Quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ p.triển của Lực lượng sản xuất với việc Phân tích tính tất yếu của quá trình p.triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam

Đề tài : "Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất với việc phân tích tính tất yếu của quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam." I/Đặt vấn đề: Mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến của mọi phương thức sản xuất . Sự cần thiết vận dụng quy luật này vào quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời

doc16 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1215 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quy luật Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ p.triển của Lực lượng sản xuất với việc Phân tích tính tất yếu của quá trình p.triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kỳ quá độ ở Việt Nam II/Giải quyết vấn đề: 1.Nhận thức quy luật phổ biến giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất 1.1.Mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất . 1.2.Biểu hiện của mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất . 1.3.Sự cần thiết vận dụng quy luật phổ biến giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam : 2.Tính tất yếu của quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. 2.1.Cơ cấu các thành phần kinh tế ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ. 2.2.Tác động của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 2.2.1.Tích cực 2.2.2.Hạn chế. 2.3.Tính tất yếu tồn tại các thành phần kinh tế 2.4.Vai trò lãnh đạo của Đảng trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. III/Kết luận: - Tóm lại quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam là một quá trình tất yếu - ý nghĩa nghiên cứu đề tài : qua đề tài tìm được phương thức đổi mới đúng đắn phù hợp với sự phát triển của xã hội . I/Đặt vấn đề: Sự vận động, phát triển của xã hội loài người chịu sự tác động của rất nhiều các quy luật xã hội trong đó quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế phát triển của lịch sự nhân loại từ chế độ công xã nguyên thuỷ, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai ứng với một hình thái kinh tế xã hội nhất định sẽ có phương thức sản xuất khác nhau. Hình thái kinh tế xã hội là một hệ thống trong đó các mặt này tác động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động và phát triển khách quan của xã hội. Trong đó có quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế xã hội, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản ban đầu quyết định tất cả các quan hệ sản xuất khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt chế độ xã hội. Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta , Đảng ta thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướnh xã hội chủ nghĩa, nhưng phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ của chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học và công nghệ, phát triển nhanh lực lượng sản xuất. Theo quan điểm của Đảng" mục đích của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam là sự phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân phát triển lực lượng sản xuất. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối" Đảng và nhà nước ta đã vận dụng một cách sáng tạo quy luật trên để thực hiện những mục tiêu nhiệm vụ đã đặt ra trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành cơ bản, vị thế của nước ra trên trường quốc tế được nâng cao II/Giải quyết vấn đề : 1.Nhận thức quy luật phổ biến giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất 1.1.Mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất : Mỗi hình thái kinh tế xã hội có một phương thức sản xuất riêng. Đó là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất vật chất là sự thống nhất biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất . Lực lượng sản xuất : biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên . Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất trước hết là cộng cụ lao động. Ngoài cộng cụ lao động trong tư liệu sản xuất còn có đối tượng lao động , phương tiện lao động ( đường xá, cầu cống, xe cộ ,…) Trong thời đại ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp , nó vừa là ngành sản xuất riêng vừa thâm nhập vào các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất đem lại sự thay đổi về chất của lực lượng sản xuất. Các yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất tác động lẫn nhau một cách khách quan làm cho lực lượng sản xuất trở thành yếu tố động nhất Quan hệ sản xuất : là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất , thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất , quan hệ trong tổ chức quản lý, trao đổi và quan hệ phân phối sản phẩm Quan hệ sản xuất do con người tạo ra song nó được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Nó mang tính ổn định tương đối trong bản chất xã hội và tính phong phú đa dạng trong hình thức biểu hiện Quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất : Khi trình độ của lực lượng sản xuất còn thủ công thì tính chất của nó là tính chất cá nhân . Nó thể hiện ở chỗ chỉ có một người có thể sử dụng được rất nhiều công cụ khác nhau trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Như vậy tất yếu dẫn đến quan hệ sản xuất sở hữu mang tính tư nhân về tư liệu sản xuất Khi sản xuất bằng máy ra đời , trình độ lực lượng sản xuất công nghiệp đòi hỏi không thể một người có thể đảm nhiệm tất cả các khâu của quá trình sản xuất mà mỗi người chỉ có thể phụ trách được một khâu trong quá trình sản xuất . Như vậy , quá trình sản xuất đòi hỏi nhiều người tham gia, sản phẩm lao động là thành quả của nhiều người . ở đây lực lượng sản xuất đã mang tính xã hội hoá tất yếu một quan hệ sản xuất thích hợp với nó phải là quan hệ sản xuất mang tính xã hội tư liệu sản xuất . 1.2. Biểu hiện của mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất . Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi và phát triển. Sự biến đổi bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất mà trước hết là công cụ lao động. Công cụ phát triển dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có và đòi hỏi khách quan phải xoá bỏ quan hệ sản xuất bằng quan hệ sản xuất mới .Như vậy , quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất nhưng do mâu thuẫn của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất ( yếu tố ổn đinh tương đối ) nên quan hệ sản xuất lại trở thành “xiềng xích” kĩm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất . Phù hợp và không phù hợp là biểu hiện mâu thuẫn biện chứng của quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất , tức là sự phù hợp trong mâu thuân và bao hàm mâu thuẫn Khi phù hợp cũng như khi không phù hợp với lực lượng sản xuất , quan hệ sản xuất luôn có tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất . Điều đó thể hiện trong nội dung sự tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất , quy định mục đích xã hội của sản xuất , xu hứơng phát triển của quan hệ lợi ích. Từ đó hình thành những yếu tố hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất Sự tác động trở lại nói trên của quan hệ sản xuất bao giờ cũng thông qua các quy luật xã hội , đặc biệt là quy luật kinh tế cơ bản Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII và VIII của Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là đúng với quy luật quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất . Đường lối đó xuất phát từ trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất ở nước ta vừa thấp vừa không đồng đều nên không thể nóng vội và nhất loạt xây dựng quan hệ sản xuất dựa trên cơ sở công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất như trước kia. Làm như vậy là đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ lực lượng sản xuất . Thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần theo đường lối đổi mới của Đảng đã và đang khơi dậy tiềm năng của sản xuất , khơi dậy năng lực sáng tạo , chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất kinh doanh Thực tiền của việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta cho thấy : ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ khi thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa chưa chiếm vị trí độc tôn ( hoặc chưa nhất thiết phải độc tôn) khi các thành phần kinh tế khác có nhiều khả năng góp phần làm cho sản xuất phát triển thì một số yếu tố trong quan hệ sản xuất mới vượt lên lực lượng sản xuất và hướng vào việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu. ở đây phải kể đến yếu tố chủ quan của việc Đảng lãnh đạo , nhà nước phát động tính tích cực của quần chúng bằng những lợi ích vật chất và tinh thần yêu nước vốn có của nhân dân Tuy nhiên không thể cho rằng những yếu tố tiên tiến của quan hệ sản xuất mãi mãi là tiền đề thúc đẩy sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất . Chúng chỉ tác động tích cực trong một thời gian ngắn và cuối cùng vẫn phải tuân thủ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trinh độ phát triển của lực lượng sản xuất . Trong Đại hội Đảng VI đã đúng khi nhận định “ Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” 1.3.Sự cần thiết vận dụng quy luật phổ biến giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam : Việc hình thành mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự sáng tạo của Đảng ta. Nền kinh tế đó không phải là nền kinh tế thị trường tự do tư bản chủ nghĩa, song cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Đất nước ta đang ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chưa có đầy đủ các yếu tố của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy về thực chất nền kinh tế thị trường của ta vẫn là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo mục tiều xã hội chủ nghĩa Mục tiêu của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là phát triển kinh tế để đạt tới một xã hội giàu mạnh , công bằng , dân chủ , văn minh. Nếu như nền kinh tế thị trường tự do tư bản chủ nghĩa phục vụ lợi ích các nhà tư bản , xây dựng cơ sở kinh tế cho chủ nghĩa tư bản, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa tư bản thì kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lấy lợi ích và phúc lợi toàn dân làm mục tiêu, phát triển kinh tế thị trường để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Kinh tế thị trường bản thân nó là nội lực tự thúc đẩy tiến trình kinh tế – xã hội . Đến lượt mình, chúng ta dùng cơ chế kinh tế đó để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hoá -hiện đại hoá ,xây dựng một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc ,từng bước thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa Đặc trưng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ( kinh tế hàng hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ) là một kiểu tổ chức , một kiểu vận hành kinh tế mà một mặt nó tuân theo quy luật của kinh tế thị trường , mặt khác dựa trên cơ sở bản chất và nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội thể hiện ở ba mặt cơ bản của một nền kinh tế xã hội 2.Tính tất yếu của quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. 2.1.Cơ cấu các thành phần kinh tế ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, một lần nữa khẳng định chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đảng ta đã khẳng định mọi thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng phát triển lâu dài hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Việc nhận định đúng đắn vấn đề trên là cơ sở để hình thành hệ thống quan hệ sản xuất mới, khai thác mọi khả năng , nguồn lực của các thành phần kinh tế vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước Đảng ta đã xác định 5 thành phần kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta bao gồm : kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. 2.1.1.Kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất (sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước).Kinh tế nhà nước bao gồm: các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu của nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế . "Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hưóng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế " ( Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biều toàn quốc lần thứ IX , Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.95-66 ) Trong quá trình kinh tế Việt Nam , kinh tế nhà nước từ chỗ là khu vực kinh tế gần như là độc nhất trong nền kinh tế ( bên cạnh còn có kinh tế tập thể ) đã dần chuyển sang giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần. Trong bối cảnh chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhà nước đã tiến hành nhiều biện pháp cải cách khu vực kinh tế nhà nước để khu vực này có thể bảo đảm được vai trò chủ đạo : sắp xếp, xác nhập các công ty , công ty hoá , cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê , phát triển các tập đoàn kinh tế và giải thể các doanh nghiệp là ăn thua lỗ trầm trọng 2.1.2.Kinh tế tập thể. Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn, cùng kinh doanh, tự quản lý theo nguyên tắc tập trung Kinh tế tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể; liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế; không giới hạn quy mô và địa bàn (trừ một số lĩnh vực có quy định riêng); phân phối theo lao động, theo vốn đóng góp và mức độ tham gia; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm. "Mở rộng các hình thức kinh tế hỗn hợp, liên kết, liên doanh giữa hợp tác xã với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật và quản lý, mở rộng thị trưòng, ứng dụng công nghệ mới phát triển vốn tập thể"[ Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biều toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.191] Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên, góp phần xoá đói giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên Kinh tế tập thể có những thay đổi cơ bản trong thời gian qua. Giai đoạn trước những năm đổi mới, quan niệm đơn giảm về nền kinh tế tập thể và kinh tế xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến hiên tượng tập thể hoá tràn lan, nhất là trong nông nghiệp. Tình trạng kém hiệu quả của mô hình này ngày càng được bộc lộ rõ. Chính vì vậy trong thời kỳ đổi mới – thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhiều đơn vị kinh tế tập thể đã được giải thể hoặc chuyển đổi. Do vị trí của kinh tế tập thể là cùng với kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của kinh tế thị trường định hưóng xã hội chủ nghĩa nên nhà nước đã có nhiều biện pháp hỗ trợ để phát triển khu vực này 2.1.3.Kinh tế nhân tư Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế gồm có kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân . Kinh tế cá thể là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình. Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên, thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân gia đình . Kinh tế cá thể và kinh tế tiểu chủ tồn tại rất lâu dài ngay cả khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đang có vị trí quan trọng trong nhiều ngành, nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động; góp phần tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, giải quyết nhiều việc làm cho người lao động - một vấn đề bức bách hiện nay của đời sống kinh tế - xã hội.Do đó, việc mở rộng sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế cá thể và tiểu chủ cần được khuyến khích. Mặc dù vậy nhưng với đà phát triển của công nghiệp hoá hiện đại hoá nhất là đối với nông nghiệp nông thôn thì kinh tế cá thể, tiểu chủ giảm bớt dần; bù lại về chính sách lại đưa ra sự giúp đỡ tạo điều kiện phát triển kinh tế cá thể tiểu chủ trong lĩnh vực dịch vụ còn rất rộng lớn; tại Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã xác định: " Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển; khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn" [ Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biều toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.191] Kinh tế tư bản tư nhân: là hình thức kinh tế mà sản xuất, kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê. Hiện nay kinh tế tư bản tư nhân bước đầu có sự phát triển nhưng phần lớn tập trung vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ và kinh doanh bất động sản Kinh tế tư nhân đã phát triển rộng khắp cả nước, từ thành phố lớn, thị xã, thị trấn đến các lĩnh vực kinh doanh dịch vụ.Kinh tế tư nhân đã có những đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế 2.1.4.Kinh tế tư bản nhà nước: Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh. Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế rất đặc trưng cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là biểu hiện nổi bật của việc xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Kinh tế tư bản nhà nước là hình thức quá độ, là quan hệ sản xuất trung gian qúa độ vô cùng cần thiết trong điều kiện nước ta cần được khuyến khích phát triển rộng rãi, phổ biến trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta . 2.1.5.Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm các doanh nghiệp có thể 100% vốn nước ngoài (một hoặc nhiều thành viên) có thể liên kết, liên doanh với doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân của nhà nước . Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta và phát triển khá nhanh chóng . Trong những năm qua nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách khuyến khích phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tháng 12-1987 luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã được Quốc Hội thông qua và đã qua 4 lần sửa đổi. Những quy định luật pháp đó đã tạo thành hành lang pháp lý cam kết bảo vệ lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngoài. Gần đây nhà nước ta đã tiếp tục bổ sung nhiều chính sách tạo điều kiện thuận lựi cho các nhà đầu tư nước ngoài mở rộng phạm vi đầu tư về quy mô và hình thức đầu tư. 2.2.Tác động của các thành phần kinh tế : 2.2.1.Tích cực . Sự tồn tại của các thành phần kinh tế trên đã có tác động tích cực đến nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Kinh tế tế tăng trưởng khá nhanh, đời sống nhân dân đã được cải thiện đáng kể .Nhịp độ bình quân hàng năm về sản phẩm quốc nội trong 5 năm 1991 - 1995 là 8,5% ; nhịp độ tăng bình quân hằng năm về sản xuất công nghiệp là 13,3% , sản xuất nông nghiệp là 4,5% kim ngạch xuất khẩu là 20% . Cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi tích cực , tỉ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP là 22,7% , năm 1990 lên 30,3% năm 1995 , tỉ trọng dịch vụ 38,6% lên 41,5% . Bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế . Vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội tăng từ 15,8% GDP năm 1990 lên 27,7% năm 1995 . Lạm phát bị đẩy lùi từ 67,15% năm 1991 xuống 12,4% đầu năm 1995 Kinh tế có vốn đầu tư nứơc ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao. Giá trị sản xuất tăng bình quân 22% một năm, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, trên 22% kim ngạch xuất khẩu và đong góp trên 10% GDP chung của cả nước. Là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ và giao thương quốc tế. Vai trò kinh tế nhà nước cũng có những chuyển biến lớn trong điều kiện kinh tế trưòng đã tách biệt chức năng với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế trên cơ sở có sự tách biệt giữa quyền sở hữu với quyền quản lý kinh doanh. Nhờ đó đã mở đường cho cải cách các cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước và cơ chế đảm bảo thực hiện lợi ích của chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước là nhà nước : xoá bao cấp, thực hiện chế độ công ty, giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp. Nhà nước dần thực hiện quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật trên cơ sở xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nhờ đó đxatừng bước hình thành được môi trường pháp lý tương đối ổn định, tạo " sân chơi" bình đảng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau vừa hợp tác, vừa cạnh tranh để cùng góp phần phát triển kinh tế thị trường. Bằng cơ chế, chính sách kinh tế nhà nước đã thúc đẩy phát triển nền kinh tế hàng hoá phần giải phóng lực lượng sản xuất. 2.2.2.Hạn chế. Việc thực hiện chính sách phát triển các thành phần kinh tế tuy đãa có tiến bộ nhưng vẫn còn thiéu nhất quán và chưa khai thác tốt nguồn lực trong dân. Doanh nghiệp nhà nước chưa phát huy lợi thế và chậm sắp xếp, đổi mới, làm ăn kém hiệu quả,một số chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế quốc doanh chậm đi vào cuộc sống, kinh tế tập thể chậm đổi mới. Các hợp tác xã còn có vai trò còn mờ nhạt, kinh tế tư nhân còn bị phân biệt đối xử. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn do môi trờng đầu tư chưa thuận lợi, chưa thật thông thoáng ổn định. Cũng cần thấy rằng kinh tế cá thể, tiểu chủ dù có cố gắng đến bao nhiêu có vị trị quan trọng lâu dài, góp phần tạo ra của cải vật chất cho xã hội các hình thức này phần lớn hoạt động dưới hình thức hộ gia đinh những cũng không thể loại bỏ đựoc những hạn chế vốn có như: tính tự phát, manh mún, hạn chế về kỹ thuật, quy mô sản xuất nhỏ chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển lâu dài của đất nước. Nền kinh tế tư bản tư nhân tuy được nhà nước bảo hộ về quyền sở hữu và tạo điều kiện thuận lợi về tín dụng, khoa học - công nghệ, đào tạo cán bộ nhưng tính tự phát rất cao, đầu cơ, buôn lậu, chốn thuế, làm hàng giả ,... là những hiện tượng thường xuất hiện ở nền kinh tế tư bản tư nhân. Mặt khác còn khó khăn về môi trường kinh doanhn, năng lực cạnh tranh, trình độ công nghệ, chất lượng giá thành và tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay ta mới chỉ có một số nhỏ các doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn vốn lớn, công nghệ sản xuất tiên tiến, còn phần lớn vẫn là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ vốn ít, công nghệ sản xuất lạc hậu. Thêm vào đó là những khó khăn vướng mắc về mặt bằng sản xuất kinh doanh, tâm lý xã hội, khả năng tiếp nhận thông tin 2.3.Tính tất yếu tồn tại các thành phần kinh tế Một trong những thành tựu lớn nhất sau hơn 20 năm đổi mới ở nước ta là đổi mới kinh tế , tạo nên những tiềm lực mới cho sự phát triển của đất nước. Có được những thành tựu ấy là do nhiều nguyên nhân, trong đó đổi mới tư duy kinh tế, thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường cso sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ bản nhất. Trước đây chúng ta còn lúng túng trong nền kinh tế, chỉ thừa nhận 2 thàn phần kinh tế là quốc doanh và tập thể và không ít người đã cho rằng chỉ có như vậy mới thực sự là xã hội chủ nghĩa Từ Đại hội VI Đảng ta chủ trương công cuộc đổi mới toàn diện toàn bộ đất nước, trong đó có đổi mới kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế với nhiều hình thức phong phú đa dạng và sáng tạo Trong mỗi thành phần kinh tế , tồn tại các hình thức tổ chức kinh tế với quy mô và trình độ công nghệ nhất định chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế nhất định. Các thành phần kinh tế được thể hiện ở các hình thức kinh doanh đa dạng, hỗn hợp. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là qu yluật chung cho mọi phương thức sản xuất. Trong nền kinh tế chưa thực sự phát triển cao, lực lượng sản xuất luôn tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau: tương ứng với mỗi trình đọ của lực lượng sản xuất sẽ có 1 kiểu quan hệ sản xuất. Do đó, cơ cấu của nền kinh tế xét về phương diện kinh tế xã hội phải là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đặc biệt là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đó là tính tất yếu khách quan vì: Bứơc vào thời kỳ quá độ nền kinh tế nước ta còn ở trình độ phát triển kém, lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều bậc thang khác nhau, do đó chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất sẽ có nhiều hình thức, tức là nền kinh tế sẽ có nhiều thành phần Một số thành phần kinh tế do xã hội cũ để lại : các thành phần kinh tế này vẫn có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế, có lợi ích đất nước trong việc giải quyết việc làm tăng sản phẩm, huy động các nguồn vốn Một số thành phần kinh tế mới xuất hiện trong quá trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước Do vậy, phát triển các loại hình sở hữu , tồn tại nhiều thành phần kinh tế là tất yếu, cần thiết và hợp lý. Nó làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế nói cung và tạo điều kiện cho từng thành phần kinh tế nói riêng phát triển . Từ đó phát huy được mọi năng lực sản xuất, hỗ trợ và thúc đẩy cạnh tranh lẫn nhau làm cho nề kinh tế của đất nước thực sự năng động phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thàn phần kinh tế này có diện mạo riêng nhưng đều nằm trong sự thống nhất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lâu dài. 2.4.Vai trò lãnh đạo của Đảng trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta. Qua 20 năm đổi mới, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ. Cho đến nay Đảng ta đã bước đầu hình thành được những nét cơ bản của hệ thống quan điểm lý luạn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Từng bước một, qua thực tiễn đổi mới kinh tế, nhất là với những nhận thức mới về tình hình thế giới trong bối cảnh quốc tế và xu thế toàn càu hoá hiện nay. Đảng ta đã tháy rõ yêu cầu khách quan của việc xây dựng nền kinh tế thị trường và chủ động hội nhập quốc tế. Từ cơ chế quản lý bao cấp đến nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những thay đổi căn bản về chất là 1 bước tiến quan trọng trong nhận thức lý luận của Đảng ta ở đây cần thấy rằng cái mới trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đã đạt được là ở chỗ quan niệm về chủ nghĩa xã hội đã từ những nhận thức chung, có phần còn trìu tượng và có khuynh hướng lý tưởng hiện thực, thoát li thực tiễn, đến chỗ hình dung chủ nghĩa xã hội ngày càng cụ thể, thiết thực, đặc biệt là đặt đúng vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất : nhận thức rõ, muốn đi tới chủ nghĩa xã hội trước hết phải tập trung phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới theo đúng quy luật khách quan. Kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập, thực hiện hợp tác song phương và đa phương kết hợp nội và ngoại lực để phát triển .... Trong cương lĩnh "xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" Đảng ta đã xác định 6 đặc trưng cơ bản, trong đó có ặc trưng: có 1 nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Cần phải giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế tróng đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. III/Kết luận: Hoàn cảnh sản xuất ở mỗi nơi, mỗi nước khác nhau nên nhận thức và vận dụng các quy luật xã hội đó là khác nhau. ở nước ta trong những năm 60 của thế kỷ XX , một số nhà lý luận cho rằng: " Quan hệ sản xuất đi trước lực lượng sản xuất. ở Liên Xô trong những năm 70, một số nhà triết học và kinh tế học nhấn mạnh rằng trong quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cần coi trọng sự phù hợp của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất chứ không phải là ngược lại, hoặc cho rằng vị trí , vai trò và tầm quan trọng của quan hệ sản xuất ngay với lực lượng sản xuất trong nền sản xuất xã hội. Những quan điểm trên là không đúng, dù hoàn cảnh sản xuất như thế nào thì quy luật biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cũng thể hiện tính khách quan của nó là lực lượng sản xuất cũng di trước và xét cho cùng quyết định sự phát triển xã hội Tất nhiên chúng ta cũng không nên tuyệt đối hoá quá mức vai trò độc tôn của lực lượng sản xuất mà bỏ qua sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với nó khi giữa chúng có sự phù hợp. Sự phát triển chệch hướng của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là do yếu tố chủ quan chứ không phải là do tính đặc thù của quy luật đó. Quan hệ sản xuất là yếu tố quyết định, làm tiền đề cho lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nó là nhiệm vụ chỉ là mục tiêu bước đi và tạo quy mô thích hợp cho lực lượng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0504.doc
Tài liệu liên quan