Quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta

Lời nói đầu Trong hơn hai mươi năm thực hiện sự nghiệp đổi mới kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nền kinh tế nước ta chuyển dần từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp trước đây sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều cơ hội và thách thức mới trong việc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Quá trình xây dựng một nền kinh tế thị trường không thể tránh khỏi sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường. Các quy luật kinh tế của thị trường quy

doc26 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1339 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ết định sự vận động của thị trường do đó quyết định sự vận động của nền kinh tế thị trường. Vì thế khi tham gia thị trường các chủ thể kinh tế cũng không thể tránh được sự tác động của các quy luật. Một nền kinh tế phát triển bắt nguồn từ sự phát triển của các cá nhân trong xã hội hay chính là các chủ thể kinh tế. Do đó để phát triển một nền kinh tế thị trường vững manh nhà nước vận dụng các quy luật kinh tế vào trong thực tiễn của nền kinh tế nhằm giải quyết hài hoà các lợi ích của cá nhân và các thành phần khác trong xã hội, từ đó tạo tiền đề cho nền kinh tế phát triển từng bước theo định hướng. Quy luật giá trị với tư cách là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá, tạo nên những tác động to lớn tới người sản xuất và người tiêu dùng. Quy luật giá trị tác động đến cả quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, định mức hàng hoá trên thị trường … các cá nhân hay các thành phần kinh tế khi tham gia vào thị trường đều dựa trên cơ sơ của giá trị mà tính đến hiệu quả của sản xuất kinh doanh nhằm mang lại lợi nhuận cao nhất. Ngày nay quy luật giá trị tác động tới nền kinh tế thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá dưới ảnh hưởng của cung cầu cạnh tranh, tiền tệ… Trong nền kinh tế thị trường thì giá cả là tín hiệu của cơ chế thị trường. Do đó để phát triển nền kinh tế thị trường không thể không tính đến tác động của quy luật giá trị. Việc nhận thức và vận dụng quy luật giá trị là hết sức cần thiết. Nhất là trong giai đoạn hiện nay tình hình thế giới có nhiều biến động lớn gây ra nhiều tác động về giá, ảnh hưởng xấu đến giá cả trong nước, đặc biệt là cơn sốt giá năm 2004 với các mặt hàng thiết yếu trong đời sống hàng ngày như :thực phẩm , vật liệu xây dựng, thuốc men….Các biến động đó càng đòi hỏi chúng ta cần nhận biết rõ hơn và vận dụng quy luật giá trị tốt hơn vào trong nền kinh tế đang có nhiều thay đổi hiện nay. Trước tính cấp thiết đó đề tài này được viết nhằm giải quyết một số vấn đề cơ bản về quy luật giá tri trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Quá trình viết chắc chắn không tránh khỏi một số thiếu sót, do đó người viết mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các bạn và các thầy cô. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo bộ môn đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài. Hà nội 2005 Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường 1. Nội dung cơ bản và vai trò của quy luật giá trị * Cơ sở khách quan và nội dung của quy luật giá trị Quy luật giá trị là quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị. Sự tồn tại của quy luật giá trị trong xã hội xã hội chủ nghĩa cũng như xã hội tư bản chủ nghĩa là tất yếu khách quan vì vẫn còn sản xuất hàng hoá. Như vậy cơ sở để tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị là tồn tại nền sản xuất hàng hoá. Nội dung của quy luật giá trị là sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Trong nền kinh tế hàng hoá, vấn đề quan trọng đặt ra là hàng hoá sản xuất ra có bán được hay không? Để có thể bán được thì hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá phải phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là phải phù hợp với mức hao phí lao động mà xã hội chấp nhận được. Như vậy với sự đòi hỏi của quy luật giá trị, chỉ có những quá trình sản xuất nào có mức hao phí lao động cho sản phẩm nhỏ hơn hoặc bằng mức hao phí lao động trung bình của xã hội mới có thể tồn tại và phát triển. Mặt khác quy luật giá trị còn đỏi hỏi việc trao đổi hàng hoá cũng phải dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết. Có nghĩa là việc trao đổi hàng hóa phải dựa trên nguyên tắc ngang giá. Điều này quyết định sự tồn tại hay không tồn tại, phát triển hay không phát triển của một đơn vị sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế. 2. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị. Quy luật giá trị biểu hiện hoạt động thông qua sự hoạt động của giá cả hàng hoá. Giá trị là cơ sở của việc hình thành giá cả nên giá cả trước hết phụ thuộc vào giá trị. Hàng hoá được sản xuất ra mà có nhiều giá trị thì giá cả cao và ngược lại hàng hoá nào có giá trị thấp thì giá cả thấp. Trên thị trường, ngoài giá trị giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường tách rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động của giá cả thị trường của hàng hoá xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng. 3. Đặc điểm hoạt động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá. Trong bất cứ quốc gia nào, theo thể chế chính trị nào mà ở đó nền sản xuất hàng hoá vẫn còn thì quy luật giá trị còn tồn tại và phát huy tác dụng. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, quy luật giá trị tác động vào sản xuất và lưu thông hàng hoá thông qua cơ chế hoạt động của hệ thống các quy luật kinh tế tư bản chủ nghĩa. ở thời kỳ tự do cạnh tranh, quy luật giá trị được thực hiện thông qua cạnh tranh hình thành giá trị thị trường và giá cả một cách tự phát. Đến thời kì độc quyền, các tổ chức độc quyền nắm được vị trí độc quyền nên áp đặt giá cả độc quyền. Giá cả độc quyền vẫn không thoát li và không phủ định cơ sở của nó là giá trị. Quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền . Quy luật giá trị trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa quyết định các tỉ lệ trong nền kinh tế và còn mang tính tự phát vì việc sản xuất hàng hoá vẫn dựa chủ yếu vào chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, quy luật giá trị không đóng vai trò điều tiết sản xuất như trong nền sản xuất hàng hoá xây dựng trên chế độ tư hữu. Nó cũng không phải là cái duy nhất quyết định sự lưu thông hàng hoá và giá cả hàng hoá. Quy luật giá trị ở đây không làm phân hoá người sản xuất, không đẻ ra chủ nghĩa tư bản. Nó hoạt động chủ yếu dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Tác động của nó không phải là thông qua sự lên xuống tự phát của giá cả xung quanh giá trị, không phải là sự hình thành một cách tự phát hao phí lao động xã hội cần thiết dưới sức mạnh của quy luật cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá độc lập với nhau. Trong chủ nghĩa xã hội quy luật giá trị không tác động như một lực lượng tự phát thống trị con người như trong chế độ tư bản. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có đủ khả năng nhận thức tính toán vận dụng triệt để trong quản lí kinh tế, kích thích nền sản xuất xã hội chủ nghĩa phát triển dưới sự chi phối của các quy luật kinh tế cơ bản. 4. Vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá. 4.1. Vai trò điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân phối các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dụng của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường, dưới tác động của quy luật cung cầu. Người sản xuất hàng hoá sản xuất ra cái gì ? sản xuất bằng công nghệ nào và cho ai là do họ quyết định. Mục đích của họ là thu được nhiều lợi nhuận. Dựa vào sự biến động của giá cả thị trường dưới tác động trực tiếp của cung cầu, người ta biết được hàng hoá nào đang thiếu, bán chạy có giá cao và nhiều lãi, hàng hoá nào ế thừa , giá thấp…Người sản xuất hàng hoá sẽ mở rộng sản xuất những mặt hàng đang thiếu, bán chạy nhiều lãi và ngược lại thu hẹp sản xuất, thậm chí đóng cửa doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng ế thừa, không tiêu thụ được. Người ta sẽ chuyển sang sản xuất những hàng có nhu cầu nhiều hơn, bỏ mặt hàng không có hoặc rất ít nhu cầu hoặc nhu cầu trên thị trường đã được thoả mãn.. kết quả là các yếu tố sản xuất như tư liệu sản xuất, sức lao động, tiền vốn được chuyển dịch từ ngành này sang ngành khác làm cho quy mô ngành này mở rộng, ngành kia thu hẹp. Đó chính là vai trò điều tiết sản xuất của quy luật giá trị. Quy luật giá trị cũng đóng vai trò điều tiết lưu thông hàng hóa. Hàng hoá bao giờ cũng vận động từ nơi có giá cả thấp đến nơi giá cả cao, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu, tạo nên sự cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng trong nền kinh tế. Như vậy thông qua sự vận động của giá cả trên thị trường mà quy luật giá trị đóng vai trò phân phối hay điều tiết lượng hàng trên thị trường. 4.2. Vai trò thúc đẩy cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất lao động. Trong kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện khác nhau mà các hàng hoá được sản xuất trong các điều kiện khác nhau vì thế giá trị cá biệt của chúng khác nhau. Khi trao đổi trên thị trường, các hàng hoá đều phải được trao đổi theo giá trị xã hội vì thế người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế có lợi thu được lãi cao, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội của hàng hoá thì rơi vào thế bất lợi, lỗ vốn. Do đó để giành được ưu thế trong cạnh tranh và tránh được nguy cơ lỗ vốn họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình sao cho nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Để đạt được yêu cầu đó người sản xuất tìm mọi cách cải tiến kĩ thuật, nâng cao trình độ tay nghề, sử dụng các thành tựu khoa học mới nhất vào sản xuất, cải tiến tổ chức quản lí, tăng năng suất lao động. Ngoài ra để thu được nhiều lợi nhuận, người sản xuất hàng hoá còn phải thường xuyên cải tiến chất lượng, mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng, cải tiến các biện pháp lưu thông, bán hàng để tiết kiệm chi phí lưu thông và tiêu thụ sản phẩm nhanh hơn. 4.3. Vai trò thực hiện phân hoá người sản xuất. Dưới tác động của quy luật giá trị cùng những đòi hỏi nghiêm ngặt với mỗi người sản xuất trong xã hội thì chỉ có những người khả năng nhạy bén với thị trường, những người làm tốt mới có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Do đó mà họ có thể thu lãi và mở rộng sản xuất, họ trở thành người giàu có trong xã hội. Ngược lại những người kém hơn hay có ít điều kiện trong sản xuất như ít vốn, công nghệ lạc hậu thì mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, do đó lâm vào tình trạng thua lỗ, thậm chí phá sản. Quy luật giá trị ở đâu cũng đóng vai trò đào thải cái kém, cái lạc hậu kích thích các nhân tố tích cực phát triển. Mặt khác tạo ra bất bình đẳng trong xã hội. Chương 2: Thực trạng sự vận dụng quy luật giá trị ở nước ta và các giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn quy luật giá trị trong thời gian tới 1. Kinh tế nước ta và một số vấn đề về vận dụng quy luật giá trị trước đổi mới. Sau ngày giải phóng miền Nam 30/4/1975 đất nước ta hoàn toàn độc lập thống nhất. Cả nước bắt tay vào xây dựng kinh tế đất nước sau chiến tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Chúng ta dần dần thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trên cả hai miền Nam Bắc. Trong quá trình đó chúng ta đã vận dụng mô hình kinh tế tập trung của Liên Xô (cũ). Với cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp mà đặc trưng là nhà nước trực tiếp điều khiển nền kinh tế bằng hệ thống các chỉ tiêu pháp lệnh : chỉ tiêu về sản lượng, về thu nhập, về nộp ngân sách, và tiêu thụ, về vốn và lãi suất, tín dụng ngân hàng… Trong thời gian này chúng ta đã phạm phải một số sai lầm trong nền kinh tế : dù thực tế vẫn thừa nhận sản xuất hàng hoá, thừa nhận quan hệ hàng hoá thị trường nhưng thực chất đó chỉ là kinh tế hàng hoá một thành phần- thành phần xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức toàn dân và tập thể. Với tên gọi “ kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa “ về thực chất là kinh tế chỉ huy đã làm cho các phạm trù của kinh tế hàng hoá vốn sống động và nhạy cảm như giá trị, giá cả, lợi nhuận … bị hình thức hoá đến cao độ, không phản ánh các quy luật của thị trường, không còn nội dung kinh tế hàng hoá nữa. Quy luật giá trị khi đó đã không được nhận thức đúng đắn về nội dung và bản chất. Trên thị trường chúng ta duy trì hệ thống giá cả chỉ đạo của nhà nước trên cơ sở lấy giá thóc sản xuất trong nước làm căn cứ xác định giá chuẩn và tỉ lệ trao đổi hiện vật. Hầu hết hàng hoá và dịch vụ lưu thông trong xã hội đều theo giá chỉ đạo của nhà nước. Ví dụ giá gạo theo quy định là 0,4 đồng/kg, bán theo định lượng Vai trò quản lí của nhà nước về giá trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Trang 27 . Trên thị trường có hai hệ thống giá cả : giá của nhà nước áp dụng trên thị trường có tổ chức và thị trường tự do biến động theo cung cầu. giá chỉ đạo không liên quan đến quan hệ cung cầu và rất ít biến đổi. Giá chỉ đạo không quan hệ với giá thị trường và giá trên thế giới. Tỉ giá ở khu vực I áp dụng từ năm 1958-1980 vẫn là 5,644 đ/rup (tỉ giá kết toán nội bộ) Vai trò quản lí của nhà nước về giá trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Trang 27 . Đây chính là cơ sở quan trọng để ổn định toàn bộ giá chỉ đạo nội địa mà thực chất là sự bao cấp qua giá tư liệu sản xuất. Trong thời kì này các cơ sở kinh tế quốc doanh hoạt động theo cơ chế cấp phát và giao nộp, lãi nhà nước nhờ, lỗ nhà nước chịu, không có cạnh tranh, phá sản. Những xí nghiệp làm ăn kém được nhà nước bù lỗ để duy trì sự tồn tại, ngược lại những xí nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì phải trích nộp ở mức cao số lợi nhuận thu được cho nhà nước để điều tiết sự chênh lệch thu nhập giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành và giữa các ngành khác nhau. Phương pháp quản lí trên đã vi phạm quy luật giá trị và là một trong những nguyên nhân gây ra sự trì trệ bảo thủ, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thực tế chúng ta phải chấp nhận rằng : khi thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì trong quan hệ kinh tế giữa các xí nghiệp phải có quan hệ cạnh tranh và hợp tác. Vì thế, những xí nghiệp làm ăn tốt thì có thu nhập cao còn các xí nghiệp làm ăn kém phải chịu thu nhập thấp hoặc chịu phá sản. Những phương pháp quản lí trên trong cơ chế quản lí tập trung đã gây ra những tác hại nghiêm trọng : thị trường tiếp tục bị phân hoá, hàng hoá ngày càng khan hiếm, chủ nghĩa bản vị, cục bộ phát triển mạnh cùng cơ chế cấp phát vật tư, tiền vốn theo chỉ tiêu kế hoạch đã kích thích các địa phương hình thành hàng loạt tổ chức kinh tế quốc doanh, hoạt động bất chấp hiệu quả kinh tế nhằm bòn rút, giành giật vốn liếng từ trung ương để kinh doanh, mua đi bán lại, ăn chênh lệch giá, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách địa phương. Để bảo vệ lợi ích cục bộ các chính quyền địa phương đã sử dụng các biện pháp “ ngăn sông cấm chợ” chia cắt thị trường theo địa giới hành chính làm cho lưu thông hàng hoá, tiền tệ bị ách tắc nghiêm trọng. Nhiều chỉ tiêu về kinh tế đạt tỉ lệ thấp, tăng trưởng bình quân của công nghiệp chỉ đạt 0,6%/năm đầu tư cho nông nghiệp tăng 14%/năm, nông nghiệp -0,9%/ năm, lâm nghiệp -11%/năm, tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng bình quân 1.4%. Tổng mức hàng hoá bán lẻ giảm 3,5%/năm, xuất khẩu không đáng kể. Trên thị trường xuất hiện tình trạng mức chênh lệch ngày càng lớn mặt bằng giá do nhà nước quy định và giá thị trường tự do, trong đó giá tự do cao gấp 7-8 lần do giá nhà nước quy định. Vai trò quản lí của nhà nước về giá trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Trang 31. Tất cả những yếu tố trên dẫn đến tình trạng tất yếu là kinh tế lâm vào khủng khoảng, suy thoái, đời sống của nông dân, công nhân viên chức, các lực lượng vũ trang giảm sút nghiêm trọng. Chính trong tình hình ấy xuất hiện yêu cầu cấp bách là đổi mới đường lối kinh tế nhằm đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái. 2. Tổng quan nền kinh tế nước ta sau đổi mới. Đứng trước yêu cầu của đổi mới tại đại hội lần VII Đảng ta đã khẳng định “phát triển nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa”-“ nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước bằng kế hoạch chính sách và các công cụ khác”. Đây là một chủ trương đúng đắn có cơ sở lí luận và thực tiễn. Thực hiện chủ trương này trong nhiều năm qua chúng ta kiên quyết xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp , phát triển kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Hiện nay nền kinh tế thị trường của nước ta còn ở trình độ kém phát triển, kinh tế còn ít nhiều mang tính tự cung tự cấp. Cơ sở vật chất kĩ thuật còn kém, trong nhiều ngành đã được trang bị máy móc kĩ thuật hiện đại , tuy vậy vẫn còn nhiều ngành máy móc cũ kĩ, công nghệ lạc hậu. Việt Nam đang ở trình độ lạc hậu 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu đến 2-3 thế hệ, vì thế năng suất lac động của nước ta chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới. Nền kinh tế nước ta vẫn chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ. Nông nghiệp sử dụng khoảng 70% lực lượng lao động nhưng chỉ sản xuất khoảng 26% GDP Giáo trình kinh tế chính trị Mac-Lenin \. Trang 382 . Trong nền kinh tế có nhiều thành phần tham gia, thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ. Sự hình thành thị trường trong nước gắn liền với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế – kĩ thuật của nước ta còn kém phát triển so với các nước khác. Trong quản lí kinh tế còn bộc lộ nhiều yếu kém : “ hệ thống luật pháp cơ chế chính sách chưa đồng bộ nhất quán và chưa nghiêm” Đảng cộng sản Việt Nam: văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Trang 66 Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng thực tế những năm đổi mới đã chứng minh việc chuyển sang cơ chế thị trường nhiều thành phần là đúng đắn. Nhờ phát triển kinh tế hàng hoá chúng ta đã bước đầu khai thác và được tiềm năng trong và ngoài nước, thu hút được vốn và kĩ thuật, công nghệ của nước ngoài, giải phóng lực lượng sản xuất góp phần quyết định vào việc đảm bảo tăng trưởng kinh tế vơi nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua. - Chúng ta đã đạt được một số thành tựu quan trọng : lạm phát từ ba con số/năm trong những năm 1986-1980 giảm xuống hai con số/năm trong các năm 1991-1995 và xuống một con số từ 1996 đến nay. Giá cả tương đối ổn định trong các năm qua, lạm phát ở mức kiểm soát và kích thích đầu tư, phân bổ và sử dụng hợp lí tài nguyên của đất nước. - Môi trường đầu tư của Việt Nam được đánh giá là an toàn trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam đang là điểm đến an toàn của các nhà đầu tư nước ngoài và các khách du lịch. 3. Thực trạng vân dụng quy luật giá trị ở nước ta trong thời gian vừa qua và vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường. Nền sản xuất của nước ta hiện nay đang ở trong quá trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được xây dựng trên cả nước, sản xuất chuyển dần từ tính tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hoá xã hôi chủ nghĩa. Cở sở khách quan của sự hoạt động của quy luật giá trị vẫn còn tồn tại. Quy luật giá trị còn hoạt động và tác dụng trên phạm vi rộng và trong thời gian dài. Vai trò và phạm vi hoạt động của nó biến đổi từng thời kì cùng với sự chuyển biến của quan hệ sản xuất, của lực lượng sản xuất, sự phát triển và phân công lao động xã hội. Vì thế chúng ta cần nhận thức đúng quy luật giá tri, tự giác vân dụng quy luật giá trị và các phạm trù kinh tế gắn liền với quy luật giá trị như : tiền tệ, giá cả, tín dụng… để kích thích sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, thúc đẩy nền kinh tế tiến nhanh trên con đường chủ nghĩa xã hội. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của quy luật giá trị nên tại đại hội lần IV của Đảng đã chỉ rõ : “ Phải coi trọng giá trị và quy luật giá trị đang tồn tại một cách khách quan trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Phải vận dụng quy luật giá trị cùng nhiều đòn bẩy kinh tế khác để tăng cường quản lí kinh tế tài chính khuyến khích lao động và thúc đẩy tăng năng suất lao động, giảm hao phí lao động, vật tư , máy móc trong từng đơn vị sản phẩm, bảo đảm làm ra được giá trị sử dụng nhiều nhất với mức chi phí ít nhất. “ Báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương Đảng tại đại hội đại biểu toàn quốc lầnIV. Tr 61 Việc vận dụng quy luật giá trị vào sản xuất cần có các phòng tránh những hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra nếu không nhận thức được quy luật giá trị, không chủ động vận dụng nó một cách có kế hoạch mà để nó tự phát tác động. Tình trạng đó có thể xảy ra là do quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được xác lập, vai trò điều tiết của quy luật giá trị với nền kinh tế không còn nhưng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chưa được hoàn thiện, ngoài ra còn có các nguyên nhân khác làm quy luật giá trị có thể tác động tự phát. Do đó để hạn chế những hiện tượng tiêu cực do tác động của quy luật giá trị gây ra cần củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa xã hội, hoàn thiện quản lí kinh tế, quản lí thị trường… Trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay, các quy luật kinh tế của thị trường phát sinh và phát triển gắn với sự phát sinh và phát triển của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa không làm thay đổi bản chất của các quy luật kinh tế đó. Sự phát triển của sức sản xuất rất khác nhau của các nền kinh tế ở các quốc gia chỉ làm cho hoạt động của quy luật mang nhiều màu sắc mà thôi. Các quy luật kinh tế của thị trường có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó quy luật giá trị có vai trò quan trọng nhất. Nó tác động đến giá cả, đến các yếu tố thị trường theo các chiều hướng khác nhau, thông qua sự vận động của giá cả mà quy luật giá trị phát huy tác dụng. Giá cả là tín hiệu của cơ chế thị trường. Trên thị trường người mua luôn muốn ép giá thị trường với mức thấp nhất nhằm tối đa hoá lợi ích của mình. Ngược lại người bán do muốn tối đa lợi ích nên ép cho giá cả tăng, quy luật giá trị ở đây tác động tới người bán theo hướng thúc đẩy họ nâng giá thị trường lên cao. Dựa trên đặc điểm tác động của quy luật giá trị tới giá cả, đồng thời thực hiện yêu cầu của công cuộc đổi mới, trong thời gian qua chúng ta đã thực hiện một số chính sách về giá nhằm vận dụng quy luật giá trị vào trong nền kinh tế. Đó chính là sự quản lí của nhà nước về giá, sự quản lí đó thể hiện sự nhận thức và vận dụng quy luật trong kinh tế thị trường của nhà nước ta. Có thể nói hình thức vận dụng quy luật giá trị tập trung nhất là khâu hình thành giá. Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, là sự biểu hiện của quy luật giá trị. Khi xác định giá cả phải lấy giá trị làm cơ sở, phản ánh những hao phí về vật tư và lao động để sản xuất hàng hóa. Giá cả phải bù đắp chi phí sản xuất hợp lí, tức là đủ bù đắp giá thành sản xuất, đồng thời phải đảm bảo một mức lãi thích hợp để tái sản xuất mở rộng, đó là nguyên tắc phổ biến áp dụng cho mọi quan hệ trao đổi, quan hệ giữa các xí nghiệp quốc doanh với nhau, cũng như nhà nước với nông dân. Về đại thể, giá cả phải góp phần giải quyết một số vấn đề lớn: thúc đẩy sản xuất phát triển theo yêu cầu của kế hoạch nhà nước trong từng thời kì, tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của đất nước, góp phần giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích luỹ với tiêu dùng, phân phối thu nhập quốc dân vv…. Để đáp ứng các yêu cầu đó, trong thời gian qua chúng ta đã thực hiện một số chính sách về giá. Nước ta đã hai lần thực hiện cải cách lớn về giá nhằm thay đổi những phương thức cơ bản trong việc định giá. Cuộc cải cách lần thứ nhất vào giai đoạn 1981-1982, nội dung chính của cải cách lần này là : tập trung khôi phục sức sản xuất, ổn định nền tài chính quốc gia, cải tiến lưu thông hàng hoá, cải cách hệ thống giá bán lẻ và giá thu mua theo nguyên tắc giá cả phù hợp với chi phí sản xuất và lưu thông, cải cách hệ thống giá bán buôn và hoàn thiện hệ thống phân phối lưu thông…. Nội dung chỉ đạo cuộc cải cách lần này dựa trên cơ sở đổi mới tư duy về giá song hạn chế là cải cách vẫn chỉ là giá do nhà nước quy định. Trước những hạn chế của lần cải cách lần thứ nhất, chúng ta tiến hành cuộc cải cách giá lần thứ hai vào năm 1985 với tính chất toàn diện và sâu sắc hơn mà nội dung chính là thực hiện cơ chế một giá, nhà nước quy định lấy giá thóc làm chuẩn để tính các loại giá khác và toàn bộ mặt bằng giá. Cuộc cải cách lần này đã thể hiện một tư duy kinh tế mới của Đảng và nhà nước ta trong việc vận dụng quy luật giá trị. Tuy nhiên nó cũng còn một số tồn tại nhất định mà do vậy đã là nguyên nhân trực tiếp gây kích động lạm phát phi mã như trong các năm 1986-1988. Những thay đổi trên thực sự có ý nghĩa bắt đầu từ năm 1987 ( tháng 11-1987 có quyết định 217/HĐBT ) với tư tưởng tiến hành từng bước nhỏ, xoá bao cấp qua giá gắn liền với bao cấp qua vốn và đổi mới cơ chế quản lí xí nghiệp. Trước hết là xoá bỏ cơ chế nhà nước định giá nông sản, giá bán tư liệu sản xuất nông nghiệp, chuyển sang cơ chế thoả thuận, có quy định khung giá …hệ thống bán lẻ cũng được tiến hành cải tiến với việc thả nổi bộ phận lớn giá bán hàng công nghiệp tiêu dùng, thả nổi gần như toàn bộ hệ thống giá bán lẻ kể cả giá lương thực… hệ thống giá bán buôn được cải cách thận trọng hơn cùng quá trình thương mại hoá vật tư diễn ra chậm chạp. Kết quả là phần lớn giá vật tư đã được thương mại hoá. Trong giai đoạn hiện nay nhà nước đã chính thức rời bỏ quyền can thiệp trực tiếp định giá các hàng hoá trong nền kinh tế mà thay vào đó chỉ định giá các mặt hàng mang tính chiến lược và độc quyền như : điện, nước, xi măng, sắt thép…thị trường chính là nơi có quyền định giá tốt nhất cho các hàng hoá. Kết quả của những thay đổi đó là quá trình chuyển đổi từ cơ chế hai giá sang một giá, từ cơ chế giá nhà nước sang giá thị trường. Điểm quan trọng của nó là : nếu như giá nhà nước đặt ra ít có quan hệ với giá trị, không quan hệ gì với cung cầu, bỏ qua việc tính chi phí sản xuất, vi phạm quy luật giá trị thì cơ chế một giá dựa theo thị trường đã đáp ứng đòi hỏi những yêu cầu của quy luật giá trị. Việc định giá theo giá thị trường ngoài tính đến giá trị của hàng hoá còn tính đến các yếu tố như cung cầu, cạnh tranh, tiền tệ… Nhà nước ngoài ra còn thực hiện việc bình ổn giá cả thị trường. Đây là công việc hết sức mật thiết với nhiệm vụ kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, chống hiện tượng các chủ thể sản xuất tự động tăng giá, vượt quá xa giá trị hàng hoá, gây rối thị trường. Nhà nước thành lập ban vật giá chính phủ ngày 26/10/1992. những nhiệm vụ quyền hạn của ban vật giá chính phủ là : nghiên cứu, soạn thảo cơ chế chính sách và các văn bản quy định việc quản lí nhà nước về giá, các giải pháp bình ổn giá, trình chính phủ quyết định để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế xã hội, tiến hành các công việc liên quan đến giá như : quản lí giá, điều tra chi phí sản xuất, phân tích và dự báo chỉ số giá, nghiên cứu khoa học và thông tin về giá, thanh tra, kiểm tra, các đơn vị và các cá nhân về việc chấp hành các quy định về quản lí giá. Nhà nước còn thực hiện việc đăng kí giá, niêm yết giá đối với các hàng hoá trên thị trường. Các doanh nghiệp được nhà nước trao cho quyền tự quyết định mức giá cụ thể với những mặt hàng không thuộc diện nhà nước định giá. Nguyên tắc chung là lấy quy luật giá trị làm cơ sở cho định giá. Mức giá phải dựa trên cơ sở chính là giá trị của hàng hoá, sau đó là tính đến các nhân tố có ảnh hưởng khác như : cạnh tranh, cung cầu, tiền tệ…. Nếu các doanh nghiệp không thoả thuận được giá cụ thể mà có sự độc quyền thì cơ quan quản lí của nhà nước sẽ đứng ra hiệp thương giá đồng thời có cơ chế khuyến khích đăng kí giá, niêm yết giá để mua bán trên thị trường để quá trình mua bán trên thị trường được diễn ra thuận lợi. Để hạn chế sự biến động giá nhà nước sử dụng chính sách đòn bảy kinh tế, lôi cuốn tất cả các đơn vị sản xuất hoạt động theo định hướng của nhà nước. Để chủ động thực hiện tốt công tác bình ổn giá, thủ tướng chính phủ có Quyết định số151-TTg ngày 12/4/1993 về việc hình thành, sử dụng và quản lí quỹ bình ổn giá. Quỹ bình ổn được hình thành và sử dụng nhằm giữ giá các mặt hàng chủ yếu cho sản xuất và thị trường ổn định, góp phần kiềm chế lạm phát, tạo môi trường kinh tế an toàn cho các chủ thể sản xuất-kinh doanh và ngoài nước yên tâm bỏ vốn vào đầu tư sản xuất, phát triển kinh tế nhằm ổn định kinh tế xã hội. Ngoài vận dụng vận dụng quy luật giá trị trong khâu giá cả, chúng ta đã vận dụng nó trong cả lĩnh vực sản xuất. Nền kinh tế nước ta không chịu sự điều tiết của quy luật giá trị mà chịu sự chi phối của các quy luật của kinh tế cơ bản của sản xuất chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên quy luật giá trị không phải không có ảnh hưởng đến sản xuất. Hiện nay nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần. Trong các thành phần kinh tế khác nhau, ảnh hưởng của quy luật giá trị khác nhau. Nhà nước chủ động vận dụng quy luật giá trị vào lĩnh vực sản xuất, kích thích các cơ sở sản xuất cải tiến kĩ thuật, công tác quản lí để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Nhà nước tăng cường hoạt động kinh tế đối ngoại nhằm mở rộng giao lưu hợp tác kinh tế với các nước khác, từ đó học hỏi và tiếp thu kinh nghiệm, khoa học kĩ thuật để áp dụng vào sản xuất trong nước… Ngoài ra quy luật giá trị được dùng làm cơ sở cho việc thực hiện chế độ hạch toán kinh tế trong sản xuất, kinh doanh. Các cấp quản lí cùng các ngành sản xuất, các đơn vị sản xuất ở cơ sở khi đặt kế hoạch hay thực hiện kế hoạch kinh tế đều phải tính đến giá thành, quan hệ cung cầu, để định lượng kết cấu, quy cách sản phẩm. Một vấn đề có ý nghĩa quan trọng là việc dùng hình thức giá trị trong hạch toán kinh tế là để tính toán lao động xã hội, nhằm tiết kiệm lao động sống và lao động quá khứ đến mức cao nhất. Trong khu vực kinh tế quốc doanh, tác động của quy luật giá trị hạn chế ở chỗ nó được vận dụng chủ yếu vào tính toán, nhằm đạt yêu cầu cao nhất của quản lí kinh tế là tiết kiệm lao động và giảm tiêu hao vật chất, tức là đạt hiệu quả kinh tế cao nhất trong kinh doanh. Trong khu vực kinh tế tập thể, quy luật giá trị còn có tác dụng điều tiết sản xuất một chừng mực nhất định. Trong thành phần kinh tế quy luật giá trị còn có tác dụng điều tiết sản xuất nhiều hơn. Ngày nay, một trong số các công cụ quản lí vĩ mô của nhà nước về kinh tế là kế hoạch. Kế hoạch vĩ mô quy định mục tiêu cơ bản của phát triển kinh tế-xã hội trong một thời kì nhất định, quy định hàng loạt chỉ tiêu quan trọng về tốc độ, tỉ lệ hiệu quả, bước đi cơ bản của sự điều tiết vĩ mô của nhà nước theo quỹ đạo và mục tiêu đã định. Trong nền kinh tế thị trư._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35690.doc