Quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay

Đặt vấn đề Sau khi hoàn thành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc vĩ đại, Đảng và Bác Hồ đã sáng suốt lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa để xây dựng và phát triển đất nước. Nhưng đó là con đường không trải thảm êm, ta đã vấp phải những khó khăn thử thách không lường trước được. Rập khuôn máy móc mô hình kinh tế " quan liêu bao cấp" của Liên Xô. Nền kinh tế ngày càng trở nên chậm phát triển, khủng hoảng trì trệ sa sút và tụt hậu. Chế độ phân phối tem phiếu đem lại cho người dân cuộc sống chật vật

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1449 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, thiếu thốn, người sản xuất quen thói ỷ lại cộng thêm những cán bộ cửa quyền, quan liêu làm bộ máy Nhà nước làm việc kém hiệu quả, làm cho nền kinh tế của nước ta thời kỳ đó đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Đứng trước những sai lầm và khó khăn của đất nước, yêu cầu đổi mới được đặt ra. Năm 1986 đất nước ta bắt đầu đổi mới nền kinh tế, xây dựng con đường phát triển riêng của mình: "nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước". Đi trên con đường riêng bằng đôi chân của chính mình quả là một thử thách khó khăn của đất nước. Bởi lẽ nền kinh tế thị trường là đặc trưng cơ bản của kinh tế tư bản chủ nghĩa, đối lập hẳn với kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vậy mà chúng ta dám nghĩ, dám làm, đi tắt với quy luật phát triển tự nhiên của quan hệ sản xuất ( từ phong kiến đến tư bản chủ nghĩa đến Xã hội chủ nghĩa )từ phong kiến đến Xã hội chủ nghĩa. Để thành công trên con đường ấy, sự hiểu biết về các quy luật kinh tế căn bản của thị trường là một điều tối cần thiết ( để giúp cho Nhà nước có sự quản lý đúng hướng cho nền kinh tế, tránh chệch bước sang Tư bản chủ nghĩa). Các quy luật kinh tế cơ bản thể hiện sự vận động thay đổi về giá cả hàng hoá, lượng cung, lượng cầu hàng hoá trên thị trường và các yếu tố khác... cũng như vậy, quy luật giá trị góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá, phân phối thu nhập công bằng cho ngời lao động. Tuy nhiên cái gì cũng có mặt trái của nó. Quy luật giá trị tạo ra hiện tượng dư thừa làm lãng phí lao động xã hội, phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo... Quy luật giá trị như một con dao hai lưỡi, khéo vận dụng thì thành công, kém vận dụng thì "đứt tay", phản tác dụng, nền kinh tế đã bi đát sẽ càng bi đát hơn. Nghiên cứu sự hoạt động của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường nước ta rất phức tạp và đa dạng, bởi lẽ kinh tế không hoạt động trong môi trường quen thuộc tư bản chủ nghĩa của nó mà trong một môi trường mới, hoàn toàn trái ngược là xã hội chủ nghĩa. Do đó để giải quyết vấn đề này, tôi xin trình bày đề tài "Quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay" theo những phần sau: Phần một: Đặt vấn đề. Phần hai: Giải quyết vấn đề. Chương một: Nội dung của quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế hàng hoá. Chương hai: Thực trạng vận dụng quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Chương ba: Những giải pháp nhằm vận dụng tốt quy luật giá trị ở nước ta trong thời gian tới. Phần ba: Kết thúc vấn đề. Giải quyết vấn đề Chương 1: Nội dung của quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế hàng hoá. 1.1) Nội dung của quy luật giá trị: 1.1.1) Sản xuất hàng hoá và điều kiện tồn tại của nó: Trải qua các hình thái xã hội khác nhau (từ công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, đến tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa) nền kinh tế loài người cũng chuyển từ các hình thức sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá.Hình thức sản xuất tự cung tự cấp thích ứng với thời kỳ lực lượng sản xuất chưa phát triển, sản phẩm của hình thức sản xuất này chỉ để thoả mãn các nhu cầu tiêu dùng của chính người sản xuất và nội bộ gia đình họ...Xã hội càng phát triển,lực lượng sản xuất càng phát triển thì nhu cầu tiêu dùng hàng hoá của con người về số lượng và chủng loại sản phẩm ngày càng cao do đó sản xuất tự cung tự cấp không còn phù hợp, bởi lẽ một người sản suất không thể tạo ra tất cả các sản phẩm mà anh ta muốn tiêu dùng.Nhu cầu trao đổi hàng hoá phát sinh, đồng thời lực lượng sản xuất và phân công lao động được mở rộng, trao đổi hàng hoá dần dần xuất hiện.Khi trao đổi hàng hoá trở thành mục đích của sản xuất thì sản xuất hàng hoá ra đời. “Sản xuất hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để bán trên thị trường.Trong kiểu tổ chức kinh tế này, toàn bộ quá trình sản xuất-phân phối-trao đổi-tiêu dùng, sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai đều thông qua việc mua bán, thông qua hệ thống thị trường và do thị trường quyết định Giáo trình kinh tế chính trị - tập 1 - trang 35 - NXB giáo dục - 1998 . Cơ sở cho sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá là sự phân công lao động và chế độ tư hữu tư liệu sản xuất. “Phân công lao động xã hội là việc phân chia người sản xuất vào những ngành nghề khác của xã hội.Hoặc nói một cách khác đó là chuyên môn hoá sản xuất.” Giáo trình kinh tế chính trị - tập 1 - trang 35 - NXB giáo dục - 1998 Thật vậy, đối với một người sản xuất, anh ta không thể cùng một lúc sản xuất ra nhiều mặt hàng đa dạng được (bởi lẽ có sự giới hạn về tư liệu sản xuất, khả năng sản xuất và sự hiểu biết cần thiết để sản xuất ra các mặt hàng...).Tuy nhiên, nếu anh ta chỉ tập trung sản xuất vào một hoặc một vài mặt hàng nhất định, anh ta chỉ cần một lượng tư liệu sản xuất giới hạn, và sự hiểu biết để sản xuất ra mặt hàng của mình...do đó vừa tập trung để sản xuất, vừa nâng cao cả về mặt chất và lượng sản phẩm của mình.Xã hội có sự phân công lao động sẽ có ngày càng nhiều các mặt hàng phong phú về chủng loại,số lượng và chất lượng ngày càng được nâng cao, sản xuất được mở rộng, kinh tế phát triển. Để có được sự phân công lao động xã hội ấy phải có sự tách biệt về kinh tế giữa người sản xuất này với người sản xuất khác do các quan hệ sở hữu khác về tư liệu sản xuất quy định, hay nói cách khác là chế độ tư hữu tư liệu sản xuất.Thật vậy, có chế độ tư hữu tư liệu sản xuất,những người sản xuất có tư liệu sản xuất của riêng mình,tách biệt nhau, thì họ mới có thể đi vào chuyên môn hoá sản xuất được. Do đó họ có quyền sử dụng tư liệu sản xuất, sản xuất ra sản phẩm của mình và đem trao đổi cho những người tiêu dùng cần đến nó, để lấy những sản phẩm mình cần. Sự tách biệt trong kinh tế ở đây chỉ là sự tách biệt trong sản xuất, còn trong luưu thông và tiêu dùng mối liên hệ trao đổi sản phẩm lại phải chặt chẽ và phụ thuộc nhau. Thật vậy, do phân công lao động xã hội nên mỗi người chỉ sản xuất một hoặc một vài sản phẩm nhất định. Thế nhưng, có những sản phẩm ta rất cần mà lại không thể sản xuất được, và cũng có những người rất cần tiêu dùng đến sản phẩm của ta mà họ không sản xuất được. Do đó, ta buộc phải trao đổi hàng hoá với những người đó, để thoả mãn nhu cầu cả hai bên. Mối quan hệ trao đổi này phải chặt chẽ, thường xuyên và phụ thuộc nhau. Ví dụ trong điều kiện sản xuất tự cung tự cấp, một gia đình nông dân vừa trồng lúa, vừa tạo ra các công cụ đồng áng như cày, bừa, cuốc, liềm...Khi có sự phân công lao động xã hội và tư hữu tư liệu sản xuất, người nông dân chuyển sang chuyên môn hoá việc trồng lúa. Còn các công cụ đồng áng được thợ rèn chuyên môn hoá sản xuất. Tuy nhiên, người nông dân không thể trồng lúa mà thiếu các nông cụ, cũng như người thợ rèn không thể sống bằng cuốc, xẻng, cày, bừa...Do đó người nông dân và thợ rèn tìm đến và trao đổi hàng hoá cho nhau. Mối quan hệ trao đổi này là chặt chẽ và phụ thuộc nhau. Như vậy, trong điều kiện xã hội có sự phân công lao động sản xuất và có chế độ tư hữu tư liệu sản xuất thì sản xuất hàng hoá sẽ ra đời và tồn tại. Hàng hoá và hai thuộc tính của nó Hàng hoá là sản phẩm lao động của con người. Trước đây, trong nền kinh tế tự cung tự cấp, sản phẩm do lao động tạo ra chỉ nhằm 1 mục đích là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của người sản xuất ra nó, nhưng trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, sản phẩm ấy không chỉ để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của con người mà còn để trao đổi, buôn bán và được gọi chung là hàng hoá. Đã là hàng hoá thì phải có hai thuộc tính là “giá trị sử dụng” và “giá trị”. Giá trị sử dụng là tính hữu ích của vật phẩm, làm cho nó có công dụng nhất định với con người. Ví dụ: bút viết, dép để đi, quần áo để mặc...Giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn. Một sản phẩm đã là hàng hoá thì nhất thiết phải có giá trị sử dụng. Nhưng không phải bất cứ cái gì có giá trị sử dụng cũng là hàng hoá. Không khí rất cần cho sự sống nhưng không ai mua bán không khí vì nó không phải là hàng hoá. Sở dĩ không khí không phải là hàng hoá vì không ai lao động tạo ra không khí, tức là không khí không chứa đựng lao động của con người nên nó không có giá trị. Ngược lại, thóc gạo có giá trị vì con người phải tốn nhiều lao động mới tạo ra được chúng. Hao phí lao động do con người tạo ra là cơ sở để xác định giá trị của hàng hoá. Ta hãy xen xét ví dụ: “1 chiếc rìu đổi lấy 20kg thóc”1 Giáo trình kinh tế chính trị - đại học KTQD-NXB giáo dục - 1998, trang 39 2 Giáo trình kinh tế chính trị - đại học KTQD-NXB giáo dục - 1998, trang 39 . Có hai câu hỏi đặt ra là: rìu và thóc có giá trị sử dụng khác nhau sao lại trao đổi được cho nhau và tại sao lại là theo tỉ lệ 1:20. Thực ra cả thóc và rìu đều có chung 1 cơ sở: chúng là sản phẩm của lao động. “Giá trị lao động của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá” . Do đó, ta có thể lấy hao phí lao động sản xuất ra thóc và rìu làm cơ sở so sánh. Người ta cho rằng hao phí lao động sản xuất ra 1 chiếc rìu bằng hao phí lao động sản xuất ra 20kg thóc; tức là giá trị trao đổi của 1 chiếc rìu bằng giá trị trao đổi của 20kg thóc. Giá trị trao đổi trước hết là tỉ lệ mà lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với lượng của giá trị sử dụng khác1 Giáo trình kinh tế chính trị- ĐH KTQD - NXB Giáo dục - 1998, trang 39 . Cơ sở quyết định giá trị trao đổi của hàng hoá là giá trị của nó. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị. Giá trị của hàng hoá do lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá tạo nên. Giá trị là biểu hiện quan hệ sản xuất xã hội giữa những người sản xuất hàng hoá với nhau bởi vì thực chất hoạt động trao đổi là sự so sánh lao động giữa những người sản xuất với nhau. Giá trị là một phạm trù lịch sử, nó gắn liền với nền kinh tế hàng hoá. Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì còn tồn tại phạm trù giá trị. Giá trị sử dụng và giá trị là hai thuộc tính của hàng hóa. Hàng hoá được thể hiện như là một sự thống nhất chặt chẽ nhưng lại mâu thuẫn giữa hai thuộc tính này. Nội dung, yêu cầu của quy luật giá trị. Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì chừng đó còn quy luật giá trị. Nội dung, yêu cầu của quy luật này là trong sản xuất và lưu thông hàng hoá phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết của hàng hoá, cụ thể là trong sản xuất hàng hoá, hao phí lao động cá biệt phải phù hợp với thời gian lao động xã hội cần thiết (nhỏ hơn hoặc bằng). Trong kinh tế hàng hoá, vấn đề quan trọng là hàng hoá sản xuất ra có bán được hay không? Để hàng hoá có thể bán được thì hao phí lao động cá biệt phải phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là phải phù hợp với mức hao phí mà xã hội có thể chấp nhận được. Như đã nói ở phần 1.1.2, trao đổi hàng hoá cũng phải dựa vào thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết. Hai hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau sẽ trao đổi được vói nhau khi hao phí lao động của người sản xuất ra chúng là bằng nhau (nói cách khác, lượng giá trị của chúng bằng nhau). Tức là trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá. Quy luật giá trị là trừu tượng. Nó hoạt động thông qua sự biến động giá cả ở trên thị trường bởi vì giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị. Những hàng hoá mà hao phí lao động để sản xuất ra nó nhiều thì giá trị của nó lớn và do vậy giá cả của nó trên thị trường sẽ cao và ngược lại. Ngoài ra giá cả còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác, như quan hệ cung cầu, tình trạng độc quyền trên thị trường...qua đó biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị. Thực vậy, quy luật giá trị với tư cách là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá, đã tạo ra cho người mua và người bán những động lực cực kì quan trọng. Trên thị trường, người mua bao giờ cũng muốn tối đa hoá lợi nhuận , và do đó bao giờ cũng muốn bán với giá cao. Để tồn tại và phát triển, những người bán một mặt phải cố gắng giảm chi phí (nhất là ở các giai đoạn chưa đưa hàng hoá ra thị trường) để chi phí cá biệt bằng hay nhỏ hơn chi phí xã hội trung bình. Mặt khác họ lại tranh thủ tối đa các điều kiện của thị trường để bán với giá cao nhất, nhằm tối đa hoá lợi nhuận sự chênh lệch giữa chi phí sản xuất hàng hoá và giá bán sẽ mang lại lợi nhuận cho họ. Chi phí cá biệt sản xuất hàng hoá càng nhỏ hơn chi phí xã hội trung bình và giá bán hàng hoá càng lớn hơn chi phí xã hội trung bình thì lợi nhuận của người bán càng lớn. Như vậy, xét về phương diện này, quy luật giá trị đã tác động tới người bán theo hướng thúc đẩy họ nâng giá thị trường lên cao. Tuy nhiên giá cả có thể lên xuống xoay quanh giá trị nhưng trong toàn bộ nền kinh tế, xét ở một thời kỳ dài, thì tổng giá cả bằng tổng giá trị. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong điều kiện tự do cạnh tranh và độc quyền: Thực tiễn đã chứng minh rằng, một nền kinh tế thị trường sẽ phát triển bình thường nếu cạnh tranh được đảm bảo và độc quyền được đảm bảo ở mức cần thiết. Vấn đề cực kỳ quan trọng là phải tuân thủ quy luật vận động khách quan của thị trường. Mọi biện pháp áp đặt trong việc xử lý vấn đề cạnh tranh và độc quyền không phù hợp với sự vận động khách quan của thị trường chắc chắn sẽ nhận lấy những thất bại và gây tổn hại cho nền kinh tế quốc dân. Cạnh tranh và độc quyền là điều không tránh khỏi trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Vì thế, biểu hiện của quy luật giá trị trong điều kiện cạnh tranh và độc quyền là điều cần được đề cập tới. Quy luật giá trị trong điều kiện tự do cạnh tranh Cạnh tranh là động lực, và cũng là một trong những nguyên tắc cơ bản, tồn tại khách quan và không thể thiếu được của sản xuất hàng hoá. Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa những người tham gia sản xuất-kinh doanh với nhau nhằm giành những điều kiện thuận lợi trong sản xuất kinh doanh, tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Mục tiêu của nó là giành lợi ích, lợi nhuận lớn nhất, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của những người tham gia cạnh tranh. Cạnh tranh bao gồm việc cạnh tranh để chiếm các nguồn nguyên liệu, các nguồn lực sản xuất , hay cạnh tranh về khoa học công nghệ, cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, giành nơi đầu tư, các hợp đồng, đơn đặt hàng…, cạnh tranh bằng giá cả, bằng chất lượng hàng hoá, dịch vụ và phương thức thanh toán, thủ đoạn kinh tế… Cạnh tranh có nhiều loại: cạnh tranh giữa người mua và người bán, cạnh tranh giữa những người bán với nhau, cạnh tranh trong nội bộ ngành, cạnh tranh giữa các ngành hay trong giới hạn quốc gia, quốc tế… Mục đích của những người tham gia trao đổi hàng hoá trên thị trường là cùng nhau chọn ra được một mức giá phù hợp, thoả mãn cả người mua và người bán. Người mua sẽ mua được hàng hoá ở mức giá thấp nhất có thể, và người bán sẽ bán được hàng hoá ở mức giá cao nhất có thể. Vậy cái gì quyết định giá cả của hàng hoá? ở đây không chỉ đơn thuần là sự mặc cả, thoả thuận về giá, mà chính là sự cạnh tranh giữa những người mua và bán, là tương quan giữa số cung và số cầu. Sự cạnh tranh quyết định giá cả hàng hoá. Thực vậy, giả sử có nhiều người cùng bán một thứ hàng hoá. Nêú ai có giá bán rẻ hơn ( đôi khi chất lượng lại cao hơn nữa), thì chắc chắn sẽ bán được nhiều hàng hoá nhất và chiếm được thị trường. Do đó, giữa những người bán có sự cạnh tranh gay gắt. Ai cũng muốn bán được, bán được thật nhiều, và nếu có thể thì chỉ có một mình mình bán thôi, không cho ai bán cả. Vì thế nên người này bán rẻ hơn người kia. Do đó mà giữa những người bán với nhau, có một sự cạnh tranh khiến cho giá cả hàng hoá họ đem bán hạ xuống. Nhưng giữa những người bán với nhau cũng có một sự cạnh tranh làm cho giá cả hàng hoá lên cao. Những người mua sẵn sàng trả với giá cao hơn nhau một chút để mua được sản phẩm tốt hơn người kia, và do đó, giá bán hàng hoá được đẩy lên cao. Cuối cùng có một sự cạnh tranh giữa những người bán và người mua.Người mua thì muốn mua cho thật rẻ, người bán thì muốn bán cho thật đắt. Kết quả là giá bán của hàng hoá được nâng lên, hạ xuống và cuối cùng dừng lại ở một mức giá phù hợp cho cả người mua và bán.Tuy nhiên mức giá ấy có lợi cho ai hơn thì phải xem sự cạnh tranh của bên nào mạnh hơn. Hiển nhiên, giá cả hàng hoá không chỉ do quy luật cạnh tranh quyết định. Giá cả hàng hoá còn phụ thuộc vào chi phí sản xuất, vào lượng cung cầu hàng hoá, chi phí lao động xã hội tạo ra nó… Hãy xét mối quan hệ cung – cầu và giá cả thị trường. Quan hệ giữa cung và cầu là quan hệ giữa những người bán và những người mua, giữa những người sản xuất và những người tiêu dùng, là những quan hệ có vai trò quan trọng trong kinh tế hàng hoá. Không chỉ có giá cả ảnh hưởng tới cung và cầu, mà quan hệ cung – cầu cũng ảnh hưởng tới việc xác định giá cả trên thị trường. Thực vậy, trong điều kiện cạnh tranh của thị trường, cung và cầu thường xuyên muốn ăn khớp với nhau, nhưng chính vì thế mà từ xưa tới nay chưa hề ăn khớp nhau. Cả hai cứ tách ra và đối lập hẳn với nhau. Cung luôn bám sát cầu, nhưng từ trước tới nay, không phải lúc nào cũng thoả mãn chính xác được cầu. Khi cung lớn hơn cầu, người bán phải giảm giá, giá cả có thể thấp hơn giá trị hàng hoá. Khi cung nhỏ hơn cầu, người bán có thể tăng giá, giá cả có thể cao hơn giá trị. Khi cung bằng cầu, người bán sẽ bán hàng hoá theo đúng giá trị, giá cả bằng giá trị. Mặc dù vậy, trong nền sản xuất hàng hoá, cạnh tranh có vai trò to lớn. Nó buộc người sản xuất- kinh doanh phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng phương pháp công nghệ mới, nhạy bén năng động, tổ chức quản lý có hiệu quả. Từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy nền kinh tế quốc dân tăng trưởng… Để tăng tính hiệu quả cạnh tranh, những nhà kinh tế cũng phải hạn chế các tác hại của nó, đó là các hình thức lừa đảo, đầu cơ, làm giả hàng, trốn lậu thuế, ăn cắp bản quyền, mua chuộc, hối lộ, khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên, tăng sự phân hoá giàu nghèo, bất công xã hội. Như vậy, trong điêù kiện thị trường tự do cạnh tranh, quy luật giá trị vẫn biểu hiện hoạt động của nó thông qua sự vận động của giá cả bởi lẽ giá cả và sự vận động của giá cả đều bị quy luật giá trị chi phối. 1.2.2) Quy luật giá trị trong điều kiện độc quyền: Các mác và Phêdrich Ăngghen đã tìm ra quy luật ra đời và phát triển của tư bản chủ nghĩa tự do cạnh tranh. Trên cơ sở đó hai ông đã dự kiến rằng, tự do cạnh tranh phát triển đến một mức độ nào đó sẽ dẫn tới độc quyền, đây là kết quả tất nhiên của sự phát triển tư bản chủ nghĩa. V.I.Lênin viết: “ Độc quyền phát sinh, kết quả sự tập trung sản xuất, là một quy luật phổ biến và cơ bản trong giai đoạn phát triển hiện nay của chủ nghĩa tư bản” (1). Đến giai đoạn cao của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự ra đời các tổ chức độc quyền gắn liền với các yếu tố mới, làm xuất hiện cơ chế kinh tế của giai đoạn mới, đó là cơ chế độc quyền và cạnh tranh. Sự thống trị của độc quyền, cùng với sự rađời của cơ chế kinh tế mới, chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa đã được tăng cường lên một mức độ mới, việc sản xuất và chi phối giá trị và giá trị thặng dư cũng có những thay đổi nhất định. Nó sử dụng phương pháp cưỡng bức siêu kinh tế để thu lợi nhuận cao- lợi nhuận độc quyền. “ Lợi nhuận độc quyền là một hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư, hình thành trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nó bao gồm lợi nhuận bình quân cộng với lợi nhuận siêu ngạch độc quyền, không phải chủ yếu do cải tiến kĩ thuật, mà chủ yếu do địa vị thống trị của độc quyền thu được” (2). Công thức: Pđq= P + Psn Trong đó Pđq : lợi nhuận độc quyền. P : lợi nhuận bình quân. Psn : lợi nhuận siêu ngạch do độc quyền mà có. Song song với việc hình thành Pđq các tổ chức độc quyền không bán hàng theo giá cả sản xuất , mà bán theo giá cả độc quyền ( mặc dù P và giá cả sản xuất không mất đi vì cạnh tranh tự do vẫn tồn tại). Công thức: Pđq= k + pđq Trong đó: Pđq: giá cả độc quyền k : chi phí sản xuất tư bản. Thông thường các tổ chức độc quyền bán hàng hoá với giá cả cao hơn giá trị hàng hoá, còn khi mua hàng hoá của các xí nghiệp không độc quyền, của người sản xuất nhỏ, thì thường mua với giá cả nhỏ hơn hoặc bằng giá trị. Thông qua cơ chế mua bán theo giá cả độc quyền , các tổ chức độc quyền thu được lợi nhuận độc quyền cao. Ví dụ: tại Mỹ, McDonalt là công ty độc quyền chuyên cung cấp thức ăn nhanh fast-food. ở nước ta, tuy không có những công ty độc quyền. Nhưng một số hàng hoá vẫn mang giá cả độc quyền do nhà nước quy định như : xăng dầu, điện, nước, bưu chính viễn thông… Việc các tổ chức độc quyền mua bán theo giá cả độc quyền chỉ để thu lợi nhuận độc quyền, xét về thực chất chỉ là sự biểu hiện mới, cao hơn về giá trị và giá trị thặng dư ( nếu chúng ta đặt nó trong cạnh tranh, phân phối lại giá trị và đặt nó trong các mối quan hệ trong và ngoài nước mà các tổ chức độc quyền có liên quan đến sản xuất và kinh doanh). “ Việc định ra giá cả độc quyền, dù tạm thời chăng nữa, cũng làm mất đến một mức độ nào đó những cái kích thích sự tiến bộ kĩ thuật, và do đó, cũng làm mất những cái kích thích mọi sự tiến bộ khác, mọi bước tiến lên, nó cũng đẻ ra khả năng kinh tế làm kìm hãm một cách giả tạo sự tiến bộ kĩ thuật”1 Bàn về sản xuất hàng hoá và qui luật giá trị - NXB Sự thật - 1964, trang 124 . Thực tế cho thấy, ở đâu và lúc nào thiếu cạnh tranh hay có biểu hiện độc quyền thì ở đó thường trì trệ, bảo thủ kém hiệu quả vì mất đi cơ chế tác dụng đào thải cái lạc hậu, bình tuyển cái tiến bộ để thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển. Tóm lại trong điều kiện nền kinh tế độc quyền, quy luật giá trị lại một lần nữa biểu hiện sự hoạt động của mình thông qua sự vận động của giá cả, mà ở đây là giá cả độc quyền, qua đó thấy được vai trò lớn của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá : chi phối giá cả và sự vận động lên xuống của giá cả hàng hoá xung quanh giá trị. Như vậy, hai cực của thị trường là cạnh tranh và độc quyền thường xuyên chuyển hoá nhau hợp quy luật, đó là điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế xã hội. 1.3) Vai trò, tác dụng của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá: 1.3.1) Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá: Trong môi trường cạnh tranh tác động làm cho quan hệ cung- cầu về hàng hoá lên, xuống, dẫn tới giá cả của nó lên xuống xoay quanh giá trị. Thực vậy, trong nền sản xuất hàng hoá thường xảy ra tình trạng : người sản xuất bỏ ngành này, đổ xô vào ngành khác, quy mô sản xuất của ngành này được thu hẹp, trong khi ngành khác lại được mở rộng…, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động được phân bố lại giữa các ngành. Hiện tượng này được gọi là sự điều tiết sản xuất. Sự điều tiết này được hình thành một cách tự phát thông qua biến động của giá cả thị trường. Khi cung nhỏ hơn cầu, sản phẩm không đủ để thoả mãn xã hội, giá cả cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy với lãi cao, người sản xuất mở rộng quy mô sản xuất, những người trước đây sản xuất hàng hoá khác, nay vì lợi nhuận cũng chuyển sang sản xuất hàng hoá này. Như vậy, tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển vào ngành này nhiều hơn các ngành khác. Khi cung lớn hơn cầu , sản phẩm làm ra quá nhiều so với nhu cầu xã hội, buộc giá cả phải nhỏ hơn giá trị mới có thể bán được, nếu bán không chạy sẽ bị lỗ vốn. Tình hình đó buộc người sản xuất ở ngành này phải thu hẹp quy mô sản xuất hay chuyển sang ngành khác, làm tư liệu sản xuất và sức lao động giảm đi ở ngành này và tăng lên ở ngành khác mà người sản xuất thấy có lợi hơn. Quy luật giá trị không chỉ điều tiết lĩnh vực sản xuất mà còn điều tiết cả lĩnh vực lưu thông hàng hóa , thông qua sự biến động của giá cả. Hàng hoá được đưa từ nới có giá thấp đến nới có giá cao, từ nơi cung lớn hơn cầu , đến nơi cung nhỏ hơn cầu. Thật vậy, ví dụ ở Nghi Tàm là làng trồng hoa nổi tiếng. Hoa ở đây rất đẹp, lại rẻ. Sở dĩ như vậy vì ở Nghi Tàm hầu như nhà nào cũng trồng hoa, do đó cầu về hoa hầu như là không có. Tuy nhiên người dân nội thành Hà Nội lại rất thích hoa, cung ở đây nhỏ hơn cầu vì trong nội thành không có chỗ nào trồng hoa để bán được. Do đó người dân Nghi Tàm mang hoa của mình ( từ nơi có giá cả thấp và cung lớn hơn cầu) vào trong nội thành ( là nơi có giá cả cao và cung nhỏ hơn cầu ) để bán. Qua ví dụ này ta thấy được : thông qua sự biến động của giá cả trên thị trường mà quy luật giá trị có tác dụng phân phối lại hay điều tiết hàng hoá trên thị trường. Mối quan hệ giữa cung và cầu một mặt giải thích những sự chênh lệch giá cả thị trường và giá trị của hàng hoá, mặt khác giải thích cái xu hướng muốn thủ tiêu những sự chênh lệch đó, nghĩa là thủ tiêu tác dụng của mối quan hệ cung cầu. 1.3.2) Kích thích khoa hoạc kĩ thuật và công nghệ phát triển, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: Các hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện khác nhau, nên có giá trị cá biệt khác nhau nhưng trên thị trường thì các hàng hoá đều phải được trao đổi theo giá trị xã hội. Người sản xuất có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội ở thế có lợi, sẽ thu được nhiều lợi nhuận siêu ngạch, người sản xuất có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội thì bất lợi, khi sản phẩm của mình sản xuất ra sẽ bị lỗ vốn. Muốn đứng vững trong cạnh tranh và khỏi bị phá sản, họ phải tìm cách làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá của mình nhỏ hơn hay bằng giá trị xã hội. Do đó họ tìm cách cải tiến quản lý, cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất lao động. Giá trị của hàng hoá là theo tỉ lệ nghịch với năng suất của lao động đã sản xuất ra hàng hoá đó. Sức lao động cũng vậy vì giá trị trị sức lao động là do giá trị hàng hoá quyết định. Ngược lại , giá trị thặng dư tương đối lại tỉ lệ thuận với năng suất lao động. Giá trị thặng dư tương đối tăng lên và hạ xuống cùng với năng suất lao động. Nếu một người nào trong số những nhà sản xuất, sản xuất ra được hàng hoá rẻ hơn , bán được nhiều hàng hoá hơn và do đó, chiếm lĩnh được ở trên thị trường một đại bàn rộng lớn hơn bằng cách bán ra giá hạ hơn giá cả thị trường hiện hành thì người đó liền làm ngay như thế và do đó mở đầu một hành động dần dần buộc người khác cũng phải áp dụng cái phương pháp sản xuất ít tốn kém hơn. Lúc đầu việc cải tiến đó còn lẻ tẻ, nhưng do cạnh tranh với nhau , nên cuối cùng việc cải tiến mang tính xã hội. Rõ ràng quy luật giá tị thông qua hoạt động này đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và khoa học kĩ thuật phát triển. Tuy nhiên do chạy theo sản xuất những hàng hoá có lợi nhuận cao, tạo nên tình trạng có một loại hàng nào đó được sản xuất ra quá nhiều, dẫn đến hiện tượng dư thừa làm lãng phí xã hội. 1.3.3) Bình tuyển tự nhiên những người sản xuất hàng hoá, phân hoá họ thành kẻ giàu - người nghèo, từng bước hình thành quan hệ chủ thợ, quan hệ bóc lột: Mỗi một người đều sản xuất riêng biệt, và sản xuất cho lợi ích riêng của mình, không phụ thuộc vào các nhà sản xuất khác, họ sản xuất cho thị trường, nhưng dĩ nhiên không ai trong số họ lại biết được dung lượng của thị trường. Những người sản xuất hàng hoá khác nhau có điều kiện sản xuất khác nhau, tính năng động khác nhau, khả năng nắm bắt nhu cầu thị trường khác nhau, khả năng đổi mới khoa học kĩ thuật và công nghệ khác nhau, hợp lí hoá sản xuất khác nhau, do đó giá trị cá biệt của hàng hoá khác nhau, phù hợp với nhu cầu xã hội và thị trường khác nhau. Trong điều kiện đó, sự cân bằng giữa sản xuất và tiêu dùng ( cung – cầu) chỉ có được sau nhiều lần biến động. Cụ thể, ai có giá trị cá biệt cao hơn giá trị xã hội thì sẽ bị lỗ vốn , nhiều lần lỗ vốn sẽ bị phá sản, trở thành người đi làm thuê. Ai có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội của hàng hoá thì sẽ thu được nhiều lãi. Người sản xuất khéo léo hơn, tháo vát hơn và có tiềm lực về kinh tế hơn, sẽ ngày càng lớn mạnh nhờ những biến động đó. Còn người vụng về thì bị biến động đó đè bẹp. Một số người trở nên giàu có, mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh. Còn một số người khác bị thua lỗ , thu hẹp sản xuất, thậm chí phá sản, trở thành người nghèo. Kết cục là họ mất hết tính chất độc lập về kinh tế và trở thành công nhân làm thuê trong công xưởng của các đối thủ của họ. Đầu cơ , khủng hoảng, lừa đảo kinh tế làm tăng thêm tác động phân hoá này. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam cần phải có sự điều tiết của nhà nước để hạnn chế sự phân hoá giàu nghèo. Chương 2: Thực trạng vận dụng quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. 2.1) Thực trạng vận dụng quy luật giá trị ở nước ta hiện nay: Như đã phân tích ở chương một, quy luật giá trị biểu hiện hoạt động thông qua sự vận động của giá cả. Bởi vậy sự biến động lên xuống của giá cả hàng hoá, sẽ ảnh hưởng đến nề kinh tế, qua đó thấy được thực trạng vận dụng quy luật giá trị vào nền kinh tế nước ta như thế nào. Trước giai đoạn cải cách giá ( thời kỳ thực hiện bao cấp nền kinh tế), nhà nước ta chủ trương thực hiện một số quan điểm chỉ đạo về giá như sau: - Hệ thống giá được quản lí tập trung, do nhà nước quy định. - Giá trong giai đoạn này phải được nhà nước ổn định và nhà nước tìm mọi biện pháp để giảm giá, nâng cao đời sống thực tế cho người dân. - Quan hệ cung cầu chỉ ảnh hưởng đến giá những hàng hoá không thiết yếu, không quan trọng trong nền kinh tế. - Giá cả được xây dựng dựa trên cơ sở lấy giá cả thị trường trong nước làm căn cứ, tách rời giá cả quốc tế, theo định hướng xây dựng giá độc lập tự chủ. Chính sách giá đã có tác động tích cực ở thời kì đầu , nhất là trong giai đoạn chiến tranh. Tuy nhiên, sau khi hoà bình , lẽ ra phải thay đổi thì cơ chế giá đó vẫn được giữ nguyên, làm cho nền kinh tế trở nên trì trệ, đi vào suy thoái. Trong giai đoạn cải cách giá ( 1981- 1985), để phát huy tốt quy luật giá trị vào nền kinh tế nhà nước đã thực hiện một số biện pháp khắc phục nền kinh tế như sau: Tập trung khôi phục sức sản xuất nền kinh tế, giảm phát hành tiền mặt, cải tiến công tác lưu thông hàng hoá, cân đối cung cầu và giá cả, ổn định đời sống nhân dân. Cải cách mạng lưới bán lẻ và giá thu mua theo nguyên tắc phù hợp chi phí sản xuất lưu thông, lao động xã hội, tiếp tục củng cố hệ thống tài chính, tiền tệ. Cải cách hệ thống giá bán buôn và hoàn thiện hệ thống phân phối lưu thông. Thực hiện cơ chế giá trong hệ thống giá, khắc phục thực trạng thả nổi giá cả cũng như định giá và quản lý giá cứng nhắc. Các chính sách và cơ chế quản lý giá phải hướng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Từ giai đoạn 1986 đến nay, Nhà nước ta xoá bỏ triệt để bao cấp qua giá, xác lập giá cả theo cơ chế thị trư._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35612.doc
Tài liệu liên quan