So sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao (Việt Nam) và Ruinôxke Akutagawa (Nhật Bản)

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ======== PHẠM THỊ THU SO SÁNH NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO (VIỆT NAM) VÀ RUINÔXKÊ AKUTAGAWA (NHẬT BẢN) CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN ĐỨC NINH Thái Nguyên, năm 2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 MỞ ĐẦU 1. Ý nghĩa đề tài 1.1. Nam Cao (1915 - 1951), tên thật là Trần Hữu Tri là nhà văn tiêu b

pdf132 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1765 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu So sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao (Việt Nam) và Ruinôxke Akutagawa (Nhật Bản), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iểu của nền văn học hiện đại Việt Nam 1930 – 1945. Ông là ngƣời góp phần đƣa trào lƣu văn học hiện thực phê phán Việt Nam đầu thế kỉ XX phát triển đến đỉnh cao với những tác phẩm xuất sắc của ông. Do đó, hiện thực đƣợc nói đến trong các tác phẩm của Nam Cao đã đƣợc giới phê bình nghiên cứu tôn vinh và khái quát thành “chủ nghĩa hiện thực Nam Cao”. Tuy chỉ có 15 năm cầm bút nhƣng Nam Cao đã dành tặng cho đời một sự nghiệp sáng tác hết sức phong phú mà chủ yếu đƣợc gói gọn trong thể loại truyện ngắn. Bên cạnh tiểu thuyết Sống mòn, truyện ngắn của Nam Cao giàu về tƣ tƣởng, xuất sắc về nghệ thuật và luôn nhận đƣợc sự quan tâm đặc biệt của công chúng hâm mộ. Vì vậy, nó là một di sản vô cùng quý báu cần đƣợc nghiên cứu thấu đáo hơn. 1.2 Ruinôxkê Akutagawa (1892 - 1927) là cây bút kiệt xuất, đồng thời là một hiện tƣợng văn học phức tạp nhƣng lại hết sức hấp dẫn của văn học Nhật Bản đầu thế kỉ XX. Ông là thủ lãnh của trƣờng phái sáng tác văn học theo “chủ nghĩa tân hiện thực”. Tên của ông đƣợc lấy làm tên giải thƣởng văn học dành cho các nhà văn trẻ xuất sắc ở Nhật Bản. Mặc dù mất ở tuổi 35 nhƣng Akutagawa đã để lại một di sản quý giá với trên 140 tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn và các bài phê bình. Truyện ngắn của Akutagawa đƣợc đánh giá là những trang viết phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức và mang tính tƣ tƣởng bậc nhất ở Nhật so với trƣớc đó. Do vậy, ông đƣợc coi là “một bậc thầy ưu tú” của thể loại truyện ngắn và là một trong những ngƣời khởi đầu của nền văn học hiện đại Nhật Bản, ngƣời góp phần đƣa nền văn học ấy hoà chung với nền văn học thế giới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 Tuy nhiên, cho đến nay, ở Việt Nam chƣa có một công trình nào chính thức nghiên cứu về Akutagawa và truyện ngắn của ông. 1.3. Để bạn đọc Việt Nam có thể hiểu biết thêm về văn học Nhật Bản với một phong cách sáng tác mới lạ của một nhà văn cụ thể, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: So sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao (Việt Nam) và Ruinôxkê Akutagawa (Nhật Bản) để thấy rõ những khác biệt của hai nền văn học có thể gọi là “đồng văn” trong vùng ảnh hƣởng của văn hoá Trung Quốc. Mặt khác, đề tài này còn góp phần vào công việc giảng dạy và học tập văn học Nhật Bản ở Việt Nam . Từ đó , tăng cƣờng tình hữu nghị giữa hai nƣớc Việt – Nhật trong bối cảnh giao lƣu, hợp tác, cùng phát triển hiện nay. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là tìm hiểu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của nhà văn Nam Cao M (Việt Nam) trong so sánh với nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của văn hào Nhật Bản – Akutagawa. Qua đó, tác giả luận văn muốn làm rõ những nét tƣơng đồng và dị biệt cũng nhƣ sự đóng góp về mặt nghệ thuật của hai nhà văn trong thể loại truyện ngắn ở hai quốc gia châu Á. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. Với mục đích trên, luận văn sẽ phân tích các khía cạnh, các bình diện cụ thể của nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nam Cao và Akutagawa để từ đó tiến hành so sánh. 3. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu 3.1. Phạm vi nghiên cứu văn bản Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nhƣ trên, luận văn sử dụng văn bản tác phẩm: Nam Cao – Truyện ngắn chọn lọc của nhà xuất bản Văn học Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 (2005) và Akutagawa - Tuyển tập truyện ngắn của dịch giả Phong Vũ do nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành năm 2000. 3.2. Giới hạn đề tài Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao cũng nhƣ của Akutagawa đặt ra nhiều phƣơng diện cần tìm hiểu nhƣ: Nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật trần thuật, nghệ thuật xây dựng kết cấu, nghệ thuật tổ chức không gian – thời gian… Tuy nhiên, xuất phát từ mục đích so sánh những nét tƣơng đồng và dị biệt về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của hai nhà văn, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu nghệ thuật tự sự trên hai phƣơng diện là: Nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật trần thuật. 4. Lịch sử vấn đề 4.1. Vấn đề nghiên cứu Nam Cao và so sánh Nam Cao với các tác giả văn học nước ngoài 4.1.1. Vấn đề nghiên cứu Nam Cao Nam Cao là một tài năng lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam đầu thế kỷ XX. Vậy nên, những tài liệu nghiên cứu về Nam Cao (theo thống kê của các nhà nghiên cứu) đã lên đến hơn 200 tài liệu. Trƣớc Cách mạng tháng 8- 1945, việc nghiên cứu sáng tác của Nam Cao vẫn chƣa đƣợc chú ý, ngoài lời “tựa” Đôi lứa xứng đôi của Lê Văn Trƣơng [163] thì chƣa có công trình nào chính thức nghiên cứu về Nam Cao. Sau Cách mạng tháng 8-1945, Nam Cao bắt đầu trở thành một “hiện tƣợng” của nghiên cứu, phê bình văn học đƣơng thời. Ngƣời đầu tiên quan tâm đến tính sắc sảo trong sáng tác của Nam Cao là Nguyễn Đình Thi trong bài Nam Cao [149] viết vào những năm 50. Bƣớc sang những năm 60, nhiều công trình nghiên cứu về Nam Cao của các nhà nghiên cứu đã ra đời. Mở đầu là hai bài viết Đọc truyện ngắn Nam Cao, soi lại bước đường đi lên của một nhà văn hiện thực [20] và Con người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 và cuộc sống trong tác phẩm Nam Cao [21] của Huệ Chi – Phong Lê. ở đó, hai nhà nghiên cứu đã đƣa ra nhiều nhận định và đánh giá khái quát về sự nghiệp sáng tác của Nam Cao. Năm 1961, hai nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức cũng đƣa ra hai công trình nghiên cứu về Nam Cao. Trong đó, Phan Cự Đệ với cuốn Văn học Việt Nam 1936-1945 [39] đã dành riêng một bài viết công phu tìm hiểu cuộc đời và sáng tác của tác giả “Nam Cao”. Còn Hà Minh Đức trong cuốn Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc [42] thì nhìn nhận sáng tác của Nam Cao ở một góc độ sâu hơn – góc độ điển hình hoá. Nhà nghiên cứu cho rằng: Nam Cao là một nhà văn hiện thực xuất sắc bởi sáng tác của ông đã đạt đến trình độ điển hình hoá cao trên nhiều phƣơng diện nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật. Vào những năm 70, các công trình nghiên cứu về Nam Cao vẫn tiếp tục ra đời, tiêu biểu trong đó phải kể đến giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945 [82] của Nguyễn Hoành Khung. Trong chƣơng Nam Cao, nhấn mạnh đến tài năng của Nam Cao trong việc nhào nặn những chất liệu hiện thực rất đỗi thời thƣờng và biến nó thành những vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn. Năm 1974, trong cuốn sánh Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại [40], Phan Cự Đệ một lần nữa lại nhắc đến Nam Cao và đƣa ra nhiều phát hiện mới, độc đáo về sáng tác của nhà văn. Theo ông, điểm đặc sắc trong tác phẩm của Nam Cao chính là ở nghệ thuật “miêu tả tâm lý, kết cấu theo quy luật tâm lý, độc thoại nội tâm”. Ông cho rằng cách thức xây dựng nhân vật của Nam Cao rất gần với nghệ thuật xậy dựng nhận vật tự ý thức trong sáng tác của Dostôievski và nhất là Sekhov. Năm 1976, Hà Minh Đức trong cuốn Nam Cao – tác phẩm [44] đã chỉ ra sự sâu sắc và tinh tƣờng trong cách xây dựng nhân vật của Nam Cao. Ông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 viết: “Nam Cao là nhà văn có nhiều đóng góp về miêu tả tâm lý và khả năng phản ánh hiện thực qua tâm trạng” [44, 43]. Tháng 7 năm 1977, Nguyễn Đăng Mạnh hoàn thành bài viết “Nhớ Nam Cao và những bài học của ông” in trong cuốn Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn [108]. Trong bài viết, tác giả nhận xét: “Sức hấp dẫn của Nam Cao còn ở những trang phân tích tâm lý sắc sảo của ông. Nam Cao chú ý nhiều đến nội tâm hơn ngoại hình nhân vật” [108,183]. Đặc biệt khi đi sâu vào nghệ thuật kể chuyện của Nam Cao, Nguyễn Đăng Mạnh còn khẳng định: “Nam Cao có một lối kể chuyện rất biến hoá, cứ nhập thẳng vào đời sống bên trong của nhân vật mà dắt dẫn mạch tự sự theo dòng độc thoại nội tâm. Lối kể chuyện theo quan điểm nhân vật nhƣ thế tạo ra ở nhiều tác phẩm của Nam Cao, một thứ kết cấu bề ngoài có vẻ rất phóng túng, tuỳ tiện mà thực ra thì hết sức chặt chẽ nhƣ không thể nào phá vỡ nổi” [108,183]. Năm 1982, trong bài viết Nam Cao và đôi nét nghệ thuật sáng tạo tâm lý [43], giáo sƣ Hà Minh Đức nhận định: “Dòng tâm lý trong tác phẩm của Nam Cao vận động qua nhiều cảnh ngộ nhƣng vẫn quẩn quanh, tù túng không tìm đƣợc hƣớng thoát. Nó không đƣợc giao lƣu với hành động nên có những phát triển ở bên trong, ngày càng đi sâu vào nội tâm. ở đây có những trạng thái tâm lý gần gũi với miêu tả tâm lý của Dostôievski và đặc biệt là Sekhov” [43,73]. Nhƣ vậy, Hà Minh Đức đã chỉ ra một đặc điểm rất quan trọng trong sáng tác của Nam Cao là sự ảnh hƣởng của nghệ thuật xây dựng nhân vật trong văn học “dòng ý thức” ở phƣơng Tây thế kỷ XIX. Và đặc điểm này đã chi phối toàn bộ thế giới nhân vật của Nam Cao. Năm 1983, Nguyễn Đăng Mạnh trong “Khải luận” - Tổng tập văn học Việt Nam (tập 30A) [105] đã nhấn mạnh đến tính “đặc sắc tân kỳ” của ngòi bút Nam Cao. Ông viết: “Truyện Nam Cao đạt tới trình độ điêu luyện trong nghệ thuật phân tích tâm lý. Nam Cao có khả năng đi vào những trạng thái Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 tâm lý không rõ ràng. Ông cũng hay đi vào những tính cách phức tạp trong quá trình diễn biến” [105, 51]. Mặt khác, khi bàn về nghệ thuật trần thuật, nhà nghiên cứu còn cho rằng “văn kể chuyện Nam Cao biến hoá linh hoạt” rất phù hợp với cách miêu tả tâm lý nhân vật của ông. Năm 1992, dựa vào kết quả hội thảo khoa học nhân kỷ niệm 50 năm ngày mất của Nam Cao (tổ chức vào tháng 11 năm 1991), Viện văn học cùng hội văn học nghệ thuật Hà Nam tiến hành biên soạn cuốn Nghĩ tiếp về Nam Cao [95] do giáo sƣ Phong Lê chủ biên. Cuốn sách là một công trình chung của nhiều tác giả, tập hợp nhiều ý kiến, đánh giá và tìm tòi, khám phá mới về Nam Cao. Để phục vụ cho quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đặc biệt quan tâm đến những bài viết về nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nam Cao. Trƣớc hết, trong bài viết Bi kịch tự ý thức – nét độc đáo trong cảm hứng nhân đạo của Nam Cao [35], tác giả Đinh Trí Dũng đã chỉ ra “một trong những điểm độc đáo của bút pháp hiện thực đồng thời cũng là cơ sở cho cảm hứng nhân đạo của Nam Cao là việc đi sâu tìm hiểu thế giới bên trong đầy phong phú, phức tạp của tâm hồn con ngƣời” [35,33]. Vì vậy, “các nhân vật của Nam Cao không có gì khác hơn là vũ khí tinh thần – sự tự ý thức để chống lại sự tha hoá để bảo vệ bản chất nhân đạo của con ngƣời” [35,34]. Theo tác giả, trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam (1930 – 1945), không chỉ có các nhân vật của Nam Cao mới có vấn đề tự ý thức nhƣng chƣa nhà văn nào đƣa đƣợc vấn đề tự ý thức của nhân vật lên đến mức sâu sắc, “thƣờng trực nhất quán” nhƣ ở ngòi bút Nam Cao. Trong bài Nam Cao phê phán và tự phê phán [47] của giáo sƣ Hà Minh Đức, một lần nữa Nam Cao lại đƣợc nhắc đến với trình độ miêu tả và phân tích tâm lý nhân vật tài tình. Nhà nghiên cứu phát hiện: “Nam Cao đã để cho Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 dòng tâm lý nhân vật phát triển theo hình thức, và độc thoại nội tâm là phƣơng thức biểu hiện quan trọng” [47,45]. Bài viết của Phạm Xuân Nguyên về Nam Cao và sự lựa chọn chủ nghĩa hiện thực mới [121] cũng là một bài viết khai thác bút pháp hiện thực Nam Cao trên nhiều phƣơng diện. Tác giả nhấn mạnh: “Nam Cao đã lấy sự phân tích tâm lý làm chính để dựng truyện, dựng nhân vật. Dù nhân vật là nông dân hay trí thức, kẻ lƣu manh hay ngƣời lƣơng thiện, ngòi bút nhà văn đều khơi gợi đến các phần cảm, phần nghĩ của chúng, bắt chúng phải tự bộc lộ” [121,76]. Và trên hết, “cách viết tâm lý tạo cho Nam Cao một khả năng mới trong mối quan hệ tác giả - nhân vật... Nam Cao đã đa thanh hoá giọng điệu tự sự...” [121,77]. Lối văn kể chuyện của Nam Cao [132] của Phan Diễm Phƣơng là một bài viết đƣa ra nhiều phát hiện mới mẻ về nghệ thuật kể chuyện của Nam Cao. Tác giả bài viết cho rằng: “Nhìn từ góc độ nào đó sẽ thấy trong ngôn ngữ kể chuyện của Nam Cao có cái vẻ khách quan lạ lùng... Điều này đƣợc thể hiện ra không phải bằng những từ ngữ cụ thể, bằng những phƣơng thức tu từ... mà bằng cách kể, giọng kể của ông... Nam Cao không chỉ kể chuyện mà còn kể về tâm trạng, và nhiều khi, đến một lúc nào đó truyện sẽ biến thành tâm trạng...” [132,133]. Ngoài ra, cuốn sách còn tập hợp nhiều bài viết xuất sắc của các tác giả khác nhƣ: Những biến hoá của chất nghịch dị trong truyện ngắn Nam Cao - Vƣơng Trí Nhàn [123]; Về các nhân vật dị dạng trong sáng tác của Nam Cao - Trần Thị Việt Trung [159]; Phong cách truyện ngắn Nam Cao - Vũ Tuấn Anh [2]; Nghệ thuật văn xuôi truyện ngắn Lão Hạc - Chu Văn Sơn [139]... Tiếp tục khuynh hƣớng mà hội thảo về Nam Cao năm 1991 đƣa ra, năm 1997-1998, chung quanh dịp kỷ niệm 80 năm ngày sinh Nam Cao, có hai sự kiện đánh dấu một bƣớc tiến nữa trên con đƣờng tiếp cận sáng tác Nam Cao. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 Đó là hai công trình nghiên cứu chuyên biệt về Nam Cao của giáo sƣ Phong Lê với Nam Cao phác thảo sự nghiệp và chân dung [97] và của giáo sƣ Hà Minh Đức với Nam Cao - Đời văn và tác phẩm [45]. Năm 1998, Trần Đăng Suyền trong bài Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn [145] đã nhận định: Phần nhiều tác phẩm của Nam Cao “đƣợc dệt nên bằng toàn những “cái hàng ngày” chủ yếu liên quan đến cuộc sống riêng tƣ của các nhân vật” [145,156]. Nhƣng chính những “cái vặt vãnh nhỏ nhoi, tủn mủn mà nhà văn gọi là “những chuyện không muốn viết”... lại có sức mạnh ghê gớm” [145,156]. Về nghệ thuật, Trần Đăng Suyền cho rằng: nghệ thuật miêu tả tâm lý nhận vật đã trở thành “linh hồn”, “cốt tuỷ” trong sáng tác của Nam Cao. Năm 2000, Nguyễn Hoa Bằng bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Thi pháp truyện ngắn Nam Cao [14]. Có thể coi đây là công trình nghiên cứu về thi pháp truyện ngắn Nam Cao tƣơng đối đầy đủ, toàn diện và có hệ thống. Trên cơ sở phân tích những phƣơng diện đa dạng của thi pháp nhƣ: Ngôn ngữ đa thanh; nhân vật thời gian – không gian – ý thức; kết cấu đa quan hệ..., tác giả khẳng định đặc trƣng cơ bản của thi pháp truyện ngắn Nam Cao là “thi pháp đối thoại”. Năm 2001, tiến sĩ Phạm Mạnh Hùng trong luận án Thi pháp hoàn cảnh trong tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao viết “thiên nhiên, cảnh vật trong tác phẩm của Nam Cao không phải chỉ đơn thuần là những bức tranh phong cảnh. Nhiều khi nó là yếu tố biểu hiện tâm lý” [76,136]. Cũng trong năm này, nhà nghiên cứu Vũ Thăng, với chuyện luận Một vài đặc điểm thi pháp truyện Nam Cao [148] đã khám phá nghệ thuật sáng tác của Nam Cao ở góc độ thi pháp. Trong chƣơng “Nam Cao – sự khám phá thế giới nội tâm con ngƣời”, nhà nghiên cứu đƣa ra nhận xét: “Tính chất đa thanh, phức điệu của tác phẩm Nam Cao có nguồn gốc sâu xa từ cái nhìn hiện thực Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 mới mẻ rất đỗi đời thƣờng của ông... Đặc điểm của tính phức điệu trong tác phẩm Nam Cao là khả năng đối thoại, độc thoại đa dạng, nhiều tầng, nhiều lớp...” [148,60]. Trong cuốn Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao [146], khi tìm hiểu vấn đề loại hình và thi pháp trong sáng tác của nhà văn, Trần Đăng Suyền viết: “Nam Cao ít khi lựa chọn một kiểu cốt truyện đƣợc xây dựng trên cơ sở miêu tả những hành động bên ngoài của nhân vật” [146,39], mà “thƣờng đƣợc xây dựng trên cơ sở miêu tả những cuộc đấu tranh nội tâm của nhân vật” [146,44]. Và gần đây nhất năm 2007, Bích Thu đã tái bản lần thứ năm cuốn Nam Cao về tác giả và tác phẩm [151]. Đây là công trình tập hợp tƣ liệu và chọn lọc những bài viết tiêu biểu về Nam Cao của nhiều tác giả trong gần nửa thế kỷ qua. Bàn về nghệ thuật miêu tả tâm lý trong truyện ngắn Nam Cao, nhà nghiên cứu viết: “Nam Cao tỏ ra có sở trƣờng trong miêu tả tâm trạng, quá trình diễn biến tâm lý phức tạp của nhân vật làm nổi bật bi kịch đời thƣờng, bi kịch nhân cách, bi kịch tinh thần của con ngƣời” [151,23]. 4.1.2. Vấn đề so sánh Nam Cao với các tác giả văn học nước ngoài Nam Cao là một nhà văn có tầm vóc nổi bật. Điều này đã đƣợc minh chứng bằng việc nhà nghiên cứu Liên Xô - N.I.Niculin trong ba cuốn từ điển đồ sộ là Từ điển bách khoa văn học giản yếu [118]; Đại từ điển bách khoa Liên Xô [119]; Từ điển bách khoa văn học [120] đã dành riêng một mục để viết về ông. Bên cạnh đó, các tác phẩm của Nam Cao còn đƣợc dịch và giới thiệu ở một số nƣớc trên thế giới. ở Việt Nam, hƣớng tiếp cận Nam Cao từ góc độ so sánh với các tác giả văn học nƣớc ngoài đã manh nha từ những năm 60, 70 và 80. Hai nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức là những ngƣời đầu tiên đặt Nam Cao bên cạnh các nhà văn lớn của thế giới nhƣ Sekhov, Dostôievski để thấy đƣợc tầm vóc nổi bật của ông. Phan Cự Đệ cho rằng “Nam Cao gần Sekhov, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 Dostôievski, nhất là Sekhov” [40,121]. Đồng tình với ý kiến này, Hà Minh Đức cũng khẳng định cách miêu tả trạng thái tâm lý ở nhân vật Nam Cao “gần gũi với miêu tả tâm lý của Dostôievski và đặc biệt là Sekhov” [43,73]. Năm 1987, giáo sƣ Phong Lê trong bài viết Nam Cao – nhìn từ cuối thế kỷ [99] đã khẳng định “Nam Cao có một vị trí tựa A. Sekhov”. Trên cơ sở đó nhà nghiên cứu cho rằng: “Cả hai, Nam Cao và T.A.Sekhov đều tìm về một chủ nghĩa hiện thực của đời thƣờng, soi chiếu các giá trị phổ quát của đời sống...” [99,114]. Bƣớc sang thập niên 90, phƣơng pháp tiếp cận Nam Cao từ góc độ so sánh đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm và nghiên cứu chuyên sâu hơn. Trong cuốn Nghĩ tiếp về Nam Cao [3] do giáo sƣ Phong Lê chủ biên đã tập hợp và giới thiệu với bạn đọc một chùm ba bài viết về Nam Cao từ góc độ so sánh của ba nhà nghiên cứu là Đào Tuấn ảnh với Tsêkhov và Nam Cao – một sáng tác hiện thực kiểu mới [3]; Trần Ngọc Dung với Gặp gỡ giữa M.Gorki và Nam Cao [33]; Và Phạm Tú Châu với Đôi điều so sánh giữa Chí Phèo và AQ [19]. Trong đó, nhà nghiên cứu Đào Tuấn ảnh đã chỉ ra điểm nổi bật khi đặt Nam Cao bên cạnh Sekhov là Nam Cao và Sekhov “đều viết về những điều vặt vãnh của đời sống hàng ngày” [3,203]. Họ đều “khƣớc từ kiểu cốt truyện truyền thống” và toàn bộ sáng tác của họ “đƣợc xây dựng trên chất trữ tình – trên tiếng cƣời và nỗi buồn” [3.208]. Còn Trần Ngọc Dung thì cho rằng sự “gặp gỡ giữa M.Gorki và Nam Cao” là sự gặp gỡ ngẫu nhiên giữa hai nhà tƣ tƣởng lớn, cả hai đều là “hai nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn...” [33,214]. Phạm Tú Châu cũng có nhiều phát hiện độc đáo về cách thức xây dựng hai nhân vật Chí Phèo cũng nhƣ AQ của hai nhà văn hiện thực xuất sắc Nam Cao và Lỗ Tấn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 Năm 2004, Viện văn học tổ chức cuộc hội thảo nhân kỷ niệm 100 năm ngày mất của A.Sekhov. Tại đây, có rất nhiều bài viết tham luận về cuộc đời sự nghiệp của nhà văn Nga vĩ đại này. Trong đó, có bài viết sâu sắc so sánh A.Sekhov và Nam Cao của giáo sƣ Phong Lê: A.Sekhov và Nam Cao nhìn từ hai nền văn học [98]. Với bài viết này, tác giả đã tìm đến những nét giống và khác nhau giữa Nam Cao và A.Sekhov . Từ đó, nhà nghiên cứu khẳng định sự tƣơng đồng giữa Nam Cao và A.Sekhov thể hiện ở “vai trò và sứ mệnh của mỗi ngƣời đối với lịch sử văn học dân tộc’’ [98,189] và “ở một lối tƣ duy nghệ thuật độc đáo - đào sâu vào đời sống tâm lý và hƣớng vào cuộc sống nhỏ nhặt thƣờng ngày’’ [ 98,203]. Năm 2005, dựa trên những thành tựu nghiên cứu đã có, nhà nghiên cứu Đào Tuấn ảnh lại tiếp tục cho ra đời bài viết: A.Sekhov và Nam Cao nhìn từ góc độ thi pháp [4]. Trong bài viết này, nhà nghiên cứu chỉ ra sự tƣơng đồng và khác biệt giữa Nam Cao và Sekhov trên hai phƣơng diện cụ thể là: Cốt truyện và kết cấu văn bản trong truyện ngắn của hai nhà văn. Ngoài ra, hai luận văn thạc sĩ (trƣờng đại học sƣ phạm Thái Nguyênt): Một số vấn đề thi pháp truyện ngắn Nam Cao (so sánh với thi pháp truyện ngắn A.Sekhov) của Lƣơng Thị Lan [91] và Sự gặp gỡ giữa Nam Cao và A.Sekhov trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của Cầm Thị Bích Thu [150] cũng là những khám phá và phát hiện mới mẻ về sáng tác của Nam Cao trong so sánh với văn hào Nga Sekhov. Tác giả các luận văn đã làm rõ những đặc điểm cách tân của Nam Cao ở lĩnh vực thi pháp truyện ngắn và đặt chúng trong cái nhìn đối chiếu với sáng tác của Sekhov dựa trên những phƣơng diện thi pháp tƣơng đồng. Nhìn chung, những công trình chuyên biệt nghiên cứu về Nam Cao rất phong phú và đa dạng với hàng trăm tài liệu. Các bài nghiên cứu đã nhìn nhận nghệ thuật tự sự của Nam Cao ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 khuôn khổ của đề tài, tác giả luận văn mới chỉ tập trung khai thác các tài liệu liên quan đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật trần thuật trong sáng tác Nam Cao và so sánh Nam Cao với các tác giả văn học nƣớc ngoài. Trên cơ sở đó, tác giả luận văn hi vọng sẽ tiếp tục khám phá những “hạt ngọc”còn ẩn giấu trong truyện ngắn Nam Cao, đồng thời đối chiếu nó với nghệ thuật trong truyện ngắn của một văn hào Nhật Bản có nhiều nét tƣơng đồng với ông – văn hào Akutagawa. 4.2. Vấn đề nghiên cứu văn học Nhật Bản và Akutagawa 4.2.1. Về văn học Nhật Bản Văn học Nhật Bản là một nền văn học lớn và độc đáo của Châu Á. Tuy nhiên, việc nghiên cứu văn học Nhật Bản ở nƣớc ta còn rất hạn chế. Qua khảo sát tƣ liệu, tác giả luận văn nhận thấy vấn đề nghiên cứu văn học Nhật Bản ở Việt Nam tập trung vào hai mảng chính: Nghiên cứu của tác giả Việt Nam và những công trình nghiên cứu của các tác giả nƣớc ngoài đã đƣợc dịch sang tiếng Việt. 4.2.1.1. So với thế giới, việc nghiên cứu văn học Nhật Bản ở nƣớc ta diễn ra còn chậm và chƣa đồng bộ. Tuy vậy, các công trình và bài viết của các tác giả Việt Nam đã phần nào cung cấp cho bạn đọc những vấn đề cơ bản trong việc tiếp nhận văn học Nhật Bản nhƣ: Những vấn đề chung của văn học Nhật Bản; Vấn đề nghiên cứu một tác giả, tác phẩm; Vấn đề thể loại và vấn đề so sánh văn học... Từ những năm 60,70, những bài viết đầu tiên về văn học Nhật Bản đã đƣợc đăng trên Tạp chí văn học (Miền Nam). Đó là Tiểu thuyết Nhật Bản của Mai Chƣơng Đức số 90, tháng 6 – 1969 [48]; Vài nét về thơ Nhật Bản, I.Takuboku của Vĩnh Sính số 90, tháng 6 – 1969 [110]; Kawabata – nhà văn Nhật Bản đầu tiên được giải Nobel của văn học của Mai Chƣơng Đức số 114, tháng 3 – 1972 [49]... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 Đến những năm 80, đặc biệt những năm về sau, những bài viết và sách nghiên cứu về văn học Nhật Bản xuất hiện nhiều và phong phú hơn. Về sách, có thể nói Nhật Chiêu là nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp nhất trong việc nghiên cứu văn học Nhật Bản với các cuốn sách có giá trị của ông. Từ năm 1994 đến 2000, Nhật Chiêu đã xuất bản bốn đầu sách về văn học Nhật Bản: Basho và thơ Haiku (1994) [25]; Nhật Bản trong chiếc gương soi (1997) [28]; Thơ ca Nhật Bản (1998) [26] và Văn học Nhật Bản từ khởi thuỷ đến năm 1868 (2000) [31] cùng nhiều bài nghiên cứu đặc sắc khác. Ngoài Nhật Chiêu, còn có hai nhà nghiên cứu Hữu Ngọc và Lƣu Đức Trung. Trong đó, Hữu Ngọc đã đƣa bạn đọc đến với văn học Nhật Bản qua cuốn Dạo chơi vườn văn Nhật Bản (1992) [125]. Còn Lƣu Đức Trung thì giới thiệu một tác giả tiêu biểu với cuốn Y.Kawabata – Cuộc đời và tác phẩm (1997) [160]. Từ những năm 80 đến nay, nhiều bài nghiên cứu sâu sắc về văn học Nhật Bản đã đƣợc đăng tải trên các tạp chí lớn nhƣ: Tạp chí nghiên cứu văn học, Tạp chí văn học nước ngoài, Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản, Tạp chí văn Sài Gòn... Bàn về những vấn đề chung của văn học Nhật Bản, tác giả các bài viết đã phác hoạ diện mạo của văn học Nhật Bản qua các thời kỳ với một cái nhìn khái lƣợc. Trong đó, có thể kể đến những bài nhƣ: Văn học Nhật Bản hiện đại từ thời Minh Trị đến nay của Nguyễn Tuấn Khanh (Viện thông tin khoa học xã hội, 1998) [80]; Một số nét đặc trưng của văn học Nhật Bản – Trần Hải Yến (Nghiên cứu Nhật Bản số 4, 1999) [168]; Các khuynh hướng phản tự nhiên chủ nghĩa trong văn học Nhật Bản đầu thế kỷ XX – Khƣơng Việt Hà (Nghiên cứu văn học số 8, 2005) [57]. Vấn đề nghiên cứu một tác giả, tác phẩm cụ thể cũng thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu. Trong đó, Yasunari Kawabata là nhà văn đƣợc bàn đến nhiều nhất qua các bài viết: Yasunari Kawabata Người cứu rỗi cái đẹp–Nhật Chiêu N (Tạp chí văn số 16, 1991) [22]; Truyện ngắn trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 lòng bàn tay hay hồn thơ Kawabata Yasunari – Nhật Chiêu (Tạp chí văn số xuân, 1996) [24]; Thế giới Kawabata Yasunari (hay là cái đẹp: hình và bóng) – Nhật Chiêu (Tạp chí văn học số 11, 2000) [29]; Kawabata Yasunari – Lữ khách muôn đời đi tìm cái đẹp–Nguyễn Thị Mai Liên N (Nghiên cứu văn học) [93]; Kawabata Yasunari giữa dòng chảy Đông - Tây - Đào Thị Thu Hằng (Tạp chí văn học số 7, 2005) [62]... Ngoài ra, còn có các bài viết về Oe Kenzaburo, Matsuo Basho... Các bài nghiên cứu từ góc độ thể loại cũng chiếm một số lƣợng không nhỏ trên các tạp chí. Cụ thể là: Đôi điều về thơ Nhật Bản - Nguyễn Xuân Sanh (Tác phẩm mới số 4, 1992) [135]; Cảm nhận về thơ Haiku – Nhật Chiêu (Tác phẩm mới số 4, 1992) [136], Một số đặc điểm của thơ Haiku Nhật Bản – Hà Văn Lƣỡng (Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á số 3, 2002)... Bên cạnh những vấn đề trên còn có vấn đề so sánh loại hình văn học (những nét tƣơng đồng và dị biệt) giữa văn học Việt Nam và văn học Nhật Bản, tiêu biểu là bài viết: So sánh quan niệm văn học trong văn học cổ Việt Nam và Nhật Bản của Đoàn Lê Giang (1997) [52]. Trên cơ sở đó, Đoàn Lê Giang còn đi sâu nghiên cứu các tác giả cụ thể qua bài Basho – Nguyễn Trãi – Nguyễn Du những hồn thơ đồng điệu (1997) [53]... Nhìn chung, tình hình nghiên cứu văn học Nhật Bản của các tác giả Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể với những bài viết chất lƣợng. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chƣa có cuốn giáo trình nào hoàn chỉnh về văn học Nhật Bản. Đó là một hạn chế cần đƣợc khắc phục để đáp ứng nhu cầu học tập và giảng dạy văn học Nhật Bản ở nƣớc ta. 4.2.1.2 Do hạn chế về tình hình nghiên cứu văn học Nhật Bản ở trong nƣớc nên các bài viết của các tác giả nƣớc ngoài đã đƣợc dịch sang tiếng Việt cũng đƣợc quan tâm nhiều hơn. Các bài nghiên cứu và sách của các tác giả nƣớc ngoài viết về văn học Nhật Bản đƣợc dịch chủ yếu từ tiếng Nga và tiếng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 Nhật. Tiêu biểu trong số này là toàn tập Lịch sử văn học Nhật Bản của tác giả Shuichi Kato [79] do Trần Hải Yến dịch. Cuốn Văn học Nhật Bản từ cổ đại đến cận đại của tác giả N.I.Konrat [87] cũng là một cuốn sách trình bày hệ thống tiến trình văn học Nhật Bản qua các thời kỳ và dừng lại ở thời kỳ cận đại. Ngoài ra là những bài nghiên cứu của các tác giả Kiwao Nomura, Makoto Ueda và Saeki Shoichi, Keito Matsui Gibson, Peter Metevelis, Tadao Sato, Oe Kenzaburo... in trong chuyên đề “Văn học Nhật Bản” của Viện thông tin khoa học xã hội [112]. 4.2.2. Về Akutagawa Với độc giả Việt Nam, cái tên Akutagawa còn khá mới mẻ bởi văn học Nhật Bản ở nƣớc ta chƣa đƣợc nghiên cứu toàn diện và chuyên sâu. Vả lại, ngƣời ta chỉ chú ý đến những nhà văn Nhật đã đoạt giải Nobel văn học. Trong khi đó, ở Nhật Bản, Akutagawa là một trong những văn hào đƣợc quan tâm và đánh giá cao nhất. Có thể nói, nếu không có sự tiên phong của Akutagawa, nền văn học “xứ phù tang” sẽ không có sự toả sáng với hai giải Nobel dành cho Yasunari Kawabata (1968) và Oe Kenzaburo (1994). Bởi vậy, toàn tập tác phẩm của ông đã đƣợc tái bản tới ba lần vào những năm 40, 50. Bên cạnh đó là nhiều công trình nghiên cứu dành cho ông. Nhiều truyện của ông đã đƣợc dịch ra các thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Tây Ba Nha, Italia... Trong số những tài liệu tham khảo về Akutagawa, tác giả luận văn đặc biệt chú ý đến những bài nghiên cứu về truyện ngắn của ông. Trƣớc hết là bài viết Một đôi nét về Akutagawa và truyện ngắn của ông đƣợc in thay cho lời kết của cuốn Akutagawa – Tuyển tập truyện ngắn của dịch giả Phong Vũ [1]. ở đó, Phong Vũ nhấn mạnh: “Akutagawa đƣợc coi là một bậc thầy ƣu tú của truyện ngắn... Trong cuộc đời văn học ngắn ngủi của mình, ông đã tìm tòi không mệt mỏi, đã vật lộn khá gay go quyết liệt để tự vƣợt lên chính mình, tìm cho mình một tiếng nói nghệ thuật chân chính, độc đáo” [1,345]. Và điểm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 nổi bật trong sáng tác của Akutagawa là “mối quan tâm của ông tới thế giới nội tâm, đến tâm lý con ngƣời: Nó nhƣ một đối tƣợng của nhận thức chứ không chỉ là sự giải thích hành động của con ngƣời... Hơn nữa, ông chỉ ra thế giới nội tâm không phải tự thân mà trong sự va chạm với thế giới xung quanh” [1,345]. Trong bài viết này, Phong Vũ đã điểm lại những truyện ngắn tạo bƣớc ngoặt trong sự nghiệp sáng tác của Akutagawa cùng giá trị nội dung, nghệ thuật của những truyện ngắn đó. Trong tƣ liệu dịch Lịch sử văn học Nhật Bản của Shuichi Kato (Trần Hải Yến dịch) [79], Akutagawa đƣợc nhắc đến nhƣ một trong những đại biểu xuất sắc mở đầu cho nền văn học hiện đại Nhật Bản. Shuichi Kato khẳng định Akutagawa là “nhà văn sáng tạo tiêu biểu nhất của thời đại... sự đa dạng về hình thức và nội dung trong truyện ngắn của ông lớn hơn nhiều bất kỳ tác phẩm của nhà văn đồng thời nào với ông” [79,41]. Bàn về nội dung tƣ tƣởng của Akutagawa, Shuichi Kato cho rằng Akutagawa “không ngừng nhận thức chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Marx” [79,41] và ông giác ngộ giai cấp hơn là dân tộc. Cho nên “tinh thần chống chủ nghĩa quân phiệt, chống chủ nghĩa quốc gia và tự do chủ nghĩa thấm đƣợm từ đầu đến cuối trƣớc tác của Akutagawa” [79,42]. Trong mỗi tác phẩm của mình, Akutagawa luôn thể hiện một tinh thần nhân đạo sâu sắc. Ông không những cảm thông với những kiếp ngƣời đau khổ mà còn phản ánh thời đại với sự thay đổi chóng vánh và những thói tật của nó. Shuichi Kato kết luận: “Các truyện ngắn của Akutagawa thƣờng kết hợp hai yếu tố: Chân lý nhân đạo muôn thuở và đặc tính của một thời kỳ đặc biệt” [79,44]. Về hình thức nghệ thuật, tác phẩm của Akutagawa là một điển hình cho sự ảnh hƣởng của nghệ thuật văn xuôi phƣơng Tây hiện đại. Shui._.chi Kato nhận định: Akutagawa hiểu sâu sắc “từ kịch của Shakespeare đến kịch Irish, từ Villon đến Paul Valery” [79,43]. Ông “thƣờng trích dẫn Strind berg, Nietzsche, Gogol, Dostoievski, Flaubert và Baudelaire” Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 [79,43]. Tác phẩm của Akutagawa còn là sự kết hợp nhuần nhuyễn nghệ thuật tự sự hiện đại trong tác phẩm của Swift và Sammuel Butler thế nhƣng Akutagawa lại không bao giờ từ bỏ văn hoá truyền thống. Ông luôn có ý thức kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa Đông và Tây một cách hài hoà. Bài viết Các khuynh hướng phản tự nhiên chủ nghĩa trong văn học Nhật Bản đầu thế kỷ XX của Khƣơng Việt Hà [57] cũng nói đến Akutagawa trong vai trò là ngƣời đứng đầu của khuynh hƣớng sáng tác theo “chủ nghĩa tân hiện thực” - “một khuynh hƣớng dung hoà đƣợc những tinh hoa lý trí của chủ nghĩa tự nhiên và sắc màu lãng mạn phóng túng của chủ nghĩa duy mỹ, thể hiện một phong cách riêng biệt hoà trộn giữa hiện thực và huyền ảo” [57,126]. Khi bàn về giá trị của sáng tác Akutagawa, tác giả Khƣơng Việt Hà đã ca ngợi tác phẩm của Akutagawa là “những sáng tác hiện thực mà sự đa dạng về nội dung và hình thức của chúng lớn hơn bất cứ tác phẩm của nhà văn nào cùng thời với ông, phản ánh sự nhạy cảm nội tâm và chiều sâu trí thức của một ngƣời am hiểu văn chƣơng Nhật Bản truyền thống, văn học Trung Hoa cổ điển và tƣ tƣởng phƣơng Tây hiện đại” [57,126]. Để độc giả Việt Nam hiểu rõ về văn học Nhật Bản, năm 1998, Viện thông tin khoa học xã hội đã xuất bản cuốn sách tập hợp các chuyên đề nghiên cứu về Văn học Nhật Bản. Trong số các bài viết của các tác giả Việt Nam và nƣớc ngoài, tác giả luận văn lƣu ý đến bài viết của tác giả Nguyễn Tuấn Khanh về Văn học Nhật Bản hiện đại từ thời Minh Trị đến nay [80]. ở đó, Nguyễn Tuấn Khanh đã dành gần một trang để nói về Akutagawa. Ông nhấn mạnh: “Akutagawa là nhà viết truyện nổi tiếng... Ông cố gắng kết hợp văn hoá Châu Âu và văn hoá Nhật Bản” [80,97]. Tuy thấm nhuần văn hoá phƣơng Tây nhƣng Akutagawa lại lấy đề tài trong văn học cổ Nhật Bản và Trung Quốc, “ông không chạy theo đề tài phƣơng Tây và những khuynh hƣớng tự nhiên chủ nghĩa” [80,97]. Và tác phẩm của ông “mang lại một tiếng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 chuông độc đáo: trở về gốc truyền thống nhƣng phân tích tâm lý hiện đại... pha trộn hiện thực và huyền ảo, văn chƣơng hoa mỹ nhƣng súc tích, bố cục chặt chẽ” [80,97]. Nhƣ vậy, so với những tài liệu nghiên cứu về Nam Cao thì tài liệu về văn học Nhật Bản và Akutagawa còn khá ít ỏi. Đó là một khó khăn cho tác giả luận văn trong quá trình nghiên cứu và so sánh. Tuy vậy, các bài nghiên cứu trên là nguồn tƣ liệu tham khảo quý giá giúp chúng tôi xem xét nghệ thuật tự sự trong các truyện ngắn của nhà văn. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để giải quyết vấn đề đặt ra, luận văn sử dụng các phƣơng pháp cơ bản sau: - Phƣơng pháp so sánh - Phƣơng pháp thống kê - Phƣơng pháp phân tích 6. Cấu trúc luận văn Ngoài mở đầu, kết luận và thƣ mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chƣơng: Chương 1: Thời đại của Nam Cao và Akutagawa– Những nét tƣơng đồng và khác biệt Chương 2: Nghệ thuật xây dựng nhân vật của truyện ngắn Nam Cao và Akutagawa Chương 3: Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Nam Cao và Akutagawa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 Chƣơng 1 THỜI ĐẠI CỦA NAM CAO VÀ AKUTAGAWA - NHỮNG NÉT TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT 1. Bối cảnh lịch sử, tình hình văn hoá và văn học Việt Nam và Nhật Bản cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX. 1.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam và Nhật Bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. 1.1.1. Những nét khác biệt Có thể khẳng định rằng điểm khác biệt nổi bật và xuyên suốt lịch sử Việt Nam và Nhật Bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là sự khác biệt về thể chế. Tuy là hai quốc gia châu C nhƣng do sự chi phối của nhiều yếu tố khác nhau nên trong cùng một thời điểm lịch sử, hai nƣớc đã đi theo hai con đƣờng, hai chế độ hoàn toàn khác nhau. Ở Việt Nam, năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu nổ súng vào cửa bể Đà Nẵng chính thức xâm lƣợc nƣớc ta. Sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông rồi ba tỉnh miền Tây Nam Kì, chúng đánh ra Bắc Kì và Trung Kì. Trƣớc sự xâm lƣợc của thực dân Pháp, dân tộc ta đã tiến hành một cuộc chiến đấu quyết liệt chống kẻ thù. Tuy nhiên, giai cấp phong kiến dần dần đã thoả hiệp và đầu hàng thực dân Pháp nên các cuộc đấu tranh của nhân dân đều bị thất bại. Sau hai hiệp ƣớc năm 1883 và 1884, triều đình nhà Nguyễn đã phải công nhận nền đô hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Bƣớc sang đầu thế kỉ XX, sau khi đã bình định nƣớc ta thành công, thực dân Pháp nhanh chóng bắt tay vào công việc khai thác thuộc địa. Chúng tăng cƣờng bóc lột nhân công rẻ mạt và vơ vét tài nguyên. Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp tập trung ở ba mặt cơ bản: Bán hàng hoá, khai thác nguyên liệu và cho vay lãi. Công nghiệp chỉ đƣợc phát triển trong giới hạn không hại đến công nghiệp chính quốc, đóng khung trong phạm vi cung cấp cho chính quốc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 những nguyên liệu hay những sản vật mà Pháp thiếu. Cụ thể nhƣ là: độc chiếm thị trƣờng, mua rẻ nông phẩm (chủ yếu là gạo, tơ tằm) và bán đắt công nghiệp phẩm cho nhân dân, độc quyền ngoại thƣơng; Độc quyền các ngành kinh doanh quan trọng từ khai thác mỏ, giao thông đến làm muối, nấu rƣợu, độc quyền ngân hàng đầu tƣ vào các ngành lợi cho việc vơ vét tài nguyên, hàng hoá để xuất khẩu; Lợi dụng quyền thống trị về chính trị, thực dân duy trì bộ máy quan liêu, cƣờng hào và những luật lệ, chính sách sƣu thuế phong kiến để ra sức chiếm đoạt ruộng đất, tạo ra các vùng sản xuất xuất khẩu (cao su, cà phê, gạo...), tăng cƣờng bóc lột tô thuế, sƣu dịch, làm phá sản nông dân và thợ thủ công, tạo ra nguồn nhân công rẻ mạt phục vụ cho các công trình xây dựng, khai thác của chúng. Kết quả của công việc đó là nuớc ta bị kéo vào quỹ đạo chủ nghĩa tƣ bản nhƣng không đƣợc công nghiệp hoá mà lại biến thành thị trƣờng tiêu thụ và cung cấp nguyên liệu hàng xuất khẩu cho thƣơng nghiệp Pháp. Lợi nhuận rơi vào túi Pháp còn nhân dân ta thì bị bần cùng hoá, bị phá sản, trở thành nguồn nhân công đông đảo và rẻ mạt cho các hãng buôn, các chủ thầu đồn điền của Pháp. Trong khi đó, thực dân Pháp vẫn tiếp tục duy trì mô hình kinh tế phong kiến trên cơ sở phân phối ruộng đất và phân phối sản xuất mới. Vì thế, vào những năm đầu thế kỉ XX, nƣớc ta đã chính thức trở thành nƣớc thuộc địa nửa phong kiến chịu sự bảo hộ toàn quyền của thực dân Pháp. Nếu nhƣ ở Việt NamN, năm 1858 là thời điểm đánh dấu sự chuyển biến quan trọng về lịch sử xã hội thì ở Nhật Bản, năm 1868 cũng là một thời điểm nhƣ thế. Vào giữa thế kỉ XIX, chế độ phong kiến Mạc Phủ ở Nhật Bản bƣớc vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng. Đó là nguyên nhân dẫn đến cuộc cách mạng năm 1868 nhằm xoá bỏ chế độ Tôkƣgaoa và thiết lập chính phủ mới của Thiên hoàng Mâygi. Cuộc cách mạng này đƣợc đánh giá là cuộc cách mạng tƣ sản vì nó mở đƣờng cho quan hệ tƣ bản chủ nghĩa phát triển và thắng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 lợi ở Nhật Bản. Nhƣng nó lại không đem chính quyền về tay giai cấp tƣ sản. Sau khi giành đƣợc chính quyền, Thiên hoàng Mâygi (Minh Trị) đã tiến hành duy tân đất nƣớc theo mô hình của các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây với khẩu hiệu: “theo phƣơng Tây, học phƣơng Tây, đuổi kịp và vƣợt phƣơng Tây” trên tất cả các phƣơng diện: hành chính, xã hội, quân đội, giáo dục, kinh tế - tài chính và đối ngoại. Vì vậy, sau cách mạng năm 1868, nền công nghiệp và kinh tế Nhật Bản đã phát triển vƣợt bậc. Tuy nhiên, vào đầu thế kỉ XX, các nƣớc phƣơng Tây đã chuyển giai đoạn từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Bởi thế, thời kì này, các công ty và các hãng độc quyền đã xuất hiện ở Nhật Bản, đánh dấu sự chuyển biến của Nhật Bản sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, tham gia tranh giành thuộc địa với các cƣờng quốc đế quốc khác. Sự kiện nổi bật đánh dấu sự thay đổi của xã hội Nhật Bản là chiến tranh Nga – Nhật (1904-1905). Sau cuộc chiến tranh này, Nhật Bản đã đạt đƣợc mục tiêu đề ra từ buổi đầu lên ngôi của thiên hoàng Mâygi là bình đẳng với các nƣớc phƣơng Tây đồng thời tiến hành xâm chiếm thuộc địa. Nhiều nƣớc trong khu vực đã trở thành thuộc địa của Nhật nhƣ: Đài Loan, Mãn Châu, Triều Tiên... Sau chiến tranh Nga – Nhật, từ năm 1914 đến năm 1919, Nhật Bản tham gia vào chiến tranh thế giới thứ nhất với tƣ cách là một nƣớc đế quốc trong liên minh với Anh, Nga và Pháp. Nhƣng trên thực tế, Nhật đã lợi dụng cuộc xung đột giữa hai nhóm đế quốc (Anh, Nga, Pháp và Đức, Áo, Hung, Italia) để hoàn thành việc chiếm lãnh thổ Trung Quốc. Do đó, kết thúc chiến tranh, Nhật là ngƣời thắng trận và nghiễm nhiên ngồi vào ghế những nƣớc chiến thắng ở hội nghị Vecxai (1919) và hội nghị Oasintơn (1921) để giành nhiều quyền lợi về kinh tế và tài chính. Nhƣ vậyN, cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Việt Nam và Nhật Bản đã đi theo hai chế độ khác nhau. Nếu nhƣ Việt Nam bị xâm lƣợc và trở thành nƣớc thuộc địa nửa phong kiến chịu sự thống trị của thực dân Pháp thì Nhật Bản lại Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 tiến hành cải cách đất nƣớc theo con đƣờng tƣ bản chủ nghĩa và nhanh chóng phát triển thành nƣớc đế quốc chủ nghĩa đi xâm lƣợc và bóc lột các nƣớc khác. 1.1.2. Những nét tương đồng Tuy có sự khác biệt về thể chế nhƣng giữa Việt Nam và Nhật Bản vẫn có những điểm tƣơng đồng về lịch sử xã hội. Điểm tƣơng đồng dễ nhận thấy nhất là sự tƣơng đồng về cuộc sống của nhân dân hai nƣớc.T Mặc dù Nhật Bản đã cơ bản trở thành một nƣớc tƣ bản vào đầu thế kỉ XX nhƣng điều đó không làm cho cuộc sống của nhân dân Nhật Bản tốt đẹp hơn. Công nhân có đồng lƣơng thấp, điều kiện làm việc rất thiếu thốn, không có bảo hộ lao động, không có bảo trợ xã hội. Còn với nông dân, chính sách cải cách địa tô đã không giúp đƣợc ngƣời nông dân thoát khỏi nghèo túng mà còn làm cho nhiều ngƣời bị mất đất phải rời bỏ quê hƣơng hoặc làm tá điền cho bọn địa chủ. Do vậy, vào thời điểm lịch sử này, các phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân và các trào lƣu tự do dân chủ diễn ra sôi nổi ở Nhật Bản. Cùng với các phong trào đòi tự do và dân quyền của giai cấp tƣ sản, cuộc đấu tranh của nông dân chống cƣỡng bức lao động và sƣu thuế cao đã diễn ra khắp nơi. Các cuộc đấu tranh đều bị chính quyền đàn áp đẫm máu. Song phong trào vẫn không bị dập tắt. Nhân dân không chỉ đòi quyền lợi cho cuộc sống riêng mình mà còn mong muốn củng cố nền độc lập của tổ quốc, đòi xoá bỏ hoàn toàn các hiệp ƣớc bất bình đẳng đã kí. Tƣơng tự nhƣ vậyT, đời sống của nhân dân Việt Nam duới chế độ thực dân nửa phong kiến cũng vô cùng cực khổ. Muốn nắm chặt thuộc địa, thực dân Pháp cần nắm chính quyền các cấp và kiểm soát chặt chẽ nhân dân, chúng cần có một bộ máy cai trị trung thành và đắc lực, cần tạo đƣợc một cơ sở xã hội thích hợp với chế độ của chúng. Tuyệt đại đa số nông dân ở nông thôn xƣa nay vẫn chịu ảnh hƣởng tinh thần của thân sĩ, nho sĩ, đã từng là lực lƣợng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 chống đối lại sự xâm lƣợc của thực dân Pháp một cách ngoan cƣờng trong nhiều năm. Bởi thế, họ không những bị thực dân Pháp đàn áp, chém giết để khuất phục, chiếm đoạt mà còn bị tăng cƣờng bóc lột để giảm nhẹ chi phí cho chính quốc, tăng thu nhập cho ngân sách thuộc địa. Kết quả đã dẫn đến nhiều nông dân bị bần cùng hoá và buộc phải ly khai khỏi ảnh hƣởng của thân sĩ, nho sĩ. Chính sách bóc lột hà khắc của thực dân Pháp đã làm cho nhiều nông dân bị phá sản, mất hết ruộng đất, kéo theo đó là sự xác xơ của xóm làng và sự phá sản của nông nghiệp. Trong khi đó, các đô thị xuất hiện ngày càng nhiều, thu hút những ngƣời nông dân chạy loạn, những ngƣời nông dân bị phá sản và cả những ngƣời bỏ nông thôn ra thành thị mong kiếm ăn đƣợc dễ dàng hơn. Nhƣng ở thành thị đông đúc, ngƣời khôn của khó, có nhiều nghề cũng không dễ kiếm ăn. Những ngƣời nông dân, thợ thủ công bị phá sản một phần trở thành công nhân nhà máy, hầm mỏ, hoặc đi phu làm đƣờng, làm đồn điền; phần lớn còn lại biến thành những anh bồi, anh xe, những vú em con sen, những ngƣời buôn thúng bán mẹt và không ít trở thành gái điếm, lƣu manh. Một tầng lớp tiểu tƣ sản dân nghèo thì sống bấp bênh, cực khổ ở thành thị. Điểm tƣơng đồng thứ hai là việc tiếp xúc với văn minh phƣơng Tây trong bối cảnh riêng của hai nƣớc.§ Có thể nói việc đón nhận thành tựu của văn minh phƣơng Tây là một sự kiện to lớn đối với đất nƣớc mặt trời mọc. Trong thời kì MâygiC, để đạt đƣợc mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc, Nhật Bản chủ trƣơng học tập phƣơng Tây trên mọi phƣơng diện. Về xã hội, phong trào Âu hoá phát triển rầm rộ, đô thị đƣợc xây dựng theo kiểu phƣơng Tây. Ngƣời Nhật từ ăn mặc đến đầu tóc đều làm giống hệt phƣơng Tây, lịch dƣơng còn đƣợc thay thế cho lịch âm truyền thống. Về quân đội, hải quân Nhật đƣợc mô phỏng theo Anh, còn lục quân thì theo kiểu Pháp. Đặc biệt về giáo dục, hệ thống giáo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 dục của Nhật đƣợc phỏng theo mô hình của Pháp. Chính phủ Nhật Bản rất coi trọng việc mời các chuyên gia ngƣời Mỹ, Đức, Anh, Pháp và cả Nga về làm cố vấn và giảng dạy. Nhật Bản đã chi rất nhiều tiền để mua kĩ thuật hiện đại của châu Âu, tranh thủ mọi cơ hội học hỏi các chuyên gia để nắm vững các kĩ thuật hiện đại. Nhờ tinh thần học hỏi phƣơng Tây nên chỉ trong một thời gian ngắn, Nhật Bản đã làm nên điều “thần kì”, hoàn thành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc và trở thành một nƣớc tƣ bản chủ nghĩa sánh ngang với các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây. Cũng tiếp xúc với văn minh phƣơng Tây, nhƣng con đƣờng để ánh sáng phƣơng Tây vào Việt Nam lại khác Nhật Bản. Theo chân thực dân Pháp, văn minh Âu châu tràn vào Việt Nam theo tinh thần bắt buộc chứ không tự nguyện nhƣ Nhật Bản. Để phục vụ cho mục đích cai trị nƣớc ta, thực dân Pháp đã mở các trƣờng hậu bổ, trƣờng Pháp - Việt, trƣờng cao đẳng đào tạo những ngƣời Tây học. Mặt khác, chúng còn đƣa hàng hóa châu Âu và lối sống phƣơng Tây vào nƣớc ta để “ru ngủ’ thanh niên khiến họ quên đi nỗi nhục mất nƣớc. Vì vậy, văn minh phƣơng Tây có mặt ở khắp nơi. ở thành thị, ngƣời ta đua nhau đi học tiếng Tây, việc ăn bơ sữa, mặc ngắn gọn, bắt tay chào hỏi nhau trở nên bình thƣờng trong cuộc sống. Ngƣời ta bắt đầu tìm cách sống thế nào cho thanh lịch với việc xây dựng những nhà hát lộng lẫy, quán trà lôi cuốn lịch sự. Báo chí cũng trở thành “món ăn’ tinh thần với những tin tức “thời thƣợng”. Cuộc sống trở nên bon chen, phức tạp, gấp gáp hơn. Đặc biệt, văn hoá và văn học phƣơng Tây đƣợc truyền bá vào nƣớc ta bằng nhiều con đƣờng đã thu hút sự quan tâm của tầng lớp trí thức Tây học. Tất cả thực tế ấy đã làm cho bộ mặt xã hội của nƣớc ta cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX có nhiều thay đổi. Ban đầu, nhiều ngƣời không chấp nhận cái mới, muốn bài trừ nó đặc biệt là thế hệ những ông đồ Nho. Nhƣng dần dần cái mới chinh phục Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 đƣợc cả những ngƣời khó tính nệ cổ và trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống xã hội mới. Những thay đổi về đời sống xã hội tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi về văn hoá và tình hình văn học. Tuy nhiên, do đời sống xã hội ở một nƣớc thuộc địa khác xa nhiều so với một nƣớc tƣ bản nên dấu ấn để lại trong văn hoá và văn học có nhiều khác biệt. 1.2. Những nét tương đồng và khác biệt về tình hình văn hoá và văn học 1.2.1. Về văn hoá Ngay từ buổi đầu hình thành và chƣa có chữ viết, ngƣời Việt và ngƣời Nhật cổ đã phải mƣợn văn tự của Trung Quốc. Do đó, nhìn tổng quan, văn hoá cổ trung đại Việt Nam và Nhật Bản chịu sự chi phối không nhỏ của văn hoá Trung Hoa. Tuy nhiên, mức độ của sự chi phối đó khác nhau. Nhật Bản là một quần đảo tách biệt với phần lục địa châu Á, bởi vậy, tuy văn hóa Trung Quốc có ảnh hƣởng đến Nhật Bản nhƣng ngƣời Nhật lại không lệ thuộc và mô phỏng theo nền văn hoá “mẹ” ấy mà đã khéo léo kết hợp văn hoá Trung Hoa với văn hoá bản địa để tạo nên một nền văn hoá Nhật Bản riêng biệt, độc đáo. Ngƣợc lại với Nhật Bản, Việt Nam là một đất nƣớc nhỏ bé nằm bên cạnh Trung Quốc, hơn nữa còn bị Trung Quốc đô hộ hơn một nghìn năm. Vì vậy, văn hoá Việt là sự mô phỏng của văn hoá từ chƣơng Trung Hoa, chịu ảnh hƣởng của triết học Trung Hoa cổ đại một cách rõ nét. Đến cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX§, một lần nữa Việt Nam và Nhật Bản lại có sự tƣơng đồng về văn hoá khi cả hai nƣớc cùng tiếp xúc với văn minh, văn hoá phƣơng Tây. Và sự kiện văn hóa nổi bật của thời kì này là quá trình Âu hoá với sự phát triển của phong trào Khai sáng. ở Nhật, phong trào Khai sáng là một hoạt động quan trọng đi liền với giai cấp tƣ sản trong buổi đầu thiết lập chế độ tƣ bản. Khái niệm Khai sáng gắn với khái niệm phƣơng Tây mà trƣớc hết là hình ảnh của các nƣớc Anh, Pháp, Mỹ, Nga. Trong đó, chủ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 nghĩa tƣ bản Anh và Mỹ là khuôn mẫu đối với Nhật Bản trong suốt một thời kì dài. Bởi thế, hai nƣớc tƣ bản này đã để lại dấu ấn đậm nét trong toàn bộ quá trình Âu hoá và phong trào Khai sáng ở Nhật. Nhiệm vụ của phong trào này là đấu tranh với trật tự cũ và thiết lập chế độ mới - chế độ tƣ bản chủ nghĩa. Và ngƣòi đặt nền móng về tƣ tƣởng cho chủ nghĩa tƣ bản công nghiệp Nhật Bản là Phƣkƣjava Yakichi. Lúc đầu, Phƣkƣjava nghiên cứu “khoa học Phần Lan”, ông lợi dụng cái “lỗ thông hơi” của Nhật Bản là Nagasaki (thƣơng cảng có nhiều ngƣời phƣơng Tây sinh sống) để thâm nhập văn hoá Âu châu vào nƣớc Nhật đang đóng kín mọi phía. Sau khi tri thức châu Âu ào ạt đổ vào Nhật Bản, Phƣkƣjava liên tiếp xuất bản các cuốn sách kêu gọi nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ của Nhật nghiên cứu khoa học, học tập châu Âu để cách tân đất nƣớc. Trong đó phải kể đến các công trình nhƣ: Các tri thức về phương Tây, Khoa học vẫy gọi...[86, 197-198]. Tuy nhiên, trong các công trình này, Phƣkƣjava cũng nhấn mạnh một vấn đề hết sức quan trọng trong việc học hỏi phƣơng Tây là: Để xây dựng thể chế tƣ bản, bên cạnh việc nhanh chóng nắm bắt khoa học hiện đại châu Âu thì vấn đề độc lập cũng có ý nghĩa không nhỏ. Học tập phƣơng Tây không có nghĩa là chịu sự đe doạ và trở thành nô lệ của nó. Phong trào Khai sáng do Phƣkƣjava khởi xƣớng, chính là dấu hiệu của nền văn hoá mới. Nó đặt ra nhiệm vụ đƣa vào Nhật Bản những tri thức châu Âu, cổ động cho những hình thức kinh tế mới và một chế độ chính trị mới. Sau Phƣkƣjava, Nakamƣra Kênƣ, Katô Hirayƣki... là những ngƣời đã tiếp tục các hoạt động phong trào Khai sáng của ông. Nhờ những “nhân vật” này, mọi tƣ tƣởng tiến bộ nhất của phƣơng Tây đã đƣợc đƣa vào Nhật Bản, đƣợc hấp thụ và nhanh chóng biến nƣớc Nhật thành một đế quốc hùng mạnh vào những năm đầu thế kỉ XX. Cũng nhƣ ở Nhật BảnC, phong trào Khai sáng ở Việt Nam đƣợc khởi xƣớng vào những năm cuối thế kỉ XIX. Sự kiện đáng chú ý trong đời sống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 văn hoá tƣ tƣởng của nƣớc ta vào lúc này là những chủ trƣơng cải cách xã hội của một số sĩ phu cấp tiến có dịp ra nƣớc ngoài, tiếp xúc trực tiếp với văn hoá phƣơng Tây hoặc đọc sách của phƣơng Tây. Tiêu biểu trong số này là những đề nghị cải cách của Nguyễn Trƣờng Tộ và Nguyễn Lộ Trạch. Nguyễn Trƣờng Tộ là một giáo dân yêu nƣớc, ngƣời Nghệ An. Ông là ngƣời học cao, biết rộng và đi nƣớc ngoài nhiều năm, đặc biệt là Pháp. Đề nghị cải cách của Nguyễn Trƣờng Tộ bao gồm nhiều mặt về nông nghiệp, thƣơng nghiệp, tài chính, quân sự, nội trị, ngoại giao, giáo dục, văn hoá, xã hội. Tinh thần chung trong cải cách của ông là phản đối thái độ phục cổ, chú trọng thực tiễn và khoa học kĩ thuật. Riêng những chủ trƣơng về văn hoá, giáo dục của ông có ý nghĩa tiến bộ đặc biệt. Tuy nhiên, những đề nghị của ông đều không đƣợc triều đình nhà Nguyễn chấp nhận. Nối gót Nguyễn Trƣờng Tộ, Nguyễn Lộ Trạch cũng gửi nhiều đề nghị cải cách. Ông chủ trƣơng mở rộng giao lƣu với nƣớc ngoài trong việc học kỹ nghệ. Nhƣng rồi cũng nhƣ Nguyễn Trƣờng Tộ, những đề nghị của Nguyễn Lộ Trạch cũng bị triều đình quên lãng. Không những thế, triều đình nhà Nguyễn còn tiếp tay cho Pháp ngăn cản việc phát triển văn hoá mới của nhân dân ta. Bƣớc sang đầu thế kỉ XX, kế thừa tinh thần cải cách của Nguyễn Trƣờng Tộ và Nguyễn Lộ Trạch, nhiều phong trào yêu nƣớc đã bùng lên mạnh mẽ, kết hợp cứu nƣớc với duy tân đất nƣớc. Trong đó, cuộc đấu tranh giữa cái mới với cái cũ đã thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Bên cạnh những phong trào cải cách văn hoá, xã hội của những sĩ phu yêu nƣớc còn phải kể đến chính sách văn hoá nô dịch của thực dân Pháp nhằm làm cho nhân dân Việt Nam đoạn tuyệt với văn hoá truyền thống. Trƣớc hết, chúng muốn cách ly hai nền văn hoá Việt Nam và Trung Quốc, cắt đứt mối quan hệ giữa văn học yêu nƣớc cách mạng Việt Nam và Trung Quốc. Chúng khuyến khích việc truyền bá văn chƣơng uỷ mị của nƣớc Trung Hoa nửa thuộc địa nửa phong kiến, đƣa văn hoá phƣơng Tây, trƣớc hết là văn hoá Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 Pháp vào Việt Nam nhằm gây sự khiếp phục. Không những thế, thực dân Pháp còn đàn áp những nhà chí sĩ, mua chuộc và sử dụng các nhà Nho bằng các “trƣờng hậu bổ”, “ban tƣ thƣ” để đánh tan khối cố kết lâu đời của lớp trí thức Nho học. Cùng với việc hạn chế rồi đi đến thủ tiêu việc học hành và thi chữ Hán, thực dân Pháp còn đào tạo những ngƣời Tây học, thoạt đầu chỉ để làm phiên dịch, sau đó chủ yếu làm công chức trung thành của nhà nƣớc bảo hộ. Chúng cho những công chức này hô hào đổi mới văn hoá, văn học Việt Nam nhƣng thực chất là để đồng hoá, tiêu diệt văn hoá nƣớc ta. Ban đầu, có những nhà văn, nhà văn hoá của ta bị cuốn vào quỹ đạo của chính sách văn hoá thực dân. Tuy vậy, vẫn còn nhiều nhà trí thức lúc này có tinh thần yêu nƣớc và tinh thần dân tộc, họ tiếp thu những thành tựu của văn hoá phƣơng Tây nhƣng họ không quên nỗi nhục mất nƣớc và những giá trị của văn hoá dân tộc. Vì vậy, họ đã tìm lối thoát bằng cách tham gia phong trào cách mạng của nhân dân. Nam Cao là nhà văn tiêu biểu cho thế hệ những nhà văn này. Đó chính là điểm khác biệt cơ bản về văn hoá của một nƣớc thuộc địa nửa phong kiến với một nƣớc tƣ bản trẻ trong buổi đầu đƣợc Khai sáng và Âu hoá. Văn hoá là nhân tố tác động sâu sắc đến sự phát triển của văn học. Nhờ có phong trào Khai sáng trong văn hoá cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XX mà nền văn học của hai nƣớc Việt Nam và Nhật Bản đã đƣợc hiện đại hoá và đạt đƣợc nhiều thành tựu rực rỡ.V 1.2.2. Về văn học Điểm chung về văn học của Việt Nam và Nhật Bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là đều đƣợc hiện đại hoá. Ở Nhật, quá trình ấy bắt đầu từ thời Minh Trị khi mà “luồng gió” phƣơng Tây đƣợc thổi vào Nhật Bản. Khoảng 20 năm đầu thời kỳ Minh Trị, văn đàn Nhật Bản bƣớc vào giai đoạn chuyển mình. Đó là giai đoạn văn học làm quen, học hỏi, bắt chƣớc và thể nghiệm những phong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 cách phƣơng Tây để chuẩn bị cho một nền văn học mới ra đời. Những sách chính trị, khoa học, triết học, văn học của Âu châu đƣợc dịch ồ ạt ở Nhật Bản. Về văn học, một số phóng tác theo các nhà văn Pháp: Huygô, Dôla, Giuylơ đã kích thích óc tƣởng tƣợng của độc giả. Những bậc thầy lớn khác nhƣ Sêchxpia, L.Tônxtôi, Gơt, Đôtxtôiepxki... cũng đƣợc dịch và giới thiệu. Năm 1885, cuốn sách Thần cốt (tinh tuý của tiểu thuyết) của Kubuchi Soyo – nhà phê bình chuyên nghiên cứu văn học Anh là một mốc quan trọng của nền văn học mới Nhật Bản. Tác giả cuốn sách phê phán tính chất tầm thƣờng của truyện Nhật Bản lúc đó chỉ nặng về miêu tả tình dục (với đề tài gái giang hồ, võ sĩ...). Ông chủ trƣơng tiểu thuyết phải khơi sâu tình cảm đằng sau hành động, theo mẫu văn học Anh. Trên tinh thần đó, nền văn học Nhật Bản lúc này đã tiếp thu nhiều trào lƣu tƣ tƣởng và thành tựu của văn học phƣơng Tây đƣợc thể hiện trong các sáng tác của: Futabalei Shimei (1864-1909), Mori Ogai (1862-1892), Natsume Soseki (1867-1916), Shimazaki Toson (1872- 1943).... Các nhà văn này đều chịu ảnh hƣởng lớn của bốn nền văn học: Nga, Đức, Anh, Pháp. Đây là bƣớc ngoặt lớn của nền văn học Nhật mới. Vào cuối thời Minh Trị tức là từ khoảng những năm 20, nhịp sống tƣ bản chủ nghĩa hiện đại, sự cạnh tranh tƣ bản, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, chiến tranh thế giới lần thứ nhất, … đã có tác động mạnh mẽ đến văn học. Nét chung của văn học Nhật Bản lúc này là văn học phƣơng Tây vẫn không ngừng hấp dẫn các nhà văn trong khi truyền thống lại trở thành đề tài mới khơi nguồn cảm hứng. Biểu hiện cao nhất của quá trình hiện đại hoá nền văn học lúc này là sự phân hoá nền văn học thành nhiều trào lƣu sáng tác nh ƣ: Chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tự nhiên … Trong mỗi trào lƣu này lại chia ra làm nhiều xu hƣớng, trƣờng phái nhỏ, chẳng hạn: Dư dụ phái, chủ nghĩa duy mỹ, bạch hoa phái, chủ nghĩa tân hiện thực, … Đây đƣợc gọi chung là những khuynh hướng phản tự Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 nhiên trong văn học và mỗi khuynh hƣớng này đều quy tụ nhiều cây bút lỗi lạc của văn học Nhật Bản đầu thế kỉ XX. Trong đó, Akutagawa là cây bút xuất sắc nhất đồng thời là thủ lĩnh của xu hƣớng sáng tác theo chủ nghĩa tân hiện thực. Ở Việt Nam, quá trình hiện đại hoá văn học cũng đƣợc diễn ra từ đầu thế kỉ XX khi mà bối cảnh lịch sử xã hội cũng nhƣ văn hoá ở nƣớc ta đang có thay đổi lớn lao và sâu sắc. Quá trình này đƣợc đánh dấu bằng các thành tố cụ thể là: chữ viết, thể loại, diện mạo của văn học và đội ngũ sáng tác, công chúng văn học. Văn chƣơng Việt đã sử dụng chữ Quốc ngữ thay cho chữ Hán và chữ Nôm. Nhờ có chữ Quốc ngữ mà chỉ trong một thời gian ngắn nền văn học đã đạt thành tựu rực rỡ chƣa từng có. Về thể loại, những thể loại mới, hiện đại đƣợc du nhập từ phƣơng Tây đã chiếm ƣu thế và mang lại thành tựu đáng kể. Các thể loại phát triển nhiều nhất là: thơ mới, tiểu thuyết (bằng văn xuôi), truyện ngắn, ký, phóng sự, … Về đội ngũ sáng tác, một đội ngũ sáng tác mới đƣợc hình thành và mang tính chuyên nghiệp. Văn chƣơng lúc này đã trở thành một thứ hàng hoá và viết văn cũng trở thành một nghề mà nhà văn có thể dựa vào đó để kiếm sống. Các nhà văn phần lớn đều xuất thân từ các trƣờng Tây học. Về công chúng văn học thì đã có sự xuất hiện của lớp công chúng văn học mới thuộc nhiều tầng lớp khác nhau (đặc biệt là tầng lớp thị dân trung lƣu). Về diện mạo văn học, quá trình hiện đại hoá nền văn học đƣợc diễn ra qua 3 bƣớc. Và mỗi bƣớc phát triển này, nền văn học có một diện mạo riêng. Bƣớc một là từ đầu thế kỉ đến năm 1920, bƣớc hai là từ những năm 20 đến những năm 30 và bƣớc ba là từ những năm 30 đến 1945. Văn học đạt thành tựu rực rỡ và hiện đại hoá là bƣớc ba từ 1930-1945. Lực lƣợng sáng tác của giai đoạn này là tầng lớp trí thức tiểu tƣ sản Tây học đƣợc thức tỉnh về ý thức cá nhân, có lòng yêu nƣớc và yêu tiếng nói dân tộc. Tuy nhiên, do tình hình chính trị, xã hội diễn ra phức tạp nên nền văn học giai đoạn này có sự Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 phân hoá thành nhiều trào lƣu (xu hƣớng) và bộ phận văn học trong quá trình phát triển. Về bộ phận văn học, văn học chia làm hai bộ phận: hợp pháp và bất hợp pháp. Còn về xu hƣớng (trào lƣu) văn học, văn học phân ra làm ba trào lƣu: văn học lãng mạn, văn học hiện thực và văn học cách mạng. Và cũng nhƣ văn học Nhật Bản, các trào lƣu (xu hƣớng) này đều hội tụ những nhà văn xuất sắc và tiêu biểu nhất của nền văn học hiện đại Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. ở đó, Nam Cao là nhà văn tiêu biểu cho trào lƣu hiện thực phê phán. Tuy nhiên, nói đến hiện đại hoá cũng có nghĩa là nói đến mô hình phƣơng Tây trong văn học. Hầu hết các nhà văn của chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại đều đƣợc dịch, giới thiệu trong giai đoạn văn học này nhƣ: L.Tônxtôi, Đôtxtôiepxki, Sekhov, Franz Kafka, Albert Camus, André Breton... Văn học Pháp cũng có ảnh hƣởng không nhỏ đến các nhà văn đƣơng thời của ta. Đó là những ảnh hƣởng của văn học hiện thực phê phán cổ điển kiểu Balzac, Stendhal; chủ nghĩa tự nhiên của Zola; chủ nghĩa lãng mạn kiểu Chateau briand, Huygô, Lamartime và chủ nghĩa tƣợng trƣng ở Baudelaire... Đặc biệt, André Gide là ngƣời để lại dấu ấn đậm nét trong suốt một thời gian dài đối với các sáng tác của các nhà văn Nhất Linh, Khái Hƣng, Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Bằng... Nhƣ vậyN, nền văn học đƣợc hiện đại hoá do sự ảnh hƣởng của phƣơng Tây và sự phân hoá nền văn học thành nhiều trào lƣu (xu hƣớng) là điểm tƣơng đồng giữa văn học Việt Nam và văn học Nhật Bản đầu thế kỉ XX. Tuy vậy, bản thân hai nền văn học vẫn có nhiều điểm khác biệt do sự tác động của hoàn cảnh xã hội và văn hoá ở hai nƣớc. Những nét tƣơng đồng và khác biệt đó là cơ sở để chúng tôi tìm hiểu sự tƣơng đồng và khác biệt về cuộc đời và văn nghiệp của Nam Cao và Akutagawa. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 2. Những tác động của hoàn cảnh xã hội đối với cuộc đời, sự nghiệp văn học của Nam Cao và Akutagawa. 2.1. Cuộc đời Nhƣ đã biết, Nam Cao và Akutagawa là hai nhà văn lớn của Việt Nam và Nhật Bản. Đó là nét tƣơng đồng lớn nhất giữa hai nhà văn này. Nhƣng nếu nhìn nhận và đối sánh cuộc đời của hai nhà văn ở phƣơng diện lịch sử xã hội thì sẽ thấy sự khác biệt rất lớn về cuộc đời của họ. Akutagawa sinh năm 1892 nhƣng sau đó ông đã mất mẹ khi chƣa đầy một tuổi và cả tuổi thơ của mình, ông đã sống mà không có tình thƣơng của mẹ. Ông đã phải làm con nuôi trong một gia đình ngƣời già sống nhiều đời ở khu phố Shitamachi của Tokyo và lấy họ của bà ta là Akutagawa. May thay dòng họ này có văn hoá lại đặc biệt hâm mộ nền văn học cổ điển Nhật Bản, Trung Quốc. Trong gia đình này, ngƣời bác nuôi chính là ngƣời lu._.y, Nam Cao đã xoáy vào những điểm xấu của Thị Nở rồi so sánh với con vật hoặc nói quá, phóng đại nó lên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 114 Đồng thời, ông xen vào lời tả những câu bình luận, đánh giá bỏ ngỏ vì vậy tiếng cƣời đã đƣợc bật lên. Cũng với một giọng điệu ấy, Nam Cao tiếp tục tả chân dung của Lang rận trong truyện ngắn cùng tên, nhƣng lần này hình ảnh của Lang rận khiến ta phải cƣời vì Nam Cao đã vẽ lên ở nhân vật này chân dung của một “con lợn” thực thụ vừa xấu, vừa bẩn thỉu. “Mặt gì mà nặng trình trịch nhƣ mặt ngƣời phù, da nhƣ da con tằm bủng, lại lấm tấm đầu những tàn nhang. Cái trán ngắn ngủn, ngắn ngùn, lại gồ lên. Đôi mắt thì híp lại nhƣ mắt lợn sề. Môi rất nở cong lên, bịt gần kín hai cái lỗ mũi con con, khiến anh ta thở khò khè. Nhƣng cũng chƣa tệ bằng lúc anh cƣời. Bởi vì lúc anh cƣời thì cái trán chau chau, đôi mắt đã híp lại híp thêm, hai mí gần nhƣ dính tít lại với nhau, môi càng lớn thêm lên, mà tiếng cƣời, toàn bằng hơi thở, thoát ra khìn khịt. Trời đất ơi! Cái mặt ấy dẫu cho mỗi ngày rửa ba lƣợt xà phòng, bà cựu trông thấy vẫn còn buồn mửa. Huống chi anh chàng lại bẩn gớm, bẩn ghê. Có lẽ mỗi buổi sáng, ra cầu ao, anh chỉ nhúng mấy ngón tay, rửa độc một tí đầu mũi mà thôi” [18,245]. Đó là chƣa kể ngƣời anh ta “rận lắm hơn giòi”, anh ta ngồi chỗ nào đứng lên là rận rơi ra “bò lổm ngổm”, “ngã chổng kềnh” múa may những cái chân nhỏ li ti... Mụ Lợi cũng vậy. Dƣới ngòi bút và chất giọng châm biếm của Nam Cao thì có lẽ “không còn một ngƣời đàn bà nào có thể xấu hơn”. Cùng với giọng điệu tự sự lạnh lùng, giọng châm biếm, hài hƣớc đã tạo nên ở tác phẩm của Nam Cao những trạng thái tâm lý khác nhau, phong phú và nhiều góc cạnh. * Tiểu kết Nói tóm lại, ở nghệ thuật trần thuật, truyện ngắn của Nam Cao và Akutagawa có nhiều nét tƣơng đồng trong nghệ thuật xây dựng điểm nhìn và giọng điệu trần thuật. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 115 Ở điểm nhìn trần thuật, cả Nam Cao và Akutagawa đều chú trọng xây dựng loại điểm nhìn di chuyển, một loại điểm nhìn phối hợp cả điểm nhìn bên ngoài và bên trong. Với điểm nhìn này, cả hai nhà văn cùng lựa chọn ngƣời kể chuyện ở các ngôi khác nhau, lúc ở ngôi thứ nhất, lúc ở ngôi thứ ba và lúc lại ở ngôi thứ hai trung tính. Nhờ đó họ đã hƣớng sự giao tiếp về phía độc giả, đứng ngang hàng với độc giả và tạo nên tính đa thanh, phức điệu cho tác phẩm. Tuy nhiên, bên cạnh sự tƣơng đồng này vẫn có sự khác biệt. Nếu nhƣ trong truyện ngắn của Nam Cao chủ yếu sử dụng kiểu điểm nhìn hƣớng vào nội tâm, tức là điểm nhìn đƣợc quán xuyến bởi một ngƣời kể chuyện thống nhất nhƣng khi nhân vật độc thoại hoặc đối thoại nội tâm, điểm nhìn đƣợc chuyển cho nhân vật để nhân vật tự bộc lộ. Thì ở sáng tác của Akutagawa, do đặc điểm “truyện trong truyện” nên kiểu điểm nhìn đƣợc sử dụng chủ yếu là “điểm nhìn phân tán’, tức là trong một tác phẩm của Akutagawa sẽ có nhiều điểm nhìn đƣợc quán xuyến bởi nhiều ngƣời kể chuyện nhƣng đa phần các điểm nhìn này vẫn có sự di chuyển cho nhau. Ở giọng điệu trần thuật, Nam Cao và Akutagawa đã có sự gặp gỡ ở hai giọng điệu chủ đạo: Giọng tự sự lạnh lùng và giọng chấm biếm, hài hƣớc. Trong đó, giọng tự sự lạnh lùng là giọng chủ đạo trong tác phẩm của Nam Cao giúp nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật về con ngƣời. Còn giọng điệu châm biếm, hài hƣớc lại là giọng chủ đạo của truyện ngắn Akutagawa. Bằng giọng này, Akutagawa đã lên án sâu sắc những mặt trái của xã hội tƣ bản Nhật Bản. Mỗi nhà văn mỗi phong cách nhƣng suy cho cùng, Nam Cao và Akutagawa đều có những đóng góp tích cực trong việc cách tân nghệ thuật trần thuật nói riêng và nghệ thuật tự sự nói chung ở hai quốc gia Việt Nam và Nhật Bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 116 KẾT LUẬN 1. Khi so sánh Nam Cao và Akutagawa, đầu tiên phải nhắc đến những nét tƣơng đồng và khác biệt về thời đại của hai nhà văn. Nét khác biệt cơ bản giữa Việt Nam và Nhật Bản là về mặt thể chế. Trong cùng một thời điểm lịch sử, hai nƣớc có hai con đƣờng, hai chế độ chính trị hoàn toàn khác nhau. Suốt những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, nếu nhƣ Việt Nam bị xâm lƣợc và trở thành một nƣớc thuộc địa nửa phong kiến chịu sự thống trị của Pháp thì Nhật Bản lại tiến hành cải cách đất nƣớc theo con đƣờng tƣ bản chủ nghĩa và nhanh chóng phát triển thành nƣớc đế quốc chủ nghĩa đi xâm lƣợc và bóc lộc các nƣớc thuộc địa khác. Tuy nhiên, cuộc sống của nhân dân hai nƣớc khác biệt về thể chế lại có nhiều điểm tƣơng đồng. Vì dù với chế độ chính trị nào thì quyền lợi đều rơi vào tay giai cấp thống trị còn mọi cực khổ và thiệt thòi thì nhân dân phải gánh chịu. Bên cạnh đó, việc tiếp xúc văn minh và lối sống phƣơng Tây trong bối cảnh riêng của hai nƣớc cũng là một nét tƣơng đồng khác trong bối cảnh lịch sử, xã hội lúc này. Những thay đổi về đời sống xã hội tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi về văn hoá và tình hình văn học. Quá trình Âu hoá và phong trào Khai sáng đã mở ra một giai đoạn phát triển mới cho nền văn hoá hai dân tộc. Đồng nghĩa với điều đó là nền văn học của hai nƣớc đƣợc hiện đại hoá dƣới sự ảnh hƣởng của văn học phƣơng Tây và có sự phân hoá văn học thành nhiều trào lƣu, xu hƣớng trong quá trình phát triển. Nam Cao và Akutagawa là hai nhà văn lớn trƣởng thành trong một giai đoạn lịch sử có nhiều biến động của hai dân tộc. Bởi vậy, cuộc đời và văn nghiệp của họ đã chịu ảnh hƣởng không nhỏ từ phía hoàn cảnh xã hội. Đặc biệt về văn nghiệp, cả Nam Cao và Akutagawa đều có sự nghiệp sáng tác chia hai giai đoạn. Và từ giai đoạn sáng tác thứ nhất sang giai đoạn thứ hai thì cả Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 117 hai nhà văn đều có nhiều chuyển biến quan trong về tƣ tƣởng, lập trƣờng cũng nhƣ quan niệm sáng tác. 2. Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao và Akutagawa (qua những nghiên cứu bƣớc đầu) có sự gặp gỡ nhau ở hai phƣơng diện cơ bản là: Nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật trần thuật. ở mỗi phƣơng diện này, sáng tác của hai nhà văn đều có những nét khác biệt và tƣơng đồng khá rõ nét. Trƣớc tiên, phải khẳng định rằng: do sự chi phối của thời đại mà dặc biệt là văn hoá và văn học nên nhân vật của Akutagawa đƣợc xây dựng với tâm lý phức tạp mang tính khái quát, trừu tƣợng hơn nhân vật của Nam Cao. Nếu nhƣ nhân vật của Akutagawa là những con ngƣời hiện đại đƣợc phác hoạ ở nhiều thời điểm khác nhau, trong những hoàn cảnh khác nhau thì nhân vật của Nam Cao lại là những con ngƣời hết sức đời thƣờng hiện hữu xung quanh cuộc sống của nhà văn. Tuy vậy, những nhân vật trong sáng tác của hai nhà văn đều đƣợc khai thác sâu ở thế giới nội tâm và dòng tƣ duy bên trong. Đó là những nhân vật tự ý thức. Nhân vật tự ý thức của Nam Cao và Akutagawa đƣợc chia thành hai loại: Nhân vật tự ý thức thuộc tầng lớp dƣới đáy và nhân vật tự ý thức thuộc tầng lớp trí thức. ở điểm này, nét khác biệt là nhân vật tự ý thức thuộc tầng lớp trí thức của Akutagawa phong phú hơn so với Nam Cao. Ngƣợc lại nhân vật thuộc tầng lớp dƣới đáy của Nam Cao phong phú hơn Akutagawa. Với mỗi loại nhân vật trên, cả hai nhà văn của Việt Nam và Nhật Bản đều làm rõ đời sống nội tâm và quá trình tự ý thức phong phú, phức tạp của nhân vật. Khi miêu tả các nhân vật này, hai nhà văn đều giữ một khoảng cách cần thiết với nhân vật. Nhà văn không áp đặt nhân vật theo ý riêng của mình mà để cho nhân vật tự nhận thức và hành động để quyết định số phận của nó. Lựa chọn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 118 kiểu nhân vật tự ý thức, mạch tự sự trong các truyện ngắn của Nam Cao và Akutagawa đã trở nên biến hoá “khôn lƣờng”. Phƣơng thức nghệ thuật tiêu biểu mà cả Nam Cao và Akutagawa cùng sử dụng để khắc hoạ nhân vật tự ý thức trong các tác phẩm là ngôn ngữ nhân vật gồm: Ngôn ngữ bên ngoài (ngôn ngữ đối thoại trực tiếp) và ngôn ngữ bên trong (độc thoại và đối thoại nội tâm). Đặc biệt với hình thức độc thoại và đối thoại nội tâm, Nam Cao và Akutagawa đã tạo ra một “hành trình” thuận lợi để khám phá thế giới bên trong đầy phức tạp và bí ẩn của con ngƣời (nhân vật). Nhà văn không nhìn nhận con ngƣời nhƣ một “khách thể câm lặng” mà coi con ngƣời nhƣ một “tiểu vũ trụ” không biết hết, không biết trƣớc đƣợc và cần phải đƣợc khám phá và tìm hiểu. Những con ngƣời ấy luôn đƣợc giao lƣu với hoàn cảnh để bộc lộ nội tâm, sự tự ý thức một cách tự do. Khắc hoạ thành công nhân vật tự ý thức, ngòi bút Nam Cao và Akutagawa đã vƣơn tới đỉnh cao trong nghệ thuật tự sự so với các nhà văn cùng thời. Tuy nhiên, mức độ khái quát và trừu tƣợng của ngôn ngữ nhân vật ở tác phẩm của Akutagawa cao hơn của Nam Cao. 3. Bên cạnh việc lựa chọn và xây dựng nhân vật, trong quá trình tự sự, Nam Cao và Akutagawa còn tiến tới tạo dựng cho mình những mô hình trần thuật độc đáo, riêng biệt và cá tính. Nghệ thuật trần thuật của Nam Cao và Akutagawa đƣợc thể hiện ở: Điểm nhìn trần thuật và giọng điệu trần thuật. Truyện ngắn của Nam Cao và Akutagawa đã xây dựng thành công ba loại điểm nhìn: Điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn bên trong và điểm nhìn di chuyển. Điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong tuy đƣợc sử dụng hạn chế nhƣng chúng vẫn đóng một vai trò nhất định trong nghệ thuật trần thuật của các nhà văn. ở đây, khác biệt của Akutagawa so với Nam Cao là không có truyện ngắn nào sử dụng điểm nhìn bên trong nhƣng Nam Cao thì có (6/41 truyện). Còn điểm nhìn di chuyển thì đƣợc sử dụng dày đặc và mang lại hiệu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 119 quả đặc biệt cho các sáng tác tự sự của Nam Cao và Akutagawa. Nhờ việc sử dụng linh hoạt và sáng tạo điểm nhìn này, cả hai nhà văn đã taọ ra trong tác phẩm của mình những ngƣời kể chuyện ở các ngôi khác nhau (ngôi thứ nhất, ngôi thứ ba và cả ngôi thứ hai). Nhờ đó, họ đã hƣớng giao tiếp về phía độc giả, đứng ngang hàng với độc giả và tạo nên tính đa thanh, phức điệu cho tác phẩm. Tuy nhiên, trong quá trình trần thuật, việc sử dụng điểm nhìn của Nam Cao và Akutagawa vẫn có khác biệt. Nam Cao thì quan tâm kiểu điểm nhìn hƣớng vào nội tâm. Còn Akutagawa thì chủ yếu sử dụng kiểu “điểm nhìn phân tán”. Cùng với việc sử dụng điểm nhìn trong trần thuật, Nam Cao và Akutagawa cùng chú ý xây dựng những giọng điệu trần thuật chủ đạo. ở đây, hai nhà văn đã có sự gặp gỡ ở hai giọng điệu chủ đạo là: Giọng tự sự lạnh lùng và giọng mỉa mai, châm biếm, hài hƣớc. Trong đó, giọng tự sự lạnh lùng là giọng chủ của tác phẩm Nam Cao còn giọng mỉa mai, châm biếm, hài hƣớc là giọng chính của truyện ngắn Akutagawa. Các giọng điệu này đều đƣợc các nhà văn sử dụng linh hoạt trong quá trình sáng tạo. Chúng giúp cho nhà văn bày tỏ thái độ của mình với hiện thực xã hội đƣơng thời, thể hiện mối thƣơng cảm sâu sắc cho những kiếp ngƣời bần cùng, đau khổ trong xã hội. Bên cạnh điểm nhìn, giọng điệu cũng là một yếu tố điển hình tạo nên sự đa thanh cho các tác phẩm của hai nhà văn. * * * Tuy mỗi nhà văn có một phong cách, một bản sắc độc đáo, riêng biệt nhƣng Nam Cao và Akutagawa đều là những phong cách truyện ngắn tiêu biểu của Việt Nam và Nhật Bản đầu thế kỷ XX. Các sáng tác của họ đã góp phần tích cực trong việc cách tân nghệ thuật tự sự trong văn học ở hai quốc gia châu Á. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 120 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Akutagawa (2000), Tuyển tập truyện ngắn, Phong Vũ dịch, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 2. Vũ Tuấn Anh (1992), “Phong cách truyện ngắn Nam Cao”, Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 3. Đào Tuấn ảnh (1992), “Tsekhov và Nam Cao - Một sáng tác hiện thực kiểu mới”, Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 4. Đào tuấn ảnh (2005), “Tsekhov và Nam Cao - Nhìn từ góc độ thi pháp”, Nghiên cứu văn học số 4, Viện văn học, Hà nội. 5. Đào Tuấn ảnh (2005), “Quan niệm thực tại và con ngƣời trong văn học hậu hiện đại”, Nghiên cứu văn học số 8, Viện văn học, Hà Nội. 6. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 7. Lại Nguyên Ân (1992), “Nam Cao và cuộc canh tân văn học đầu thế kỉ XX”, Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 8. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trƣờng viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. 9. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, NXB Giáo dục, Hà Nội. 10. Matsuo Basho (1998), Con đường thiên lý hẹp cuộc hành trình Haiku, Hàn Thuỷ Giang dịch, NXB Hà Nội. 11. Lê Huy Bắc (2004), “Truyện ngắn: nguồn gốc và khái niệm”, Nghiên cứu văn học số 5, Viện văn học. 12. Lê Huy Bắc (1998), “Thời đại hoàng kim của tiểu thuyết”, Văn nghệ trẻ số 30, Hà Nội. 13. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại”, Tạp chí văn học số 9, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 121 14. Nguyễn Hoa Bằng (2000), Thi pháp truyện ngắn Nam Cao, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội. 15. Boland John (1987), Nghệ thuật truyện ngắn, NXB. 16. Lƣu Văn Bổng (2001), “Văn học so sánh - Thể loại, hình thức, phong cách”, Tạp chí văn học số 4, Hà Nội. 17. Richard Browning - Peter Kornichi (1995), Bách khoa thư Nhật Bản, Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản, Hà Nội. 18. Nam Cao (2005), Truyện ngắn chọn lọc, NXB Văn học, Hà Nội 19. Phạm Tú Châu (1992), “Đôi điều so sánh giữa Chí Phèo và AQ”, Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Thanh niên, Hà Nội. 20. Huệ Chi - Phong Lê (1960), “Đọc truyện ngắn Nam Cao, soi lại bƣớc đƣờng đi lên của một nhà văn hiện thực”, Nghiên cứu văn học số 1, Hà Nội. 21. Huệ Chi - Phong Lê (1961), “Con ngƣời và cuộc sống trong tác phẩm Nam cao”, Nghiên cứu văn học số 1, Hà Nội. 22. Nhật Chiêu (1991), “Kawabata Yasunari - Ngƣời cứu rỗi cái đẹp”, Tạp chí văn học số 16, TP Hồ Chí Minh. 23. Nhật Chiêu (1992) , “Cảm nhận về thơ haiku”, Tác phẩm mới số 4 24. Nhật Chiêu (1996), “Truyện ngắn trong lòng bàn tay hay hồn thơ Kawabata Yasunari”, Tạp chí văn số xuân, TP Hồ Chí Minh. 25. Nhật Chiêu (1994), Basho và thơ Haiku, NXB Văn học, Hà Nội. 26. Nhật Chiêu (2001), Thơ ca Nhật Bản, NXB Giáo dục, Hà Nội. 27. Nhật Chiêu (1996), Tuyển tập truyện ngắn hiện đại Nhật Bản (2 tập), NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 28. Nhật Chiêu (1999), Nhật Bản trong chiếc gương soi, NXB Giáo dục, Hà Nội 29. Nhật Chiêu (2000), “Thế giới Kawabata Yasunari (hay là cái đẹp: hình và bóng)”, Tạp chí văn học số 3, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 122 30. Nhật Chiêu (2001), “Genji Monogatari - Kiệt tác văn học Nhật Bản”, Tạp chí văn học số 11, Hà Nội. 31. Nhật Chiêu (2003), Văn học Nhật Bản từ khởi thuỷ đến năm 1868, NXB Giáo dục, Hà Nội. 32. Nguyễn Văn Dân (2003), Lí luận văn học so sánh, NXB Đại học quốc gia Hà Nội. 33. Trần Ngọc Dung (1992), “Sự gặp gỡ giữa M.Gorki và Nam Cao”, Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 34. Trần Ngọc Dung (2004), Ba phong cách truyện ngắn trong văn học Việt Nam những năm 1930 - 1945 (Nguyễn Công Hoan - Thạch Lam - Nam Cao), NXB Thanh niên, Hà Nội. 35. Đinh Trí Dũng (1992), “Bi kịch tự ý thức - nét độc đáo trong cảm hứng nhân đạo của Nam Cao”, Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 36. Đặng Anh Đào (1994), “Tính chất hiện đại của tiểu thuyết”, Tạp chí văn học số 2, Hà Nội. 37. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới tiểu thuyết phương Tây hiện đại, NXB Đại học quốc gia Hà Nội. 38. Nguyễn Đức Đàn (1968) “Nam Cao”, Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 39. Phan Cự Đệ (1961), “Nam Cao”, Văn học Việt Nam 1930 - 1945, NXB Giáo dục, Hà Nội. 40. Phan Cự Đệ (1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 41. Phan Cự Đệ chủ biên (2001), Văn học Việt Nam (1900 - 1945), NXB Giáo dục, Hà Nội. 42. Hà Minh Đức (1961), Nam Cao - Nhà văn hiện thực xuất sắc, NXB Văn hoá, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 123 43. Hà Minh Đức (2003), “Nam Cao và đôi nét về nghệ thuật sáng tạo tâm lý”, Tạp chí văn học số 6. 44. Hà Minh Đức (1976), Nam Cao - Tác phẩm, NXB Văn học, Hà Nội. 45. Hà Minh Đức (1976), Nam Cao - Đời văn và tác phẩm, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 46. Hà Minh Đức (1999), Nam Cao toàn tập, NXB Văn học, Hà Nội. 47. Hà Minh Đức (1992), “Nam Cao phê phán và tự phê phán”, Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 48. Mai Chƣơng Đức (1969), “Tiểu thuyết Nhật Bản”, Tạp chí văn học (Miền Nam) số 90. 49. Mai Chƣơng Đức (1972), “Kawabata - Nhà văn Nhật Bản đầu tiên đoạt giải Nobel văn học”, Tạp chí văn học (Miền Nam) số 144. 50. N.T.Fedorenko (1999), “Kawabata - Con mắt nhìn thấu cái đẹp”, Văn học nước ngoài số 4, Hà Nội. 51. Michel Fragonard (1997), “Từ điển văn hoá thế kỉ XX”, Văn học nước ngoài số 2, Hà Nội. 52. Đoàn Lê Giang (1997), “So sánh quan niệm văn học trong văn học cổ điển Việt Nam và Nhật Bản”, Tạp chí văn học số 9, Hà Nội. 53. Đoàn Lê Giang (2003), “Basho - Nguyễn Trãi - Nguyễn Du những hồn thơ đồng điệu”, Tạp chí văn học số 6, Hà Nội. 54. Nguyễn Thiện Giáp chủ biên (2003), Văn học so sánh nghiên cứu và dịch thuật, NXB Đại học Quốc gia, Hà nội. 55. T.P. Grigôrieva (1999), “Thiền trong thơ Haiku Nhật Bản”, Tạp chí văn học số 4, Hà Nội. 56. Khƣơng Việt Hà (2004), “Thủ pháp tƣơng phản trong truyện “Ngƣời đẹp say ngủ” của Yasunari Kawabata”, Nghiên cứu văn học số 1, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 124 57. Khƣơng Việt Hà (2005), “Các khuynh hƣớng phản tự nhiên chủ nghĩa trong văn học Nhật Bản đầu thế kỉ XX”, Nghiên cứu văn học số 8, Hà Nội. 58. Khƣơng Việt Hà (2006), “Mỹ học Kawabata Yasunari”, Nghiên cứu văn học số 6, hà Nội. 59. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (1999), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 60. Mai Đức Hán (2005), Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lỗ Tấn (thời kì đầu), Luận văn thạc sĩ, Đại học sƣ phạm Hà Nội. 61. Nguyễn Văn Hạnh (1993), Nam Cao một đời người, một đời văn, NXB Hà Nội. 62. Đào Thị Thu Hằng (2005), “Yasunari Kawabata giữa dòng chảy Đông - Tây”, Tạp chí văn học số 7, Hà Nội. 63. Đào Thị Thu Hằng (2005), Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm của Yasunari Kawabata, Luận án tiến sĩ, Viện văn học, Hà Nội. 64. Đào Thị Thu Hằng (2006), “Kiểu nhân vật lữ khách đi tìm cái đẹp trong tác phẩm của Yasunari Kawabata”, Nghiên cứu Đông Bắc á số 3, Hà Nội. 65. Trần Thu Hằng (9/2/2005), “Truyện ngắn trong lòng bàn tay - cái nhìn thẩm mỹ trong suốt”, www.Evan.com. 66. Sone Hiroyoshi (2000), “Nền văn học hiện đại Nhật Bản”, Văn học nước ngoài số 3, Hà Nội. 67. Lê Từ Hiển (2005), “Basho và Huyền Quang sự gặp gỡ với mùa thu hay sự tƣơng hợp về cảm thức thẩm mỹ”, Tạp chí văn học số 7, Hà Nội. 68. Lê Từ Hiển, Nguyễn Nguyệt Trinh (2005), “Vài nét về thơ Nhật Bản”, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á số 1, Hà Nội. 69. Hoàng Ngọc Hiến (1998), “Minh triết phƣơng Đông và phƣơng Tây”, Tạp chí văn học số 11, Hà Nội. 70. Đỗ Đức Hiểu (1978), Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa, NXB Văn học, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 125 71. Đỗ Đức Hiểu (1992), “Hai không gian sống trong “Sống mòn”của Nam Cao”, Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 72. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 73. Hồ Hoàng Hoa chủ biên (2001), Văn hoá Nhật những chặng đường phát triển, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 74. Nguyễn Thái Hoà (1999), Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB Giáo dục, Hà Nội. 75. Tô Hoài (1987), Hồi ức về Nam Cao, Hội văn nghệ Hà Nam Ninh. 76. Phạm Mạnh Hùng (2001), Thi pháp hoàn cảnh trong tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, NXB Thanh niên. 77. Tô Đức Huy (1998), “Những cây bút tiểu thuyết trẻ Nhật Bản” Văn nghệ trẻ số 22, Hà Nội. 78. I.P.Ilin và E.A.Tzugranova (2003), Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây âu và Hoa Kỳ thế kỉ XX, Đào Tuấn ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 79. Shuichi Kato (2005), Lịch sử văn học Nhật Bản (tập 3), Trần Hải Yến dịch, tƣ liệu, Viện văn học, Hà Nội. 80. Nguyễn Tuấn Khanh (1998), “Văn học Nhật Bản hiện đại từ Minh Trị đến nay”, Văn học Nhật Bản, Viện thông tin khoa học xã hội. 81. Toàn Huệ Khanh (2005), “Nghiên cứu so sánh một tiểu thuyết truyền kì trong “Kim ngao tân thoại” (Hàn Quốc), “Truyền kì mạn lục” (Việt Nam) và “Tiễn đăng tân thoại” (Trung Quốc)”, Nghiên cứu văn học số 2, Hà Nội. 82. Nguyễn Hoành Khung (1973), “Nam Cao”, Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945 (tập 2), NXB Giáo dục, Hà Nội. 83. Nguyễn Hoành Khung (1998), “Đọc Nam Cao - Phác thảo sự nghiệp và chân dung”, Tạp chí văn học số 3. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 126 84. Nguyễn Hoành Khung (1984), “Văn học hiện thực phê phán Việt Nam”, Từ điển văn học (tập 2), NXB Khoa học xã hội . 85. Cao Hành Kiện (2004) , “Vấn đề tính hiện đại trong văn học”, Văn học nước ngoài số 2, Hà Nội. 86. N.I.Konrat (1997), Phương Đông và Phương Tây, NXB Giáo dục, Hà Nội. 87. N.I.Konrat (1999), Văn học Nhật Bản từ cổ đại đến cận đại, NXB Đà Nẵng, Hà Nội. 88. M.Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, NXB Tác phẩm mới. 89. Milan Kundera, “Đối thoại về nghệ thuật tiểu thuyết”, Trình Y Thƣ dịch, www.nhanvan.com. 90. Lê Đình Kỵ (1964), “Nam Cao - con ngƣời và xã hội cũ”, Văn nghệ số 54. 91. Lƣơng Thị Lan (2004), Một số vấn đề thi pháp truyện ngắn Nam Cao, Luận văn thạc sĩ, Đại học sƣ phạm Thái Nguyên. 92. Nguyễn Thị Mai Liên, “Vị thiền trong thơ Haiku Nhật Bản”, Nghiên cứu văn học, Hà Nội. 93. Nguyễn Thị Mai Liên, “Yasunari Kawabata - Lữ khách muôn đời đi tìm cái đẹp”, Nghiên cứu văn học. 94. Nguyễn Thị Mai Liên (2005), Hình tƣợng con ngƣời - nạn nhân chiến tranh trong hai tiểu thuyết “Một nỗi đau riêng” (K.Oe) và “Nỗi buồn chiến tranh” (Bảo Ninh), Báo cáo dự hội thảo văn học Việt Nam sau 1975, Hà Nội. 95. Phong Lê (1992), Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 96. Phong Lê (1987), “Nam Cao - văn và đời”, Tuyển tập Nam Cao, NXB Văn học, Hà Nội. 97. Phong Lê (1997), Nam Cao phác thảo sự nghiệp và chân dung, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 127 98. Phong Lê (2004), “Trekhov và Nam Cao nhìn từ hai nền văn học”, Tạp chí văn học nước ngoài số 4, NXB Hội nhà văn Việt Nam. 99. Phong Lê (2003), “Nam Cao nhìn từ cuối thế kỉ”, Nam Cao về tác gia và tác phẩm, NXB giáo dục, Hà Nội. 100. Phong Lê (2003), “Đặc trƣng bút pháp hiện thực Nam Cao”, Nam Cao về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 101. Hà Văn Lƣỡng (2002), “Một số đặc điểm của thơ Haiku Nhật Bản”, Nghiên cứu Nhật bản và Đông Bắc Á số 3. 102. Hà Văn Lƣỡng (2002), “Dịch thuật và nghiên cứu văn học Nhật Bản ở Việt Nam”, Nghiên cứu Nhật Bản. 103. Phƣơng Lựu (1995), Tìm hiểu lý luận văn học phương Tây hiện đại, NXB Văn học. 104. Phƣơng Lựu (2002), Từ văn học so sánh đến thi học so sánh, NXB Văn học, Hà Nội. 105. Nguyễn Đăng Mạnh (1984), “Khải luận”, Tổng hợp văn học Việt Nam (tập 30A), NXB Khoa học xã hội và NXB Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh. 106. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB Tác phẩm mới. 107. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại chân dung và phong cách, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 108. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), “Nhớ Nam Cao và những bài học của ông”, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo dục, Hà Nội. 109. Haruki Murakami (2005) “Murakami Haruki: Tôi tự tạo ra quy tắc” www.sacmauvanhoa.com 110. Uyên Minh (1969), “Yếu tố Eros trong truyền thống văn học Nhật Bản”, Tạp chí văn học (miền Nam) số 90. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 128 111. Hajime Nakamura (1998), Những phương thức tư duy phương Đông, tƣ liệu dịch (2001), NXB Đại học sƣ phạm Hà Nội. 112. Nhiều tác giả (1998), Văn học Nhật Bản, Viện thông tin khoa học xã hội, Hà Nội. 113. Nhiều tác giả (1997), Lịch sử Nhật Bản, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội. 114. Nhiều tác giả (2001), Văn học so sánh - Lý luận và ứng dụng, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 115. Nhiều tác giả (2000), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 116. Nhiều tác giả (2001), Từ điển bách khoa văn học - Những thuật ngữ và khái niệm, NXB Hà Nội. 117. Nhiều tác giả (1997), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 118. N.I.Niculin (1968), “Nam Cao”, Từ điển bách khoa văn học giản yếu, NXB Từ điển bách khoa Liên Xô. 119. N.I.Niculin (1974), “Nam Cao”, Đại từ điển bách khoa Liên Xô, NXB Từ điển bách khoa Liên Xô. 120. N.I.Niculin (1987), “Nam Cao”, Từ điển bách khoa văn học, NXB Từ điển bách khoa Liên Xô. 121. Phạm Xuân Nguyên (2003), "Nam Cao và sự lựa chọn một chủ nghĩa hiện thực mới", Nam Cao về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 122. Vƣơng Trí Nhàn (1980), Sổ tay truyện ngắn, NXB Tác phẩm mới. 123. Vƣơng Trí Nhàn (1992), “Những biến hoá của chất nghịch dị trong truyện ngắn Nam Cao”, Tạp chí văn học số 1. 124. Đức Ninh chủ biên (2004), Từ điển văn học Đông Nam Á, NXB Khoa học xã hội . 125. Hữu Ngọc (1992), Dạo chơi vườn văn Nhật Bản, NXB Giáo dục, Hà Nội. 126. Hữu Ngọc (1992), “Nghĩ về cấu trúc văn hoá Nhật Bản”, Văn nghệ, Hà Nội Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 129 127. Hữu Ngọc (1991), “Cảm nghĩ về văn hoá Nhật Bản”, Tạp chí văn học số 4, Hà Nội. 128. Oe Kenzaburo (1990), “Về nền văn học Nhật Bản cận đại và hiện đại”, Ngô Quang Vinh dịch (2004), www.evan.com. 129. Oe Kenzaburo (2002) , “Giải mã mô hình của cái tôi về thế giới”, Những bậc thầy văn chương, NXB Văn học, Hà Nội. 130. Trƣơng Hoàng Phúc (1998), “Những nhà văn hiện đại Nhật Bản”, Văn nghệ trẻ số 14, Hà Nội. 131. G.N.Pospelov (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB Lao động, Hà Nội. 132. Phan Diễm Phƣơng (1992), “Lối văn kể chuyện của Nam Cao”, Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 133. G.B.Sansom (1989), Lược sử văn hoá Nhật Bản (2 tập), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 134. Jean Paul Sartre (1991), Văn học là gì, Nguyên Ngọc dịch, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 135. Nguyễn Xuân Sanh (1992), “Đôi điều về thơ Nhật Bản”, Tác phẩm mới số 4. 136. Nguyễn Văn Sĩ (1992), “Văn xuôi hiện đại Nhật Bản”, Văn nghệ số 4. 137. Phạm Văn Sĩ (1986), Về tư tưởng và văn học hiện đại phương Tây, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 138. Vĩnh Sính (1969), “Vài nét về thơ Nhật Bản, I.Takuboku”, Tạp chí văn học (Miền Nam) số 90. 139. Chu Văn Sơn (2003), “Nghệ thuật văn xuôi truyện ngắn Lão Hạc”, Nam Cao về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 140. Trần Minh Sơn (giới thiệu, tuyển chọn và dịch) (2004), “Văn học cần phải hƣớng tới ánh sáng (đối thoại văn chƣơng giữa Mạc Ngôn với K.Oe) ”, Phê bình văn học Trung Quốc đương đại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 130 141. Trần Đình Sử chủ biên (2004), Tự sự học (Một số vấn đề lý luận và lịch sử), NXB Đại học Sƣ phạm Hà Nội. 142. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề về thi pháp học hiện đại, Bộ giáo dục và đào tạo, Vụ giáo dục. 143. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục 144. Trần Đình Sử chủ biên (2005), Văn học so sánh – nghiên cứu và triển vọng, NXB Đại học sƣ phạm Hà Nội. 145. Trần Đăng Suyền (2003) “Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn”, Nam Cao về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 146. Trần Đăng Suyền (2001), Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 147. Hoàng Bích Thảo (2002), Một số đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết “Xứ tuyết” của Kawabata, Luận văn thạc sĩ, Đại học sƣ phạm Hà Nội. 148. Vũ Thăng (2001), Một vài đặc điểm thi pháp truyện Nam Cao, NXB Quân đội nhân dân. 149. Nguyễn Đình Thi (1997), “Nam Cao”, Tuyển tập Nguyễn Đình Thi, NXB Văn học, Hà Nội. 150. Cầm Thị Bích Thu (2005), “Sự gặp gỡ giữa Nam Cao và A.Sekhov trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật”, Luận văn thạc sĩ, Đại học sƣ phạm Thái Nguyên 151. Bích Thu (2007), Nam Cao về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 152. Bích Thu (2007), “Sức sống của một sự nghiệp văn chƣơng trong văn Nam Cao”, Nam Cao về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 153. Phan Trọng Thƣởng (2007), “Tìm hiểu một chữ “nhƣng” trong văn Nam Cao”, Nam Cao về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 154. Trần Thị Thanh Thuỷ (2006), Nghệ thuật tự sự trong “41 truyện tầm phào” của Mạc Ngôn, Luận văn thạc sĩ, Đại học sƣ phạm Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 131 155. Ngô Minh Thuỷ, Ngô Tự Lập (2003), Nhật Bản - đất nước, con ngừơi, văn học, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội. 156. Lộc Phƣơng Thuỷ (2005), “Jean - Paul Sartre và phê bình hiện sinh”, Nghiên cứu văn học số 8. 157. Lộc Phƣơng Thuỷ (2005), Tiểu thuyết Pháp thế kỉ XX, truyền thống và cách tân, NXB Văn học Hà Nội. 158. Lộc Phƣơng thuỷ (2005), Quan niệm văn chương Pháp thế kỉ XX, NXB Văn học Hà Nội. 159. Trần Thị Việt Trung (1992), “Về các nhân vật dị dạng trong sáng tác của Nam Cao”, Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 160. Lƣu Đức Trung (1997), Yasunarri Kawabata cuộc đời và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội. 161. Lƣu Đức Trung (1999), “Thi pháp tiểu thuyết của Yasunari Kawabata nhà văn lớn Nhật Bản”, Tạp chí văn học số 9. 162. Lƣu Đức Trung (2003), Bước vào vườn hoa văn học châu Á, NXB Giáo dục, Hà Nội. 163. Lê Văn Trƣơng (2003), “Tựa “Đôi lứa xứng đôi”, Nam Cao về tác gia và tác phẩm”, NXB Giáo dục, Hà Nội. 164. Hoàng Ngọc Thuấn (1998), “Vấn đề cái mới trong tiểu thuyết thế kỉ XX”, Tạp chí Việt 3. 165. A.R.Veselovki (1999), Thi pháp lịch sử, NXB. 166. Borix Xuskov (1980), Số phận của chủ nghĩa hiện thực, NXB Tác phẩm mới. 167. Kawabata Yasunari (2001), Tuyển tập Y. Kawabata, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 168. Trần Hải Yến (1999), “Một số nét đặc trƣng của văn học Nhật Bản”, Nghiên cứu Nhật Bản số 4. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9472.pdf
Tài liệu liên quan