đánh giá của TCT thì TCT có đầy đủ năng lực tham gia thi công công trình này) trong khi một doanh nghiệp địa phương( tất nhiên năng lực về kỹ thuật và tài chính thấp hơn TCT rất nhiều) lại trúng thầu khi đó nhà thầu như TCT khó có điều kiện để khiếu nại. Còn có nhiều hạn chế trong Quy chế đấu thầu ảnh hưởng rất lớn hoạt động đấu thầu ở TCT nói riêng và các doanh nghiệp trong ngành xây dựng nói chung. Vì vậy Nhà nước cần nhanh chóng khắc phục tình trạng này để Quy chế đấu thầu mang lại tích cực theo đúng mục tiêu đã đề ra. 1.3- Những tồn tại do bản thân Tổng công ty Sông Đà Ngoài những khó khăn do Quy chế đấu thầu mang lại cho TCT thì chính bản thân công ty cũng còn có nhiều thiếu sót dẫn đến hạn chế khả năng của TCT khi tham gia đấu thầu. Đầu tiên là công tác tiếp thị đấu thầu, do chưa nắm bắt một cách kịp thời kế hoạch đầu tư ở một số ngành, địa phương nên khi tham gia dự án thường chậm và bị động dẫn tới hiệu quả đấu thầu thấp. Bên cạnh đó cán bộ làm công tác tiếp thị chưa hoàn thành tốt các nhiệm vụ cụ thể được giao, theo dõi các công trình theo lĩnh vực còn hời hợt, đại khái không chủ động tìm kiếm thông tin. Hơn nữa TCT chưa thực sự quan tâm phát triển công tác tiếp thị đấu thầu ở khu vực phía Nam. Hầu hết các dự án thắng thầu khu vực này đếu có giá trị nhỏ. Cho tới nay TCT vẫn chưa tham gia vào được một dự án lớn nào ở các khu vực công nghiệp đang triển khai ở miền Nam. Tiếp theo là trình độ của các cán bộ làm công tác tiếp thị đấu thầu, công tác đấu thầu còn yếu, thiếu những cán bộ giỏi cả về khả năng đấu thầu, năng lực chuyên môn, trình độ ngoại ngữ. Do trình độ ngoại ngữ hạn chế nên những dự án đấu thầu quốc tế thường được triển khai chậm vì phải mất thời gian dịch thuật, không tìm hiểu được hết những yêu cầu của Hồ sơ dự thầu, Hồ sơ mời thầu của bên nước ngoài làm ảnh hưởng tới chất lượng Hồ sơ dự thầu dẫn tới giảm khả năng trúng thầu của TCT, đồng thời giảm cơ hội tiếp cận những công nghệ tiên tiến, hiện đại của bên nước ngoài. Mặt khác đối với những cán bộ trải qua hai cơ chế quản lý kinh tế thì việc thích ứng với cơ chế thị trường gặp nhiều khó khăn, chậm chạp, còn đối với cán bộ trẻ có trình độ, năng lực thì lại còn thiếu kinh nghiệm thực tế trong đấu thầu xây lắp nên chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của TCT. Bên cạnh đó, hầu hết các Bảng giá dự thầu của TCT đều được lập dựa trên cơ sở định mức Nhà nước, chưa lập được bộ đơn giá riêng trong đó sử dụng giá trị còn lại các thiết bị có sẵn của TCT. Chính vì vậy giá dự thầu của TCT còn cao không mang tính cạnh tranh. Chưa có kế hoạch cụ thể giá trị sản lượng công trình phải thắng thầu trong năm, trong quí để từ đó đề ra nhiệm vụ tiếp thị và tham gia đấu thầu. Chưa có định hướng tham gia tiếp thị các dự án theo sở trường, năng lực, theo địa bàn hoạt động của đơn vị. Ngoài ra về phía các Đơn vị thành viên của TCT cũng còn rất nhiều điều cần thay đổi. Đầu tiên việc báo cáo kết quả và kế hoạch đấu thầu của các Đơn vị không đầy đủ, không kịp thời do đó việc kiểm tra và hỗ trợ của TCT đạt hiệu quả không cao. Giữa các Đơn vị chưa có sự kết hợp cùng nhau tham gia dự thầu để tạo điều kiện hỗ trợ nhau. Thứ hai, đối với những Hồ sơ mà Đơn vị dùng pháp nhân TCT để dự thầu, việc trình lãnh đạo TCT xem xét và phê duyệt giá dự thầu không được thực hiện một cách nghiêm túc, phần lớn các Hồ sơ này chỉ được trình lãnh đạo TCT vào trước giờ nộp Hồ sơ. Một số Đơn vị khi tham gia dự thầu các công trình lớn bằng pháp nhân của đơn vị mình đã không báo cáo TCT phê duyệt chủ trương, chỉ đến khi được giao thầu mới báo cáo TCT. Sau năm 2002, TCT tập trung thực hiện các dự án lớn được giao, công tác đấu thầu chỉ còn ở cấp độ nhỏ lẻ và ở một vài đơn vị thành viên. Vì vậy lực lượng cán bộ làm công tác này đã phân tán không còn hệ thống như những năm trước. Từ kết quả đấu thầu trong năm qua, phần trăm các dự án mà TCT trúng thầu đa số là do được Nhà nước chỉ định thầu, số dự án do TCT tham gia dự thầu rất khiêm tốn điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của TCT trên thị trường xây dựng vốn đã cạnh tranh rất gay gắt. Trên đây là những tồn tại mà TCT cần xem xét một cách kỹ lưỡng để tìm ra giải pháp tăng khả năng tham gia và trúng thầu của TCT, để đưa TCT xứng đáng với danh hiệu doanh nghiệp xây dựng hàng đầu của Việt Nam. 2- Định hướng công tác đấu thầu của Tổng công ty trong năm 2006- 2010 Từ những thành tích đã đạt được trong mấy năm gần đây như đã trình bày ở phần trên, trong giai đoạn 5 năm 2006- 2010, TCT đã đề các định hướng cho việc phát triển của mình nhằm tăng công ăn việc làm, tăng năng lực sản xuất kinh doanh, làm giàu kinh nghiệm và hơn thế nữa còn phải tăng khả năng cạnh tranh của TCTSĐ trên thị trường xây dựng trong và ngoài nước. Với các dự án nguồn điện: thu thập thông tin về chủ trương phát triển nguồn điện để có chương trình tiếp thị đấu thầu phù hợp. Tham gia đấu thầu hoặc chỉ định thầu thi công một số dự án thuỷ điện vừa và nhỏ của các chủ đầu tư ngoài TCT. Tham gia hợp tác với một số đối tác nước ngoài để tham gia thi công một số dự án thuỷ điện trong khu vực. Tiếp thị và tham gia đấu thầu các gói thầu công trình đường dây 500 KV, 220 KV trong quy hoạch phát triển điện lực giai đoạn 2001- 2010. Tham gia tiếp thị và đấu thầu các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và khu đô thị, khu công nghiệp, nhà cao tầng trên địa bàn Tp Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh và một số thành phố khác. Tham gia tiếp thị và đấu thầu dự án mở rộng nhà máy xi măng Hoàng Thạch, Khu lọc dầu Nghi Sơn và một số dự án công nghiệp khác. Phối hợp với các đơn vị Tư vấn của TCT tìm kiếm thêm các hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn với các chủ đầu tư bên ngoài TCT để có thêm kinh nghiệm. 3- Các biện pháp nhằm hoàn thiện công tác đấu thầu tại Tổng công ty Sông Đà Để có thể thực hiện được những định hướng nêu trên trong giai đoạn phát triển sắp tới của TCT cũng như đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của thị trường xây dựng, TCTSĐ cần thực hiện các biện pháp thiết yếu sau: Thứ nhất, đối với công tác tiếp thị đấu thầu, cần tổ chức lại bộ máy làm công tác tiếp thị đấu thầu từ TCT đến các Đơn vị thành viên. Nâng cao năng lực bộ phận làm công tác tiếp thị đấu thầu để đảm bảo chất lượng Hồ sơ dự thầu của TCT và các đơn vị thành viên. Bên cạnh đó để có thêm nhiều thông tin về các dự án thì trong TCT cần phải tổ chức tiếp thị, thu thập các thông tin về định hướng phát triển đến năm 2010 của các Bộ, ngành, địa phương( đặc biệt là ngành điện) và các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng để xây dựng phương án đấu thầu hoặc nhận thầu từ đó mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh. Thứ hai, đối với TCT, cần xây dựng Quy chế quản lý công tác đấu thầu nhằm quy định rõ vai trò và chức năng nhiệm vụ của các phòng ban TCT và các đơn vị thành viên, phù hợp với Chương trình đổi mới doanh nghiệp của TCT( khi mà hiện nay các thành viên của TCT không còn chỉ là doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà Nước mà còn có cả các doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và Luật đầu tư nước ngoài). Thứ ba, đối với từng công trình xây dựng chiến lược, kế hoạch của TCT trong việc liên danh, liên kết với các đối tác trong nước và nước ngoài tạo thêm sức mạnh cùng tham dự đấu thầu công trình hoặc góp vốn đầu tư. Quan hệ chặt chẽ với các đơn vị liên danh, liên kết để phân công đấu thầu, chia việc sau khi trúng thầu. Thứ tư, TCT cần xem xét, lựa chọn, tham gia đấu thầu, phấn đấu trúng thầu các dự án, công trình có quy mô, sản lượng lớn phù hợp với năng lực sở trường của TCT để phát huy tính hiệu quả và tập trung chỉ đạo thi công. Thứ năm, đối với các phòng ban của TCT thì tùy theo chức năng nhiệm vụ phối hợp với phòng Kinh tế để thực hiện các phần việc được Lãnh đạo TCT phân công. Hơn nữa TCT cũng cần có chiến lược nhằm nâng cao năng lực cho các cán bộ làm công tác đấu thầu từ cấp TCT đến các đơn vị thành viên thông qua hình thức tổ chức các lớp bồi dưỡng ngắn hạn( bằng cách mời giáo viên hoặc cử cán bộ đi học tại các trường đại học trong cả nước nhằm tăng trình độ chuyên môn đặc biệt là các kiến thức về công tác đấu thầu) cho cán bộ để có khả năng tính toán có hiệu quả nhằm đạt được chất lượng cao trong hoạt động đấu thầu. Thứ sáu, để có thể xây lắp được các công trình cao tầng có giá trị lớn trong nước cũng như ngoài nước thì TCT cần đầu tư hơn nữa cho kỹ thuật, dây chuyền công nghệ tiên tiến, hiện đại mặt khác cần tận dụng những thiết bị còn khả năng sử dụng nhằm tăng khả năng trúng thầu, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường xây dựng. Thứ bảy, để tránh tình trạng thiếu vốn khi tham gia đấu thầu, về phía TCT cần tìm hiểu thông tin các dự án đấu thầu mà mình tham gia trước khi đấu thầu, nhận thầu xây dựng, đặc biệt cần quan tâm đến thủ tục đầu tư xây dựng, về nguồn vốn đầu tư và khả năng cân đối vốn. Mặt khác cần liên kết với các tổ chức tín dụng, các ngân hàng để huy động vốn đảm bảo tiến độ khi tham gia đấu thầu, thực hiện các công trình, tăng uy tín trên thị trường xây dựng. Cuối cùng về phía các đơn vị thành viên,TCT cần căn cứ vào định hướng phát triển của các đơn vị thành viên để phân công các đơn vị tham gia công tác đấu thầu các dự án cho phù hợp với năng lực và khu vực. Bên cạnh đó các đơn vị thành viên cần tổ chức bộ máy tham gia đấu thầu của đơn vị mình, tham gia với phòng Kinh tế TCT thực hiện công tác tiếp thị, lập và trình duyệt Hồ sơ dự thầu đối với phần việc được phân công theo Quy định quản lý công tác đấu thầu đã được Lãnh đạo TCT phê duyệt ban hành. Hàng tháng, hàng quý lập Báo cáo thực hiện và kế hoạch tiếp thị đấu thầu của đơn vị mình trình TCT thông qua phòng Kinh tế TCT. Để thực hiện được định hướng đã đề ra trong giai đoạn phát triển tiếp theo đồng thời thoả mãn các yêu cầu mới của thị trường xây dựng, TCTSĐ cần nỗ lực hơn nữa cùng với việc thực hiện theo một số biện pháp nêu trên sẽ phần nào khắc phục được những tồn tại của TCT, đưa TCT xứng đáng hơn nữa với danh hiệu doanh nghiệp xây dựng hàng đầu của đất nước ta. 4- Kiến nghị đối với các cấp, ngành Đấu thầu xây dựng là phương thức mới được áp dụng ở nước ta nhưng đến nay đã đạt được nhiều thành tích đáng kể khẳng định sự cần thiết và tính ưu việt của hoạt động đấu thầu. Tuy nhiên công tác đấu thầu xây dựng( gồm cả đấu thầu xây lắp) hiện nay còn có quá nhiều bất cập. Nếu cơ chế đấu thầu được áp dụng trong sự tôn trọng nghiêm ngặt trình tự xây dựng cơ bản sẽ đem lại hiệu quả kinh tế- xã hội to lớn không chỉ cho các dự án đầu tư mà còn đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh và bền vững của bản thân các nhà thầu. Để hoàn thiện cơ chế đấu thầu, đảm bảo đấu thầu là phương thức hiệu quả của phát triển kinh tế xã hội ở nước ta, cần có những giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại không nên có của đấu thầu. 4.1- Kiến nghị đối với Nhà nước Cơ chế chính sách Nhà nước có ảnh hưởng ngày càng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp. Chính sách của Chính phủ có thể tạo ra cơ hội hoặc nguy cơ cho mỗi doanh nghiệp, sự ổn định chính trị cũng là một nhân tố thuận lợi làm phát triển khả năng cạnh tranh quốc gia và doanh nghiệp nói riêng. Một trong những biện pháp của yếu tố chính sách ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là hệ thống pháp luật. Mức độ ổn định của hành lang pháp lý tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển. Ngược lại doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn khi phải đối diện với những thay đổi liên tục của luật pháp, làm suy yếu khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 4.1.1- Kiến nghị về hệ thống pháp luật nói chung Trong những năm qua, công tác ban hành văn bản pháp luật có rất nhiều tiến bộ, các văn bản được ban hành với tốc độ chưa từng thấy, song hệ thống văn bản pháp lý của nước ta trong đó có văn bản pháp luật của ngành xây dựng vẫn còn nhiều hạn chế. Thực trạng hiện nay cho thấy hệ thống pháp luật của nước ta không ổn định, liên tục thay đổi, văn bản quy phạm pháp luật này chưa thực sự đến với các cấp các ngành, với doanh nghiệp, với người dân thì đã được sửa đổi. Vậy để tạo ra một môi trường pháp lý thuận tiện cho sự phát triển kinh tế, những cơ quan Nhà nước có trách nhiệm xây dựng pháp luật nên xuất phát từ thực tiễn khách quan, có cách nhìn nhận tổng quát với tầm nhìn xa để có thể xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện, ổn định mang tính khả thi cao tránh sự chồng chéo, sự ban hành các văn bản một cách tràn lan. Bên cạnh đó, chính những cơ quan này cũng chưa thật chú trọng tới sự tham gia của các chuyên gia am hiểu lĩnh vực, của các bộ, ngành, đơn vị liên quan đặc biệt là của các doanh nghiệp trong lĩnh vực và của nhân dân vào quá trình soạn thảo và thẩm định văn bản. Trình độ năng lực của chuyên viên được giao nhiệm vụ soạn thảo còn nhiều hạn chế, lại chịu nhiều sức ép về tiến độ, thời gian. Do đó, khi xây dựng văn bản pháp lý cần cho phép mọi người dân đặc biệt là những đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi văn bản pháp luật ban hành, đặc biệt là được biết, được phát biểu ý kiến và ở chừng mực nhất định có thể được tham gia đóng góp cho dự thảo văn bản. Cần đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật. Một vấn đề được điều chỉnh bởi một Luật, một Pháp lệnh, một Nghị định và các thông tư hướng dẫn, không nên để tình trạng một vấn đề nhưng được điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Hiện nay, nước ta đang đứng trước nhu cầu hội nhập quốc tế, nhưng để có thể hội nhập thì buộc hệ thống pháp luật nước ta phải từng bước được xây dựng phù hợp với thông lệ quốc tế, tránh tình trạng pháp luật của nước ta khác biệt quá nhiều so với pháp luật thế giới. Mặt khác, việc xây dựng pháp luật vẫn phải căn cứ vào các điều kiện như trình độ dân chúng, mức độ phát triển kinh tế của nước ta, tránh tình trạng xa rời thực tế, gây khó khăn cho việc áp dụng luật. 4.1.2- Kiến nghị đối với pháp luật về đấu thầu ở nước ta, hệ thống văn bản pháp luật về xây dựng nói chung và pháp luật về đấu thầu nói riêng còn quá nhiều điều chưa thể hoà nhập với thị trường và chưa thống nhất đồng bộ với hệ thống luật trong nước cũng như trên thế giới. Sau đây là một số kiến nghị nhằm cải thiện tình trạng trên. Trước hết là việc quản lý Nhà nước về đấu thầu cần thống nhất do một cơ quan của Chính phủ chịu trách nhiệm, bao gồm từ khâu soạn thảo để Chính phủ ban hành( hoặc được Chính phủ uỷ quyền ban hành) các văn bản quy phạm pháp luật. Bộ Xây dựng cần được giao việc soạn thảo và quản lý không chỉ Quy chế đầu tư và xây dựng như hiện nay mà cả Quy chế đấu thầu và thống nhất quản lý đầu tư xây dựng, quản lý hoạt động đấu thầu trong cả nước. Việc chia cắt công tác quản lý đầu tư xây dựng ở Bộ Xây dựng và Quy chế đấu thầu ở Bộ Kế hoạch và Đầu tư như hiện nay đã phần nào giảm hiệu lực quản lý hoạt động đầu tư xây dựng. Trên thực tế hiện nay, không có Bộ nào quản lý công tác đấu thầu xây dựng, những vi phạm vướng mắc, khiếu nại trong đấu thầu không cơ quan nào được giao thống nhất xử lý trừ khi các vi phạm đó do báo chí phản ánh dưới dạng có dấu hiệu tiêu cực, tham nhũng mới được Bộ Công an điều tra làm rõ. Thứ hai, phân tầng văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động đấu thầu ở nước ta hiện nay như sau: Luật Xây dựng Nghị định( với ba Nghị định số 88/CP ngày 1/9/1999, Nghị định số 14/CP ngày 5/5/2000 và Nghị định số 66/CP ngày 12/6/2003) Các thông tư hướng dẫn. Luật Xây dựng mới được ban hành thực sự là bước đột phá lớn, nâng việc quản lý hoạt động đầu tư xây dựng lên tầm Luật( trong đó có chương VI về lựa chọn nhà thầu và hợp đồng trong hoạt động xây dựng) nhưng xét về hoạt động đấu thầu chỉ có duy nhất một chương với nội dung sơ sài, không đầy đủ, chủ yếu vẫn chịu sự điều chỉnh của ba Nghị định trên. Mặc dù pháp lệnh đấu thầu đang được xây dựng nhưng nên bổ sung thêm các quy định, điều luật cụ thể về đấu thầu trong Luật Xây dựng và bỏ qua bước Pháp lệnh đấu thầu. Như vậy sẽ tránh tình trạng Luật phủ Pháp lệnh, vừa tiết kiệm chi phí cho Nhà nước lại nâng việc quản lý hoạt động đấu thầu bằng việc ban hành Luật. Mặt khác, hiện nay có ba Nghị định cùng điều chỉnh hoạt động đấu thầu đó là Nghị định 88/CP, Nghị định 14/CP và Nghị định 66/CP mà cốt lõi vẫn là Nghị định số 88/CP. Như vậy nếu muốn xem xét các quy định pháp luật về đấu thầu thì phải so cả ba Nghị định. Vậy các cơ quan xây dựng luật ngoài Nghị định mới ban hành nên soạn thảo một văn bản thống nhất cả ba Nghị định trên. Mặc dù đã được sửa đổi bổ sung đến Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 66/CP là lần thứ ba nhưng Quy chế còn rất nhiều bất cập cần sửa đổi. Đầu tiên là việc Quy chế đấu thầu bắt buộc các nhà thầu cung cấp dữ liệu thông tin của mình cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư đồng thời phải có tên trong hệ thống dữ liệu về nhà thầu của Bộ mới được tham gia đấu thầu tại Việt Nam. Điều này nhằm quản lý nhà thầu được chặt chẽ nhưng phải chăng đây là thêm một đầu mối đăng ký kinh doanh mới về quản lý, một thủ tục hành chính cho các nhà thầu. Mặt khác, Tờ thông tin đấu thầu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư đảm nhận cũng chỉ là một tờ thông tin chuyên ngành hạn hẹp nhưng lại thâu tóm thông tin liên quan đến đấu thầu mang tính độc quyền, trong đó khi các phương tiện thông tin đại chúng khác có số lượng phát hành lớn hơn phạm vi rộng hơn lại chỉ được giới hạn thông báo đấu thầu các dự án nhóm C. Điều này làm mất đi tính khách quan của Quy chế đấu thầu, coi nhẹ tính tham gia giám sát của cộng đồng. Nên chăng các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần sửa đổi thêm như đăng toàn bộ thông tin của Tờ thông tin nhà thầu một cách công khai lên mạng Internet. Thứ hai, hiện tượng phá giá, tiết kiệm ảo trong đấu thầu xây lắp vẫn xuất hiện dù trong Quy chế đấu thầu có quy định giá ký hợp đồng phải phù hợp với Hồ sơ dự thầu, Hồ sơ mời thầu, phải ghi điều khoản cụ thể về thanh toán trong hợp đồng và làm cơ sở cho sự thanh toán, nhưng trong Quy chế chưa có quy định giá ký hợp đồng phải phù hợp như thế nào, phù hợp bao nhiêu %( nếu như nhà thầu đưa ra giá dự thầu thực sự tiết kiệm nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng, hiệu quả của dự án thì liệu nhà thầu có được trúng thầu không) đây là điều cần được sửa đổi ngay. Thứ ba, nên sửa lại quy định về tiêu chuẩn đánh giá kỹ thuật của các nhà thầu. Đối với đấu thầu xây lắp, theo quy định hiện nay, về mặt kỹ thuật chỉ quy định đánh giá đạt hay không đạt( từ 70% điểm trở lên là đạt). Quy định này là thấp, cần nâng mức chuẩn này lên cao hơn( 80- 85%) để nâng cao chất lượng của các nhà thầu, nâng điểm chuẩn lên sẽ loại trừ được các nhà thầu yếu kém về kỹ thuật và năng lực thi công, do đó khắc phục một phần các tiêu cực trong đấu thầu. Đây chỉ là một số kiến nghị nhằm tăng tính khả thi của pháp luật về đấu thầu ở nước ta. Mong rằng trong tương lai không xa nước ta sẽ có một Quy chế đấu thầu hoàn thiện. 4.1.3.Kiến nghị đối với các chính sách hỗ trợ của Nhà nước Đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xây dựng vốn là một nguồn lực vô cùng quan trọng. Trong đấu thầu, vốn cũng là một nhân tố mà chủ đầu tư xem xét cho nhà thầu trúng thầu hay không, do đó đứng trên phương diện Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ về tài chính cho doanh nghiệp. Thứ nhất, đơn giản thủ tục vay vốn nhất là thủ tục thế chấp bảo lãnh. Các doanh nghiệp xây dựng thường cùng một lúc tham gia nhiều dự án nhưng khả năng tài chính của mỗi doanh nghiệp đều có hạn không thể có đầy đủ vốn thực hiện các dự án khác nhau, nếu để đảm bảo thời gian cũng như yêu cầu chất lượng của chủ đầu tư, bắt buộc các doanh nghiệp phải vay vốn từ các ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Vì vậy, cần thiết Nhà nước có các chính sách linh hoạt trong quá trình thực hiện bảo lãnh vốn và cho vay vốn. Thứ hai, tăng quy mô tài chính cho các doanh nghiệp xây dựng, bởi vì các công trình xây dựng được thực hiện trong thời gian dài, sử dụng các trang thiết bị đắt tiền hơn nữa công nghệ áp dụng cho từng công trình không phải lúc nào cũng giống nhau, nhưng công tác thu hồi vốn lại rất chậm, các doanh nghiệp xây dựng phải huy đông từ nhiều nguốn vốn khác nhau. Do đó, cần có chính sách về vốn tín dụng đầu tư phát triển, vốn ngân sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhằm tăng năng lực tài chính. Thứ ba, Nhà nước nên đề ra các chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp xây dựng nhất là về lĩnh vực xây lắp tham gia nhiều hơn vào các cuộc đấu thầu quốc tế (tất nhiên các doanh nghiệp này phải đủ năng lực chuyên môn và kinh nghiệm trong thi công xây lắp những công trình lớn kể cả những dự án do Nhà nước đầu tư). Đây còn là biện pháp hữu hiệu giúp các doanh nghiệp xây lắp Việt Nam tăng cường lực lượng để phát triển khả năng của mình. 4.2- Kiến nghị đối với chủ đầu tư và người có thẩm quyền quyết định đầu tư của đấu thầu xây lắp Các chủ thể của hoạt động đấu thầu đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo cho hoạt động đấu thầu được thực hiện có hiệu quả, tránh những tiêu cực không nên có trong quá trình đấu thầu. Sau đây là một số kiến nghị đối với chủ thể của đấu thầu Kiến nghị đối với chủ đầu tư Đối với chủ đầu tư là chính quyền địa phương, khi tổ chức đấu thầu nên tránh hiện tượng can thiệp có tính chất hành chính, áp đặt, không công tâm hoặc thiếu tính chuyên nghiệp vào quá trình xét thầu không cá biệt, làm biến dạng kết quả đấu thầu( hiện tượng chính quyền địa phương nhân nhượng cho các doanh nghiệp xây dựng địa phương trúng thầu). để đảm bảo mục tiêu lựa chọn nhà thầu có đủ năng lực, kinh nghiệm với giá dự thầu hợp lý, đạt được lợi ích toàn diện của chủ đầu tư mang tính xã hội cao thì chủ đầu tư cần có đội ngũ cán bộ am hiểu luật đầu tư xây dựng trong nước, các quy định về đấu thầu trong nước cũng như quốc tế, có trình độ hiểu biết về đặc tính của dự án hoặc phải có đội ngũ tư vấn có năng lực chuyên môn để đảm bảo tiến độ cũng như chất lượng cho việc lập Hồ sơ mời thầu. Các chủ đầu tư nên tăng trình độ hiểu biết về đặc tính của dự án hoặc phải có đội ngũ tư vấn có năng lực chuyên môn để đảm bảo tiến độ cũng như chất lượng cho việc lập Hồ sơ mời thầu. Mặt khác chủ đầu tư phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình của Quy chế đấu thầu, không nên thấy không bị thanh tra về việc đấu thầu mà phớt lờ Quy chế khi tiến hành lựa chọn nhà thầu. Thứ nữa, vai trò của chủ đầu tư đối với việc đảm bảo chất lượng công trình được thể hiện thông qua trình độ chuyên môn và trách nhiệm trong việc tuyển chọn được đội ngũ tư vấn giám sát lành nghề; tuyển chọn được nhà thầu xây dựng thực sự có năng lực, đồng thời phải chủ động theo dõi, giám sát chặt chẽ các hoạt động của nhà thầu và tư vấn trong suốt quá trình thi công. Hơn nữa để đảm bảo chất lượng các công trình, chủ đầu tư cũng cần có những hình thức kiểm tra điểm, thí điểm độc lập trên công trường, thường xuyên có cán bộ theo dõi hiện trường để phát hiện những sai phạm xảy ra, qua đó nhắc nhở tư vấn và nhà thầu. Kiến nghị đối với người có thẩm quyền quyết định đầu tư Người có thẩm quyền quyết định đầu tư cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đấu thầu. Để đảm bảo chất lượng cũng như hiệu quả của dự án thì người có thẩm quyền trước khi phê duyệt các nội dung liên quan đến đấu thầu hay dự án cần tìm hiểu kỹ hiệu quả của dự án đối với nền kinh tế xã hội, cần có kiến thức chuyên môn thật vững chắc để có thể phê duyệt nội dung của các hồ sơ. Mặt khác cần có biện pháp kiểm tra công tác đấu thầu, công tác đầu tư xây dựng để tránh tình trạng tiêu cực. Kiến nghị đối với cơ quan tư vấn Cơ quan tư vấn đóng vai trò giúp việc cho chủ đầu tư nên chất lượng tư vấn ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng công trình, hiệu quả sử dụng vốn của dự án. Khi cơ quan tư vấn thiết kế tính toán thiếu hoặc thừa khối lượng công trình hoặc khi tư vấn giám sát biệt được khối lượng công trình thiếu thừa do khâu thiết kế nhưng không cắt bỏ gây ảnh hưởng tiêu cực đến giá thành công trình và giảm hiệu quả sử dụng vốn. Ta thấy vai trò của cơ quan tư vấn là vô cùng quan trọng. Vì vậy trong thời gian tới Nhà nước cần sớm đưa ra những cơ chế quy định rõ ràng hơn về quyền và mức trách nhiệm phải chịu của các tổ chức tư vấn liên quan tới lĩnh vực xây dựng. Mặt khác cần tăng thêm quyền hạn để các cơ quan tư vấn chủ động trong các khâu thiết kế, khách quan trong chấm thầu và nghiêm túc trong giám sát thi công. Bên cạnh đó phải gắn trách nhiệm cụ thể, rõ ràng đối với cơ quan tư vấn( kể cả bồi thường thiệt hại về vật chất) khi xảy ra sai sót trong khâu tư vấn gây ra cho công trình. Kết luận Đất nước ta đang phát triển từng ngày từng giờ. Cùng với sự phát triển đó việc đầu tư vào hệ thống cơ sở hạ tầng, công trình xây dựng trong những năm tới ở Việt Nam được mở ra với quy mô ngày càng lớn. Điều đó tất yếu dẫn tới sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp xây dựng. Để cho sựcạnh tranh đó lành mạnh, minh bạch thì đấu thầu đóng vai trò hết sức quan trọng và tỏ ra là phương thức hiệu quả không chỉ đối với Nhà nước, chủ đầu tư mà còn cả đối với các nhà thầu. Phương thức đấu thầu tuy mới xuất hiện ở nước ta đã chứng tỏ sự phù hợp với nền kinh tế thị trường, đã đạt được các thành tựu đáng kể nhưng cúng xuất hiện nhiều bất cập, nhiều tiêu cực cần có những biện pháp không chỉ từ phía Nhà nước mà cả các chủ thể của đấu thầu để đấu thầu thực sự là một phương thức hoàn thiện. Sau thời gian thực tập tại phòng Kinh tế Tổng công ty Sông Đà cùng việc lựa chọn đề tài “Quy chế đấu thầu cơ sở pháp lý và thực tiễn áp dụng tại Tổng công ty Sông Đà” cho chuyên đề thực tập đã giúp em phần nào hiểu được thực tế hoạt động đấu thầu tại các doanh nghiệp xây dựng, đây thực sự là những kiến thức quý báu bổ sung vào những kiến thức tại trường học. Dù còn nhiều thiếu sót nhưng chuyên đề đã phần nào hệ thống hoá các quy định, chủ trương của Đảng và Nhà nước về đấuthầu xây lắp, làm rõ các khái niệm đấu thầu dựa trên các quy định của Nhà nước, phân tích những tồn tại và những vấn đề cần khắc phục của các quy định này trong giai đoạn tới. Mặt khác chuyên đề cũng khái quát được thực trạng đấu thầu qua thực tiễn tại Tổng công ty Sông Đà- một Tổng công ty lớn của nước ta, từ đó rút ra được những mặt được và chưa được đồng thời đưa ra những biện pháp khắc phục cùng các kiến nghị với Nhà nước( tuy đây chỉ là những kiến nghị mang tính chất mở), phần nào nâng cao vai trò quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng. Do kiến thức có hạn nên chuyên đề chắc chắn còn nhiều thiếu sót rất mong được sự giúp đỡ, góp ý chân thành từ các thầy cô cùng các bạn và các chuyên viên phòng Kinh tế Tổng công ty Sông Đà để chuyên đề ngày càng hoàn thiện hơn. Tài liệu tham khảo I - Văn bản pháp luật Luật Xây dựng 2003. Nghị định số 43/CP ngày 5/7/1996 của Chính phủ về Quy chế đấu thầu. Nghị định số 16/2005/ NĐ- CP ngày 7/2/2005 của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Nghị định số 52/1999/ NĐ- CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ về ban hành quy chế quản lý đầu tư xây dựng. Nghị định số 12/2000/ NĐ- CP ngày 5/5/2000 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 52/1999/ NĐ- CP ngày 8/7/1999. Nghị định số 7/2003/ NĐ- CP ngày 30/1/2003 của Chính phủ về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Quy chế quản lý đầu tư, xây dựng kèm theo Nghị định số 52/1999/ NĐ- CP ngày 8/7/1999 và Nghị định số 12/2000/ NĐ- CP ngày 5/5/2000. Nghị định số 88/1999/ NĐ- CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ về ban hành Quy chế đấu thầu. Nghị định số 14/2000/ NĐ- CP ngày 5/5/2000 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu kèm theo Nghị định số 88/1999/ NĐ- CP ngày 1/9/1999. Nghị định số 66/2003/ NĐ- CP ngày 12/6/2003 của Chính phủ về sửa đổi Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/ NĐ- CP ngày 1/9/1999 và Nghị định số 14/2000/ NĐ- CP ngày 5/5/2000. Thông tư số 4/2000/TT- BKH ngày 26/5/2000 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn thực hiện Quy chế đấu thầu( ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/ NĐ- CP ngày1/9/1999 và Nghị định số 14/2000/ NĐ- CP ngày 5/5/2000). Thông tư số 16/2000/TT-BXD ngày 11/12/2000 của Bộ xây dựng hướng dẫn việc Quản lý xây dựng đối với hoạt động đầu tư nước ngoài và Quản lý các nhà thầu nước ngoài vào nhận thầu xây dựng công trình tại Việt Nam. Thông tư số 17/2001/TT-BTC ngày 21/3/2001 của Bộ tài chính hướng dẫn chế độ quản lý và sử dụnglệ phí thẩm định kết quả đấu thầu. Thông tư số 01/2004/ TT- BKHĐT ngày 2/2/2004 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 66/2003/ NĐ-CP ngày 12/6/2003 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu. II- Các loại sách và tạp chí Tài liệu hướng dẫn “ Đấu thầu quốc tế mua thiết bị vật tư và xây dựng công trình” theo thể thức của Hiệp hội quốc tế các kỹ sư tư vấn( FIDIC), Ngân hàng thế giới( WB) và Ngân hàng phát triển liên Mỹ ( IDB) Tạp chí Xây dựng Số 7/2001: Quy chế đấu thầu- Những vấn đề bức xúc Số 10/2002: Bỏ giá thầu thấp- Hiện tượng không bình thường trong đấu thầu xây dựng- Phạm Hữu Minh. Số 1/2003: Quy định các điều kiện năng lực trong hoạt động xây dựng là đòi hỏi tất yếu của tiến trình hội nhập- Hoàng Thọ Vinh. Số 4/2004: Một số giải pháp nâng cao chất lượng quan lý thực hiện dự án xây dựng của nhà thầu xây dựng- Nguyễn Minh Đức. Tạp chí Thời báo kinh tế Việt Nam- số 74/2004: Nhà thầu đau đầu vì nợ-Tường Vi. Tạp chí Người xây dựng- Số 8/2003: Quy chế đấu thầu còn nhiều điều cần xem xét- Lê Anh Ba. - Số 10/2004: Đấu thầu vấn đề cũ và mới- Lê Anh Ba. Các tài liệu khác của Tổng công ty Sông Đà. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36962.doc
Tài liệu liên quan