Quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường

Phần I: Giới thiệu đề tài Đặc điểm nổi bật trong thời đại hiện nay là cách mạng khoa học kĩ thuật gắn với cách mạng khoa học,tao thành cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật phát triển hết sức mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu sắc đến tốc độ phát triển kinh tế của các nước. Đối với Việt Nam là nước trải qua thời kì chiến tranh dài và chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, nền kinh tế còn lạc hậu so với các nước trên thế giới. Trước xu thế hiện đại cùng với sự ủng hộ, giúp đỡ và hợp tác của các nước, các tổ chức

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1278 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phi chính phủ về vốn,công nghệ, quản lý… tạo điều kiện sớm đổi mới cơ sở kĩ thuật, cơ cấu kinh tế, phân công lao động sản xuất. Cùng nguồn lao động dồi dào, truyền thống lao động cần cù, thông minh của dân tộc ta, tài nguyên thiên nhiên phong phú, địa vị thuận lợi… là những yếu tố quan trọng để mở rộng sự hợp tác, tạo điều kiện cho nước ngoài đầu tư và là thế mạnh cho tăng trưởng kinh tế nhanh. Trước xu thế phát triển của xã hội, công cuộc đổi mới của đất nước có sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam(bao gồm chiến lược, sách lược, tổ chức thực tiễn, chính sách...) định hướng đúng, giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trường và điều kiện hợp tác đầu tư và phát triển kinh tế… giữ vị trí quyết định. Kết quả bước đầu của sự nghiệp đổi mới từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay đã củng cố và khẳng định con đường lựa chọn lên chủ nghĩa xã hội là đúng đắn. Trong thời kì đổi mới chúng ta thực hiện cơ chế quản lí kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Nhưng cơ chế này bộc lộ rõ những khuyết điểm của mình,bộ máy quả lí rất cồng kềnh,có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lí, không thạo nghiệp vụ kinh doanh, nhưng phong cách thì quan liêu cửa quyền. Nhận thức vấn đề đó, phương hướng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lí kinh tế ở nước ta đã được Đại hội của Đảng xác định và tiếp tục được Đại hội VII của Đảng khẳng định “ Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lí cuả Nhà nước”. Với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì kinh tế thị trường là yếu tố khách qua không thể thiếu được. Cơ chế thị trường tự động kích thích sự phát triển sản xuất,tăng trưởng kinh tế cả theo chiều rộng lẫn chiều sâu, tăng cường chuyên môn hoá sản xuất. Trong đó sản xuất và trao đổi là hai đặc tính cơ bản. Trong nền kinh tế hàng hoá có những quy luật kinh tế vốn có của nó hoạt động như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh quy luật lưu thông tiền tệ… Quy luật giá trị còn tồn tại khi nào còn kinh tế hàng hoá vì quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì chừng đó còn quy luật giá trị. Do đó vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường là rất quan trọng và không thể thiếu được. Trong đề tài nghiên cứu này, với lượng kiến thức có hạn nên không thể tránh khỏi những sai sót trong bài làm, em mong được sự hướng dẫn của thầy để rút ra những mặt được và hạn chế để rút kinh nghiệm, nâng cao kiến thức cho bản thân mình. Em xin chân thành cảm ơn thầy Trần Việt Tiến đã giúp em hoàn thành đề tài này. Phần II: Nội dung Chương 1: Một số lý luận chung về quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường. 1.1. Lý luận về quy luật giá trị: 1.1.1. Khái niệm về quy luật giá trị: Quy luật giá trị là quy luật của nền sản xuất hàng hoá, biểu hiện nhu cầu khách quan của việc định hướng nền sản xuất và trao đổi theo các quan hệ tỷ lệ phản ánh hao phí lao động xã hội cần thiết. Giá trị là hình thức biểu hiện các hao phí đó trên cơ sở quy tất cả các loại lao động cụ thể thành lao động trừu tượng và quy lao động phức tạp thành lao động giản đơn; là phương thức điều tiết các mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa trong quá trình hoạt động. 1.1.2. Yêu cầu của quy luật giá trị: Yêu cầu của quy luật giá trị là sản xuất hàng hoá và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở lượng giá trị hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần thiết. Hai loại hàng hoá khác nhau mà thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra chúng bằng nhau thì có giá trị bằng nhau. Thời gian lao động xã hội cần thiết thay đổi theo sự thay đổi của năng suất lao động xã hội. Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá nên lượng giá trị hàng hoá do thời gian lao động quyết định. Năng suất lao động xã hội càng cao, thời gian cần thiết để sản xuất hàng hoá càng ít, khối lượng lao động kết tinh trong một đơn vị sản phẩm càng nhỏ, thì giá trị của sản phẩm càng bé. Và ngược lại, năng suất lao động càng thấp, thời gian cần thiết để sản xuất hàng hoá càng lớn thì lao động hao phí càng nhiều và giá trị hàng hoá càng lớn. Như vậy, lượng giá trị tỉ lệ thuận với số lượng lao động và tỉ lệ nghịch với năng suất lao động. Trong kinh tế hàng hoá, vấn đề quan trọng là hàng hoá sản xuất ra có bán được hay không. Để hàng hoá có thể bán được thì hao phí lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hoá phải phù hợp với mức hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là phải phù hợp với mức hao phí mà xã hội có thể chấp nhận được. Trong trao đổi hàng hoá cũng dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết. Hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi với nhau được khi lượng giá trị của chúng bằng nhau. Theo nghĩa đó thì phải trao đổi theo nguyên tắc ngang giá. Quy luật giá trị là trừu tượng. Nó thể hiện sự vận động thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá. Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá cả phụ thuộc vào giá trị, vì giá trị là cơ sở của giá cả. Hàng hoá nào mà hao phí lao động để sản xuất ra nó nhiều thì giá trị của nó lớn, và do vậy giá cả thị trường sẽ cao, và ngược lại. Ngoài ra, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như quan hệ cung - cầu, tình trạng độc quyền trên thị trường. Tác động của các nhân tố trên làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của nó. C.Mác gọi đó là vẻ đẹp của quy luật giá trị. Trong vẻ đẹp này,giá trị hàng hoá là trục, giá cả hàng hoá trên thị trường lên xuống xoay quanh trục đó. Đối với mỗi đơn vị hàng hoá riêng biệt, giá cả của nó có thể cao hơn, thấp hơn hoặc phù hợp với giá trị của nó. Nhưng cuối cùng,tổng giá cả phù hợp với tổng giá trị của chúng. Bản thân quy luật gía trị biểu hiện sự ngang bằng giữa các tiêu chuẩn được dùng làm cơ sở để xây dựng quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá. Nó nói lên tính chất ngang giá của việc trao đổi hoạt động giữa họ với nhau. Từ đó hoàn toàn không thể suy ra sự tồn tại tất yếu của các quan hệ người bóc lột người. Chỉ trong những điều kiện nhất định và chính là do sự tách rời người lao động khỏi tư liệu sản xuất, trên cơ sở chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa, mà tác động của quy luật này mới trở thành nhân tố quan trọng của quá trình bóc lột. Trong những điều kiện của chế độ mới, quy luật ấy nhất thiết có sự biến dạng đặc biệt, cho phép trở thành một nhân tố cấu thành của cơ chế vận động của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mà hoàn toàn không có gì mâu thuẫn với những đặc điểm cơ bản nhất. 1.2. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị: Quy luật giá trị hoạt động trong các hình thái xã hội khác nhau, và trong hệ thống các quan hệ kinh tế của mỗi hình thái, nó đóng vai trò phụ thuộc, vai trò “phục vụ”. Quy luật đó không thuộc cơ bản của một hình thái xã hội nào, các biểu hiện cụ thể của nó phụ thuộc vào quy luật kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất nhất định. Quan niệm về quy luật gía trị với tư cách là nguồn gốc chỉ gây nên tình trạng vô chính phủ và sự tự phát trong nền kinh tế, là nguyên nhân gây nên tình trạng cạnh tranh, gây sự lãng phí giữa những người sản xuất hàng hoá phân tán, là nhân tố phá hoại lợi ích của nền kinh tế quốc dân với tư cách là một chỉnh thể… Trong quá trình tự do cạnh tranh, các nhà tư bản có lực lượng kinh tế kỹ thuật cao sẽ giành phần thắng, còn các nhà tư bản vừa và nhỏ thì bị thua lỗ, phá sản, tài sản bị cuốn hút vào xí nghiệp lớn, làm cho quy mô sản xuất và quy mô tư bản của các nhà tư bản lớn mở rộng nhanh chóng. Trong cuộc cạnh tranh léo dài bất phân thắng bại, buộc hai bên phải bắt tay nhau, liên hiệp vốn với nhau để sản xuất kinh doanh chung, hình thành các công ty sản xuất khổng lồ có vốn và quy mô lớn. Khi tập trung sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì nó tự dẫn đến độc quyền. Đó là vì một số xí nghiệp dễ dàng thoả thuận với nhau hơn là hàng trăm, hàng ngàn xí nghiệp nhỏ. Mặt khác, quy mô to lớn của các xí nghiệp cũng gây khó khăn cho cạnh tranh và làm cho cạnh tranh có sức phá hoại lớn, do đó đẻ ra phương hướng thoả thuận với nhau để hình thành các tổ chức độc quyền. Trong giai đoạn thấp của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ chế kinh tế của giai đoạn này là tự do cạnh tranh. Trên thị trường, cung cầu và giá cả hàng hoá vận động theo cơ chế tự điều tiết thông qua sự hình thành lợi nhuận bình quân và giá trị chuyển hoá thành giá cả sản xuất. Đến giai đoạn cao của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự ra đời của các tổ chức độc quyền gắn liền với các yếu tố mới, làm xuất hiện cơ chế kinh tế của giai đoạn mới đó là cơ chế độc quyền và cạnh tranh. Nếu ở giai đoạn thấp của chủ nghĩa tư bản, nguyên tắc phân phối lợi nhuận dựa trên sở hữu tư bản, thì đến giai đoạn của chủ nghĩa tư bản độc quyền, việc phân phối lợi nhuận không chỉ dựa trên sở hữu tư bản nói chung, mà trước hết là dựa trên cơ sở quyền lực chi phối tư bản của người khác, dựa trên sở hữu tư bản tài chính. Do tư bản độc quyền, nhất là tư bản tài chính, giữ vị trí thống trị trong sản xuất và lưu thông, nên nó có thể không chỉ sử dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất vốn là những phạm trù kinh tế quen thuộc trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, mà nó sử dụng phương pháp cưỡng bức siêu kinh tế để thu lợi nhuận cao - lợi nhuận độc quyền. Lợi nhuận độc quyền là một hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư, hình thành trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Song song với việc hình thành lợi nhuận độc quyền, các tổ chức độc quyền không bán hàng theo giá cả sản xuất, mà bán theo giá cả độc quyền( mặc dù lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất không mất đi vì cạnh tranh tự do vẫn tồn tại). Giá cả độc quyền là hình thức biểu hiện của giá trị hàng hoá trong giai đoạn độc quyền. Nó bao gồm chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền. Thông thường các tổ chức độc quyền bán hàng hoá với giá cao hơn giá trị hàng hóa, còn khi mua hàng hoá của các xí nghiệp không độc quyền, của người sản xuất nhỏ trong nước và nước ngoài, thì giá cả thường thấp hơn giá trị. Việc các tổ chức độc quyền mua bán theo giá cả độc quyền để thu lợi nhuận độc quyền xét về thực chất chỉ là sự biểu hiện mới, cao hơn,nó không làm giảm hiệu lực của lý luận giá trị và lý luận giá trị thặng dư, nếu chúng ta đặt nó trong cạnh tranh, phối lại giá trị và đặt nó trong các mối quan hệ trong và ngoài nước mà các tổ chức độc quyền có liên quan đến sản xuất và kinh doanh. Trong giai đoạn cạnh tranh: cùng với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thì cạnh tranh cũng xuất hiện. Tuy mới xuất hiện nhưng nó cũng như cơ chế thị trường đã bộc lộ rõ mặt tích cực và tiêu cực của mình. Cạnh tranh xuất hiện có xu hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, điều chỉnh các nguồn lực phát triển của đất nước. Mặt khác nó cũng thể hiện điểm yếu của mình là những thủ đoạn không lành mạnh. Dự báo đúng điều đó, Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh " Cơ chế thị trường đòi hỏi phải hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh. Cạnh tranh vì lợi ích đất nước, chứ không phải làm pha sản hàng loạt, lãng phí các nguồn lực, thôn tính lẫn nhau ". Trong các chiến lược kinh doanh của mình, mục tiêu của việc cạnh tranh là làm sao thu lại được lợi nhuận lớn nhất. Để đạt được mục tiêu các doanh nghiệp sẵn sàng sử dụng mọi công cụ, thủ đoạn. Dưới đây là những công cụ mà các doanh nghiệp thường hay sử dụng: Thứ nhất, điều được các doanh nghiệp chú ý đó là chất lượng hàng hoá vì đây chính là yếu tố tác động mạnh mẽ đến tâm lý người tiêu dùng. Trên thương trường nếu có hai loại hàng hoá có công dụng như nhau, giá cả bằng nhau thì người tiêu dùng sẵn sàng mua hàng hoá nào có chất lượng cao hơn. Tiêu chí này ảnh hưởng rất lớn đến quyết định mua hàng của người tiêu dùng. Do đó, đây là công cụ đầu tiên và quan trọng mà các doanh nghiệp sử dụng để chiến thắng đối thủ cạnh tranh. Thứ hai, là giá cả hàng hoá. Hai hàng hoá có cùng thuộc tính, công dụng như nhau thì người tiêu dùng sẽ mua hàng hoá có giá rẻ hơn. Giá cả hàng hoá được quyết định bởi giá trị hàng hoá. Song sự vận động của giá cả còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán của người tiêu dùng. Mức sống còn thấp, người tiêu dùng sẽ tìm mua những hàng hoá có giá rẻ, ngược lại, mức sống cao người tiêu dùng sẽ tìm mua những hàng hóa có chất lượng tốt, chấp nhận mức giá cao. Đây chính là điều mà các doanh nghiệp cần nắm bắt rõ về khách hàng thị trường mình định đầu tư. Thứ ba, áp dụng khoa học - kỹ thuật và quả lý hiện đại. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ tăng lên đáng kể khi giá cả hàng hoá cá biệt của doanh nghiệp thấp hơn giá cả trung bình trên thị trường. Để có lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải tập trung các nguồn lực để tăng năng suất lao động, giảm chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng hàng hoá nhằm làm cho giá trị hàng hoá cá biệt của mình thấp hơn giá trị xã hội. Muốn vậy các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến công cụ lao động, hợp lý hoá sản xuất, nhanh chóng ứng dụng những thành tựu khoa học - kĩ thuật và quản lý hiện đại vào trong sản xuất. Thứ tư, là thông tin, một công cụ cạnh tranh lợi hại của doanh nghiệp. Thông tin đầy đủ về thị trường, thông tin về tâm lý thị hiếu khách hàng, về giá cả, đối thủ canh tranh… có ý nghĩa quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Đủ và xử lý đúng thông tin có ý nghĩa giúp các doanh nghiệp han chế rủi ro trong kinh doanh và có thể tìm ra, tao ra " lợi thế so sánh " của doanh nghiệp trên thương trường. Thông tin đầy đủ, đúng hoặc bưng bít có thể thúc đẩy thị trường một cách tích cực hoặc tạo ra những nhu cầu giả tạo, hành vi cạnh tranh sai trái làm biến dạng thị trường. Vì thế, không ngạc nhiên khi tình trạng quảng cáo hiện nay của các doanh nghiệp xuất hiện ngày càng nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, chi phí cho hoạt động quảng cáo, giới thiệu,trưng bày sản phẩm chiếm tỷ trọng nhất định trong chi phí chung của các doanh nghiệp. Thứ năm, phương thức phục vụ và thanh toán trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là công cụ cạnh tranh khá quan trọng. Ai nắm được công cụ này sẽ thắng trong cạnh tranh. Bởi vì, công cụ này tạo sự thuận tiện cho khách hàng. Phương thức phục vụ và thanh toán được thể hiện ở ba giai đoạn: trước khi bán hàng, trong quá trình bán hàng và sau khi bán hàng. Trước khi bán hàng, các doanh nghiệp thực hiện các động tác như : quảng cáo, giới thiệu, hướng dẫn thị hiêú khách hàng, các hoạt động triễn lãm, trưng bày hàng hoá. Những động tác này nhằm hấp dẫn, lôi cuốn khách hàng đến với sản phẩm của doanh nghiệp mình. Trong quá trình bán hàng, khâu quan trọng nhất là nghệ thuật, chào mời khách hàng. Điều này đòi hỏi người bán hàng phải thật sự tôn trọng khách hàng, lịch sự, ân cần và chu đáo. Sau khi bán hàng, phải có những dịch vụ như bao bì và giao hàng đến tận tay người mua, các dịch vụ bảo hành, sửa chữa hàng hoá... Những dịch vụ này tạo sự tin tưởng, uy tín của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng. Sau nữa, phương thức phục vụ trên sẽ phát huy tác dụng khi được bảo đảm các yêu cầu sau: các dịch vụ phải nhanh, chính xác... Phương thức thanh toán phải linh hoạt, đa dạng bao gồm các loại như: thanh toán một lần, thanh toán chậm( bán hàng chịu), bán trả góp, bán có thưởng, thanh toán linh hoạt khi trả bằng ngoại tệ... Hai doanh nghiệp cùng sản xuất một loại sản phẩm có chất lượng như nhau, giá cả bằng nhau thì yếu tố quyết định giúp khách hàng lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp mình chính là chế độ chăm sóc khách hàng sau khi mua hay là phương thức thanh toán. Thứ sáu, tính độc đáo của sản phẩm. Mọi sản phẩm trên thị trường khi xuất hiện đều mang những đặc tính riêng biệt, sản phẩm có tồn tại lâu trên thị trường hay không còn phụ thuộc vào những đặc tính này. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải thường xuyên có biện pháp cải tiến sản phẩm của mình, tạo ra nét độc đáo riêng, liên tiếp tung ra thị trường thay thế những sản phẩm cũ. Sự thay đổi thường xuyên về mẫu mã, nhãn hiệu hàng hoá cũng như việc không ngừng nâng cao chất lượng, tính năng hàng hoá sẽ tạo điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp hiện nay. Thứ bảy, chữ tín là công cụ cạnh tranh của các doanh nghiệp. Trong qua trình kinh doanh các doanh nghiệp sử dụng nhiều biện pháp nhằm giành giật khách hàng về phía mình, đặc biệt thực hiện linh hoạt trong khâu hợp đồng, thanh toán… Những hành vi này sẽ thực hiện được tốt hơn khi giữa doanh nghiệp và khách hàng có lòng tin với nhau. Do vậy, chữ tín trở thành công cụ sắc bén trong cạnh tranh, giúp cho quá trình buôn bán diễn ra nhanh chóng, tiện lợi. Mặt khác, công cụ này còn tạo cơ hội cho nhiều người ít vốn có điều kiện tham gia kinh doanh, do đó mở rộng thị phần hàng hoá… tạo sức mạnh cho doanh nghiệp. Những ưu điểm đó giải thích vì sao trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường linh hoạt hơn, có nhiều bạn hàng hơn so với doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, sử dụng công cụ này đòi hỏi các chủ thể cạnh tranh phải có bản lĩnh. Bởi vì, có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh như tình trạng " chụp giật ", " bể hụi ", đối tác làm ăn có ý đồ đen tối. Thứ tám, sự mạo hiểm, rủi ro. Trong kinh doanh, lợi nhuận doanh nghiệp thường tỷ lệ thuận với sự mạo hiểm, rủi ro trong kinh doanh. Các chủ thể kinh doanh có khuynh hướng đầu tư kinh doanh( kể cả đầu tư nghiên cứu khoa học) vào những mặt hàng mới, những lĩnh vực mới mà rủi ro ở đó thường cao. Đây cũng là khuynh hướng khách quan vì nó hy vọng thu được lợi nhuận cao trong tương lai. Mặt khác, nó giảm được áp lực cạnh tranh từ các đối thủ khácSự mạo hiểm chấp nhận rủi ro nhằm thu lợi nhuận lớn bằng cách đi đầu trong kinh doanh là công cụ cạnh tranh cực kỳ hiệu quả, nhưng cũng cực kỳ nguy hiểm trong quá trình cạnh tranh. Việc sử dụng hiệu quả công cụ này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có tài năng và bản lĩnh. Như vậy, cạnh tranh là một quy luật trong nền kinh tế thị trường mà ở đó các chủ thể kinh tế tìm mọi biện pháp - cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình. 1.3. Vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá: 1.3.1. Quy luật giá trị điều tiết nền sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá: Trong sản xuất, quy luật giá trị điều tiết việc phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động giữa các ngành sản xuất thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá. Như ta đã biết, do ảnh hưởng của quan hệ cung cầu, giá cả hàng hoá trên thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của nó. Trong sản xuất hàng hoá, quy luật cạnh tranh thể hiện ở chỗ: cung và cầu thường xuyên muốn ăn khớp với nhau nhưng chính vì thế mà từ trước tới nay chưa hề ăn khớp với nhau. Cả hai cứ tách biệt nhau và đối lập nhau. Cung luôn luôn bám sát cầu, nhưng từ trước tới nay không thoả mãn cầu một cách chính xác, cung thì quá lớn hoặc quá nhỏ chứ không bao giờ hợp với cầu, vì trong trạng thái tự giác đó của loài người không ai biết được rằng rốt cuộc cung và cầu là bao nhiêu. Nếu cầu lớn hơn cung thì giá cả tăng lên, điều đó dường như kích thích cung nhưng khi cung vừa tăng lên thì giá cả thị trường lại hạ xuống, mà nếu cung vượt quá cầu thì giá cả sẽ hạ xuống nhiều hơn nữa, khiến cho cầu lại tăng lên. Điều đó luôn luôn xảy ra, chưa bao giờ có trạng thái lành mạnh, mà luôn luôn lúc lên lúc xuống khiến không thể có được sự tiến bộ nào, luôn luôn có sự dao động không ngừng. Quy luật này luôn luôn có tác dụng điều tiết, nó có thể làm cho cái mất đi ở đây lại được bù đắp chỗ khác. Dù sao, ta cũng thấy rõ đó là một quy luật thuần tuý tự nhiên chứ không phải là một quy luật lý tính. Khi nào cung và cầu thôi không tác động nữa… tức là chỉ khi cung và cầu ăn khớp với nhau thì những quy luật đó mới thể hiện dưới trạng thái thuần tuý của chúng. Trên thực tế, cung và cầu không bao giờ ăn khớp với nhau cả, nếu có chỉ là ngẫu nhiên thôi; do đó, đứng về phương diện khoa học mà nói thì trường hợp đó bằng không. Nhưng về chính trị kinh tế học chúng ta lại giả định rằng cung và cầu ăn khớp với nhau. Lí do là vì để nghiên cứu các hiện tượng dưới cái hình thái hợp với quy luật của chúng, phù hợp với khái niệm của chúng, tức là để nghiên cứu những hiện tượng đó một cách độc lập với cái vẻ bề ngoài của chúng so những biến động cung và cầu gây ra; mặt khác, là để phát hiện ra cái xu thế thật sự của sự vận động của chúng và cố định xu thế đó bằng một cách nào đó. Cho nên cung và cầu nếu không ăn khớp với nhau thì những sự chênh lệch của chúng cứ kế tiếp nhau khiến cho nếu nhận xét kết quả của cuộc vận động trong một thời gian tương đối dài - cung và cầu bao giờ cũng ăn khớp với nhau, bởi vì một sự chênh lệch đi theo chiều này sẽ gây nên hậu quả là có ngay một sự chênh lệch đi theo chiều ngược lại. Chính vì đó mà giá cả thị trường chênh lệch với giá thị trường. Như vậy, mối quan hệ giữa cung và cầu, một mặt chỉ giải thích nhừng sự chênh lệch giữa giá cả thị trường và giá thị trường; và mặt khác giải thích cái xu hướng muốn thủ tiêu những sự chênh lệch giữa cung và cầu. Trái lại, chính giá thị trường điều tiết quan hệ cung - cầu, hay cấu thành cái trung tâm, chung quanh trung tâm đó những sự thay đổi trong cung và cầu làm cho những giá cả thịt trường phải lên xuống. Trong lĩnh vực lưu thông quy luật giá trị có tác dụng điều tiết nguồn hàng từ nơi giá thấp đến nơi giá cao. 1.3.2. Quy luật giá trị kích thích sự phát triển sức sản xuất: Trong nền kinh tế hàng hoá người nào có hao phí lao động cá biệt ít hơn hoặc nằng hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hoá thì người đó có lợi, còn người nào có hao phí lao động lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết thì sẽ bị thiệt, vì không thu về được toàn bộ lao động đã hao phí. Giá trị của hàng hoá là theo tỷ lệ nghịch với năng suất của lao động sản xuất ra hàng hoá đó. Sức lao động cũng vậy, vì giá trị sức lao động là do giá trị hàng hoá quyết định. Ngược lại, giá trị thặng sư tương đối lại tỷ lệ thuận với năng suất lao động. Giá trị thặng dư tương đối tăng lên và hạ xuống cùng với năng suất lao động. Một ngày lao động xã hội trung bình có giới hạn nhất định, thì bao giờ cũng sản xuất ra một giá trị như nhau, và giá trị này; nếu giá trị của tiền tệ không thay đổi, thì vẫn được biểu hiện thành cùng một giá cả như nhau, chẳng hạn thành 6 si - linh dù tỷ lệ phần chia thành tiền công và giá trị thặng dư của số tiền đó là như thế nào đi nữa. Nhưng nếu giá cả những tư liệu sinh hoạt tất yếu rẻ đi do năng suất lao động tăng lên thì lúc đó thì giá ttrị hằng ngày của sức lao động giảm xuống, ví dụ từ 5 si - linh hạ xuống 3 si - linh và giá trị thặng dư tăng lên 2 si - linh. Muốn tái sản xuất ra sức lao động, trước đây cần 10 giờ một ngày, nay chỉ cần có 6 giờ là đủ. Ngay trong hiện tượng giá trị là biểu hiện của lao động xã hội nằm trong bản thân các sản phẩm tư nhân, cũng đã chứa đựng sẵn cái khả năng có sự chênh lệch giữa lao động ấy với lao động cá nhân nằm trong bản thân sản phẩm. Cho nên, nếu một người sản xuất tư nhân tiếp tục sản xuất theo phương pháp cũ, trong khi đó phương thức sản xuất xã hội ngày càng tiến bộ, thì người ấy càng nhận thấy sự chênh lệch đó là qúa rõ rệt. Hiện tượng đó cũng sẽ diễn ra, khi mà toàn bộ các nhà tư nhân làm một loại hàng hoá nhất định nào đó đã sản xuất ra một khối lượng vượt qua nhu cầu xã hội. Ngay trong hiện tượng là giá trị của một thứ hàng hoá chỉ có thể biểu hiện bằng một thứ hàng hoá khác và chỉ có thể thực hiện được bằng cách thông qua sự trao đổi lấy thứ hàng hoá khác này mà thôi, cũng đã chứa đựng sẵn cái khả năng là sự trao đổi không phải tuyệt đối cứ nhất định là thực hiện được, hay ít ra thì sự trao đổi ấy cũng không thực hiện được đúng với giá trị. Muốn đứng vững và thắng trong cạnh tranh, mỗi người sản xuất đều luôn luôn tìm cách rút xuống đến mức tối thiểu hao phí lao động cá biệt. Muốn vậy, họ phải luôn luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Vì thế, trong nền kinh tế hàng hoá, lực lượng sản xuất được kích thích và phát triển nhanh hơn nhiều so với trong nền kinh tế tự cấp, tự túc. Tuy nhiên, không nên lý tưởng hoá ưu điểm này của quy luật giá trị và kinh tế hàng hóa. Quy luật giá trị, một mặt, yêu cầu phải chú ý hạ thấp mức hao phí lao động ca biệt, tức là yêu cầu có sự tiết kiệm lao động, nhưng mặt khác, do chạy theo sản xuất những hàng hoá có giá cả cao, cho nên tạo ra tình trạng có một loại hàng hoá nào đó được xuất quá nhiều, dẫn đến hiện tượng dư thừa, làm lãng phí lao động xã hội. 1.3.3. Thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và sự phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo: Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá trị, lao động cá biệt của mỗi người sản xuất có thể không nhất trí với lao động xã hội cần thiết. Những người làm tốt, làm giỏi có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, làm giàu, mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng thêm quy mô sản xuất, mở rộng doanh nghiệp của mình. Bên cạnh đó, người làm ăn kém cỏi, không gặp may, hao phí lao động cá biệt cao hơn hao phí lao động xã hội cần thiết nên họ bị lỗ vốn, thậm chí đi đến phá sản. Như vậy quy luật giá trị có ý nghĩa bình tuyển, đánh giá người sản xuất. Nó mang lại phần thưởng cho những người làm tốt, làm giỏi và hình phạt cho những người làm kém cỏi. Về phương diện này thì quy luật giá trị bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất. Tuy nhiên, không một tấm huân chương nào lại không có mặt trái của nó. Ngay trong qua trình thực hiện sự bình tuyển tự nhiên đối với người sản xuất, quy luật giá trị đã phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo. Mỗi một người đều sản xuất riêng biệt, cho lợi ích riêng của mình, không phụ thuộc vào các nhà sản xuất khác; họ sản xuất cho thị trường, nhưng dĩ nhiên không một người nào trong bọn họ lại biết được dung lượng của thị trường. Mối quan hệ như vậy giữa những người sản xuất riêng rẽ, sản xuất cho thị trường chung thì gọi là cạnh tranh. Dĩ nhiên, trong những điều kiện ấy sự thăng bằng giữa sản xuất và tiêu dùng( giữa số cung và số cầu) chỉ có được sau nhiều lần biến động. Người sản xuất khéo léo hơn, tháo vát hơn, và có sức lục hơn, sẽ ngày càng lớn mạnh nhờ những sự biến động đó; còn người yếu ớt và vụng về thì bị sự biến động đó đè bẹp. Một vài người trở nên giàu có, còn quần chúng thì trở nên nghèo đói, đó là kết quả không tránh khỏi của quy luật cạnh tranh. Kết cục là những người sản xuất bị phá sản mất hết tính chất độc lập về kinh tế của họ đi và trở thành công nhân làm thuê trong công xưởng đã mở rộng của đối thủ tốt số của họ. Lịch sử phát triển của sản xuất hàng hoá giản đơn trong xã hội phong kiến dần dần sinh ra quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quan hệ giữa kẻ giàu - người nghèo, quan hệ giữa chủ - thợ, quan hệ giữa tư sản – vô sản là quan hệ đối kháng về lợi ích kinh tế. Sự đối kháng đó tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh giữa những người nghèo chống lại kẻ giàu, người thợ chống lại chủ, vô sản chống lại tư sản. Đó là một trong những khuyết tật của nền kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường. Chương 2 Thực trạng về sự vận dụng quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế ở nước ta thời gian qua. 2.1. Tác dụng của quy luật giá trị dưới CNXH: Một số quy luật kinh tế, kể cả quy luật giá trị đang phát huy tác dụng ở nước ta, ở đâu có hàng hoá và sản xuất hàng hoá thì quy luật giá trị nhất định tồn tại. Trong nước ta quy luật giá trị trước hết phát huy tác dụng đối với lưu thông hàng hoá, sự trao đổi hàng hoá bằng mua và bán, và đặc biệt đối với sự trao đổi những hành hoá tiêu dùng cá nhân. Trong lĩnh vực ấy, quy luật giá trị tất nhiên vẫn có tác dụng điều tiết trong một chừng mực nào đó. Tuy nhiên phạm vi của quy luật giá trị không chỉ hạn chế trong lưu thông hàng hoá mà còn đối với sản xuất nữa. Tuy không có tác dụng điều tiết trong nền sản xuất xã hội chủ nghĩa nhưng nó vẫn ảnh hưởng đến sản xuất. Trong nền sản xuất nước ta, những sản phẩm tiêu dùng cần thiết để bù đắp cho sự tổn phí sức lao động trong quá trình sản xuất, đều được sản xuất và tiêu thụ, với tư cách là hàng hoá do quy luật giá trị chi phối. Chính ở đấy, quy luật giá trị ảnh hưởng đến sản xuất. Do đó, trong các xí nghiệp của chúng ta khi hạch toán kinh tế, tiền lãi, giá thành, giá cả, v.v… đều có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy, chúng ta không thể không tính đến quy luật giá trị. Trong những điều kiện hiện nay, điều đó có ý nghĩa giáo dục những cán bộ lãnh đạo ngành công nghiệp nước ta tiến hành sản xuất một cách hợp lý và khép họ cào kỷ luật. Từ đó, tạo điều kiện cho họ học hỏi được cách tính toán tiềm năng sản xuất để từ đó có phương án, quyết định sản xuất có hiệu quả và đạt lợi nhuận cao. Đó là điển hình thực tế giúp cho các cán bộ lãnh đạo ngành công nghiệp nước ta trở thàng người lãnh đạo thực sự của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn phát triển hiện nay. Thực tế là quy luật giá trị dưới xã hội chủ nghĩa không có tác dụng rộng rãi như dưới chế độ tư bản. Dưới chế độ kinh tế nước ta, quy luật giá trị bị thu hẹp phạm vi hoạt động. Chắc chắn là tình trạng không còn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nữa, và việc xã hội hoá những tư liệu sản xuất đó ở thành thị khiến cho phạm vi tác dụng của quy luật giá trị và trình độ ảnh hưởng của nó đến sản xuất nhất định bị hạn chế. Chúng ta cũng thấy rằng trong chế độ kinh tế nước ta hiện nay, quy luật giá trị không thể điều tiết tỷ lệ phân phối lao động giữa các ngành sản xuất khác nhau. Minh chứng rõ nhất là nước ta tập trung phát triển công nghiệp nặng hơn là phát triển công nghiệp nhẹ, mà lợi nhuận do công nghiệp nặng mang lại lời ít hơn công nghiệp nhẹ, có khi còn không có lãi nữa. Các xí nghiệp công nghiệp nặng nước ta lại không đóng cửa khi hiện tại không có lãi, công nhân của các ngành này không đạt hiệu quả như mong muốn và thay vào đó là mở các xí nghiệp công nghiệp nhẹ làm ăn có lãi hơn nhiều, công nhân làm việc với hiệu quả đạt yêu cầu. Nếu chúng ta làm theo phương pháp chuyển sang hoạt động công nghiệp nhẹ để đạt được lợi nhuận thì chúng ta không phải ưu tiên chế tạo tư liệu sản xuất mà ưu tiên chế tạo vật phẩm tiêu dùng. Nghĩa là cản bước tiến không ngừng của nền kinh tế quốc dân vì nếu không đồng thời bảo đảm ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35455.doc
Tài liệu liên quan