Sách giáo khoa và phương pháp làm việc với Sách giáo khoa ngữ Văn 10

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Ngự Đàn Chuyên ngành : Lý luận và phương pháp dạy học môn Văn Mã số : 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THANH BÌNH Thành phố Hồ Chí Minh - 2008 LỜI CÁM ƠN Trước hết, chúng tôi xin trân trọng cám ơn sự chỉ đạo, giúp đỡ của Phòng Khoa học - Công nghệ - Sau Đại học, khoa Ngữ văn trường Đại học Sư Phạm TP. Hồ Chí Minh đã có định hướng cụ thể, thiết thực giúp chúng tôi

pdf97 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1836 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Sách giáo khoa và phương pháp làm việc với Sách giáo khoa ngữ Văn 10, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hình thành ý tưởng của đề tài này. Luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của TS.TRẦN THANH BÌNH. Em xin chân thành cám ơn! Triển khai phần khảo sát, chúng tôi nhận được sự quan tâm hợp tác của nhiều giáo viên Ngữ văn các trường THPT trên địa bàn TP. Phan Thiết, quý phụ huynh và học sinh lớp 10 trường THPT Phan Bội Châu. Chúng tôi cũng nhận được sự ủng hộ của giáo viên các trường THPT Trần Khai Nguyên (TP. Hồ Chí Minh), Lâm Thới (Huyện Nhà Bè) và Trần Phú (TP. Vũng Tàu). Chúng tôi xin chân thành cám ơn sự nhiệt tình, quan tâm cộng tác của quý thầy cô. Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu trường THPT Phan Bội Châu – Phan Thiết đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành khóa học. Cuối cùng, tôi xin tri ân cha mẹ và gia đình đã luôn quan tâm, động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này. Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng do vấn đề còn mới mẻ, nguồn tài liệu nghiên cứu chưa nhiều, năng lực của người thực hiện đề tài còn có hạn, luận văn chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế. Một lần nữa, chúng tôi xin ghi nhận và chân thành cám ơn những ý kiến chỉ đạo, sự trao đổi, đóng góp, giúp đỡ chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn. Phan Thiết, tháng 8 năm 2008 TRẦN NGỰ ĐÀN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nghị quyết số 40/2000/QH10, ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội khĩa X đã khẳng định: “Mục tiêu của việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thơng là xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thơng mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ cơng nghiệp hĩa, hiện đại hĩa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam; tiếp cận trình độ giáo dục phổ thơng ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thơng phải quán triệt mục tiêu, yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục của các bậc học, cấp học qui định trong Luật Giáo dục; khắc phục những mặt cịn hạn chế của chương trình, sách giáo khoa hiện hành; tăng cường tính thực tiễn, kỹ năng thực hành, năng lực tự học; coi trọng kiến thức khoa học xã hội và nhân văn; bổ sung những thành tựu khoa học và cơng nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh” [10, tr.683]. Như vậy, khác với những lần cải cách trước đây (năm 1950, 1956, 1980), lần cải cách này chỉ tập trung đổi mới chương trình và sách giáo khoa (SGK) giáo dục phổ thơng. Trong các sách giáo dục, SGK là bộ phận quan trọng nhất vì là sách dùng trong nhà trường, chứa đựng những kiến thức cơ bản mà học sinh (HS) phổ thơng phải đạt được. SGK là tài liệu thể hiện một cách cụ thể nhất nội dung và phương pháp giáo dục của mỗi mơn học trong chương trình giáo dục. Đĩ là cơng trình khoa học sư phạm, thể hiện mục tiêu giáo dục qui định trong Luật Giáo dục. SGK là đối tượng, nội dung và cả phương pháp trong suốt quá trình dạy và học ở nhà trường phổ thơng. Mỗi bộ SGK chứa đựng những kiến thức cơ bản thích hợp với nhận thức của HS, là bộ sách dùng chung cho HS và giáo viên (GV). SGK chính là một trong những phương tiện giáo dục. Cĩ vai trị quan trọng như vậy nhưng trên thực tế những vấn đề cơ bản về SGK cũng như vai trị của SGK đối với việc dạy học phát triển hay vấn đề sử dụng SGK tất cả đều chưa được GV và HS quan tâm đúng mức. Theo quan điểm biên soạn mới ngồi việc cung cấp kiến thức, SGK cịn là tài liệu nhằm giúp học sinh tự học. Tự học là chiến lược học tập của xã hội ngày nay. Biết cách làm việc với SGK bộ mơn, tận dụng mọi điều kiện mà SGK cung cấp để học tập và rèn luyện chính là thể hiện của tự học. Để cĩ thể tự làm việc với SGK GV và HS phải hiểu được nguyên tắc biên soạn của bộ sách, nội dung bộ sách, cấu trúc bộ sách, cấu trúc bài học trong bộ sách, ưu điểm và hạn chế của bộ sách… Khảo sát 93 GV dạy Ngữ văn ở các trường Trung học phổ thơng (THPT) trên địa bàn thành phố Phan Thiết, một trường ở Vũng Tàu và hai trường tại thành phố Hồ Chí Minh về kỹ năng hướng dẫn HS làm việc với SGK Ngữ văn 10, chúng tơi nhận thấy khơng phải tất cả GV đều quan tâm xem HS tự làm việc với bộ sách này như thế nào. Con số GV khơng giới thiệu cho HS biết nguyên tắc biên soạn bộ sách Ngữ văn 10 là 46,23%; 41,93% GV khơng giới thiệu cấu trúc bộ sách Ngữ văn 10 cho HS; 58,06% GV khơng giới thiệu cho HS nhận biết cấu trúc bài học trong sách Ngữ văn 10. Cĩ hơn một nửa GV được khảo sát (60,02%) khơng hướng dẫn HS làm việc với SGK Ngữ văn 10. Để đáp ứng chương trình và SGK mới, việc đổi mới phương pháp dạy học là rất quan trọng, địi hỏi một phong cách làm việc, học tập mới của đội ngũ GV và HS. Đổi mới phương pháp dạy học khơng đồng nghĩa với việc xĩa bỏ phương pháp dạy học truyền thống mà tiếp tục tận dụng những ưu điểm của phương pháp truyền thống và làm quen với những phương pháp dạy học mới, kết hợp các phương pháp một cách khoa học. Trong hệ thống phương pháp đĩ cĩ cả ý thức của GV và HS trong việc hiểu và sử dụng SGK. Dạy học theo phương pháp tích cực, GV khơng chỉ hướng dẫn HS chiếm lĩnh kiến thức mà cịn hướng dẫn HS biết cách tự làm việc với SGK, chủ động học tập chống lại thĩi quen học tập thụ động nhằm hình thành cho HS kỹ năng tự học. Trên cơ sở những điều đã trình bày, chúng tơi chọn đề tài “Sách giáo khoa và phương pháp làm việc với sách giáo khoa Ngữ văn 10” để gĩp phần vào việc giải quyết những vấn đề nêu trên. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn giúp GV và HS hiểu rõ những lí luận cơ bản về SGK, cụ thể là bộ sách Ngữ văn 10, từ đĩ giúp GV và HS sử dụng tốt hơn, phát huy đầy đủ hơn chức năng của SGK trong quá trình dạy và học nhằm gĩp phần chuẩn bị cho việc thực hiện hĩa chủ trương một chương trình – nhiều bộ SGK. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu thứ nhất của luận văn là những vấn đề lí luận cơ bản của SGK.Vì thế, chương 1 của luận văn trình bày những vấn đề lí luận như: quan niệm về SGK, mối quan hệ giữa SGK với sách giáo viên (SGV) và sách tham khảo (STK), cấu trúc của SGK, phương pháp trình bày nội dung kiến thức trong SGK, chức năng của SGK. Chính mục tiêu giáo dục sẽ quy định việc đổi mới chương trình, chương trình sẽ quy định nội dung SGK. Cấu trúc và nội dung của SGK sẽ quy định tiến trình thực hiện chương trình mơn học, phương pháp dạy học bộ mơn cách thức làm việc với bộ SGK đĩ. Đối tượng nghiên cứu thứ hai của luận văn là SGK Ngữ văn 10. Chương 2 của luận văn sẽ tìm hiểu những vấn đề cơ bản nhất của bộ sách Ngữ văn 10. Những ưu điểm, hạn chế của bộ sách Ngữ văn 10, những ý kiến cần trao đổi, những nhận xét bước đầu về STK sẽ được đề cập ở chương 3. Hiểu biết những vấn đề này sẽ giúp GV và HS khai thác sách tốt hơn, phát huy chức năng của bộ sách trong quá trình dạy và học, chủ động trong phương pháp làm việc với SGK Ngữ văn 10. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Do khuơn khổ của luận văn, đề tài tập trung nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề cơ bản của SGK sau năm 2000 chú trọng đến bộ SGK Ngữ văn 10. Từ những nhận xét về bộ sách Ngữ văn 10, luận văn giúp GV và HS làm việc với bộ sách này một cách cĩ hiệu quả. 4. Lịch sử vấn đề Ở nước ta, vấn đề nghiên cứu về SGK chưa nhận được sự quan tâm đúng mức từ các tổ chức xã hội, giáo dục khác. Các cơng trình chuyên sâu về SGK khơng nhiều. Sau mỗi lần cải cách thay SGK, những bài viết đăng tải trên các trang báo chỉ là những ý kiến khen, chê. Mặc dù, những ý kiến này đã cĩ những đĩng gĩp nhất định nhưng để xây dựng một hệ thống lí luận hồn chỉnh về SGK thì cần phải cĩ những cơng trình nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa. Cĩ thể nĩi, mới chỉ cĩ Nhà xuất bản Giáo dục đặt vấn đề nghiên cứu về SGK một cách hệ thống. Trong quá trình 45 năm làm sách phục vụ cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai và lần thứ ba, Nhà xuất bản Giáo dục đã xuất bản 15 tập “Các vấn đề Sách giáo khoa”, 3 tập “Thơng tin Sách giáo dục” và hơn 10 tập “Các vấn đề Sách giáo dục”. Đây là một tủ sách nghiệp vụ cĩ giá trị lớn. Để hình dung cụ thể hơn lịch sử vấn đề, chúng tơi xin phép dừng lại ở cơng trình “Các vấn đề Sách giáo dục - Tuyển tập”, là cơng trình tuyển chọn các bài viết cĩ giá trị rút ra từ các Kỉ yếu và các tập sách nghiệp vụ nĩi trên. “Các vấn đề Sách giáo dục - Tuyển tập” trình bày những vấn đề cơ bản của việc nghiên cứu lí luận về SGK như: quan niệm về SGK, phương thức biên soạn, mơ hình cấu trúc của SGK, chức năng của SGK, ngơn ngữ trong SGK, mĩ thuật trong SGK, phương pháp luận đánh giá SGK, quan niệm và chức năng của SGV, nội dung SGV, quan niệm về STK và đánh giá STK, chất lượng STK, … Nguyễn Khắc Phi, Vũ Dương Thụy, Dương Trọng Bái cĩ chung quan điểm về SGK. Các tác giả này cho rằng: SGK là sách viết cho HS và GV dùng theo những nội dung chuyên mơn đã quy định trong chương trình và theo những chỉ đạo thống nhất trong Luật giáo dục. Trong bài viết “Những tiêu chí của ngơn ngữ bản văn sách giáo khoa”, Nguyễn Ngọc Nhị nêu thêm một cách hiểu về SGK: “SGK cĩ thể bao gồm cả sách viết cho học sinh và một cuốn sách kèm theo sách đĩ như sách hướng dẫn giáo viên, sách bài tập” [70, tr.40]. Theo đĩ, tác giả cho rằng các STK cũng như sách cơng cụ cĩ liên quan đến GV và HS tạo thành tổ hợp giáo khoa. Như vậy, Nguyễn Ngọc Nhị quan niệm về SGK theo nghĩa rộng. Nĩi đến SGK khơng phải là nĩi đến một cuốn sách độc lập mà là một tổ hợp giáo khoa. Giáo sư Phan Trọng Luận dẫn ra một quan niệm mới về SGK khác với những quan niệm trước đây.Trong bối cảnh sự tiến bộ khơng ngừng của cơng nghệ thơng tin, một CD-ROM cĩ khả năng ghi hàng tỉ bít tương đương với 500 cuốn sách thì khái niệm quen thuộc về SGK khơng thể giữ nguyên như cũ. Với CD-ROM, SGK khơng thể chỉ là những kênh chữ, kênh hình hay các kiểu bài tập ghi chép. Như vậy, cơng tác biên soạn SGK trong tương lai cần quan tâm một cách thực sự đến yêu cầu hiện đại hĩa. Phương thức biên soạn SGK là một trong những vấn đề mà tài liệu “Các vấn đề Sách giáo dục - Tuyển tập” đề cập đến. Biên soạn SGK theo cơng thức “CTWA” (Comprehensive textbook writing approach) đang được chú ý. Ưu điểm của việc tổ chức biên soạn theo cơng thức “CTWA” phần nào khắc phục được hạn chế của phương thức biên soạn “cuốn chiếu”. Phương thức này giảm bớt được sự khơng đồng bộ trong nội dung kiến thức, sự khơng liên tục về trình độ và phần nào sự quá tải. Khi ứng dụng cơng thức “CTWA” ta cũng rút ngắn được thời gian biên soạn. Cùng thời gian 12 tháng, cĩ thể hơn 12 tháng, biên soạn theo cơng thức này hồn thành được 5 bản thảo ở mức hồn chỉnh, nếu theo phương thức “cuốn chiếu” chỉ hồn thành một bản thảo. Dù biên soạn theo phương thức nào cũng cần coi trọng tính đặc thù của bộ mơn, cố gắng bám sát mơ hình chung của SGK mới để cĩ sự thống nhất tương đối giữa SGK các mơn học. Tập tài liệu “Các vấn đề Sách giáo dục - Tuyển tập” cung cấp khá đầy đủ các bài nghiên cứu về mơ hình cấu trúc SGK. Trong bài “Mơ hình cấu trúc sách giáo khoa sau năm 2000”, Trần Kiều - Lê Xuân Trọng đã nêu lên những điểm chung về cấu trúc SGK các mơn học trong nhà trường phổ thơng. Cấu trúc chung của SGK đều gồm ba phần: phần đầu SGK, phần giữa SGK và phần cuối SGK. Trong đĩ, phần giữa SGK là phần chính của sách, bao gồm các phần, các chương, các bài học. Khi nghiên cứu cấu trúc một chương SGK, các tác giả lưu ý cuối mỗi chương nên cĩ những thành phần gì để HS cĩ thể tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả học tập của mình. Nội dung các câu hỏi, bài tập trong cấu trúc bài học nên hướng vào kỹ năng vận dụng kiến thức nhằm phát triển trí tuệ cho HS. Mức độ bài tập thể hiện sự phân hĩa nhằm đáp ứng được những năng lực khác nhau của HS. Ngồi những vấn đề chung về mơ hình cấu trúc SGK, các nhà nghiên cứu chú ý bước đầu đến mơ hình cấu trúc SGK bộ mơn. Về cơ bản, SGK mỗi bộ mơn cĩ sự thống nhất tương đối với mơ hình chung của SGK nhưng tùy theo đặc trưng bộ mơn mà cấu trúc SGK mỗi bộ mơn cĩ những điểm khác biệt. Theo Đỗ Ngọc Thống, mơ hình và cấu trúc nội dung SGK mơn Ngữ văn phải thể hiện được những quan điểm cơ bản về xây dựng và biên soạn SGK Ngữ văn. Mơ hình đĩ được xây dựng theo tinh thần tích hợp, khơng chỉ chú trọng nội dung mà cịn phục vụ tích cực cho việc đổi mới phương pháp dạy học. Về mơ hình SGK mơn Sinh học, tác giả Nguyễn Quang Vinh xác định mơ hình đĩ vừa cung cấp thơng tin vừa hướng dẫn HS xử lí thơng tin. HS được làm việc với các thơng tin mới bằng cách trả lời câu hỏi, trình bày một vấn đề, tiến hành làm thí nghiệm… Nguyễn Minh Phương, Phạm Thu Phương đề xuất những kiến nghị xây dựng mơ hình SGK thí điểm mơn Địa lí. Cấu trúc bài học được trình bày sao cho HS cĩ thời gian tiếp thu lượng kiến thức của bài học, HS thực sự thực sự được làm việc, phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập và cĩ thể tự kiểm tra lại kết quả làm việc. Cĩ thể nĩi, nghiên cứu mơ hình cấu trúc SGK sẽ giúp chúng ta cĩ những kinh nghiệm bổ ích, đĩng gĩp trực tiếp cho việc biên soạn SGK mới ngày càng khoa học và hiện đại hơn. Tài liệu “Các vấn đề Sách giáo dục - Tuyển tập” cũng tuyển chọn các bài viết của nước ngồi nghiên cứu về các chức năng của SGK.Theo Francois Marie Gerard và Xavier Roegiers, SGK phổ thơng cĩ thể cĩ nhiều chức năng khác nhau tùy theo người sử dụng, tùy theo mơn mơn học và tùy hồn cảnh biên soạn sách. Khi HS sử dụng, một cuốn SGK sẽ cĩ nhiều chức năng hướng vào việc học tập và các chức năng hướng vào việc thiết lập liên hệ giữa học tập với đời sống. Các SGK phổ thơng cịn cĩ chức năng đào tạo đối với GV. SGK là cơng cụ cho phép GV thực hiện được vai trị nghề nghiệp của mình trong quá trình dạy học. Tài liệu cũng tuyển chọn một số bài nghiên cứu về ngơn ngữ SGK. Các bài nghiên cứu đều cĩ chung một điểm: ngơn ngữ giáo khoa gồm hai kênh thơng tin (kênh chữ và kênh hình) nhằm truyền tải kiến thức, kỹ năng đến với HS theo đúng yêu cầu của chương trình mơn học. Tuy nhiên, mỗi bài viết này cĩ một diện mạo riêng, gĩp phần nâng cao chất lượng ngơn ngữ bản văn SGK. Nguyễn Trí chỉ ra những thay đổi trong cách viết phần bài học, cách diễn đạt tiêu đề bài học và tiêu đề các phần trong bài học; Nguyễn Quốc Siêu phân tích ý nghĩa các yếu tố ngơn ngữ trong bản văn SGK; Nguyễn Văn Tùng bàn về chức năng của ngơn ngữ SGK; Nguyễn Ngọc Nhị chỉ ra các yếu tố tạo nên chất lượng ngơn ngữ bản văn và những tiêu chí đánh giá chất lượng ngơn ngữ bản văn. Ngồi những vấn đề chung về ngơn ngữ SGK, các nhà nghiên cứu cịn quan tâm đến những yêu cầu riêng đối với ngơn ngữ SGK bộ mơn. Mỗi mơn học mang những đặc trưng riêng do đĩ ngơn ngữ SGK bộ mơn cũng cĩ những yêu cầu riêng. Theo Nguyễn Quốc Luân ngơn ngữ SGK Văn học phổ thơng phải đạt 4 yêu cầu cơ bản: chính xác, đủ hiểu, phát triển, kết hợp hài hịa tính khoa học và tính nghệ thuật. Trần Phương Dung chỉ ra những chỗ dùng kí hiệu tốn học, kí hiệu logic, câu trong SGK Tốn chưa rõ, gây ra sự hiểu lầm làm mất đi sự chính xác của một đề tốn. Từ đĩ, tác giả đưa ra những yêu cầu riêng đặc thù đối với ngơn ngữ bản văn SGK Tốn. Đặc biệt là sự phân biệt giữa các từ trong ngơn ngữ thơng thường được dùng trong tốn. Dựa vào lí luận SGK, Nguyễn Thị Hồng Việt nêu một số suy nghĩ về việc dùng từ và câu trong SGK Vật lí để đi đến kết luận: ngơn ngữ bản văn SGK Vật lí cũng cĩ tính đặc thù riêng của bộ mơn. Phương pháp luận đánh giá SGK là một trong những yếu tố xây dựng hệ thống lí luận SGK. Đào Trọng Quang, Vũ Dương Thụy, Nguyễn Quốc Túy tìm hiểu tiến trình, các tiêu chí và phương pháp cụ thể đánh giá SGK. Đánh giá SGK phải gắn liền với quan niệm SGK thể hiện chương trình bộ mơn. Mỗi mơn học cĩ những sắc thái riêng, vì thế bên cạnh tiêu chí chung, nên cĩ hệ thống những tiêu chí riêng cho từng bộ mơn, từng lớp hoặc từng cấp học. Trở lên trên là những vấn đề lí luận SGK mà tập tài liệu “Các vấn đề Sách giáo dục - Tuyển tập” đã đề cập đến. Cĩ thể xem Tuyển tập này là một tài liệu tham khảo quan trọng khi tìm hiểu về SGK. “Sách giáo khoa một số vấn đề lí luận và thực tiễn” là nhan đề của phần bốn trong tài liệu “Nguyễn Khắc Phi tuyển tập” do Vũ Thanh tuyển chọn. Phần này giới thiệu một số bài viết của Giáo sư Nguyễn Khắc Phi trao đổi về chương trình và SGK Ngữ văn bậc Trung học cơ sở (THCS). Trong các bài viết, Giáo sư Nguyễn Khắc Phi nhấn mạnh một số điểm về phương pháp khi tiếp cận SGK mới làm sao phát huy được ưu thế của phương châm tích hợp. Các bài viết “Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách giáo khoa”, “Cơ sở lựa chọn học vấn phổ thơng để xây dựng chương trình mơn học”, “Về chương trình và sách giáo khoa phổ thơng”, “đổi mới cách viết sách giáo khoa bậc Trung học”, “Những điều kiện ràng buộc đối với cơng cuộc đổi mới chương trình và sách giáo khoa Trung học” của Trần Bá Hồnh đi sâu vào nghiên cứu những mục đích yêu cầu và những định hướng chính cho việc thiết kế chương trình và viết SGK. Qua các bài viết này, tác giả mong muốn chúng ta sẽ cĩ một bộ máy chuyên và một cơ chế đáp ứng nhanh hơn nữa để khơng ngừng phát triển chương trình phổ thơng theo yêu cầu phát triển của đất nước. Riêng đối với SGK Ngữ văn lớp 10, chúng ta cĩ các tài liệu “Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá mơn Ngữ văn 10” của Nguyễn Hải Châu, Nguyễn Trọng Hồn, Lê Hồng Mai, Nguyễn Thị Nhuận, Lê Thị Thanh Tâm; “Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn Trung học phổ thơng” của Đỗ Ngọc Thống; “Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 10 Trung học phổ thơng mơn Ngữ văn” của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các tài liệu này trình bày các nguyên tắc đổi mới chương trình giáo dục mơn Ngữ văn, nội dung chương trình mơn Ngữ văn lớp 10, những định hướng đổi mới phương pháp giảng dạy mơn Ngữ văn lớp 10 và đánh giá kết quả học tập. Về vấn đề “phương pháp làm việc với SGK”, ở nước ta hiện nay chưa cĩ tư liệu chuyên sâu nào. Vấn đề này chỉ mới được nhắc đến trong tài liệu “Phương pháp dạy học văn” tập 2 của Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh. Các tác giả viết: “Làm việc với giáo khoa” rèn cho HS năng lực nghiên cứu, năng lực tự học theo giáo khoa. Hoạt động này tận dụng sách giáo khoa, khắc phục tình trạng “thiếu kiến thức nhưng thừa giáo khoa” như đã nĩi ở trên. “Làm việc với giáo khoa” địi hỏi HS phải chuẩn bị bài học văn học sử theo nếp: đọc giáo khoa, lập dàn ý kiến thức bài học, nêu thắc mắc. “Làm việc với giáo khoa” cĩ thể vận dụng qua cá biện pháp sau: HS dàn ý hĩa giáo khoa, HS đọc giáo khoa, HS phát hiện luận điểm và các dẫn chứng minh họa cho luận điểm, HS thắc mắc về nội dung cấu trúc giáo khoa, HS học bài theo giáo khoa…, HS đối chiếu nội dung và cách trình bày kiến thức giữa các bộ sách khác nhau… Các biện pháp này cĩ thể thực hiện theo sự gợi ý của GV, cĩ thể do GV thuyết giảng độc thoại hoặc cĩ thể cho HS làm bài tập ở nhà” [54, tr.46]. Tĩm lại, các vấn đề lí luận SGK tuy đã được đặt ra và đã cĩ nhiều bài viết đề cập đến nhưng để xây dựng được một hệ thống lí luận hồn chỉnh về SGK thì vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa. Những bài viết, cơng trình nghiên cứu, các cuộc thảo luận về SGK là cơ sở khoa học để SGK trở thành một đối tượng nghiên cứu khoa học, một cơng trình khoa học. Đây chính là nền tảng để xây dựng một hệ thống lí luận hồn chỉnh về SGK. 5. Phương pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận của luận văn là quan điểm đổi mới giáo dục của Đảng, nghị quyết của Quốc hội, chỉ thị của Chính phủ, các văn bản chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi mới phương pháp dạy học, các nguyên tắc biên soạn chương trình, SGK các bộ mơn nĩi chung và mơn Ngữ văn nĩi riêng. Luận văn sử dụng phương pháp thu thập tài liệu, phương pháp nghiên cứu sản phẩm, phương pháp so sánh. Ngồi ra, để vấn đề nghiên cứu cĩ cơ sở chứng thực, luận văn dùng phương pháp khảo sát, trắc nghiệm, xử lý kết quả khảo sát. 6. Ýnghĩa khoa học của đề tài Luận văn cố gắng hệ thống hĩa các luận điểm về SGK nhằm giúp GV và HS hiểu được những vấn đề cơ bản về SGK. Đĩ chính là cơ sở lí luận để GV và HS phát huy vai trị của SGK, sử dụng SGK trong thực tế dạy học một cách cĩ hiệu quả. Từ việc phân tích cấu trúc, nội dung và hình thức của SGK Ngữ văn 10, những cảm nhận của bản thân đối với bộ sách Ngữ văn 10 nĩi riêng và những bộ SGV, STK Ngữ văn khác, luận văn giúp GV và HS chủ động đưa ra hướng giải quyết trong quá trình soạn giảng cũng như soạn bài, học bài theo SGK. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN CỦA SÁCH GIÁO KHOA 1.1. Quan niệm về sách giáo khoa Đại từ điển Tiếng Việt định nghĩa “Sách giáo khoa là sách soạn theo chương trình để dạy và học trong nhà trường” [114, tr.1354]. Định nghĩa trên được hiểu theo nghĩa hẹp và quen thuộc, SGK là sách viết cho HS theo những nội dung chuyên mơn đã được quy định trong chương trình và theo những quan điểm chỉ đạo thống nhất về phương pháp dạy học. Theo định nghĩa này, một số nhà nghiên cứu cho rằng các loại sách phục vụ cho HS mẫu giáo, sách dạy học vần... chưa được coi là SGK. Luật Giáo dục, chương 2 mục 2 điều 29 quy định: “Sách giáo khoa cụ thể hố yêu cầu về nội dung kiến thức và kỹ năng quy định trong chương trình giáo dục của các mơn học ở những lớp của giáo dục phổ thơng, đáp ứng yêu cầu về phương pháp giảng dạy phổ thơng. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình phổ thơng, duyệt sách giáo khoa để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở các cơ sở giáo dục phổ thơng, trên cơ sở thẩm định của Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình giáo dục phổ thơng và sách giáo khoa” [9, tr.16]. Điều lệ trường Trung học, điều 23 ghi “Sách giáo khoa Trung học bao gồm sách bài học và sách bài tập theo danh mục được Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở trường Trung học” [10, tr. 144]. Hiểu theo nghĩa rộng SGK cĩ thể bao gồm cả sách viết cho HS và một số sách kèm theo như SGV, sách bài tập (SBT). Đây là một đặc điểm của giáo dục hiện đại, quan tâm nhiều đến kỹ năng thực hành. Trước đây, hệ thống SGK khơng bao gồm SBT, phần bài tập được in luơn trong SGK dành cho HS nay hầu như tất cả các bộ mơn đều cĩ SBT bên cạnh SGK. Tập hợp các cuốn SGK, các STK và sách cơng cụ cĩ liên quan đến việc dạy học của GV và HS tạo thành một tổ hợp giáo khoa. Tổ hợp giáo khoa đĩ phải là một chỉnh thể gắn bĩ mật thiết với nhau, trong đĩ SGK phải là tài liệu thể hiện cụ thể nhất nội dung, phương pháp giáo dục và các loại sách trong tổ hợp nĩi trên phải phụ thuộc vào SGK. Cho nên nĩi đến SGK là nĩi đến một tổ hợp giáo khoa và lí luận về SGK cũng là lí luận một tổ hợp sách. Cho đến nay SGK vẫn là tài liệu chủ yếu để dạy và học ở các lớp học phổ thơng. Do đĩ, các yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thơng về cơ bản đã được thể hiện trong nội dung và phương pháp biên soạn SGK. Trong quá trình biên soạn chương trình và SGK mới, chúng ta đã chú ý đến quan điểm đổi mới phương pháp dạy học “lấy học sinh làm trung tâm” các nội dung, hình thức trình bày của SGK mới về cơ bản đã tạo điều kiện thuận lợi cho HS tiếp tục nâng cao năng lực tự học và giúp GV đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tổ chức, hướng dẫn HS chủ động, sáng tạo trong quá trình tìm hiểu, tiếp nhận tri thức. 1.2. Quan hệ giữa sách giáo khoa với sách giáo viên và sách tham khảo Tuỳ theo người sử dụng, mơn học và từng hồn cảnh biên soạn mà một cuốn SGK phổ thơng cĩ thể cĩ nhiều mối quan hệ khác nhau. Một nguyên tắc khi xây dựng chương trình và SGK phổ thơng là làm sao đảm bảo được sự cân đối hài hịa giữa nhiều mối quan hệ: đặc trưng của mơn học với nhiệm vụ chính trị và cuộc sống từng giai đoạn lịch sử, nội dung chương trình với đặc điểm tâm lý lứa tuổi HS, tri thức mơn học gắn liền với hệ thống kỹ năng cần hình thành; mối quan hệ giữa SGK mơn học này với SGK mơn học khác trong chương trình; mối quan hệ giữa SGK bậc THPT với SGK bậc THCS cũng như SGK Tiểu học trong một hệ thống hồn chỉnh; đặc biệt là mối quan hệ giữa SGK với SGV, SGK với STK trong một bộ mơn. Cĩ hai quan niệm về SGV: SGV đĩng và SGV mở. SGV đĩng là tài liệu giúp GV sử dụng SGK về mặt sư phạm. Sách sẽ bao gồm những lời khuyên cải tiến việc sử dụng, khai thác SGK. SGV cung cấp những chỉ dẫn về cách tiến hành bài học gắn liền với SGK. SGV mở như là một cơng cụ tham khảo nhằm nuơi dưỡng sự suy nghĩ của GV. Sách bổ sung những thơng tin khoa học và sư phạm, nêu các đề nghị liên quan đến quá trình học tập nhưng khơng trĩi buộc GV trong những chỉ dẫn và một trình tự gị bĩ. Như vậy, SGV đĩng được biên soạn dựa trên cơ sở SGK và khơng cịn ý nghĩa nếu tách rời SGK. SGV mở cĩ thể sử dụng độc lập với SGK, dù vẫn dựa trên SGK. Trong quá trình triển khai cải cách giáo dục, bên cạnh hệ thống SGK biên soạn theo chương trình mới cịn song hành hệ thống SGV. Tác giả SGK cũng là tác giả SGV tương ứng, cơng thức này đảm bảo tốt hơn chất lượng của SGV. SGV là một loại sách nghiệp vụ, trong đĩ cĩ sự kết hợp giữa khoa học giáo dục và khoa học cơ bản, nhằm phục vụ việc dạy học về mặt nội dung và phương pháp. Một cuốn SGV cĩ thể được biên soạn trước, trong khi hoặc sau khi biên soạn SGK cho HS. Trước hết, một cuốn SGV cĩ thể được coi như một cuốn hướng dẫn sư phạm, tức là một tài liệu giúp đỡ việc sử dụng SGK sao cho phù hợp với khoa sư phạm. SGV cĩ nhiệm vụ giúp GV hiểu được ý đồ biên soạn SGK nĩi chung cũng như nội dung và phương pháp giảng dạy từng bài cụ thể trong SGK. Tuy khơng cĩ tính bắt buộc, nhưng SGV vẫn là tài liệu quan trọng trong quá trình soạn bài và dạy học theo SGK. Các định hướng kiến thức cơ bản, phương pháp cơ bản và cả kĩ thuật giảng dạy đều được trình bày sao cho SGV cĩ thể như là một “khuơn mẫu” để GV hướng dẫn HS học tập. Nĩ sẽ gồm những lời khuyên, những chú ý nhằm cải tiến việc dùng SGK và khai thác mọi khả năng của sách. Cĩ thể coi đây là nguồn văn bản thơng tin chủ đạo, chủ yếu của việc soạn bài, giảng bài của GV. Tuy nhiên, nĩ khơng đồng nhất với bài soạn, các định hướng của SGV khơng thể loại bỏ đặc trưng của lao động giảng dạy, tính chất linh hoạt đa dạng của các bài soạn, bài giảng, diễn tiến giờ học, khả năng tiếp nhận của HS,… SGV chỉ là một cơ sở để GV phát huy tiềm lực vốn cĩ và đang phát triển của lao động sư phạm chứ khơng thể là một tư liệu sử dụng nguyên mẫu. SGV thường dành những trang đầu để trao đổi với GV những vấn đề phương pháp giúp cho HS nắm được tri thức ghi trong chương trình và thể hiện trong SGK. Nội dung chính của SGV là cung cấp những thơng tin về cách hiểu bài, cách khai thác, trả lời các câu hỏi và lưu ý những điểm HS cần lưu ý sau mỗi bài học, gợi ý những tư liệu tham khảo thiết yếu,… Những nội dung này chưa được trình bày trong SGK. Cùng với SGK, SGV gĩp phần thực hiện mục tiêu chung của chương trình. STK là sách chuyên dùng để tra cứu, đọc thêm nhằm hiểu rõ hơn vấn đề cần phải dạy học. Muốn hiểu được mối quan hệ giữa SGK với STK khơng thể khơng nhắc lại chức năng của SGK. SGK cĩ nhiều chức năng. Ở đây chỉ đề cập đến những chức năng cĩ quan hệ đến HS: chức năng truyền đạt kiến thức, phát triển các khả năng và kỹ năng, củng cố và đánh giá những hiểu biết, giáo dục về mặt xã hội và văn hĩa. Tính chất đa chức năng ấy đảm bảo cho SGK đĩng vai trị chủ yếu trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của mơn học. Trong khi đĩ, STK chỉ cĩ một chức năng duy nhất đĩ là chức năng tham khảo. Đối chiếu với những chức năng của SGK, STK chỉ thiên về phát triển các khả năng và kỹ năng, hoặc chức năng củng cố những hiểu biết. Với tính chất đơn chức năng ấy, STK cĩ vai trị bổ trợ cho SGK trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của mơn học (trừ trường hợp những cuốn STK được biên soạn với mục đích thuần tuý thương mại, phi giáo dục). Thơng tư Liên tịch số 35/1999/TTLT-BGD&DT ghi “Sách tham khảo bổ trợ sách giáo khoa dùng cho hoc sinh các bậc học phổ thơng là tài liệu học tập dựa theo chương trình sách giáo khoa do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý đảm bảo chất lượng khoa học, nâng cao tính sư phạm nhằm thực hiện chương trình theo danh mục bậc học đã được quy định” [9, tr. 821]. Theo quan niệm thơng thường, SGK được coi là sách học chính thức, bắt buộc cịn STK là sách đọc thêm, khơng bắt buộc. Trong quan hệ với SGK, xét chung, STK vừa phụ thuộc SGK vừa cĩ phần độc lập với SGK, tuy cả hai đều cùng nhằm thực hiện mục tiêu mơn học. Những cuốn STK như các loại Từ điển, sách tra cứu, Văn tuyển v.v… hồn tồn độc lập với SGK. STK các bộ mơn vừa phải đảm bảo tính chính xác, chặt chẽ của các đơn vị kiến thức vừa bổ sung nhiều nội dung kiến thức mà SGK khơng chứa đựng hết. Kiến thức trong STK thường được tổng kết theo vấn đề hay chuyên mục. STK cung cấp thêm những thơng tin mới, những tư liệu cập nhập giúp GV và HS hiện đại hĩa kiến thức trong SGK. Trong xã hội học tập, bao giờ cũng cĩ một nhu cầu lớn về STK. Cĩ thể nĩi, STK liên quan đến một phương châm quan trọng của giáo dục: biến quá trình học thành quá trình tự học. Nhiều STK các mơn khoa học xã hội gợi ý cho GV và HS những hướng tiếp cận tác phẩm, bài học, giai đoạn lịch sử v.v…; những phân tích mới lạ nhằm làm sáng tỏ thêm, hồn thiện thêm những kiến thức trong SGK. Ví dụ: những bộ STK mơn Tiếng Việt và Làm văn, kiến thức cung cấp trong các bộ sách này, nhìn chung, đã bám sát các kiến thức chuẩn trong SGK, được trình bày rõ ràng, dễ hiểu, cĩ tính sư phạm cao. Các bộ sách này đều cĩ những kiến thức mở rộng, đi sâu vào những vấn đề được trình bày trong các bài học, tiết học. Với những gợi ý, những hướng giải bài tập, HS đủ điều kiện thu nhận kiến thức tự mình hồn thành bài học một cách căn bản, thậm chí cĩ tính sáng tạo. Trong các sách “hướng dẫn Làm văn”, các tác giả đã chú ý về kỹ năng làm bài của HS. Trong chừng mực nhất định, sách cũng tạo cho các em những cảm thụ tinh tế khi tiếp xúc với từng loại bài tập Làm văn. Ở các sách “hướng dẫn giải bài tập Tiếng Việt”, các tác giả đã hệ thống kiến thức tiếng Việt được học trong SGK các bậc học. Những kiến thức đĩ được trình bày cụ thể, cơ đọng, diễn giải rõ ràng, cĩ tính sư phạm cao. GV cĩ thể ._. tham khảo vận dụng vào các giờ dạy trên lớp để bài giảng phong phú hơn. STK các mơn khoa học tự nhiên căn cứ vào chương trình và SGK mà chia thành các chủ đề nhỏ hoặc các chương giống như SGK sao cho HS cĩ thể tham khảo song song với SGK. STK các mơn khoa học tự nhiên trình bày các phương pháp giải các bài tập cơ bản của mơn học theo yêu cầu của chương trình; thơng qua đĩ, HS nắm được kiến thức cơ bản của SGK. Mở rộng một số vấn đề trong SGK, phân tích theo chiều sâu những vấn đề lí thuyết hay bài tập đã được SGK đề cập nhưng chưa cĩ điều kiện đi sâu, kể cả các dạng bài tập địi hỏi sự tổng hợp nhiều đơn vị kiến thức với mục đích cung cấp cho HS phương pháp tư duy logic và vận dung kiến thức đã học để giải các bài tập. GV cĩ thể tham khảo sách để dạy các giờ bài tập trên lớp, tổng kết, hướng dẫn HS ơn tập sau mỗi chương, mỗi học kì và cả năm học, bước đầu bồi dưỡng HS khá giỏi. Ở phổ thơng, vai trị người GV rất quan trọng. Chính GV là người dẫn dắt lớp học để HS nắm được những yêu cầu chính của bài học. Nhưng một GV giỏi khơng chỉ làm tốt việc truyền thụ kiến thức mà cịn phải gợi mở cho HS suy nghĩ những gì mà SGK chưa đề cập đến, những kiến thức chưa được cập nhập hay những cách hiểu khác nhau, cách giải khác hoặc những vấn đề mới vượt quá yêu cầu của bậc học. STK là nguồn tư liệu nuơi dưỡng niềm đam mê nghiên cứu, học tập ấy. Tĩm lại, SGK, SGV và STK cĩ mối quan hệ liên thơng với nhau, hỗ trợ cho nhau. Mỗi loại sách cĩ những đặc trưng riêng đồng thời giữa chúng cĩ những điểm chung, phối kết với nhau. Trong đĩ, SGK đĩng vai trị trung tâm, SGK khơng đơn giản là tài liệu thơng báo các kiến thức cĩ sẵn mà là tài liệu giúp HS tự học, tự phát hiện giải quyết các vấn đề để chiếm lĩnh và vận dụng kiến thức mới một cách linh hoạt. SGV và STK phụ thuộc, xoay quanh SGK để tạo nên một tổ hợp giáo khoa đảm bảo mục tiêu đổi mới chương trình giáo dục phổ thơng. Trong quá trình giảng dạy, mỗi người GV lấy SGK làm tài liệu giảng dạy chính thức nhưng khơng nên phụ thuộc hồn tồn vào SGK, độc tơn SGK mà cần nghiên cứu SGV, khơng ngừng học tập qua STK phối hợp một cách linh hoạt các tri thức giữa các tài liệu tạo nên sự thống nhất tương đối để nâng cao chất lượng giảng dạy. SGK chỉ thực sự cĩ ý nghĩa khi được xác định trong mối tương quan với việc học tập của HS, với việc dạy của GV, với SGV và STK, với các cơng cụ dạy học khác. 1.3. Mơ hình cấu trúc sách giáo khoa 1.3.1. Cấu trúc chung của sách giáo khoa Theo tinh thần Nghị quyết 40/2000/QH10 và chỉ thị 14/2001/CT-TTg về đổi mới chương trình giáo dục phổ thơng, với tư cách là văn bản được “sử dụng chính thức, thống nhất, ổn định trong giảng dạy, học tập ở các cơ sở giáo dục phổ thơng”, tư tưởng xuyên suốt của mơ hình SGK mới là SGK phải vừa cung cấp thơng tin vừa hướng dẫn HS hình thành và phát triển phương pháp, kỹ năng học tập, nghiên cứu và vận dụng kiến thức vào việc giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập cũng như trong thực tiễn đời sống; đồng thời SGK phải phù hợp với khả năng nhận thức, với đặc điểm tâm - sinh lí lứa tuổi HS ở từng cấp, lớp học. SGK của các mơn học khác nhau hoặc đối với cùng mơn học cho những lớp học khác nhau cĩ thể cĩ vài điểm khác nhau trong cấu trúc. Tuy nhiên, về mặt lí thuyết mơ hình cấu trúc SGK thường gồm 3 phần: a) Phần đầu SGK Phần đầu SGK mỗi mơn học thường cĩ những thành phần sau: - Trang bìa chính, bìa lĩt ghi tên Bộ Giáo dục và Đào tạo, tên các tác giả, tên sách, tên lớp, tên Nhà xuất bản và năm xuất bản. - Trang mở đầu giới thiệu về quan điểm biên soạn bộ mơn, mục đích, nội dung, hướng dẫn sử dụng sách, giới thiệu phương pháp học tập chủ yếu HS cần vận dụng, tĩm tắt về chương trình mơn học của lớp… Nhìn chung trang mở đầu SGK chưa được chú ý nhiều, phần hướng dẫn sử dụng sách, giới thiệu phương pháp học tập hầu như bị bỏ qua, nếu cĩ đề cập thì cũng rất sơ lược và thường chỉ được ghi một cách rất chung ở SGK đầu cấp học, trong khi đĩ mơn học ở từng lớp học cũng cĩ những đặc điểm riêng. Bên cạnh việc giới thiệu quan điểm biên soạn SGK, nên chăng ở SGK mỗi lớp học chúng ta quan tâm hơn đến việc hướng dẫn HS sử dụng sách, hướng dẫn phương pháp học tập bộ mơn phù hợp với quan điểm biên soạn và nội dung sách. - Tuỳ theo mơn học, phần đầu của sách cĩ thêm chú thích về những kí hiệu thống nhất dùng trong SGK. - Bài mở đầu cho mỗi mơn học mới bắt đầu ở cấp học (giới thiệu đối tượng nghiên cứu của mơn học; vai trị, ý nghĩa của mơn học đối với thực tiễn, phương pháp học bộ mơn…). b) Phần giữa SGK Phần giữa SGK là phần chính của sách, bao gồm các phần, các chương, các bài học. Đĩ là những đơn vị kiến thức của mơn học trình bày dưới dạng lời văn, hình ảnh (ảnh chụp, tranh vẻ, sơ đồ, lược đồ, bản đồ…) và những chỉ dẫn về cách tiến hành các hoạt động học tập để lĩnh hội các đơn vị kiến thức. c) Phần cuối SGK Tuỳ theo tính chất của mơn học mà nội dung phần cuối khác nhau, phần cuối SGK thường những phần sau: - Phần tra cứu: dùng để tra cứu ngữ nghĩa của mơn học theo lớp và mục lục thuật ngữ, từ mới, bảng tên riêng, những sự kiện. Chúng được sắp xếp theo thứ tự ABC và ghi thứ tự của trang trong SGK. Tra cứu ngữ nghĩa và mục lục cĩ thể được viết riêng hoặc ghép với nhau thành một, cĩ tên là phần tra cứu. - Phần phụ lục: tuỳ theo các mơn học mà phần phụ lục cĩ thể cĩ những phần sau : các biểu bảng kí hiệu, cơng thức, đơn vị đo lường, bảng tổng kết ngữ pháp, từ ngữ, danh mục tiểu sử tác giả, tác phẩm. - Phần trả lời bài tập: trả lời gắn gọn hoặc thơng báo đáp án những bài tập trong SGK. - Xuất xứ các tranh ảnh (chú thích ngắn gọn về nguồn gốc các tranh ảnh đã dùng; trích từ tài liệu nào, của ai…). - Tài liệu tham khảo: liệt kê các tài liệu đã dùng trong quá trình biên soạn SGK. - Mục lục của SGK: tên bài học được sắp xếp theo phân phối chương trình. 1.3.2. Cấu trúc một chương trong sách giáo khoa Tuỳ theo đặc trưng bộ mơn mà SGK cĩ thể được cấu trúc theo phần hay chương (cĩ khi cịn được hiểu là cụm bài). Nhìn chung, một chương của SGK cĩ cấu trúc như sau: - Trang mở đầu của mỗi chương gồm số thứ tự của chương, tên chương. Mở đầu mỗi chương nhằm nêu vấn đề, định hướng vấn đề sẽ nghiên cứu, kết quả cần đạt. - Các bài học trong chương cụ thể hĩa kiến thức của chương được bố trí dạy theo phân phối chương trình. - Cuối mỗi chương thường cĩ những phần sau: + Tĩm tắt những kiến thức cơ bản của chương. Đây là nội dung kiến thức HS phải nắm vững sau khi học xong một chương. + Bài thực hành, thí nghiệm của chương: gồm cĩ nội dung, yêu cầu và hướng dẫn thí nghiệm, thực hành. Tuỳ theo mơn học cĩ thể cĩ bài thực hành cĩ tính tổng hợp kiến thức, kỹ năng của một chương. Bài thực hành thí nghiệm cĩ thể trình bày bằng kênh chữ hoặc kênh hình. Câu hỏi và bài tập tổng hợp của chương gồm các bài tập tự luận, bài tập trắc nghiệm để HS cĩ thể tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của cá nhân. Truyền thống của SGK Ngữ văn nĩi chung khơng cĩ khái niệm “chương”. Cấu trúc SGK Ngữ văn là cấu trúc bài. Cấu trúc SGK Ngữ văn 10 khơng chia thành các chương, các phần như cấu trúc SGK các mơn học khác. 1.3.3. Cấu trúc bài học trong sách giáo khoa “Theo truyền thống của lí luận dạy học và phương pháp dạy học bộ mơn, bài học (t.Anh: lesson; t.Nga: ypok) được xác định là hình thức cơ bản, chủ yếu nhất của việc tổ chức các hoạt động dạy học trong nhà trường. Mỗi bài học là một đơn vị, đơn vị đĩ vận dụng nhiều phương pháp, biện pháp sư phạm phong phú, đa dạng để tổ chức các tập thể học sinh thực hiện hoạt động học tập trong một thời gian nhất định và theo một kế hoạt dạy học nhất định. Như một chỉnh thể kiến thức, mỗi bài học đều cĩ mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, hình thức, tiến trình, phương pháp, biện pháp dạy học,… của mình; đồng thời, như một mắt xích nhận thức, mỗi bài học đều cĩ những mối liên hệ logic, mật thiết với các bài học trước và sau nĩ trong một chương trình dạy học - giáo dục thống nhất” [4, tr.63] Bài học là hình thức cơ bản, chủ yếu nhất của việc tổ chức các hoạt động học tập trong nhà trường, cĩ liên quan trực tiếp đến việc xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa bộ mơn… SGK phải thể hiện được các quan điểm chỉ đạo việc biên soạn SGK các mơn học trong nội dung thơng qua các bài học cụ thể. Cấu trúc bài học trong SGK các bộ mơn cĩ những điểm tương đồng, cĩ thể phác họa như sau: - Phần mở bài Phần này nhằm xác định mục tiêu của bài học (những kiến thức, kỹ năng, kết quả cần đạt). Phần mở bài trình bày ngắn gọn, hướng HS tới đích của bài, nêu cả gợi ý về phương pháp học tập; cĩ thể từ những điều HS đã biết, đề xuất những vấn đề HS chưa biết cĩ liên quan đến bài học; cĩ thể trình bày một hiện tượng, một câu hỏi hay một thí nghiệm làm nảy sinh vấn đề cần nghiên cứu. Phần mở bài cĩ vai trị tạo tâm thế chuẩn bị bước vào nội dung bài học, GV cĩ thể sử dụng phần này như một lời vào bài. Trong quá trình soạn bài, giảng bài mọi hoạt động học tập quy về mục tiêu của bài học. GV cần hướng dẫn cho HS trong khi soạn bài, học tập phải nắm vững phần mở bài để cĩ hướng tiếp cận bài học đúng đắn, khoa hoc. Đây là một thao tác tưởng chừng như đơn giản, nhiều GV thường khơng lưu ý HS khi dặn dị HS soạn bài. Cần lưu ý: cấu trúc bài học trong SGK trước năm 2000 khơng cĩ phần mở bài xác định mục tiêu cần đạt (chỉ được ghi trong SGV). - Nội dung bài học Nội dung bài học thường bao gồm các thành phần: thơng báo thơng tin, xử lí các thơng tin, kết quả cần đạt được. Thơng tin được cung cấp qua kênh chữ và kênh hình. Thơng tin cĩ thể là văn bản, các sự kiện, các hiện tượng, quá trình, quy luật, những ý tưởng mới, những kĩ năng mới… Nội dung của một bài học được xây dựng qua các đề mục trong bài học, tên các đề mục trong bài học thường là một tình huống vấn đề phải giải quyết, hoặc một câu hỏi ngắn gọn nĩi lên một nội dung cơ bản của bài, của mục sẽ học. Xử lí thơng tin là các hướng dẫn HS hoạt động giải quyết vấn đề. HS xử lí thơng tin cĩ thể bằng cách: trả lời các câu hỏi đặt ra đối với các hình vẽ, biểu đồ, đồ thị; trình bày một vấn đề buộc HS phải suy nghĩ nhiều về thơng tin mới đĩ và trao đổi thảo luận; giải bài tập; tiến hành các thí nghiệm thực hành… Qua xử lí thơng tin dưới sự hướng dẫn của GV, HS phải đi đến kết luận, tức là nắm được nội dung cần đạt của bài học. Các lệnh yêu cầu và hướng dẫn HS xử lí thơng tin phải rõ ràng, ngắn gọn để HS dễ dàng nhận biết nhiệm vụ và cách thức thực hiện, tạo điều kiện để HS được làm việc với những thơng tin mới. Kết quả cần đạt được là những kiến thức, kỹ năng cơ bản của bài học. Thành phần này địi hỏi HS phải chiếm lĩnh được sau khi đã xử lí các thơng tin. Hình thức trình bày mục kết quả cần đạt thường là những dịng chữ được in đậm, đĩng khung. - Phần bài tập Tùy mơn học mà số lượng bài tập cĩ thể dao động trong một giới hạn khá rộng. Bên cạnh các bài tập cĩ tính truyền thống là bài tập tự luận, nên sử dụng rộng rãi các loại bài tập trắc nghiệm. Nội dung các câu hỏi, bài tập hướng vào sự vận dụng kiến thức đã học. Mức độ bài tập đám ứng được những năng lực khác nhau của HS. Tăng cường các loại bài tập cĩ tác dụng phát triển trí tuệ, kỹ năng thực hành thí nghiệm cho HS. Dưới đây xin trình bày tĩm tắt mơ hình bài 23, sách Ngữ văn 9 : BÀI 23 Kết quả cần đạt VĂN BẢN MÙA XUÂN NHO NHỎ Chú thích ĐỌC-HIỂU VĂN BẢN Ghi nhớ LUYỆN TẬP Do cĩ vai trị là hình thức cơ bản, chủ yếu nhất của việc tổ chức các hoạt động dạy học, nhìn vào cấu trúc của đơn vị bài học, chúng ta cĩ thể xây dựng được phương pháp dạy học tương ứng. Nội dung và mục tiêu cần đạt của bài học là những yếu tố quan trọng nhất để GV dựa vào đĩ thiết kế bài học và xác định phương pháp dạy học. 1.4. Phương pháp trình bày nội dung kiến thức trong sách giáo khoa SGK là một xuất bản phẩm đặc biệt, cho một đối tượng rộng lớn, đa dạng về tính chất, chủng loại, về các ngành khoa học khác nhau, nĩ gĩp phần nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện thế hệ trẻ… Bởi vậy nĩ phải được hồn thiện về nội dung và đẹp về hình thức. Trong mười năm trở lại đây, kể từ khi tiến hành cải cách giáo dục, mà trọng tâm là cải cách chương trình và nội dung SGK các mơn học, xây dựng một phương pháp trình bày nội dung kiến thức trong SGK sao cho thể hiện được mục tiêu của giáo dục là một địi hỏi cấp thiết. Kênh chữ và kênh hình là những thơng tin chủ yếu được dùng trong SGK để trình bày nội dung tri thức của mơn học, đĩ là những chỉ dẫn về phương pháp dạy và học cũng như việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập. Kênh chữ và kênh hình phải thể hiện tính chính xác, khoa học, sao cho hài hịa, cân đối và hỗ trợ lẫn nhau một cách cĩ hiệu quả về mặt thẩm mĩ, mặt sư phạm. Tức là, kênh chữ phải là thơng tin chính phản ánh đúng nội dung tri thức mơn học. Kênh hình (ảnh chụp, tranh ảnh, hình vẻ, sơ đồ, đồ thị…) thể hiện đúng đối tượng nghiên cứu, phù hợp với nội dung kênh chữ, khơng mang yếu tố hiểu lầm hoặc làm phân tán sự tập trung suy nghĩ của HS, kênh hình cần được khai thác, hỗ trợ cung cấp thơng tin song song với thơng tin chính nếu bỏ đi sẽ hạn chế việc hiểu bài. Phương pháp trình bày kiến thức phải phù hợp với tâm lí lứa tuổi HS ở từng lớp học, cĩ tác dụng hình thành các thao tác tư duy ngày một nâng cao và hình thành được ở HS một số năng lực hành động ứng xử cần thiết. Nội dung những thơng tin trình bày trong mỗi bài học phải thể hiện được phương pháp dạy học nhằm tích cực hĩa hoạt động của người học, tạo điều kiện để HS được suy nghĩ, được làm việc thực sự, tự kiểm tra đánh giá khả năng nhận thức,… Từ đĩ, HS chiếm lĩnh được kiến thức, hình thành được kỹ năng. Số lượng, chất lượng và sự bố trí, sắp xếp các thơng tin trong mỗi bài học phải vừa sức đối với HS, đề xuất được sự áp dụng cụ thể, tiến trình những kiến thức được chuyển tải qua nội dung các mơn học ở các lớp học đi từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao. Hệ thống câu hỏi, bài tập hay thí nghiệm thực hành vừa phải sát hợp nội dung bài học vừa đa dạng giúp HS cĩ được phương pháp tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho HS khai thác nội dung, làm xuất hiện tình huống vấn đề, sau đĩ hướng dẫn HS quan sát, giải thích, tìm tịi cách giải quyết vấn đề một cách tối ưu, đồng thời HS cĩ thể tự kiểm tra sự tiến bộ và thành tích của mình. Tình huống cĩ vấn đề cĩ thể phát sinh trong mơn học hoặc trong đời sống hằng ngày cĩ liên quan trực tiếp tới mơn học. Ở cấp phổ thơng, SGK là sự thể hiện những nội dung cụ thể của chương trình phổ thơng. Các kiến thức khoa học về tự nhiên, xã hội… cĩ sự lựa chọn rất kĩ. Kiến thức trong SGK là một hệ thống khoa học, chính xác theo trình tự logic chặt chẽ, được gia cơng về mặt sư phạm cho phù hợp với trình đơ học sinh vàthời gian học tập. Nội dung kiến thức được trình bày bằng lối văn phong sáng rõ, dễ hiểu cĩ hiệu lực, phù hợp với mơi trường văn hĩa, đạo đức, chính trị và dân tộc. Ngồi phần kiến thức, SGK cịn cĩ một phần về rèn luyện các kỹ năng và các phương pháp giảng dạy mơn học. Phương pháp trình bày nội dung kiến thức trong SGK đã tạo ra sự khác nhau giữa SGK và các loại sách khoa học khác. Phương pháp trình bày nội dung kiến thức trong SGK đầu thế kỉ XXI đã cĩ nhiều thay đổi. Các tác giả khơng mơ tả, giảng giải kiến thức mà đưa ra các hướng dẫn quan sát, hướng dẫn thí nghiệm, hướng dẫn HS trao đổi, thảo luận, câu hỏi kiểm tra kiến thức,… với phương pháp trình bày như vậy, hứng thú học tập và năng lực làm việc của HS đã được tính đến. Cĩ thể nĩi, mỗi cuốn SGK được coi như một cuốn sách “phương pháp hướng dẫn học tập” ở một chừng mực nào đĩ. 1.5. Các chức năng của sách giáo khoa SGK trước hết là một loại sách nên cũng như các loại sách khác nĩ cũng phải đảm bảo chức năng chung là chức năng giáo dục nhân văn theo những chuẩn mực đang được xã hội thừa nhận. Chức năng này liên quan đến mọi điều kiện học tập về hành vi, về các mối quan hệ với người khác, về cuộc sống xã hội nĩi chung. Một cuốn SGK khơng chỉ chuyên nhằm truyền thụ kiến thức, mà cũng cĩ thể phát triển khả năng ứng xử, cho phép HS xác định được vị trí của mình trong phạm vi xã hội, gia đình, văn hố, dân tộc. Đặc biệt đối với SGK các mơn học khoa học xã hội và nhân văn chức năng giáo dục nhân văn càng biểu hiện rõ. Thơng qua tri thức, SGK giáo dục HS về đạo đức, nhân cách, tình yêu quê hương, đất nước, tinh thần say mê học tập... Nhưng khác với các loại sách, SGK tồn tại trong một mơi trường đặc biệt, đĩ là nhà trường phổ thơng, SGK chứa đựng những kiến thức về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội mà nhà trường phải trang bị cho học sinh. SGK là một trong những phương tiện dạy học quan trọng ở trường phổ thơng. Do đĩ, chức năng chủ yếu của SGK là hướng vào việc học tập trong nhà trường. SGK là phương tiện làm việc của HS và là phương tiện hỗ trợ GV hiểu và thực hiện chương trình dạy học đã quy định. Nĩ bao gồm chức năng truyền thụ kiến thức, chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập và chức năng kích thích hướng thú học tập. 1.5.1. Chức năng thơng tin kiến thức Đây là chức năng truyền thống, thơng tin kiến thức là chức năng quan trọng nhất; chính vì thế cĩ một số quan điểm cho rằng SGK chỉ cĩ một chức năng duy nhất là chức năng thơng tin, cịn hai chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập và kích thích hướng thú học tập chỉ là sự kéo theo, khi GV đứng lớp để thực hiện được chức năng thơng tin thì bản thân GV phải hướng dẫn HS, kích thích hướng thú học tập tạo tâm thế học tập cho HS. Chức năng thơng tin được thể hiện qua nội dung của SGK, trình bày dưới dạng lời văn (kênh chữ) và hình ảnh (kênh hình). Đối với SGK Tiểu học và Trung học cơ sở, kênh hình và kênh chữ gần như tương đương. Nhưng lượng kênh hình này phải phục vụ cho chức năng thơng tin chứ khơng phải phục vụ nghệ thuật. Kênh hình trong SGK phải được tính tốn sao cho giúp HS lĩnh hội kiến thức một cách liên tục và khơng cho phép học sinh phân tán bởi những yếu tố khác. Đối với SGK bậc THPT kênh chữ là chủ yếu. Một yếu tố kiến thức nào đĩ nếu cần làm rõ thêm qua kênh hình thì kênh hình bao giờ cũng phải cĩ chữ đi kèm để giải thích, chỉ dẫn. Như vậy, kênh chữ trong SGK giữ vai trị chủ đạo trong việc thực hiện chức năng thơng tin. SGK cung cấp những thơng tin kiến thức gì? Kiến thức đĩ cĩ đặc điểm như thế nào? Nội dung SGK hay lượng thơng tin trong SGK bao gồm các đơn vị kiến thức của mơn học; những chỉ dẫn về cách tiến hành các hoạt động học tập để lĩnh hội các đơn vị kiến thức. Những kiến thức đĩ cĩ nhiều mức độ: khái niệm, quy tắc, định lí, định luật, quy luật, các dữ liệu đặc biệt, các sự việc,… Cần khẳng định rằng kiến thức dường như khơng đứng yên mà luơn vận động do đĩ nhận thức của con người mới phát triển được. Kiến thức nhân loại thì vơ cùng phong phú đa dạng trong khi đĩ kiến thức trong SGK thì phải ổn định, sử dụng lâu dài. Để giải quyết vấn đề này chức năng thơng tin phải hướng đến tính vừa sức và tính chuẩn mực, cổ điển. SGK dùng chủ yếu ở trường phổ thơng, biên soạn riêng cho từng lớp. Sách của lớp này, cấp này khơng thể dùng cho HS lớp dưới, cấp dưới. Tính vừa sức tạo ra sự khác nhau giữa SGK và các loại sách khác. Sách nĩi chung đều trình bày các kiến thức về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhưng các sách khác khơng quan tâm đến trình độ của người đọc cịn SGK cĩ sự lựa chọn rất kĩ trước khi đưa những đơn vị kiến thức khoa học vào sách. Đặc biệt cần chú ý tới tính hệ thống chặt chẽ phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của HS. Những đơn vị kiến thức khoa học trong SGK phải làm cho HS ở một độ tuổi nào đĩ hiểu được, đảm bảo hoạt động tư duy tích cực của HS, đảm bảo sự phát triển cĩ thể được về khả năng nhận thức của HS. Khác với thơng báo khoa học hay các giáo trình cĩ thể trình bày những vấn đề khoa học mới phát minh thậm chí cịn hết sức mới mẻ, chưa hồn tồn được thừa nhận thì SGK phải đưa vào chương trình những kiến thức khoa học phổ thơng cơ bản nhất, chuẩn mực và đã ổn định, những kiến thức ít thay đổi, khơng thay đổi quá nhiều theo những xu thế thời cuộc, các kiến thức đĩ khơng mâu thuẫn nhau khơng tạo nên những cuộc tranh luận lâu dài. Kiến thức đĩ phải được mọi người thừa nhận, trở thành nhận thức chung của nhân loại. SGK khơng những thơng tin kiến thức mà cịn chỉ dẫn cách thức để hiểu được, lĩnh hội được các kiến thức đĩ, trang bị cho HS những phương pháp tư duy, phương pháp học tập, kỹ năng thực hành những bộ mơn cụ thể. Cho nên, hệ thống kiến thức trong SGK phải xây dựng theo những hệ thống nhất định, phương pháp nhất định, trình tự nhất định để HS dùng hệ thống kiến thức ấy làm tư liệu học tập dưới sự chỉ đạo của GV. Điều đĩ tốt lên từ nhiều bình diện trong bài học dễ thấy nhất là cách trình bày các yếu tố kiến thức trong mỗi bài học: các kiến thức đi từ dễ đến khĩ, từ cụ thể đến trừu tượng, phần lí thuyết trình bày trước, sau đĩ đến phần hướng dẫn học bài, cuối đến là phần ơn luyện. 1.5.2. Chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập So với các loại sách khác, SGK thể hiện tương đối rõ chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập. Gĩp phần đổi mới phương pháp giảng dạy là một trong các yêu cầu hàng đầu của SGK mới. Để HS chuyển từ học tập thụ động sang học tập chủ động, để GV phát triển các phương pháp dạy học tích cực, SGK cần chuyển cách trình bày kiểu thơng báo, giải thích sang cách tổ chức các hoạt động học tập. Cấu trúc bài học trong SGK mới chủ yếu xoay quanh nội dung hướng dẫn hoạt động học tập, với cấu trúc bài học như thế thì chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập ngày càng thể hiện rõ hơn. Đây là một bước tiến của SGK mới. Thiết kế các hoạt động học tập khám phá là sự thể hiện rõ nhất của chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập. Hoạt động học tập khám phá cĩ nhiều dạng khác nhau: trả lời câu hỏi; điền từ, điền bảng, điền tranh; lập bảng, biểu, đồ thị, sơ đồ, bản đồ, đọc và phân tích; làm thí nghiệm, đề xuất giả thiết, phân tích nguyên nhân, thơng báo kết quả; thảo luận tranh cải về một vấn đề; giải bài tốn nhận thức, xử lí tình huống, v.v… tương ứng với các dạng hoạt động cĩ các hình thức tổ chức hoạt động: cá nhân; cặp hai người; nhĩm nhỏ; nhĩm A thảo luận, nhĩm B quan sát, rút kinh nghiệm; làm việc chung cả lớp, sắm vai,… HS được đưa vào tình huống cụ thể để buộc phải làm việc và cĩ điều kiện để thực hiện các cơng việc đĩ. Thơng qua các hoạt động học tập, HS tìm tịi, khám phá, phát hiện vấn đề vấn đề và trình bày lại quá trình làm việc, kết quả làm việc. Đây là cách học rất cần đối với HS, tạo khả năng tự học cho HS. HS khơng bao giờ nắm vững kiến thức, nếu SGK đem kiến thức đến cho HS dưới dạng cĩ sẵn. Chiếm lĩnh được kiến thức là thành quả của những cố gắng của tư duy chứ khơng phải của trí nhớ. Chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập trong mỗi bài học phải nhằm vào hình thành những kiến thức, kỹ năng, thái độ mục tiêu bài học tránh khuynh hướng hình thức chỉ thiết kế hoạt động gọi là cĩ hoạt động, đưa ra các lệnh hoạt động quá đơn giản như: trả lời nhiều các câu hỏi tái hiện, trả lời câu hỏi “là gì?”, tìm thêm ví dụ minh họa. Các hoạt động đề ra cho HS là những hoạt động tìm tịi, khám phá tri thức mới, phù hợp với vốn kiến thức và trình độ tư duy của HS. Chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập phải đi song song với chức năng thơng tin kiến thức. Hai chức năng này phải được thực hiện đồng thời. Trong mỗi bài học, SGK khơng thể chỉ thiết kế các lệnh hoạt động mà khơng đưa ra nội dung kiến thức. 1.5.3. Chức năng kích thích hứng thú học tập SGK tự nĩ đã chứa đựng nhiều yếu tố kích thích hứng thú học tập, động viên tính ham hiểu biết và tính tích cực tư duy của HS. Đĩ là tính chất mới lạ của tri thức khoa học, tính sáng tỏ của các sự kiện, tính độc đáo của các kết luận. K.Đ.Usinxki đã viết: “… mơn học phải giới thiệu cho chúng ta điều mới lạ cĩ tác dụng hoặc bổ sung, hoặc xác nhận, hoặc bác bỏ, hoặc phân tích cái đã cĩ sẵn trong đầu ĩc chúng ta; tĩm lại, đĩ là cái mới lạ cĩ thể làm thay đổi một cái gì đĩ trong các dấu vết đã hằn sâu trong chúng ta” [38, tr.71]. Những năm cuối thế kỉ XX, chúng ta đã tiến hành cải cách giáo dục mà trọng điểm là cải cách chương trình và SGK. Nhìn chung, chương trình và SGK mới đã cĩ những cải tiến đáng kể nhưng bên cạnh đĩ, nội dung kiến thức ở một số mơn vừa thiếu tính cơ bản, hệ thống vừa thiếu tính hiện đại, dạy những kiến thức trùng lặp, việc phân phối chương trình các tiết học chưa hợp lí. Do đĩ cần sớm cĩ một bộ chương trình - SGK ổn định tương đối ở các cấp để đảm bảo chất lượng giáo dục. Cần chú ý nâng cao sức hấp dẫn của bộ SGK phổ thơng sao cho dễ hiểu, dễ nhớ, khơng cĩ những cuốn sách nặng nề, ơm đồm, nhồi nhét kiến thức. Nội dung SGK gọn nhẹ, đảm bảo cho HS nắm vững các kiến thức cơ bản, cần thiết và cĩ hệ thống, cĩ tính yêu cầu hiện đại, tiên tiến nhất là về phương pháp. Cĩ như vậy mới tạo được hứng thú học, kích thích sự học tập say mê sáng tạo, nâng cao tính ham hiểu biết của HS. Bên cạnh đĩ, trong quá trình giảng dạy GV phải thường xuyên chăm lo cho bài giảng của mình khơng đơn thuần là thuật lại SGK, mà cĩ nội dung sinh động, sâu sắc làm phong phú và mở rộng thêm kiến thức vốn cĩ của HS. Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 10 (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN VÀ CHƯƠNG TRÌNH NÂNG CAO) 2.1. Những thay đoi của sách giáo khoa Ngữ văn 10 2.1.1. Những thay đổi về hình thức Các định hướng đổi mới chương trình và SGK phổ thơng đã được nêu ra từ Nghị quyết Trung ương 4 khĩa VII (1/1993), Nghị quyết Trung ương 2 khĩa VIII (12/1996), được thể chế hĩa trong Luật Giáo dục 912/1998). Mục tiêu của việc đổi mới chương trình và SGK phổ thơng là gĩp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện thế hệ trẻ. So với các lần cải cách trước, việc đổi mới chương trình và SGK mơn Ngữ văn 10 cĩ những ưu điểm nổi bật như: biên soạn SGK theo quan điểm tích hợp; SGK thể hiện sự đổi mới phương pháp giảng dạy, theo đĩ SGK khơng cịn là một hệ thống các bài học trình bày các tri thức đã được xác định sẵn. Trong SGK mới, phần chủ yếu của bài học là các hoạt động học tập được đề ra cho HS, GV phải tổ chức cho HS hoạt động để các em tìm tịi, phát hiện, khám phá những điều phải học theo mục tiêu cần đạt của từng bài. Nếu như chương trình cũ, SGK ba phân mơn Văn học, Tiếng Việt và Làm văn được biên soạn tách rời, độc lập, thì chương trình Ngữ văn mới được xây dựng theo nguyên tắc tích hợp. Tích hợp ở đây được hiểu là sự gắn kết, phối hợp các lĩnh vực tri thức gần nhau của các phân mơn Văn, Tiếng Việt, Làm văn nhằm hình thành và rèn luyện cho HS các kỹ năng đọc, nĩi, nghe, viết. Theo tinh thần này tên mơn học đã được thay đổi. Trước đây mơn học này được gọi theo tên của ba phân mơn là Văn học - Tiếng Việt - Làm văn, tương ứng với tên gọi đĩ cĩ ba bộ sách được biên soạn một cách độc lập: Văn học, Tiếng Việt và Làm văn. Nay theo chương trình mới mơn học này gọi là Ngữ văn và SGK cũng chỉ cịn một cuốn cho cả ba phân mơn và được gọi là sách Ngữ văn. Việc ba cuốn sách nhập làm một khơng phải là sự sát nhập một cách cơ học, máy mĩc ba phân mơn của bộ mơn này mà là sự đáp ứng yêu cầu tích hợp của chương trình Ngữ văn mới. Sự thay đổi này là sự tiếp tục nối kết với mơn Ngữ văn THCS thành một chỉnh thể thống nhất, đảm bảo tính liên thơng, đồng bộ và nhất quán của hệ thống chương trình mơn học. Theo đĩ phương pháp dạy học cũng đổi mới cho phù hợp với sự thay đổi của tên mơn học. Học Ngữ văn trong nhà trường khơng thể tách rời ba phân mơn vốn là những yếu tố hợp thành của chương trình. Trong SGK Ngữ văn 10, các bài học về đọc - hiểu tác phẩm, tiếng Việt và làm văn được sắp xếp đan xen nhau, hỗ trợ cho nhau. Thơng qua tri thức của ba phân mơn năng lực đọc văn và làm văn của HS phải được hình thành và rèn luyện đồng bộ. Đồng thời qua việc rèn luyện kỹ năng đọc văn, làm văn mà củng cố và phát triển kỹ năng tiếng Việt. Chương trình Ngữ văn 10 lựa chọn văn bản tác phẩm theo thể loại và tổ chức dạy học theo đặc trưng thể loại. Căn cứ vào thành tựu của mỗi giai đoạn văn học, với hệ thống thể loại đã xác định, SGK Ngữ văn 10 cung cấp một số vấn đề tri thức đọc văn như là các cơng cụ giúp HS đọc - hiểu văn bản trong giai đoạn đĩ. Theo tinh thần này, Lịch sử văn học, Lí luận văn học được coi như là những cơng cụ giúp HS tiếp nhận tốt hơn văn bản-tác phẩm hơn là một đối tượng cần nghiên cứu, một tri thức cần trang bị đầy đủ, tồn diện. Một điểm nổi bật trong SGK nĩi chung và SGK Ngữ văn 10 nĩi riêng, các tác giả biên soạn đã lưu ý cách trình bày thể hiện rõ sự hỗ trợ cho đổi mới phương pháp dạy học. Cấu trúc bài học trong SGK đã tạo điều kiện cho HS làm việc tích cực, chủ động; hạn chế việc cung cấp sẵn kiến thức. Ví dụ: bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngơn ngữ” (sách Ngữ văn 10 tập 1, trang 14), tiêu đề mục I là một câu hỏi “Thế nào là hoạt động giao tiếp bằng ngơn ngữ ?” đã tác động được sự tìm tịi, suy nghĩ của HS. Bài học cung cấp cho HS một đoạn trích trong văn bản Hội nghị Diên Hồng, HS phải tìm hiểu, khai thác tất cả các nhân tố tạo nên văn bản mẫu đĩ thơng qua việc trả lời các câu hỏi. Qua các hoạt động học tập HS hiểu được tri thức cần đạt. Do yêu cầu phân ban nên SGK Ngữ văn 10 được biên soạn thành hai bộ sách: Ngữ văn 10 nâng cao dành cho những HS ban Khoa học xã hội và nhân văn và Ngữ văn 10 dành cho HS ban Khoa học tự nhiên và ban Cơ bản. Do nội dung nhiều và thời lượng tiết học lớn nên mỗi cuốn sách đều cĩ hai tập. Sách Ngữ văn 10 nhằm đáp ứng cho HS cĩ nhu cầu nắm vững nội dung mơn học để cĩ thể hồn thành tốt kì thi tốt nghiệp THPT. Sách Ngữ văn 10 nâng cao ngồi những nội dung cĩ trong sách Ngữ văn 10 cịn cĩ thêm một số yêu cầu và nội dung khác biệt nhằm phân hĩa và đáp ứng nhu cầu của những HS khơng chỉ thi tốt nghiệp mà cịn thi đại học vào các ngành Khoa học xã hội và nhân văn. Yêu cầu về nội dung, khối lượng kiến thức và mức độ kỹ năng của hai chương trình cĩ khác nhau nhưng khơng quá chênh lệch. Cho nên, trong quá trình dạy và học, GV và HS cĩ thể dùng cả hai bộ sách để tìm hiểu và tham khảo thêm. ._.ố Hồ Chí Minh. 95. Vũ Thanh tuyển chọn, Nguyễn Khắc Phi tuyển tập, Nxb Giáo dục. 96. Nguyễn Thành Thi, Dương Hồng Hiếu (2006), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên cốt cán trường trung học phổ thơng. 97. Đỗ Ngọc Thống (2006), Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn trung học phổ thơng, Nxb Giáo dục. 98. Nguyễn Cảnh Tồn, Nguyễn Kỳ, Vũ Văn Tảo, Bùi Tường (1998), Quá trình dạy tự học, Nxb Giáo dục. 99. Vũ Thị Hồng Thắm (2006), “Phạm Văn Đồng với vấn đề tự học”, Dạy và học ngày nay, (3), tr.42- 44. 100. Trần Bích Thủy, Trần Minh Thảo (2006), Giúp học giỏi Ngữ văn 10, Nxb Tổng hợp Đồng Nai. 101. Trần Châu Thưởng (2006), Học tốt Ngữ văn 10, tập 1, Nxb Tổng hợp Đồng Nai. 102. Trần Châu Thưởng (2006), Học tốt Ngữ văn 10, tập 2, Nxb Tổng hợp Đồng Nai. 103. Trần Châu Thưởng, Bùi Quang Huy (2006), Chuyên đề bồi dưỡng Ngữ văn 10, tập 1, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 104. Phương Thu (2006), “Chào năm học mới 2006-2007: Bạn nghĩ gì về mơn Ngữ văn?”, Văn học và Tuổi trẻ, (9), tr.3-7. 105. Phạm Tồn (2000), Cơng nghệ dạy văn, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 106. Nguyễn Trí, Nguyễn Trọng Hồn (2001), Đổi mới phương pháp dạy học Văn-Tiếng Việt ở trường phổ thơng, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 107. Trường Đại học Sư Phạm TP.HCM Viện Nghiên cứu Giáo dục (2007), Hội thảo khoa học Chương trình, sách giáo khoa và vấn đề kiểm tra đánh giá ở lớp 10 phân ban sau một năm thực hiện. 108. Minh Tuý (2007), “Bàn về bốn trụ cột của giáo dục”, Dạy và học ngày nay, (3), tr.35. 109. Bùi Tất Tươm (2007), “Một số ý kiến về việc biên soạn nhiều bộ sách giáo khoa từ một chương trình chuẩn”, Kỉ yếu Hội nghị khoa học, Nxb Giáo dục. 110. Phạm Thị Hồng Vinh (2007), Phương pháp dạy học giáo dục học, Nxb Đại học Sư Phạm. 111. Thái Quang Vinh, Trần Đức Niềm, Lê Thị Nguyên (2006), Kiến thức cơ bản Ngữ văn 10 nâng cao, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 112. Thái Quang Vinh, Trần Lê Thảo (2007), 100 bài Làm văn hay 10, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 113. Thái Quang Vinh, Thái Bảo Ni (2006), Bồi dưỡng nâng cao Ngữ văn, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 114. Nguyễn Như Ý (2008), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 115. giaoduc.edu.vn, Khơng cho học sinh sử dụng sách giáo khoa trong giờ học. 116. giaoduc.edu.vn, Học sinh cần thiết sử dụng sách giáo khoa trong giờ học. 117. giaoduc.edu.vn, Học sinh cần thiết sử dụng sách giáo khoa trong giờ học. 118. giaovien.net, Sách giáo khoa cần gắn với thực tiễn. 119. nld.com.vn, Bất cập ở sách giáo khoa Ngữ văn 8. 120. qdnd.vn, Để sử dụng hiệu quả sách giáo khoa. 121. thuvienkhoahoc.com, Sách giáo khoa trực tuyến ?. 122. tuoitre.com, Sách giáo khoa Ngữ văn 11: thấy gì qua mục “kết quả cần đạt”. 123. vietnam.net.vn, Cần tơn trọng sự thật. Phụ lục 1A PHIẾU KHẢO SÁT Ở HỌC SINH VỀ VẤN ĐỀ ĐỌC SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 10 Phục vụ đề tài “Sách giáo khoa và phương pháp làm việc với sách giáo khoa Ngữ văn 10” Các em vui lòng trả lời các câu hỏi sau bằng các đánh dấu chéo (X) vào phương án mà các em cho là đúng nhất. 1) Em có thích đọc sách giáo khoa Ngữ văn 10 (SGKNV10) không ? ( ) Có ( ) Không 2) Vì sao em thích (không thích) đọc SGKNV10 ? ---------------------------------------------------------------------------------------- ---------------------------------------------------------------------------------------- ---------------------------------------------------------------------------------------- 3) Em có trao đổi với thầy cô, bạn học về cách đọc SGKNV10 sao cho có hiệu quả không ? ( ) Có ( ) Không 4) Ngoài SGKNV10, em có đọc thêm các loại tạp chí, sách tham khảo môn Ngữ văn không ? ( ) Có ( ) Không ----------------------------------------------------------------------------------------- ----------------------------------------------------------------------------------------- Xin chân thành cám ơn sự quan tâm cộng tác của các em! Phan Thiết, tháng 11 năm 2007. Phụ lục 1B KẾT QUẢ KHẢO SÁT VỀ VẤN ĐỀ ĐỌC SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN Ở HỌC SINH TRƯỜNG THPT – MẪU 1A   1) Em có thích đọc sách giáo khoa Ngữ văn 10 (SGKNV10) không ? Có : 68 = 75,55% Không : 22 = 24,44% 2) Vì sao em thích (không thích) đọc SGKNV10 ? Thích vì : SGKNV10 có nhiều thay đổi về nội dung và hình thức và có nhiều điều hay mà em chưa biết. Không thích : sách chưa thực tế. Em muốn học được từ môn Ngữ văn những kiến thức về xã hội, những điều mà em sẽ thấy, sẽ trãi qua nhưng SGKNV10 chưa đáp ứng được điều này. 3) Em có trao đổi với thầy cô, bạn bè về phương pháp đọc văn bản trong SGKNV10 sao cho có hiệu quả không ? Có : 36 = 40% Không : 54 = 60% 4) Ngoài SGKNV10, em có đọc thêm các loại tạp chí, báo, sách tham khảo môn Ngữ văn không ? Có : 85 = 94,44% Không : 5 = 5,55% Phục lục 1C PHIẾU KHẢO SÁT Ở HỌC SINH VỀ MỘT SỐ KỸ NĂNG ĐỌC SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 10 Phụ vụ đề tài “Sách giáo khoa và phương pháp làm việc với sách giáo khoa Ngữ văn 10” Các em vui lòng trả lời các câu hỏi sau bằng cách đánh dấu chéo (X) vào phương án mà các em cho là đúng nhất. 1) Trước khi đọc một bài học Ngữ văn (BHNV), em có xác định rõ mục đích đọc không ? ( ) Có ( ) Không 2) Khi đọc một BHNV, em có lần lượt đọc hết các mục Kết quả cần đạt, Tiểu dẫn, Văn bản, Hướng dẫn học bài, Luyện tập, Tri thức đọc - hiểu ? ( ) Có ( ) Không Em thường không đọc mục nào? Vì sao? Mục không đọc: ------------------------------------------------------------------- ------------------------------------------------------------------------------------------------ Vì : ----------------------------------------------------------------------------------- ------------------------------------------------------------------------------------------------ ------------------------------------------------------------------------------------------------ 3) Khi soạn bài hoặc làm bài tập phân môn văn học, em có đọc trước tác phẩm không ? Đọc bao nhiêu lần ? ( ) Có ( ) Không Số lần ( ) 4) Sau khi đọc xong văn bản - tác phẩm, em có tóm tắt lại không ? ( ) Có ( ) Không 5) Trong khi đọc một BHNV, em có đánh dấu những ý mà em cho là quan trọng không ? ( ) Có ( ) Không 6) Trong khi đọc một BHNV, gặp những vấn đề không hiểu em có trao đổi với giáo viên hay tìm hiểu ở sách tham khảo không? ( ) Có ( ) Không 7) Khi soạn bài Ngữ văn, em có tự mình trả lời các câu hỏi ở mục Hướng dẫn học bài không hay chép lại từ các loại sách giúp học tốt môn Ngữ văn? ( ) Tự trả lời ( ) Chép lại từ sách giúp học tốt môn Ngữ văn 8) Sau khi học xong một BHNV, em có đối chiếu cách tiếp cận tác phẩm của mình với bài giảng của giáo viên không? ( ) Có ( ) Không 9) Sau khi học xong một BHNV, em có tự trả lời các câu hỏi ở mục Luyện tập không? ( ) Có ( ) Không 10) Giáo viên dạy Ngữ văn có hướng dẫn em làm việc với một BHNV như thế nào không ? ( ) Có ( ) Không Xin chân thành cám ơn sự quan tâm cộng tác của các em! Phan Thiết, tháng 11 năm 2007 Phụ lục 2A KHẢO SÁT Ở GIÁO VIÊN VỀ MỨC ĐỘ QUAN TÂM ĐẾN SÁCH THAM KHẢO     1) Trong quá trình giảng dạy, Thầy (Cô) có sử dụng sách tham khảo không?  Có  Không 2) Thầy (Cô) có quan tâm đến học sinh đọc sách tham khảo nào hay không?  Có  Không 3) Thầy (Cô) có hướng dẫn học sinh lựa chọn sách tham khảo hay không ?  Có  Không 4)Khi hướng dẫn học sinh lựa chọn sách tham khảo, Thầy (Cô) ưu tiên chọn vấn đề nào ? (sắp xếp số thứ tự ưu tiên)  Đề tài  Tác giả  Nhà xuất bản  Giá thành  Nội dung sách  Vấn đề khác 5) Thầy (Cô) có hướng dẫn học sinh làm việc với sách tham khảo không ?  Có  Không 6) Thầy (Cô) hướng dẫn học sinh làm việc với sách tham khảo bằng cách:  Kết hợp với sách giáo khao, coi sách tham khảo là một tài liệu bổ trợ cho sách giáo khoa.  Xem sách tham khảo là một tài liệu độc lập, không phụ thuộc sách giáo khoa. Chân thành cám ơn sự cộng tác của Thầy (Cô) ! Phan Thiết, tháng 5 năm 2008. Phụ lục 2B KẾT QUẢ KHẢO SÁT Ở GIÁO VIÊN VỀ MỨC ĐỘ QUAN TÂM ĐẾN SÁCH THAM KHẢO      1) Trong quá trình giảng dạy, Thầy (Cô) có sử dụng sách tham khảo không ? Có: 93 = 100% Không : 0 2) Thầy (Cô) có quan tâm đến học sinh đọc sách tham khảo nào hay không ? Có : 26 = 28% Không : 67 = 72,04% 3) Thầy (Cô) có hướng dẫn học sinh lựa chọn sách tham khảo hay không ? Có : 9 = 9,7% Không : 84 = 90,32% 4)Khi hướng dẫn học sinh lựa chọn sách tham khảo, Thầy (Cô) ưu tiên chọn vấn đề nào ? (sắp xếp số thứ tự ưu tiên) Đề tài : 29 = 31,2% Tác giả : 19 = 20,4% Nhà xuất bản : 9 = 9,7% Giá thành : 7 = 7,52% Nội dung sách : 27 = 29 % Vấn đề khác : 2 = 2,15% 5) Thầy (Cô) có hướng dẫn học sinh làm việc với sách tham khảo không ? Có : 31 = 33,33% Không : 62 = 66,66% 6) Thầy (Cô) hướng dẫn học sinh làm việc với sách tham khảo bằng cách: Kết hợp với sách giáo khao, coi sách tham khảo là một tài liệu bổ trợ cho sách giáo khoa : 93 = 100% Xem sách tham khảo là một tài liệu độc lập, không phụ thuộc sách giáo khoa. Phụ lục 3A PHIẾU KHẢO SÁT GIÁO VIÊN THPT NHẬN XÉT VỀ NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM CỦA SÁCH GIÁO KHOA MÔN NGỮ VĂN 10    Quý Thầy (Cô) thân mến ! Việc nghiên cứu những vấn đề về “phương pháp làm việc với sách giáo khoa Ngữ văn” ở giáo viên và học sinh là điều rất quan trọng cho công tác giảng dạy. Việc nghiên cứu này góp phần tìm ra những biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn nói chung và kĩ năng làm việc với sách giáo khoa Ngữ văn nói riêng. Xin quý Thầy (Cô) vui lòng trả lời một số câu hỏi dưới đây. Câu trả lời của quý Thầy (Cô) là nguồn tư liệu quý giá cho công tác nghiên cứu của chúng tôi về vấn đề này. Xin chân thành cám ơn ! 1) Theo Thầy (Cô), môn Ngữ văn có nên quy định một chương trình một cuốn sách giáo khoa không ?  Có  Không 2) Nội dung sách giáo khoa Ngữ văn 10 có phù hợp với những mục tiêu của chương trình môn học không ?  Có  Không 3) Nội dung có sát trình độ tương ứng với những kiến thức đã có ở học sinh không ?  Có  Không 4) Nội dung có cập nhật hóa, đa dạng và có tính chất khách quan đầy đủ không ?  Có  Không 5) Các kiến thức có góp phần khêu gợi được những thái độ tích cực về mặt xã hội, đạo đức và phát triển các giá trị không ?  Có  Không 6) Tiến trình của những kiến thức có đi từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao không ?  Có  Không 7) Những khái niệm có được giải thích một cách sáng rõ không ?  Có  Không 8) Các hoạt động học tập có giúp cho việc tăng cường học tập và rèn luyện không ?  Có  Không 9) Các hoạt động học tập có đa dạng không ?  Có  Không 10) Hứng thú học tập của học sinh có được tính đến trong các hoạt động học tập không ?  Có  Không 11) Bài tập, ví dụ có sát hợp với nội dung của bài học không ?  Có  Không 12) Bài tập, ví dụ có đa dạng không ?  Có  Không 13) Bài tập có được trình bày sáng sủa, chính xác không ?  Có  Không 14) Có thể xem bài tập như một phương tiện đánh giá việc học tâp và rèn luyện không ?  Có  Không 15) Bài tập có được biên soạn sao cho học sinh có thể tự kiểm tra tiến bộ và thành tích của mình không ?  Có  Không Phan Thiết, tháng 5 năm 2008. Phụ lục 3B KẾT QUẢ KHẢO SÁT GIÁO VIÊN THPT NHẬN XÉT VỀ NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP SƯ PHẠM CỦA SÁCH GIÁO KHOA MÔN NGỮ VĂN 10    1) Theo Thầy (Cô), môn Ngữ văn có nên quy định một chương trình một cuốn sách giáo khoa không ? Có : 24 = 25,8% Không : 69 = 74,2% 2) Nội dung sách giáo khoa Ngữ văn 10 có phù hợp với những mục tiêu của chương trình môn học không ? Có : 77 = 82,8% Không : 16 = 17,2% 3) Nội dung có sát trình độ tương ứng với những kiến thức đã có ở học sinh không ? Có : 59 = 63,44% Không : 34 = 36,55% 4) Nội dung có cập nhật hóa, đa dạng và có tính chất khách quan đầy đủ không ? Có : 78 = 83,87% Không : 15 = 16,12% 5) Các kiến thức có góp phần khêu gợi được những thái độ tích cực về mặt xã hội, đạo đức và phát triển các giá trị không ? Có : 91 = 97,84% Không : 2 = 2,15% 6) Tiến trình của những kiến thức có đi từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao không ? Có : 81 = 87.1% Không : 12 = 12,9% 7) Những khái niệm có được giải thích một cách sáng rõ không ? Có : 84 = 90,32% Không : 9 = 9,67% 8) Các hoạt động học tập có giúp cho việc tăng cường học tập và rèn luyện không ? Có : 77 = 82,79% Không : 16 =17,2% 9) Các hoạt động học tập có đa dạng không ? Có : 83 = 89,24% Không : 10 = 10,75% 10) Hứng thú học tập của học sinh có được tính đến trong các hoạt động học tập không ? Có : 75 = 80,64% Không : 18 = 19,35% 11) Bài tập, ví dụ có sát hợp với nội dung của bài học không ? Có : 74 = 79,56% Không : 19 = 20,43% 12) Bài tập ví dụ có đa dạng không ? Có : 79 = 84,94% Không : 14 = 15.05% 13) Bài tập có được trình bày sáng sủa, chính xác không ? Có : 85 = 91,4% Không : 8,6% 14) Có thể xem bài tập như một phương tiện đánh giá việc học tâp và rèn luyện không ? Có : 82 = 88,2% Không : 11 = 11,82% 15) Bài tập có được biên soạn sao cho học sinh có thể tự kiểm tra tiến bộ và thành tích của mình không ? Có : 83 = 89,24% Không : 10 = 10,75% Phụ lục 3C KHẢO SÁT GIÁO VIÊN THPT VỀ KĨ NĂNG HƯỚNG DẪN HỌC SINH LÀM VIỆC VỚI SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 10    Thầy (Cô) vui lòng đánh dấu vào phương án mà Thầy (Cô) cho là đúng nhất. 1) Thầy (Cô) có giới thiệu cho học sinh về nguyên tắc biên soạn bộ sách giáo khoa Ngữ văn 10 không ?  Có  Không 2) Thầy (Cô) có giới thiệu cho học sinh về cấu trúc sách giáo khoa Ngữ văn 10 không ?  Có  Không 3) Thầy (Cô) có giới thiệu cho học sinh về cấu trúc bài học trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 không ?  Có  Không 4) Thầy (Cô) có hướng dẫn học sinh làm việc với sách giáo khoa Ngữ văn 10 không ?  Có  Không 5) Đối với học sinh học chương trình nâng cao, Thầy (Cô) có khuyến khích các em tham khảo thêm chương trình chuẩn (và ngược lại) không ?  Có  Không 6) Thầy (Cô) có nhắc nhở học sinh ý thức giữ gìn sách giáo khoa không ? Có  Không 7) Thầy (Cô) có dặn dò học sinh nên đọc mục Kết quả cần đạt trước khi soạn bài, học bài không ?  Có  Không 8) Thầy (Cô) có chú ý hướng dẫn học sinh tìm hiểu tính chính xác, cách lập luận ở mục Tiểu dẫn không ?  Có  Không 9) Thầy (Cô) có kiểm tra xem học sinh có đọc trước văn bản – tác phẩm không ?  Có  Không 10) Thầy (Cô) có kiểm tra xem học sinh có đọc, nắm nghĩa phần Chú thích từ ngữ không ?  Có  Không 11) Trong quá trình giảng bài, Thầy (Cô) có sử dụng hết tất cả các câu hỏi trong phần Hướng dẫn học bài không ?  Có  Không 12) Thầy (Cô) có sử dụng phần Ghi nhớ như là một tiêu chí giúp học sinh tự đánh giá trong quá trình học tập không ?  Có  Không 13) Thầy (Cô) có sử dụng phần Luyện tập để giúp học sinh rèn luyện sau mỗi bài học không ?  Có  Không 14) Trong quá trình dạy học, Thầy (Cô) có hướng dẫn học sinh tìm hiểu phần Tri thức đọc – hiểu không ?  Có  Không Phụ lục 3D KẾT QUẢ KHẢO SÁT GIÁO VIÊN THPT VỀ KỸNĂNG HƯỚNG DẪN HỌC SINH LÀM VIỆC VỚI SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 10    1) Thầy (Cô) có giới thiệu cho học sinh về nguyên tắc biên soạn bộ sách giáo khoa Ngữ văn 10 không ? Có : 50 = 53,76% Không : 43 = 46,23% 2) Thầy (Cô) có giới thiệu cho học sinh về cấu trúc sách giáo khoa Ngữ văn 10 không ? Có : 54 = 58,06% Không : 39 = 41,93% 3) Thầy (Cô) có giới thiệu cho học sinh về cấu trúc bài học trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 không ? Có : 39 = 41,93% Không : 54 = 58,06% 4) Thầy (Cô) có hướng dẫn học sinh làm việc với sách giáo khoa Ngữ văn 10 không ? Có : 37 = 39,78% Không : 56 = 60,2% 5) Đối với học sinh học chương trình nâng cao, Thầy (Cô) có khuyến khích các em tham khảo thêm chương trình chuẩn (và ngược lại) không ? Có : 58 = 62,36% Không : 35 = 37,63% 6) Thầy (Cô) có nhắc nhở học sinh ý thức giữ gìn sách giáo khoa không ? Có : 71 = 76,34% Không : 22 = 23,65% 7) Thầy (Cô) có dặn dò học sinh nên đọc mục Kết quả cần đạt trước khi soạn bài, học bài không ? Có : 53 = 57% Không : 40 = 43% 8) Thầy (Cô) có chú ý hướng dẫn học sinh tìm hiểu tính chính xác, cách lập luận ở mục Tiểu dẫn không ? Có : 87 = 93,54% Không : 6 =6,45% 9) Thầy (Cô) có kiểm tra xem học sinh có đọc trước văn bản – tác phẩm không ? Có : 76 = 81,72% Không : 17 = 18.27% 10) Thầy (Cô) có kiểm tra xem học sinh có đọc, nắm nghĩa phần Chú thích từ ngữ không ? Có : 80 = 86,02% Không : 13 = 13,97% 11) Trong quá trình giảng bài, Thầy (Cô) có sử dụng hết tất cả các câu hỏi trong phần Hướng dẫn học bài không ? Có : 62 = 66,7% Không : 31 = 33,3% 12) Thầy (Cô) có sử dụng phần Ghi nhớ như là một tiêu chí giúp học sinh tự đánh giá trong quá trình học tập không ? Có : 87 =93,54% Không : 6 = 6,45% 13) Thầy (Cô) có sử dụng phần Luyện tập để giúp học sinh rèn luyện sau mỗi bài học không ? Có : 88 =94,64% Không : 5 = 5,37% 14) Trong quá trình dạy học, Thầy (Cô) có hướng dẫn học sinh nghiên cứu phần Tri thức đọc – hiểu không ? Có : 89 = 95,7% Không : 4 = 4,3% Phụ lục 4A KHẢO SÁT HỌC SINH THPT VỀ Ý THỨC GIỮ GÌN SÁCH GIÁO KHOA   Các em vui lòng đánh dấu vào phương án mà các em cho là thích hợp nhất. 1) Em có bao bìa sách giáo khoa không ?  Có  Không 2) Em có ghi, vẽ làm dơ sách giáo khoa không ?  Có  Không 3) Em có làm rách sách giáo khoa không ?  Có  Không 4) Em có thường xuyên để quên sách giáo khoa mỗi khi đến lớp không ?  Có  Không 5) Giáo viên có nhắc nhở em ý thức giữ gìn sách khoa không ?  Có  Không 6) Hết năm học em có giữ lại sách giáo khoa không ?  Có  Không 7) Em giữ lại sách giáo khoa để làm gì ? ------------------------------------------------------------------------------------------ ---- ---------------------------------------------------------------------------------------------------------- -------------------------------------------------------------------------------------- Cám ơn sự quan tâm cộng tác của các em ! Phan Thiết, tháng 5 năm 2008. Phụ lục 4B KẾT QUẢ KHẢO SÁT HỌC SINH THPT VỀ Ý THỨC GIỮ GÌN SÁCH GIÁO KHOA   1) Em có bao bìa sách giáo khoa không ? Có : 13 = 28,9% Không : 32 =71,1% 2) Em có ghi, vẽ làm dơ sách giáo khoa không ? Có : 4 = 8,9% Không : 41 = 91,1% 3) Em có làm rách sách giáo khoa không ? Có : 0 Không : 45 =100% 4) Em có thường xuyên để quên sách giáo khoa mỗi khi đến lớp không ? Có : 2 = 4,44% Không : 43 = 95,6% 5) Giáo viên có nhắc nhở em ý thức giữ gìn sách giáo khoa không ? Có : 3 = 6,7% Không : 42 = 93,3% 6) Hết năm học em có giữ lại sách giáo khoa không ? Có : 44 = 97,8% Không : 1 = 2,22% 7) Em giữ lại sách giáo khoa để làm gì ? Làm tài liệu tham khảo, ôn thi Đại học. Để lại cho em của em học vào năm sau. Phụ lục 5 KHÔNG CHO HỌC SINH SỬ DỤNG SÁCH GIÁO KHOA TRONG GIỜ HỌC Vào những năm 1975 – 1990 giáo dục nước ta còn rất nhiều khó khăn, gia đình học sinh nào có điều kiện lắm mới có thể mua được một bộ sách giáo khoa (SGK) cho con em mình. Tôi còn nhớ rằng, vào gần cuối thời điểm đó chúng ta có chủ trương cho học sinh mượn (hoặc thuê) SGK. Mỗi bộ sách thời điểm đó có thể sử dụng từ 5 – 7 năm, thậm chí lên đến hơn 10 năm và 4 – 5 em học sinh mới có thể mượn được một bộ SGK để học. Các em chuyền tay nhau để học hoặc tự tổ chức học nhóm (các em gần nhà nhau) để có đủ sách học. Ngày nay, SGK được dử dụng một cách phổ biến, hầu hết mỗi em học sinh đều có đầy đủ từ SGK đến sách bài tập, sách tham khảo tổng cộng lên đến từ 15 – 25 quyển. Vào giờ dạy, ngoài bài giảnghọc sinh được sử dụng SGK để “theo dõi” tiết dạy của thầy. Theo tôi, việc sử dụng SGK như vậy là không cần thiết, là lãng phí, thiếu hiệu quả. Tôi xin kể một câu chuyện về một giáo viên trường tôi (dạy môn Toán) đã từng bị học sinh và phụ huynh phản dối mạnh mẽ vì không cho học sinh sử dụng SGK trong giờ dạy của thầy : Cách đây ba năm, khá nhiều học sinh và phụ huynh đã kiến nghị lên nhà trường vì chuyện thầy T. đã không cho các em sử dụng SGK môn Toán trong giờ dạy của thầy. Lúc đầu nghe qua vấn đề tôi cảm thấy bức xúc và cho rằng thầy T. đã giảng dạy thiếu tính khoa học và tính sư phạm. Nhưng khi nghe thầy giải thích trước hội đồng thì tôi hoàn toàn nhất trí về ý kiến của thầy. Thầy đã nêu ra 3 luận điểm để giải thích và chứng minh cách làm của thầy là đúng khoa học, phù hợp tính sư phạm và đảm bảo lợi ích cho học sinh : 1. Khi sử dụng SGK trong giờ học tại lớp, học sinh sẽ bị phân tán sự chú ý và thiếu tập trung vào bài giảng của thầy, vì các em cho rằng bài giảng của thầy cũng đã có trong sách, nó chỉ khác cách nói và cách trình bày mà thôi. Vậy thì về nhà đọc sách còn hơn. Tuy nhiên nếu nghĩ như vậy thì chưa đúngvì bài giảng của thầy luôn có cái hay, cái mới, giải thích rõ ràng, logic về những vấn đề ở trong và ngoài SGK có liên quan đến bài học. 2. Một vấn đề nữa là về mặt tâm lý, học sinh sẽ thiếu sự chủ động trong học tập. Tôi (thầy T.) không cho học sinh mang sách đến lớp vì đã yêu cầu học sinh phải tìm hiểu trước vấn đề ở nhà dựa vào SGK. Như vậy khoảng thời gian đến lớp là để các em hỏi và nghe tôi giải đáp, giảng giải những điều mà các em chưa hiểu hoặc khó hiểu chứ không phải đến lớp ngồi đọc SGK để “giám sát” giờ dạy của thầy. Nếu em học sinh nào không chịu chuẩn bị bài trước thì mới cần đến SGK trong giờ học, và chắc chắn một điều là trong giờ lên lớp của tôi em đó sẽ không tiếp thu được gì nhiều. 3. Tôi không cho học sinh sử dụng SGK trong giờ học ở lớp để các em tự nâng cao ý thức trắc nhiệm về việc học của mình. Bài học yêu cầu không có gì cao lắm, chỉ cần các em tập trung nghiên cứu trước SGK kỹ một chút là đã có thể hiểu được 50 – 80% rồi. Như vậy, khi đến lớp là lúc các em nghe thầy giảng về những cái hay, cái độc đáo của bài học và luyện tập, thực hành chứ đợi đến khi đó mới “đọc nội dung SGK cho học sinh chép thì còn gì là thầy nữa”. Trước cách luận giải vấn đề của thầy T. tôi không có chút ý kiến gì thêm mà chỉ giải thích cho phụ huynh và học sinh rõ cách dạy học sáng tạo của thầy. Và tất nhiên khi thay đổi cách dạy học khác với truyền thống thì việc giáo viên gặp phải sự phản ứng là điều khó thể tránh khỏi. Thiết nghĩ, ngày nay dạy học “đọc – chép “ đang tràn lan vì chúng ta quá phụ thuộc vào quyển SGK. Thầy ỷ lại có SGK nên cho học sinh sử dụng trong giờ học để công việc chuẩn bị bài của mình đơn giản hơn, nhẹ nhàng hơn ; tiết dạy cũng chỉ “chạy theo thòi gian” chờ hết giờ là xong việc. Cứ như vậy mãi thì giáo dục nước ta đến bao giờ mới “đổi mới” được theo đúng nghĩa như chúng ta mong đợi!? Hoàng Quốc Hưng (Nguồn : giaoduc.edu.com) Phụ lục 6 HỌC SINH CẦN THIẾT SỬ DỤNG SÁCH GIÁO KHOA TRONG GIỜ HỌC Tôi đã đọc nhiều lần bài viết “Không cho học sinh sử dụng sách giáo khoa trong giờ học” của tác giả Hoàng Quốc Hưng (báo Giáo dục TP.HCM ngày 12-10). Là người từng đi học và gắn bó với phấn trắng bảng đen, tôi nghĩ cần trao đổi thêm đôi điều vơi tác giả bài báo. Tôi rất trân trọng mọi sự sáng tạo có ích cho quá trình dạy học và sự nghiệp giáo dục. Song việc không cho học sinh (HS) sử dụng sách giáo khoa (SGK) trong giờ học, tôi thấy có gì đó không thỏa đáng. Đừng so sánh điều kiện của thế kỉ trước với hiện tại để ép buộc học sinh không sử dụng phương tiện cập nhật kiến thức trong quá trình theo dõi bài. SGK là văn bản pháp quy là công cụ không thể thiếu của bất kì thầy giáo hay học trò nào khi đến lớp. Mỗi người có một phương pháp giảng dạy và học tập riêng, song tất cả đều lấy SGK và sách giáo viên làm chuẩn về nội dung kiến thức, không thể khác đi. Do vậy, không cớ già lại không cho HS mang SGK vào lớp. Việc cần làm là giáo viên định hướng cho các em sử dụng SGK sao cho hiệu quả. Nhiệm vụ của người thầy là định hướng các em biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa nghe, nói, đọc, viết - vốn là 4 kỹ năng cần trang bị cho các em trong quá trình học, cũng là mục đích cuối cùng của việc giảng dạy bộ môn. Nếu thầy giáo cấm HS đem sách vào lớp thì e rằng đã cướp đi quyền được tiếp cận sách chuẩn trên lớp, và vô tình mất đi phần nào kỹ năng đọc của HS. Trong quá trình theo dõi việc học của HS, thầy cô có thể uốn nắn việc đọc sao cho chuẩn. Nếu bỏ qua khâu này, tôi e rằng chúng ta đã bỏ bớt một việc cần thiết. Đọc cũng là một kênh tiếp cận kiến thức. Nếu chỉ ngồi nghe thầy giảng liệu các em có nắm được đầy đủ vấn đề không ? Đó là chưa kể theo quan niệm mới, giáo viên không đọc chép, ít ghi bảng, không giảng quá nhiều mà để HS tự tìm hiểu, khám phá kiến thức thông qua bài học ở SGK để thảo luận và phát biểu. Những gì có trong sách thì không ghi chép lại, giáo viên chỉ hướng dẫn HS sử dụng sách để học.nếu không cho đem SGK lên lớp thì giáo viên hướng dẫn bằng gì ? Nếu không có sách thì làm sao các em có cơ sở để phát biểu ? Tôi đồng tình với tác giả Hoàng Quốc Hưng và thầy giáo T. được nhắc đến trong bài báo là bắt buộc HS phải chuẩn bị bài ở nhà. Song, do đây là kiến thức mới, chưa được cập nhật lần nào thì liệu các em sẽ nắm bắt được bao nhiêu ? Đó là chưa kể năng lực của từng em khác nhau. Vậy thì làm sao các em có thể chỉ nghe thầy giảng và nhớ lại bài đọc ở nhà để tích lũy kiến thức chắc chắn và đầy đủ. Lập luận của thầy T. là HS đem SGK vào lớp để “theo dõi”, “giám sát” tiết dạy, giờ dạy của thầy tôi cho là chưa đúng. Nếu các em có cố tâm theo dõi thì thầy cũng nên mừng, tôi chỉ lo các em không theo dõi cả quá trình của thầy dạy và không tiếp thu được gì khi chúng không có cơ sở để suy nghĩ. Vấn đề thứ ba thầy T. nêu ra trong lập luận của mình là lên lớp HS chỉ cần nghe thầy giảng cái hay, cái độc đáo của bài học và luyện tập, thực hành… Vậy những cái cơ bản có cần giảng dạy, gợi ý cho HS hiểu không, trong khi trình độ hiểu biết giữa các em trong lớp không đồng đều ? Còn nữa, nên nhớ rằng SGK không chỉ có lí thuyết đơn thuần mà bao gồm cả câu hỏi, bài tập, luyện tập. Vậy không cho các em sử duạng trong giờ học thì làm sao học được ? Xin nhắc lại, tôi đồng tình với tác giả bài báo đã nêu là cần cho HS chủ động chuẩn bị bài trước ở nhà, lên lớp không đọc chép. Nhưng thay vì không cho HS không sử dụng SGK trong giờ học thì người thầy cần khuyến khích các em sử dụng và hướng dẫn các em sử dụng sao cho có hiệu quả. Đó là một yêu cầu không thể thiếu của quá trình giáo dục, bất kể môn học nào ở phổ thông. Nguyễn Mỹ Văn (Nguồn : giaoduc.edu.com) Phụ lục 7 DANH SÁCH CÁC TRƯỜNG ĐƯỢC KHẢO SÁT     Số TT Trường THPT Tỉnh, Thành Phố Số giáo viên Số học sinh 1 Phan Bội Châu Phan Thiết 23 90 2 Trần Hưng Đạo Phan Thiết 11 3 Nguyễn Văn Linh Phan Thiết 13 4 Trần Khai Nguyên Hồ Chí Minh 15 5 Lâm Thới Hồ Chí Minh 16 6 Trần Phú Vũng Tàu 15 Cộng 6 6 93 90 Phụ lục 8A PHIẾU ĐIỀU TRA PHỤ HUYNH HỌC SINH -------------------------------- Anh (Chị) thân mến ! Để giúp chúng tôi tìm hiểu vấn đề phụ huynh học sinh có quan tâm đến sách giáo khoa không, xin anh (chị) vui lòng trả lời một số câu hỏi sau : 1) Anh chị có quan tâm đến việc thay đổi sách giáo khoa sau năm 2000 không ?  Có  Không 2) Anh chị có biết con anh (chị) học theo bộ sách chương trình chuẩn hay chương trình nâng cao không ?  Có  Không 3) Anh (chị) có đọc sách giáo khoa mà con anh (chị) đang học không ?  Thường xuyên  Thỉnh thoảng  Không bao giờ Cám ơn sự quan tâm cộng tác của anh (chị) ! Phan Thiết, tháng 5 năm 2008. Phụ lục 8B KẾT QUẢ ĐIỀU TRA PHỤ HUYNH HỌC SINH – MẪU 8A -------------------------------- Số lượng điều tra là 45 phụ huynh học sinh có con đang học lớp 10. 1) Anh chị có quan tâm đến việc thay đổi sách giáo khoa sau năm 2000 không ? Có: 33 = 73,33% Không : 12 = 26,66% 2) Anh chị có biết con anh (chị) học theo bộ sách chương trình chuẩn hay chương trình nâng cao không ? Có : 39 = 86,66% Không : 6 = 13,33% 3) Anh (chị) có đọc sách giáo khoa mà con anh (chị) đang học không ? Thường xuyên : 0 Thỉnh thoảng : 19 = 42,22% Không bao giờ : 26 = 57,77% Phụ lục 9A PHIẾU KHẢO SÁT GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ LÀM VIỆC VỚI SÁCH GIÁO KHOA    Thầy (Cô) vui lòng đánh dấu vào phương án mà Thầy (Cô) cho là đúng nhất. 1) Khi hướng dẫn, dặn dò học sinh về nhà tự học Thầy (Cô) tiến hành bằng cách :  Học sinh chuẩn bị bài ở nhà theo câu hỏi gợi ý của sách giáo khoa.  Thầy (Cô) định hướng cho học sinh bằng hệ thống câu hỏi Thầy (Cô) nêu ra. 2) Tổ chuyên môn của Thầy (Cô) có tổ chức thảo luận về cách hướng dẫn học sinh làm việc với sách giáo khoa không ?  Có  Không 3) Theo Thầy (Cô), sách giáo viên Ngữ văn 10 có cần bổ sung kiến thức, kỹ năng để giáo viên hướng dẫn học sinh làm việc với sách giáo khoa không ?  Có  Không 4) Theo Thầy (Cô), sách giáo khoa Ngữ Văn 10 có cần bổ sung kiến thức, kỹ năng giúp học sinh tự làm việc với sách giáo khoa không ?  Có  Không Chân thành cám ơn sự quan tâm cộng tác của Thầy (Cô) ! Phan Thiết, tháng 5 năm 2008. Phụ lục 9B KẾT QUẢ KHẢO SÁT GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ LÀM VIỆC VỚI SÁCH GIÁO KHOA    1) Khi hướng dẫn, dặn dò học sinh về nhà tự học Thầy (Cô) tiến hành bằng cách : Học sinh chuẩn bị bài ở nhà theo câu hỏi gợi ý của sách giáo khoa : 80 = 86,02% Thầy (Cô) định hướng cho học sinh bằng hệ thống câu hỏi Thầy (Cô) nêu ra : 13 = 13,97% 2) Tổ chuyên môn của Thầy (Cô) có tổ chức thảo luận về cách hướng dẫn học sinh làm việc với sách giáo khoa không ? Có : 0 Không : 93 = 100% 3) Theo Thầy (Cô), sách giáo viên Ngữ văn 10 có cần bổ sung kiến thức, kỹ năng để giáo viên hướng dẫn học sinh làm việc với sách giáo khoa không ? Có : 43 = 46,23% Không : 50 = 53,76% 4) Theo Thầy (Cô) sách giáo khoa Ngữ văn 10 (sách học sinh) có cần bổ sung kiến thức, kỹ năng giúp học sinh tự làm việc với sách giáo khoa không ? Có : 91 = 97,84% Không : 2 = 2,15% ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7298.pdf