Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế

Mục lục LỜI MỞ ĐẦU Sau hơn hai mươi năm đổi mới nền kinh tế nước ta đang khởi sắc và thu được nhiều thành tựu đáng kể. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường việt nam đã và đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Với những chính sách mềm dẻo đã thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Giống như thực tế đã chứng minh không có quốc gia nào phát triển mà không có sự giao lưu với các nước khác. Sự giao lưu buôn bán giữa các nước là một xu hướng tất yếu của nền kinh tế. Sự p

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2590 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hát triển của thương mại quốc tế giúp các nước gắn kết và giúp đỡ lẫn nhau trong sự phát triển chung của thế giới. Thương mại quốc tế ngày nay đã vượt qua không gian và thời gian tạo những luồng dịch chuyển hàng hoá, tiền tệ để đáp ứng cung cầu. Thanh toán quốc tế (TTQT) là hoạt động chủ yếu của một quốc gia trong sự phát triển của đất nước. Nó giúp quốc gia khai thác những thế mạnh của đất nước so với các nước khác trên thế giới. Với tư cách là một nhân tố quan trọng, không thể thiếu được cho sự phát triển của thương mại quốc tế ,công tác thanh toán quốc tế không ngừng đổi mới và hoàn thiện với những phương thức thanh toán an toàn và hiệu quả cao các bên tham gia. Thanh toán quốc tế là khâu quan trọng quyết định hiệu quả của quá trình trao đổi. Nó là mắt xích không thể thiếu được trong cỗ máy thương mại quốc tế. Với nhiều hình thức thanh toán đa dạng phù hợp với từng giai đoạn phát triển cụ thể. Tại Việt Nam, cùng với hội nhập kinh tế thế giới, hoạt động xuất nhập khẩu đã thực sự bùng nổ kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của công tác thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, hoạt động TTQT là nghiệp vụ mang tính chất toàn cầu, liên quan đến việc thanh toán giữa các quốc gia, nó chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, vì vậy trong quá trình thanh toán không thể tránh khỏi những rủi ro mang yếu tố khách quan cũng như chủ quan, các rủi ro này càng được kiểm soát chặt chẽ và giảm thiểu bao nhiêu càng mang lại lợi ích và hiệu quả kinh tế cho các bên cũng như các quốc gia bấy nhiêu. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động thanh toán quốc tế, qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu Nhóm 4 – CH17G xin đưa ra những nghiên cứu của nhóm về đề tài “ Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế”. Từ đó, nhóm cũng xin đưa ra một số biện pháp để kiểm soát tối đa những rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế hiện nay. Kết cấu bài làm của nhóm gồm 3 phần: Phần I: Tổng quan về rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế. Phần II: Một số rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế. Phần III: Một số giải pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế. Do hạn chế về lý luận, về kinh nghiệm và thời gian nghiên cứu không nhiều nên tiểu luận của nhóm không tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô, các bạn quan tâm đến vấn đề này để bài bài làm của nhóm được hoàn chỉnh hơn. PHẦN I. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ I. Quan niệm về rủi ro 1. Khái niệm Trong cuộc sống hàng ngày, trong lao động sản xuất kinh doanh đôi khi tồn tại những sự cố, những tai nạn bất ngờ ngẫu nhiên xảy ra gây thiệt hại về người và tài sản không thể dự báo trước. Những tình huống bất ngờ đó mọi người vẫn thường gọi là rủi ro. Khi nói đến rủi ro người ta thường nghĩ đến những điều không tốt lành, có thể là một thiệt hại hoặc một tổn thất nào đó vật chất hoặc tinh thần bất ngờ xảy đến do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan gây nên. Với cách tiếp cận này có thể cho rằng: Rủi ro là những sự kiện bất ngờ, xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của con người, đem lại những hậu quả mà người ta không thể dự đoán được. 2. Tính chất Qua khái niệm về rủi ro, chúng ta thấy rủi ro có ba tính chất quan trọng: Một là: Rủi ro là sự kiện bất ngờ đã xảy ra. Đó là những sự kiện mà người ta không lường trước một cách chắc chắn. Mọi rủi ro đếu là bất ngờ, cho dù mức độ bất ngờ có thể khác nhau. Hai là: Rủi ro là những sự cố gây ra tổn thất. Một khi rủi ro đã xảy ra là để lại hậu quả cho con người, mặc dù nó có thể nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng. Ba là: Rủi ro là sự kiện ngoài mong đợi. Vì thông thường mọi người đều mong muốn những sự kiện may mắn, tốt đẹp nên khi xảy ra rủi ro sẽ mang lại tổn thất với mức độ nghiêm trọng khác nhau cho nên rủi ro là sự kiện ngoài mong đợi. Như vậy, một sự kiện được coi là rủi ro phải đồng thời thỏa mãn ba tính chất nêu trên. Nếu sự kiện đã biết trước chắc chắn xảy ra hoặc xảy ra không gây tổn thất hoặc mong muốn của con người thì không được coi là rủi ro. II. Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế 1. Khái quát về hoạt động thanh toán quốc tế 1.1. Khái niệm thanh toán quốc tế Thanh toán quốc tế là việc chi trả bằng tiền liên quan đến mua bán, cung ứng dịch vụ - hàng hóa giữa các tổ chức hoặc cá nhân của nước này với nước khác thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước có liên quan. Thanh toán quốc tế là hoạt động cơ bản nhất và giữ vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh đối ngoại của các NHTM mà ngày nay nó được gọi là một bộ phận quan trọng trong nghiệp vụ ngân hàng quốc tế của các NHTM. 1.2. Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế Xuất phát từ nhu cầu tất yếu của quá trình phát triển kinh tế, các doanh nghiệp luôn luôn có xu hướng mở rộng thị trường của mình ra bên ngoài, từ đó hình thành các quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nước khác nhau. Đối với mỗi chủ thể, hoạt động thanh toán quốc tế lại thể hiện những vai trò khác nhau: 1.2.1. Đối với nền kinh tế Thanh toán quốc tế là chiếc cầu nối liền giữa các quốc gia trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Thanh toán quốc tế tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển. Đẩy mạnh quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa, tăng nhanh tốc độ chu chuyển của vốn, góp phần phát triển kinh tế. Hoạt động thanh toán quốc tế làm tăng khối lượng thanh toán không dung tiền mặt trong nền kinh tế, giảm bớt các chi phí trung giạn, đồng thời hoạt động thanh toán quốc tế đã thu hút một lượng ngoại tệ đáng kể bằng các nghiệp vụ kiều hối, chuyển tiền đến và L/C xuất khẩu. 1.2.2. Đối với các ngân hàng thương mại Thứ nhất, TTQT giúp các ngân hàng thương mại đẩy mạnh hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, phát triển các nghiệp vụ liên quan như kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh và các dịch vụ khác. Thứ hai, TTQT đem lại khoản thu phí dịch vụ quan trọng: Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho ngân hàng thu hút thêm khách hàng về giao dịch, từ đó tăng quy mô hoạt động và thị phần của mình trên thị trường. Thứ ba, TTQT làm tăng tính thanh khoản của ngân hàng: Trong quá trình thực hiện các giao dịch thanh toán quốc tế cho khách hàng, ngan hàng thương mại luôn có một nguồn tiền tập trung chờ thanh toán. Nguồn tiền này tương đối ổn định và phát sinh thường xuyên, là một nguồn nâng cao khả năng thanh khoản cho ngân hàng. Thứ tư, thực hiện TTQT, ngân hàng thương mại có thể tạo ra được vòng tròn dịch vụ khép kín, từ đó đảm bảo các nghiệp vụ ngân hàng có liên quan đến nhau như tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ được giám sát, theo dõi kỹ lưỡng bới nhiều phòng ban khác nhau, hạn chế rủi ro. Bên cạnh đó, Ngân hàng còn nắm được tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, tạo điều kiện thực hiện quản lý có hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu trong nước theo đúng chính sách kinh tế đối ngoại mà nhà nước đề ra. Thứ năm, TTQT làm tăng cường quan hệ đối ngoại: Thông qua việc bảo lãnh cho khách hàng trong nước, thanh toán cho ngân hàng nước ngoài, ngân hàng thương mại sẽ có quan hệ đại lý với ngân hàng và đối tác nước ngoài. Mối quan hệ này dựa trên cơ sở hợp tác và tương trợ. Với thời gian hoạt động nghiệp vụ càng lâu, mối quan hệ ngày càng rộng mở. 1.2.3. Đối với khách hàng Thứ nhất, vai trò trung gian thanh toán trong hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại giúp cho quá trình thanh toán theo yêu cầu của khách hàng được tiến hành nhanh chóng, chính xác, an toàn, tiện lợi và tiết kiệm tối đa chi phí. Thứ hai, tham gia hoạt động thanh toán quốc tế, quyền lợi của khách hàng được đảm bảo hơn, do khách hàng được ngân hàng tư vấn để lựa chọn các phương thức thanh toán, kỹ thuật thanh toán cũng như đồng tiền thanh toán nhằm giảm thiểu rủi ro, tạo ra sự an tâm cho khách hàng trong giao dịch mua bán với nước ngoài. Thứ ba, trong quá trình thực hiện thanh toán quốc tế, nếu khách hàng không đủ khả năng tài chính cần đến sự tài trợ của ngân hàng, ngân hàng sẽ cho vay để thanh toán hàng nhập bằng cách bảo lãnh mở L/C, chiết khấu chứng từ xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Qua việc thực hiện thanh toán quốc tế, ngân hàng có thể giám sát được tình hình kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu để có những tư vấn cho khách hàng và những điều chỉnh về chiến lược khách hàng. Tóm lại, có thể khẳng định, hoạt động thanh toán quốc tế là một hoạt động trung gian của Ngân hàng thương mại, có tác dụng mang lại thu nhập, hỗ trợ các hoạt động khác của Ngân hàng thương mại, giúp cho quá trình thanh toán của khách hàng được nhanh chóng, đảm bảo. Điều này được thể hiện rõ hơn khi nghiên cứu đến các phương thức thanh toán quốc tế 1.3. Các phương thanh toán quốc tế chủ yếu hiện nay 1.3.1. Phương thức chuyển tiền. Phương thức chuyển tiền là phương thức thanh toán trong đó khách hàng (người trả tiền, người mua, người nhập khẩu..) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho người hưởng lợi (người bán, người xuất khẩu, người cung ứng dịch vụ..) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu. 1.3.2. Phương thức ghi sổ Thanh toán ghi sổ là một sự thỏa thuận giữa người mua và người bán trong đó hàng hóa được sản xuất và giao trước khi thanh toán. 1.3.3. Phương thức nhờ thu chứng từ. a. Khái niệm Thanh toán nhờ thu là sự thỏa thuận, trong đó nhà xuất khẩu sau khi đã giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ cho khách hàng thì ký phát hối phiếu đòi tiền người mua hoặc kèm với chứng từ thương mại gửi đến Ngân hàng phục vụ mình theo chỉ thị rõ ràng để nhờ thu số tiền trên hối phiếu đó thông qua một Ngân hàng đại lý ở nước người mua. b. Phân loại Có hai loại nhờ thu: * Nhờ thu phiếu trơn - Khái niệm: Nhờ thu phiếu trơn (Clean Bill): là nhờ thu theo chứng từ tài chính không kèm theo chứng từ thương mại, trong đó nhà xuất khẩu nhờ ngân hàng thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra mà không kèm theo điều kiện nào cả, còn chứng từ gửi hàng sẽ được gửi thẳng cho người mua không qua ngân hàng. * Nhờ thu kèm chứng từ - Khái niệm: Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary collection) là loại nhờ thu có kèm chứng từ thương mại, trong đó nhà xuất khẩu ủy thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không những căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ gửi hàng kèm theo điều kiện nhà nhập khẩu phải trả tiền ngay hoặc chấp nhận hối phiếu có kỳ hạn để đổi lấy chứng từ đi nhận hàng. Điều kiện này đã tạo ra cho phương thức thanh toán nhờ thu có hai hình thức: + Nhờ thu trả tiền đồi chứng từ (Documents Against Payment – D/P): Được sử dụng trong trường hợp mua bán trả tiền ngay. + Nhờ thu chấp nhận đổi chứng từ (Documents Against Acceptance – D/A): Được áp dụng trong trường hợp nhờ thu trả sau. 1.3.4. Phương thức tín dụng chứng từ Tín dụng chứng từ hay còn gọi là thư tín dụng (L/C) là một sự thỏa thuận trong đó một ngân hàng ( Ngân hàng phát hành L/C theo yêu cầu của khách hàng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (Người hưởng lợi số tiền của L/C) hoặc phải chấp nhận và trả tiền các hối phiếu do người hưởng lợi ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng. Nội dung của L/C thể hiện các điều kiện, điều khoản đã được ký kết trong hợp đồng thương mại giữa người mua và người bán, có thể hiện sự sắp đặt, thỏa thuận của ngân hàng để đi đến điều khoản cam kết thanh toán bộ chứng từ. Song, cam kết của ngân hàng lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng thương mại. Để được thanh toán từ ngân hàng, người hưởng lợi phải hoàn tất bộ chứng từ phù hợp với các điều kiện điều khoản quy định trong L/C. Đây là một quá trình có tính logic của một vấn đề phát sinh liên quan đến hoạt động thương mại và ngân hàng. 2. Rủi ro trong hoạt động TTQT Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế là những rủi ro về kinh tế phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế, nó do các nguyên nhân phát sinh từ quan hệ giữa các bên tham gia TTQT (nhà xuất khẩu, nhập khẩu, ngân hàng, các tổ chức, cá nhân và các tác nhân trung gian…) hoặc những nhân tố khách quan khác gây nên như thiên tai, chiến tranh, chính trị... Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế liên quan đến các giao dịch thương mại quốc tế. Nó cũng giống như rủi ro trong giao dịch thương mại trong nước, nhưng phức tạp hơn do khoảng cách về địa lý, những khác biệt về văn hóa, luật pháp,… PHẦN II: MỘT SỐ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TTQT Hoạt động TTQT là hoạt động mang tính phức tạp và đa chiều, trong quá trình diễn ra hoạt động này, có nhiều rủi ro mang tính chất chủ quan và khách quan, tuy nhiên trong phạm vi bài thảo luận nhỏ, chúng ta có thể xem xét các loại rủi ro trong TTQT thường gặp theo một số khía cạnh, từ đó có cái nhìn tổng thể hơn về hoạt động này: I. Phân loại theo nguyên nhân phát sinh 1. Rủi ro thương mại Loại rủi ro này hiện diện trong tất cả các giao dịch giữa các thương gia, do đó cần được xem xét một cách khác nhau từ phía người xuất khẩu và nhập khẩu. 1.1.Đối với người xuất khẩu, rủi do đến từ các nguyên nhân sau: - Sự suy yếu về tài chính của người mua hàng (nhà nhập khẩu). Trong trường hợp này người mua hàng bất ngờ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán trong thời hạn đã thỏa thuận, họ sẽ đề nghị xin gia hạn trả nợ. Người bán sẽ phải chấp nhận nếu người mua chưa thể cải thiện tình hình tài chính. - Những quy định pháp lý: trường hợp người mua tuyên bố không còn khả năng chi trả, doanh nghiệp đó sẽ bị giải thể theo luật pháp. Nợ của nhà xuất khẩu chỉ được thanh toán sau khi các khoản nợ được ưu tiên đã giải quyết xong như các khoản tiền lương, thuế, các khoản nợ các tổ chức xã hội,… do đó sẽ có rất ít cơ hội thu hồi các khoản mà người mua đã nợ. 1.2. Đối với người nhập khẩu, rủi do đến từ các nguyên nhân sau: - Thời hạn gửi hàng: theo hợp đồng đã ký kết, người nhập khẩu bắt buộc phải nhận hàng trong thời hạn đã thỏa thuận. Mọi sự chậm trễ trong quá trình vận chuyển từ người xuất khẩu đều gây khó khăn cho việc nhận hàng theo đúng hợp đồng và sẽ gây tổn thất đối với người mua hàng. - Sự thay đổi về điều kiện và thời gian thanh toán: Nhiều khi hợp đồng thương mại đã ký quy định cụ thể về các điều kiện và thời gian thanh toán, song người xuất khẩu đơn phương thay đổi buộc nhà nhập khẩu phải thanh toán một lần toàn bộ số tiền hàng mới được nhận hàng, điều này khiến cho nhà nhập khẩu bị động và phải có khoản vay của Ngân hàng để tài trợ cho việc thanh toán. Nếu khoản vay lớn sẽ gây khó khăn trong việc vay vốn và ảnh hưởng đến khả năng nhận hàng. - Yếu tố giá cả: Trong quá trình thực hiện hợp đồng, với lý do đặc biệt như chính trị, thiên tai, người xuất khẩu yêu cầu người nhập khẩu phải trả mức giá cao hơn so với thỏa thuận. Trong trường hợp này người nhập khẩu có thể từ chối hợp đồng và tìm người cung cấp mới, song sẽ bị chậm hơn so với quy định với các đối tác. Nhiều khi họ không có sự lựa chọn nào khác và buộc phải chấp nhận giá cao gây tổn thất trong lợi nhuận. - Rủi ro trong bảo hiểm: Trong hợp đồng thương mại được ký, các bên tham gia thiếu sự quản lý chặt chẽ có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng trong vận chuyển hàng hóa. Khi đó hàng hóa được đền bù với giá quy định trong hợp đồng bảo hiểm, nhưng có thể thấp hơn nhiều so với giá trị thực của hàng hóa. - Yếu tố chất lượng, nguồn gốc của hàng hóa: Hàng hóa với chất lượng không như chuẩn mực đã ký kết hay như tên gọi gốc sẽ gây ra những rắc rối đối với người nhập hàng trong việc quan hệ với các cơ quan chức năng: hải quan, thuế,...Ví dụ khi hợp đồng hàng hóa đã ký nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa tại một nước nào đó thi không thể thay thế bằng hàng nhập từ nước khác. Trường hợp hải quan xác định nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa không đúng như đăng ký , người nhập khẩu sẽ phải trả thêm lệ phí. Một ví dụ điển hình trong thực tế, Công ty Hapos của Úc đã ký thoả thuận mua hàng với một đối tác Nhật Bản, nhưng trong hợp đồng, Hapos đã để cho đối tác Nhật Bản lựa chọn hãng tàu vận chuyển. Hapos cứ đinh ninh đợi hàng về, nhưng sự việc bất ngờ đã xảy ra, chiếc tàu của hãng tàu trên trên đường từ Nhật Bản đến Úc đã bị hải quan bắt giữ vì có vận chuyển hàng cấm và hàng chưa kê khai hải quan. Kết quả là tất cả các hàng hoá mà Hapos đặt cũng bị tịch thu luôn. 2. Rủi ro do cho vay tín dụng phục vụ xuất nhập khẩu - Khái niệm: Rủi ro tín dụng xảy ra khi NHTM cấp tín dụng cho khách hàng để thực hiện các phương thức thanh toán quốc tế theo những điều kiện thanh toán đã thỏa thuận với đối tác nước ngoài. - Nguyên nhân: Rủi ro tín dụng gây ra cho các ngân hàng xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan: Nguyên nhân chủ quan: + Khả năng áp dụng quy chế và năng lực cán bộ trong quá trình thẩm định món vay xuất – nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ trước khi thực hiện các phương thức thanh toán chuyển tiền, nhờ thu, thanh toán theo L/C, thanh toán ứng trước, chiết khấu hối phiếu và chứng từ, đó là các vấn đề như thẩm định phương án vay vốn, phân tích năng lực tài chính, khả năng hoàn trả, hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng, khả năng phân tích các thông tin rủi ro từ phía đối tác của khách hàng, của ngân hàng nước ngoài. + Sự phối hợp giữa thực hiện nghiệp vụ TTQT của cán bộ đối với những dịch vụ thanh toán cung ứng tín dụng. đó là các vấn đề về điều kiện thanh toán, sửa đổi L/C, ký hậu và bảo lãnh vận đơn nhận hàng.. Nguyên nhân khách quan: Đối với các phương thức thanh toán, khả năng rủi ro tín dụng bao gồm các nguyên nhân rủi ro do khả năng thanh toán của khách hàng và ngân hàng nước ngoài đem lại, mà khả năng này lại phụ thuộc vào các nhân tố khách quan khác như: Đối tác của khách hàng không thực hiện hợp đồng đúng, đủ, kịp thời về hàng hóa và điều kiện thanh toán làm phá vỡ kế hoạch tiêu thụ, kế hoạch sản xuất – kinh doanh của khách hàng, hàng hóa bị mất mát trong quá trình vận chuyển do khách hàng xuất – nhập khẩu đảm nhiệm, hàng kém phẩm chất phát sinh trong quá trình vận chuyển, đối tác không có khả năng thanh toán, ngân hàng nước ngoài đang trong quá trình sát nhập giải thể, phá sản.. Riêng đối với phương thức tín dụng chứng từ thì rủi ro tín dụng là đặc thù vì theo phương thức này: + Ngân hàng phát hành thực sự bị ràng buộc vào cam kết thanh toán cho người hưởng lợi nếu bộ chứng từ phù hợp được xuất trình, nên kể cả khi ngân hàng thông báo cung cấp tín dụng cho người mở thì ngân hàng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình. + Ngân hàng thương lượng khi đã chiết khấu, ứng trước bộ chứng từ có sai sót hoặc không bảo lưu quyền truy đòi nhà xuất khẩu thì có thể nhận lấy rủi ro không được thanh toán của ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng hoàn tiền. 3. Rủi ro tỷ giá - Khái niệm: Rủi ro tỷ giá là những rủi ro xảy ra khi việc thanh toán được ấn định bằng đồng ngoại tệ của một nước nào đó. Khi tỷ giá hối đoái biến động so với tỷ giá khi ký kết hợp đồng xuất khẩu sẽ có lợi cho người này và thiệt cho người khác. Nếu ngoại tệ lên giá thì nhà nhập khẩu bị thiệt hại và ngược lại nếu ngoại tệ mất giá thì người xuất khẩu sẽ gặp rủi ro. Một cách chung nhất, rủi ro hối đoái tồn tại khi biến động tỷ giá ảnh hưởng tới từng nghiệp vụ tiền mặt của công ty hay toàn bộ luồng tiền mặt của công ty. Nói một cách khác, có thể hiểu rủi ro hối đoái là sự không chắc chắn về giá trị của một khoản thu nhập hay một khoản chi trả do sự biến động tỷ giá gây ra có thể làm tổn thất đến giá trị dự kiến. - Tác động của rủi ro tỷ giá: Rủi ro hối đoái cũng có thể coi như rủi ro suy đoán và tác động của nó đối với các khoản phải thu, phải trả là trái ngược nhau, và tùy thuộc vào vị trí của doanh nghiệp là nhà xuất khẩu hay nhập khẩu mà tác động của rủi ro hối đoái cũng khác nhau. + Đối với nhà xuất khẩu, tỷ giá biến động sẽ phá vỡ kế hoạch tính toán của nhà xuất khẩu, chẳng hạn khi giá cả đồng tiền trong nước so với đồng ngoại tệ tăng (tỷ giá hối đoái giảm) sẽ bất lợi cho nhà xuất khẩu vì tiền bán hàng thu về bằng ngoại tệ sẽ được ít đồng nội tệ hơn do vậy mua được ít yếu tố đầu vào hơn làm cho kinh doanh xuất khẩu có thể bị thua lỗ. Biến động tỷ giá hối đoái giảm còn ảnh hưởng khi nhà xuất khẩu nhận tài trợ xuất khẩu từ ngân hàng bằng nội tệ để phục vụ sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. + Đối với nhà nhập khẩu, việc lựa chọn đồng tiền thanh toán và đồng tiền tính toán trong một thương vụ khác nhau cũng gây nên rủi ro cho nhà nhập khẩu khi có biến động tỷ giá. Ngược lại với xuất khẩu, khi tỷ giá hối đoái biến động tăng (giá cả đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ giảm) sẽ bất lợi cho nhà nhập khẩu vì họ mua ngoại tệ thanh toán cho hàng hóa nhập khẩu với giá cao nhưng giá cả tiêu thụ hoặc nguyên vật liệu còn phụ thuộc cung cầu thị trường không thể bù đắp nổi với biến động thay đổi tỷ giá. Những khoản tín dụng bằng ngoại tệ do ngân hàng cung cấp sẽ đến hạn trong tương lai càng trở nên lớn hơn do cộng thêm tỷ lệ tỷ giá hối đoái tăng. + Đối với các ngân hàng thương mại: Trong quá trình thực hiện thanh toán cho khách hàng, vấn đề quản lý nguồn ngoại tệ và hoạt động kinh doanh ngoại tệ để đảm bảo nhu cầu thanh toán trên cơ sở cân đối tài sản có bằng ngoại tệ là vô cùng quan trọng, nhằm tránh những rủi ro do biến động tỷ giá gây nên. Chẳng hạn khi trạng thái ngoại tệ của một ngân hàng là dư thừa, nếu tỷ giá biến động tăng liên tục thì đối với các nước có hệ thống ngân hàng hoạt động trên thị trường ngoại tệ không hiệu quả, hoặc khả năng dự trữ của ngân hàng trung ương yếu có thể làm cho ngân hàng đó luôn đứng trước nguy cơ khan hiếm nguồn ngoại tệ, ngược lại nếu tỷ giá giảm liên tục thì ngân hàng đó cũng luôn đứng trước nguy cơ lỗ về tỷ giá. 4. Rủi ro quốc gia - Khái niệm: Rủi ro quốc gia là những rủi ro liên quan đến sự thay đổi về chính trị, kinh tế, về chính sách quản lý ngoại hối - ngoại thương của một quốc gia khiến cho nhà xuất khẩu không nhận được tiền hàng và nhà nhập khẩu không nhận được hàng hóa. Loại rủi ro này là do những nguyên nhân khách quan gây nên: Xảy ra chiến tranh, đảo chính, biểu tình ở các nước Xảy ra khủng hoảng chính trị, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tài chính – tiền tệ gây ra những khó khăn trong thanh toán. Những cấm vận trong thanh toán: nước nhập khẩu bị phong tỏa tài khoản do những món nợ nước ngoài chưa trả, hoặc do quan hệ không bình thường giữa hai nước có quan hệ kinh tế quốc tế làm cho các hợp đồng ngoại thương, hiệp định thương mại bị hủy bỏ giữa chừng. Dự trữ ngoại hối ở mức thấp và cán cân thanh toán quốc tế của quốc gia bị thâm hụt nặng nề khiến cho Chính phủ nước nhập khẩu phải đưa ra biện pháp cấm thanh toán hoặc chuyển ngoại hối ra nước ngoài. Rủi ro quốc gia của nước nhập khẩu xảy ra khi người mua có khả năng và sẵn sàng thanh toán cho người bán, song do những biến động hoặc biến cố bất thường trong quốc gia nhập khẩu khiến cho chính phủ của nước nhập khẩu cấm các công ty của nước mình thanh toán ngoại tệ ra nước ngoài, hoặc hàng hóa nhập khẩu thuộc diện cấm nhập khẩu nên không được làm thủ tục thông quan. Rủi ro quốc gia của nước xuất khẩu xuất hiện khi có sự thay đổi về chính sách ngoại thương, thuế quan của quốc gia đó. Nhà xuất khẩu đã chuẩn bị giao hàng, song do thuế xuất khẩu tăng hoặc hàng hóa thuộc diện cấm xuất khẩu. Cũng có khi do quan hệ thanh toán giữa hai quốc gia chưa được bình thường hóa nên gây khó khăn cho việc nhận tiền hàng của người xuất khẩu. Rủi ro quốc gia cũng có thề xảy ra đồng thời với nhà xuất khẩu và nhập khẩu nếu sau khi ký kết hợp đồng ngoại thương chính phủ nước nhập khẩu và xuất khẩu đều không cho phép nhập khẩu và xuất mặt hàng đó nữa. Trong kinh doanh quốc tế, việc phòng tránh rủi ro quốc gia là một vấn đề rất quan trọng đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Vì vậy trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh với đối tác, các nhà quản trị cần nhận dạng và phân tích kỹ cấu trúc rủi ro quốc gia để từ đó xây dựng các chính sách đề phòng, bảo hiểm. 5. Rủi ro đạo đức Là những rủi ro xảy ra khi một bên tham gia cố tình không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình gây thiệt hại tới quyền lợi của người khác. Đạo đức ở đây chính là sự tín nhiệm, uy tín trong kinh doanh. Đây là vấn đề quan trọng trong thương mại và thanh toán quốc tế, vì các bên đối tác thường ở cách nhau rất xa, thậm chí không hề gặp nhau trong quá trình thực hiện đàm phán. 5.1. Rủi ro đạo đức nhà nhập khẩu. Nấu khách mua hàng không phải bạn hàng lâu năm, có uy tín thì rất dễ có những hành vi lừa người bán. Họ cố tình trì hoãn, từ chối thanh toán bằng những thủ đoạn nghiệp vụ như bắt lỗi sai sót chứng từ, ép giá người bán để thu lợi cho mình. Có trường hợp do giá hàng hóa nhập khẩu giảm nên người mua hàng sợ thua lỗ trong kinh doanh đã có tình không nhận bộ chứng từ để lấy hàng, hoặc trì hoãn không thanh toán đẩy ngân hàng và nhà xuất khẩu vào tình thế khó khăn. 5.2. Rủi ro đạo đức nhà xuất khẩu. Khi nhà xuất khẩu cố ý giao hàng không phù hợp với hợp đồng, nhưng lại xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo với các điều khoản ký kết của hợp đồng, hoặc nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ khống giả mạo (không giao hàng). Ngân hàng khi đó sẽ thực hiện thanh toán và nhà xuất khẩu sẽ phải gánh chịu mọi rủi ro. Nếu ngân hàng tài trợ cho người nhập khẩu thì rủi ro này ngân hàng cũng phải gánh chịu. Trường hợp giá cả hàng hóa quốc tế tăng, người bán hàng sợ thiệt không muốn giao hàng cho người mua nữa, điều này sẽ phá vỡ kế hoạch sản xuất kinh doanh và gây thiệt hại cho người mua. 5.3. Rủi ro đạo đức của nhà chuyên chở Người bán hàng giao hàng cho người chuyên chở, nhưng bị họ lừa đảo, nhận hàng lấy tiền rồi biến mất, hoặc bán mất hàng. Trong khi đó ngân hàng vẫn phải thực hiện việc thanh toán cho người bán hàng theo hồ sơ chứng từ, còn việc kiện hãng chuyên chở, hoặc chờ bảo hiểm hoàn toàn tách rời nhau. Việc chờ đợi, kiện tụng rất mất thời gian và tốn kém, gây thiệt hại cho cả người mua và người bán. 5.4. Rủi ro đạo đức của ngân hàng Trong nhiều trường hợp ngân hàng phát hành cũng vi phạm cam kết như trì hõa, châp ỳ, hoặc từ chối thanh toán bộ chứng từ cho nhà xuất khẩu. Hoặc ngược lại đối với sự thiếu trung thực của ngân hàng chiết khấu khi bộ hồ sơ không hoàn hảo vẫn gửi điện cam kết hồ sơ chuẩn đòi tiền ngân hàng phát hành. Nếu ngân hàng phát hành tin tưởng thanh toán sẽ gặp rủi ro, việc đòi lại được tiền rất khó khăn. Như vậy có thể kết luận rằng nguyên nhân sâu xa của rủi ro đạo đức là vấn đề thông tin không đầy đủ, không cân xứng, thiếu những thông tin xác thực về khả năng tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh, cũng như uy tín, tính trung thực của của đối tác. Vì vậy đã đưa ra những quyết định sai lầm dẫn đến rủi ro trong thanh toán. 6. Rủi ro pháp lý Rủi ro về pháp lý xảy ra trong trường hợp có tranh chấp hay khiếu kiện giữa các bên có tham gia thanh toán. Khi đó vấn đề đặt ra là tòa án nước nào sẽ đứng ra thụ lý và xử vụ án trên cơ sở pháp lý nước nào. Mặc dù trong hợp đồng mua bán đã đề cập đến vấn đề này, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều khó khăn bởi vì không bên nào có thể thông thạo luật pháp của bên đối tác. Chính vì môi trường pháp lý và luật pháp của các bên khác nhau nên rủi ro pháp lý là không thể tránh khỏi. 7. Rủi ro trong quá trình hoạt động, tác nghiệp - Khái niệm: Là những rủi ro sai sót kỹ thuật do chính các bên tham gia gây nên, rủi ro này được thể hiện trong việc lập các hồ sơ chứng từ không hoàn hảo. - Nguyên nhân: Rủi ro này này xảy ro chủ yếu là do trình độ của các bên tham gia còn yếu nên chưa nắm bắt được các yêu cầu của quá trình thanh toán, dẫn đến sai sót trong quá trình giao dịch từ lúc soạn thảo và ký kết hợp đồng cho đến khâu lập chứng từ và thanh toán. Cụ thể các bên gặp rủi ro như sau: + Ngân hàng chuyển tiền: Do nhận chuyển tiền cho những hợp đồng thanh toán vi phạm chế độ quản lý hạn ngạch nhập khẩu, chế độ quản lý ngoại hối, những hợp đồng thanh toán ma được lập để lợi dụng hoạt động phi pháp.. + Ngân hàng uỷ nhiệm và nhận nhờ thu: Do giao bộ chứng từ nhận hàng cho khách hàng trước khi nhận được thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán hối phiếu, nhận và gửi chỉ thị thanh toán không rõ ràng. + Các ngân hàng có liên quan trong phương thức tín dụng chứng từ: Ngân hàng phát hành bao gồm các rủi ro về mặt phát hành và về kiểm tra chứng từ: Phát hành thư không đúng theo các điều kiện của đơn xin mở L/C, hoặc có những điều khoản bất lợi, dẫn đến các rủi ro: Không những phải chịu chi phí sửa đổi, đôi khi những điều này lại có lợi cho người bán nên họ sẽ không chấp nhận sửa đổi nếu họ không có thiện chí vì vậy có thể dẫn đến rủi ro cho người mở kéo theo rủi ro cho ngân hàng. Kiểm tra chứng từ không phát hiện được sai sót mà thực hiện thanh toán sẽ gặp khả năng rủi ro không được hoàn lại tiền từ nhà nhập khẩu. Ngân hàng xác nhận : Bằng việc gắn thêm các cam kết thanh toán theo thư tín dụng khi ngân hàng phát hành không thanh toán hoặc không có khả năng thanh toán cho ngân hàng. Vì vậy nó có rủi ro do: + Rủi ro thương mại của ngân hàng phát hành, họ không có khả năng thanh toán. + Rủi ro do kiểm tra bộ chứng từ: Nếu ngân hàng xác nhận thanh toán không đúng cho người hưởng khi bộ chứng từ có sai sót thì ngân hàng phát hành có quyền từ chối hoàn tiền cho ngân hàng xác nhận. Ngân hàng thông báo: Ngân hàng thông báo L/C sẽ không có bất cứ một cam kết nào khi thông báo thư tín dụng nhưng việc xác thực một thư tín dụng hay sửa đổi thư tín dụng qua các khóa mật hoặc kiểm tra cẩn thận vể tính chân thật của nó sẽ có những rủi ro do đã thông báo L/C giả mạo không xác thực mà không lưu ý cho người được thông báo. Ngân hàng chiết khấu, thương lượng: Ngân hàng này bao gồm các rui ro của ngân hàng phát hành, ngân hàng hoàn trả tiền của người hưởng và rủi ro kiểm tra chứng từ. Nếu ngân hàng thương lượng không kiểm tra chứng từ giao hàng của nhà xuất khẩu một cách cẩn thận, thích đáng thì những sai sót của bộ chứng từ đã được thương lượng sẽ bị ngân hàng phát hành từ chối một cách hợp pháp. II. Phân loại theo các phương thức thanh toán quốc tế 1. Rủi ro trong phương thức chuyển tiền Trong phương thức thanh toán chuyển tiền Ngân hàng đóng vai trò trung gian thanh toán phục vụ khách hàng, với vị trí trung gian giữa người chuyển trả tiền và người thụ hưởng, thực hiện lệnh của các bên liên quan. Vì vậy Ngân hàng không thể can thiệp vào thiện chí của bên chi trả cho bên thụ hưởng. Rủi ro có thể xẩy ra đối với phương thức chuyển tiền: 1.1. Rủi ro đối với n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26201.doc