Sử dụng mô hình ARCH-GARCH để phân tích và đành giá rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế (VIB)

LỜI NÓI ĐẦU Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế toàn cầu. Với hoạt động chính là huy động vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận, việc sử dụng vốn chình là quả trình tạo nên các loại tài sản khác nhau của Ngân hàng trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan trọng nhất. Hoạt động tín dụng (là quan hệ vay mượn gồm cho vay và đi vay) là hoạt động sinh lời lớn nhất, song đi kèm với nó

doc42 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1556 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Sử dụng mô hình ARCH-GARCH để phân tích và đành giá rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế (VIB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là rủi ro cao nhất cho các NHTM. Đối với hệ thống Ngân hàng Việt Nam, kể từ khi chuyển sang cơ chế thị trường đã không ngừng lớn mạnh và thu được những thành tựu nhất định, nhưng trong quá trình đó các Ngân hàng đã vấp phải không ít những rủi ro trong hoạt động kinh doanh gây tổn thất nặng nề. Ngân hàng Quốc tế Việt Nam- VIB là một ngân hàng sau hơn 10 năm phát triển đã gặt hái được những thành công nhất định, nhưng cũng như các ngân hàng khác trong hoạt động kinh doanh của nình còn chứa đựng rất nhiều rủi ro tiềm ẩn. Với nhận thức đó, thông qua quá trình tìm hiểu, thực tập tại Ngân hàng Quốc tế em xin đề xuất đề tài thực tập tốt nghiệp của mình là: “Sử dụng mô hình ARCH-GARCH để phân tích và đành giá rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Quốc tế VIB” NỘI DUNG CHÍNH Chương 1 Tổng quan về hoạt động của Ngân hàng Quốc tế I/ GIới thiệu chung về Ngân hàng Quốc Tế. Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam (gọi tắt là Ngân hàng Quốc Tế - VIB) được thành lập theo Quyết định số 22/QD/NH5 ngày 25/01/1996 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Cổ đông sáng lập Ngân hàng Quốc Tế bao gồm các cá nhân và các doanh nhân hoạt động thành đạt tại Việt Nam và trên thị trường Quốc tế, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Từ khi bắt đầu hoạt động ngày 18/09/1996, Ngân hàng Quốc Tế đang phát triển thành một trong những tổ chức tài chính dẫn đầu thị trường Việt Nam. Là một ngân hàng đa năng, Ngân hàng Quốc Tế, với nền tảng công nghệ hiện đại, tiếp tục cung cấp một loạt các dịch vụ tài chính đa năng, trọn gói cho khách hàng với nòng cốt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động lành mạnh và những cá nhân, gia đình có thu nhập ổn định tại các vùng kinh tế trọng điểm trên khắp cả nước. Sau 9 năm hoạt động, đến ngày 31/12/2005, vốn điều lệ của Ngân hàng Quốc Tế đạt 510 tỷ đồng, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 113%. Tổng tài sản có đạt trên 8.967 tỷ đồng, tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2004 và đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 117%. Lợi nhuận trước thuế đạt trên 95 tỷ đồng, bằng 230% so với năm 2004. Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn tự có bình quân đạt trên 20% và mức cổ tức chia cho các cổ đông tăng đều hàng năm. Tỷ lệ về khả năng chi trả luôn lớn hơn 1, tỷ lệ vốn tối thiểu luôn lớn hơn 8%. Nguồn lực quản lý và hoạt động không ngừng được tăng cường với việc bổ nhiệm nhiều chuyên gia giàu kinh nghiệm trong các lĩnh vực tài chính ngân hàng và một đội ngũ chuyên viên kinh nghiệm, giàu nhiệt huyết. Hình ảnh của ngân hàng Quốc Tế trong lòng công chúng và khách hàng được cải thiện đáng kể bằng nhiều chương trình đổi mới và mở rộng năng lực phục vụ, tăng cường quảng bá hình ảnh ngân hàng. Ngân hàng Quốc Tế được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xếp loại A theo các tiêu chí đánh giá hệ thống Ngân hàng Việt Nam do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành trong nhiều năm liên tiếp và lần thứ 2 được Tập đoàn Citygroup trao tặng danh hiệu “Ngân hàng hoạt động thanh toán xuất sắc”. Cuối năm 2005, ngoài hội sở tại Hà Nội, Ngân hàng Quốc Tế có 30 chi nhánh, Phòng giao dịch tại 9 tỉnh, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Nha Trang, Đồng Nai, Bình Dương và Cần Thơ. Trong năm 2006, Ngân hàng Quôc Tế sẽ tiếp tục vươn tầm hoạt động đến các trung tâm kinh tế mới và nhiều tiềm năng khác trên cả nước với tổng số đơn vị kinh doanh dự kiến lên đến 60. Mạng lưới ngân hàng đại lý cũng không ngừng được mở rộng với hơn 2.000 đại lý trên 65 quốc gia trên Thế giới. Với phương châm kinh doanh “Luôn gia tăng giá trị cho bạn”, cam kết của Ngân hàng Quốc Tế trong 2006 và những năm tiếp theo là không ngừng gia tăng giá trị của khách hàng, của đối tác, của cán bộ nhân viên ngân hàng và của các cổ đông. II/ Lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng. Năm 2005, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao, mang đến cơ hội phát triển hoạt động kinh doanh cho ngành Ngân hàng Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại phát triển hoạt động kinh doanh Cạnh tranh trong nghành ngân hàng cũng ngày càng gay gắt với việc các NHTM trong nước và các nước ngoài đẩy mạnh tiến trình cải cách, tăng năng lực tài chính, đầu tư công nghệ, đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế quản lý, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại, mở rộng ưu đãi cho khách hàng. Ngân hàng Quốc Tế hoạt động trên các lĩnh vực chủ yếu sau: Dịch vụ Ngân hàng doanh nghiệp: Ngân hàng Quốc Tế cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp và những khách hàng kinh doanh khác, bao gồm: dịch vụ tín dụng, các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ thanh toán, dịch vụ mua bán ngoại tệ. Các khoản vay được cung cấp cho nhiều mục đích khác nhau như: bổ sung vốn lưu động, mua sắm trang bị tài sản cố định, đầu tư mở rộng sản xuất,… Dịch vụ ngân hàng cá nhân: Ngân hàng Quốc Tế cung cấp dịch vụ cho các cá nhân bao gồm: dịch vụ tiết kiệm, dịch vụ tín dụng tiêu dùng, dịch vụ thanh toán, dịch vụ xác nhận năng lực tài chính, dịch vụ thẻ, dịch vụ mua bán ngoại tệ. Các khoản cho vay tiêu dùng nhằm đến các mục đích sử dụng vốn cụ thể như: mua sắm, sửa chữa nhà đất, mua sắm xe hơi, vật dụng gia đình, đi du học, đầu tư cổ phiếu,… Dịch vụ ngân hàng định chế: Ngân hàng Quốc Tế cung cấp dịch vụ cho các ngân hàng, tổ chức tài chính và tổ chức phi tài chính bao gồm: dịch vụ tiền gửi, dịch vụ quản lý tài sản, dịch vụ cho vay, dịch vụ đồng tài trợ, dịch vụ mua bán ngoại tệ, dịch vụ ngân quỹ… III/ Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng 1/ Hoạt động huy động vốn. Năm 2005, hoạt động nguồn vốn của Ngân hàng Quốc Tế đạt mức tăng trưởng kỷ lục. Tổng nguồn vốn tính đến 31/12/2005 đạt 8.967 tỷ đồng tăng 117% so với năm trước và vượt 49.6% kế hoạch năm. Cơ cấu nguồn vốn được điều tiết hợp lý, tương thích với tỷ trọng của cơ cấu đầu tư tín dụng và đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng. Hoạt động kinh doanh nguồn vốn phát triển tốt, hiệu quả, đảm bảo khả năng thanh khoản và đủ vốn, ngoại tệ phục vụ khách hàng. Ngân hàng Quốc Tế đã chủ động trong việc điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn nhằm mang lại lợi ích tối ưu cho các cổ đông nhưng vẫn đảm bảo nguồn vốn khi mở rộng cho vay chung và dài hạn và nhu cầu rút tiền gửi không kỳ hạn. Vốn chủ sở hữu đạt 529,787 tỷ đồng, tăng 104,7% so với cuối năm 2004. Vốn tiền lệ tăng lên 510 tỷ đồng không những tạo thêm nguồn vốn đáp ứng yêu cầu kinh doanh của Ngân hàng Quốc Tế, đặc biệt là nguồn vốn trung, dài hạn và đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn khi mở rộng kinh doanh, mà còn tạo điều kiện để đầu tư cơ sở vật chất và công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Tỷ trọng vồn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn giảm từ 7,3% trong năm 2004 xuống còn 6,9% trong năm, chứng tỏ khả năng mở rộng quy mô các cấu thành khác, đặc biệt là tiền gửi từ các tổ chức kinh tế. Vốn huy động từ các tổ chức tài chính tại thời điểm 31/12/2005 đạt 2.852,872 tỷ đồng bằng 176,6% so với đầu năm và chiếm 31,7% tổng nguồn vốn. Trong đó, tiền gửi của các tổ chức tài chính đạt 2.808 tỷ đồng chiếm 98% tổng nguồn vốn huy động từ các tổ chức tài chính. Việc tăng vốn điều lệ lên 510 tỷ đồng cùng với kết quả hoạt động tăng trưởng cao và an toàn, uy tín giao dịch trên thị trường và các quan hệ hợp tác được duy trì tốt đã dẩn đến việc các tổ chức tín dụng trong nước và các tổ chức tín dụng quốc tế đang hoạt động tại Việt Nam tăng hạn mức tiền gửi tại Ngân hàng Quốc tế. Tiền vay từ các tổ chức tài chính khác giảm xuống so với năm 2004 cũng góp phần giảm chi phí vốn của ngân hàng. Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và dân cư đạt 5.268,617 tỷ đồng, bằng 163% so với đầu năm và chiếm 58% tổng nguồn vốn. Đây là một kết quả rất đáng ghi nhận trong điều kiện Ngân hàng Quốc tế phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các NHTM khác. Số dư vốn huy động từ các cá nhân tại thời điểm 31/12/2005 đạt 3.302,446 tỷ đồng, đạt tốc độ tăng trưởng 133,5%. Kết quả đáng khích lệ trên có được là nhờ Ngân hàng Quốc tế đã thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt, mở rộng mạng lưới hoạt động đến gần khách hàng hơn và tung ra nhiều sản phẩm huy động có sức thu hút ra thị trường như các chương trình tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm lãi suất lũy tiến, tiết kiệm tặng quà. Cơ cấu vốn huy động từ các cá nhân cũng có sự thay đổi mang tính chất tích cực trong đó tỷ trọng tiền gửi có lãi suất thấp tăng mạnh. Số dư tiền gửi không kỳ hạn tăng tới 186,3% so với năm 2004. Trong năm 2005, do định hướng phát triển khách hàng đã được quán triệt tới từng đơn vị trong hệ thống Ngân hàng Quốc tế, tình hình hoạt động khởi sắc của khối nguồn vốn và nỗ lực của cả hệ thống trong việc mở rộng đối tượng khách hàng tiền gửi, tổng huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng 234% so với đầu năm và đạt 1.966 tỷ đồng. 2/ Hoạt động tín dụng. Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao trong những năm gần đây tiếp tục được duy trì trong năm 2005. Dư nợ tính đến thời điểm 31/12/2005 đạt 5.255 tỷ đồng, tăng 236% so với đầu năm và vượt 24,3% so với kế hoạch năm. Trong đó, tín dụng ngắn hạn đạt 3.570 tỷ đồng, chiếm 67,9% tổng dư nợ và tín dụng trung và dài hạn đạt 1.707 tỷ đồng, chiếm 32,1% tổng dư nợ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm số lượng lớn nhất và giầu tiềm năng nhất trong cộng đồng doanh nghiệp nhưng hiện nay phần lớn đều gặp nhiều khó khăn trong việc tăng cường khả năng cạnh tranh, hiện đại hoá công nghệ và tiếp cận các nguồn vốn tín dụng. Chính sách của Ngân hàng Quốc Tế đã giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được nguồn vốn với chi phí hợp lý để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động và tăng sức cạnh tranh. Ngoài ra trong năm 2005, Ngân hàng Quốc tế tiếp tục đẩy mạnh cho vay tài trợ hoạt động xuất khẩu hàng hoá như cho vay để doanh nghiệp sản xuất, thu mua hàng hoá xuất khẩu, cho vay chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất khẩu. Dư nợ tín dụng doanh nghiệp tại thời điểm 31/12/2005 là 3.904 tỷ tăng 152% so với năm và vượt 29,7% với kế hoạch năm. Năm 2005, Ngân hàng Quốc tế tập trung đẩy mạnh cho vay tiêu dùng cá nhân bằng việc tung ra và đổi mới một loạt các sản phẩm tín dụng cá nhân, bám sát nhu cầu của khách hàng như cho vay mua, sửa chữa nhà đất, căn hộ chung cư, cho vay mua ôtô, cho vay du học, cho vay mua sắm vật dụng gia đình. Một loạt các sản phẩm tín dụng nhằm đến các nhóm khách hàng cụ thể cũng được đưa ra cho vay tín chấp cán bộ quản lý điều hành, cho vay đối với cán bộ nhân viên,…Dư nợ tín dụng cá nhân tại thời điểm 31/12/2005 là 1.351 tỷ tăng 106% với đầu năm. Hoạt động tín dụng được thực hiện theo phương thức phê duyệt tập trung, chú trọng chất lượng tín dụng luôn được kiểm soát tốt do hoạt động tín dụng được tổ chức chặt chẽ, tuân thủ đúng các quy định của pháp luật và các quy định, quy trình nghiệp vụ của Ngân hàng Quốc tế. Tỷ lệ nợ quá hạn tình đến thời điểm cuối năm chỉ chiếm 0,87% tổng dư nợ, giảm so với mức 1.11% của năm 2004. 3/ Hoạt động dịch vụ Trong năm 2005, tổng thu từ dịch vụ tăng 11,98% và gấp 4 lần so với năm 2004. Cũng trong năm này hoạt động thanh toán quốc tế được tăng cường theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu thông qua việc bổ sung nhân sự cho Phòng tài trợ Thương mại Hội sở, cho cá chi nhánh và mở các chi nhánh có khả năng thu hút khách hàng xuất khẩu. Trong năm 2005,Ngân hàng Quốc tế đã mở1.647 L/C, đạt tổng giá trị 162 triệu USD, tăng 209% về mặt số lượng và 219% về mặt giá trị so với năm 2004. Chất lượng L/C nhập khẩu được đảm bảo tốt, các khoản tiền thanh toán đều được thực hiên đúng hạn cho các ngân hàng nước ngoài. Doanh số nhờ thu từ nhập khầu, xuất khẩu cũng tăng trưởng lần lượt là 519% và 89% về mặt số lượng, 172% và 152% về mặt giá trị so với năm 2004. Doanh thu dịch vụ thanh toán quốc tế toàn hệ thống tăng tới 2128,5% so với năm 2004 Các dịch vụ khác như dịch vụ chuyển tiền kiều hối, dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ và các dịch vụ mang laị giá trị gia tăng cho khách hàng cũng được đầu tư phát triển. 4/ Hoạt động quảng cáo, khuyếch trương và quan hệ công chúng. Trong năm 2005, việc đẩy mạnh quảng bá hình ảnh, thương hiệu của ngân hàng đến công chúng được hoạch định từ đầu năm với các chương trình hành động cụ thể. Các hoạt động xây dựng thương hiệu được duy trì tốt trong năm và được phân bố đều trong phạm vi toàn quốc. Sự ổn định về mặt chất lượng dịch vụ và tình hình tài chính, tổ chức, hoạt động cùng khả năng phát triển bền vững là những yếu tố giúp thương hiệu Ngân hàng Quốc tế ngày càng lớn mạnh. Bộ nhận diện thương hiệu Ngân hàng Quốc Tế, hoàn chỉnh trong năm 2004, tiếp tục được áp dụng thống nhất trên toàn hệ thống ngân hàng đã tạo ra hình ảnh mới trong mọi hoạt động và giao tiếp của ngân hàng và là một bước phát triển mang tính chuyên nghiệp trong quản lý hình ảnh của ngân hàng. Cũng trong năm 2005, với hàng loạt sản phẩm, dịch vụ gắn bó thiết thục với đời sống cộng đồng được đưa ra phục vụ khách hàng, nhiều đài báo trung ương và địa phương đã tham gia viết bài và đưa tin về Ngân hàng và các sản phẩm của Ngân hàng như: báo Lao Động, Hà Nội mới, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Sài Gòn Giải phóng, Tuổi trẻ, Thanh niên, VietNam Net, VnExpress…Các chuyên trang, chuyên mục được các báo Đầu tư,Thời báo Ngân hàng xây dựng nhằm cung cấp thông tin về tiện ích sản phẩm tài chính ngân hàng cho bạn đọc cũng liên tục viết bài về sản phẩm của Ngân hàng Quốc Tế. Với mong muốn hoà nhập vào cộng đồng xã hội, trong năm 2005, Ngân hàng Quốc tế đã tham gia nhiều chương trình văn hoá, vui chơi giải trí bổ ích và thu hút nhiều người quan tâm như: “Hãy chọn giá đúng”, “Ở nhà chủ nhật”, “Điểm hẹn âm nhạc” phát sóng trên kênh VTV3 Đài truyền hình Việt Nam. Ngoài ra, với trách nhiệm cùng xã hội, Ngân hàng Quốc tế tổ chức các chương trình có ý nghĩa xã hội sâu sắc như “Triệu tấm lòng đồng cảm” ủng hộ trẻ em nạn nhân chất độc màu da cam và nhiều chương trình ủng hộ từ thiện khác. 5/ Phát triển mạng lưới chi nhánh Do yêu cầu phát triển và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phục vụ khách hàng, công tác phát triển mạng lưới chi nhánh được coi là một trọng điểm trong kế hoạch phát triển của Ngân hàng Quốc tế. Năm 2005, mạng lưới hoạt động của Ngân hàng Quốc tế được mở rộng cả về quy mô và vùng địa lý. Đến ngày 31/12/2005, Ngân hàng Quốc tế đã hiện diện tại 9 tỉnh, thành phố trên khắp cả nước – đây đều là những trung tâm kinh tế năng động và có nhiều tiềm năng cho dịch vụ tài chính, ngân hàng như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Nha Trang, Đà Nẵng, Đồng Nai, Bình Dương và Cần Thơ với tổng số 31 chi nhánh. Với mạng lười chi nhánh từng bước được mở rộng, cùng với việc không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, Ngân hàng Quốc tế đã dần nâng cao hình ảnh thương hiệu và tích lũy được lòng tin của công chúng. Trong chiền lược phát triển của mình, Ngân hàng Quốc tế tiếp tục mở các chi nhánh mới trong những năm tới để đến gần hơn nữa với khách hàng và phục vụ nhu cầu của khách hàng được tốt hơn. Theo kế hoạch, đến cuối năm 2006, dự kiến Ngân hàng Quốc tế sẽ có tất cả 60 chi nhánh trên toàn quốc. Tất cả các chi nhánh mới trong hệ thống Ngân hàng Quốc tế đều nhanh chóng ổn địmh tổ chức, phát triển cơ sở khách hàng, triển khai hoạt động kinh doanh an toàn, hiệu quả và toàn diện. Trong năm qua, các Chi nhánh và Phòng Giao Dịch của Ngân hàng Quốc tế đã duy trì tốt các hoạt động tại các địa bàn đễ kết hợp với các hoạt động quảng bà thương hiệu, sử dụng tốt công cụ lãi suất, tạo hiệu quả huy động vốn dân cư tăng trưởng cao. 6/ Công nghệ ngân hàng và thông tin Trong năm 2005, Ngân hàng Quốc tế bắt đầu triển khai Hệ thống ngân hàng đa năng SYMBOLS do System Access cung cấp – đay là giải pháp Ngân hàng đa năng trọn gói cung cấp các chức năng cho các hệ thống nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ, ngân hàng bán buôn, ngân hàng Internet và hệ thống quản lý quan hệ khách hàng. Đây là hệ thống có khả năng mở rộng cao, đáp ứng cho mô quy mô của ngân hàng. Năm 2005 cũng là thời điểm Đề án tập trung hoá dữ liệu và giao dịch trực tuyến của Ngân hàng Quốc tế phát huy tác dụng mạnh mẽ. Tính an toàn dữ liệu và giao dịch trực tuyến cũng tăng lên đáng kể. Cũng trong năm 2005, Ngân hàng Quốc tế chính thức ký hợp đồng mua Hệ thống Chuyển mạch Tài chính và Quản lý thẻ từ Công ty Card Tech Limited (CLM) – Vương quốc Anh. Giải pháp công nghệ này sẽ giúp VIB đột phá trong lĩnh vực thẻ thông qua việc cung ứng hàng loạt các sản phẩm dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu và phù hợp với từng nhóm khách hàng. Viêc trong thời gian qua Ngân hàng Quốc tế triển khai thành công hàng loạt cá dự án công nghệ đã tạo ra hàng loạt các sản phẩm dịch vụ thanh toán chất lượng cao mang lại nhiều lợi ích và giá trị gia tăng cho khách hàng 7/ Phát triển nguồn lực Nguồn lực quan trọng nhất của ngân hàng là nguồn lực con người và lợi thế cạnh tranh của ngân hàng cũng là nguồn lực con người, do đó ngân hàng luôn cố gắng xây dựng một môi trường làm việc cho phép khuyến khích mọi cán bộ nhân viên phát huy hết khả năng của mình. Ngân hàng Quốc tế xây dựng một chương trình phát triển kỹ năng toàn diện cho cán bộ, nhân viên nhằm tạo khả năng thích nghi trước những biến đổi của môi trường kinh doanh. Chính sách tiền lương của Ngân hàng Quốc tế trong năm 2005 có nhiều cải thịên đáng kể theo chiều hướng kết hợp hài hoà giữa lợi ích của Ngân hàng cũng như lợi ích của người lao động. Chính sách thu nhập của ngân hàng đã khuyến khích đội ngũ nhân viên yên tâm làm việc, đồng thời vẫn đảm bảo tính cạnh tranh và thu hút nhân tài phục vụ ngân hàng. Công tác khen thưởng cũng được Ngân hàng quan tâm đặc biệt. Công tác khe thưởng cả bằng vật chất lẫn tinh thần đã khuyến khích được tinh thần làm việc của cán bộ nhân viên được khen thưởng và những cán bộ nhân viên khác.Công tác đào tạo của Ngân hàng Quốc tế bám sát yêu cầu hoàn thiện văn hoá làm việc, nâng cao trình độ và kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ nhân viên, trong đó dặc biệt chú trọng đào tạo những kiến thức về Giao dịch khách hàng, Tín dụng, Phân tích tài chính, Maketing, Quan hệ công chúng, Thanh toán Quốc tế và pháp luật. Trong năm 2005, Ngân hàng Quốc tế đã tổ chức 79 khoá học với 90% cán bộ nhân viên tham gia đã góp phần nâng cao đáng kể kiến thức và kỹ năng làm việc của nhân viên ngân hàng. Công tác tuyển dụng đáp ứng được nhu cầu bổ sung nhân sự cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Quốc tế. Số nhân sự tuyển dụng mới trong năm 2003 là 439 cán bộ nhân viên và tổng số cán bộ nhân viên tính đến 31/12/2005 là 851 người gấp hơn 2 lần so với thời điểm đầu năm. 8/ Kết quả kinh doanh Năm 2005, tổng thu nhập trước thuế của Ngân hàng Quốc tế là 95.264 triệu đồng, bằng 231% so với năm 2004. Đến hết năm 2005, Ngân hàng Quốc tế là một trong những ngân hàng có mức tăng trưởng lợi nhuận trước thuế cao hơn rất nhiều so với mức tăng trưởng chung vào khoảng 45% của hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Trong năm 2005, hoạt động đầu tư sinh lợi chủ yếu của Ngân hàng Quốc tế vẫn là hoạt động tín dụng với đóng góp tới 96,56% tổng thu nhập. Thu nhập từ các hoạt động dịch vụ trong năm 2005 đạt 33.178 triệu đồng. Để đạt được kết quả trên, toàn hệ thống Ngân hàng Quốc tế đã chú trọng tìm kiếm các nguồn vốn chi phí thấp, đồng thời mở rộng khách hàng tín dụng an toàn để tối ưu hoá sử dụng nguồn vốn. Chương 2 Lý thuyết về rủi ro I/ Rủi ro trong hoạt động ngân hàng 1/ Khái niệm. Mọi hoạt động của con người đều đưa tới hai khả năng, hoặc sẽ đem lại những kết quả thuận lợi như mong muốn, hoặc sẽ mang lại kết quả không như mong đợi. Khi làm bất cứ việc gì con người ai cũng muốn đạt được kết quả tốt, tuy nhiên trong thực tế không phải lúc nào cũng được như ý. đôi khi người ta gặp phải biến cố ngoài ý muồn gây tổn hất ngoài dự kiến - điều này cũng có nghĩa là họ đã gặp rủi ro. Vậy rủi ro là gì? “Rủi ro là những khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến” Bất kỳ một hoạt động, một thành phần, một hoàn cảnh nào đều có nguy cơ gặp phải rui ro. Đặc biệt là trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn luôn chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn. Ngân hàng thương mại là loại doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt- hàng hoá tiền tệ. Đa phần trong đó là các khoản tiền gửi phải trả khi có yêu cầu. Nguồn tiền cua các NHTM đang có thay đổi mạng mẽ do có gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, giữa các ngân hàng với các tổ chức tài chính dưới ảnh hưởng của công nghệ thông tin và quá trình toàn cầu hoá. Các nguồn tiền gửi của các cá nhân và doanh nghiệp trở nên dễ dàng di chuyển hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Điều này tạo thuận lợi hơn cho một ngân hàng trong việc tìm kiếm nguồn tiền song lại tăng tính mỏng manh, kém ổn định của cả hệ thống. Tài sản của ngân hàng chủ yếu là các động sản tài chính (các khoản cho vay, chứng khoán) với tính rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng rất cao. Ngày nay, khi công nghệ Ngân hàng ngày càng phát triển, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, của công nghệ thông tin đã tạo điều kiện cho ngân hàng giảm bớt rủi ro thông qua việc đa dạng hoá khách hàng, đa dạng hoá sản phẩm và mở rộng thị trường, nhưng cũng lại làm tăng tính rủi ro do các biến động lớn trên thế giới và khu vực, hay do thông tin sai lệch… Bản thân các ngân hàng cũng luôn mong muốn các rủi ro không xảy ra hoặc nếu có xáy ra thì có thể giảm thiểu thiệt hại đến mức thấp nhất. Các ngân hàng không thể biết trước hoặc dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra, mặc dù khi lập chiến lược hoạt động chung các ngân hàng cũng có đưa một số loại rủi ro vào nhưng cũng chỉ có tính chất đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ hết các rủi ro được. 2/ Phân loại rủi ro Có rất nhiều tiêu thức để phân loại rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng, bản thân rủi ro trong hoạt động Ngân hàng cũng rất đa dạng và phức tạp, nhưng nhìn chung có thể phân chia theo một số dạng chủ yếu sau đây: 2.1/ Rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất cho Ngân hàng khi khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ cả vốn và lãi. Rủi ro tín dụng là rủi ro cơ bản nhất và luôn là mối đe doạ của các NHTM, nó không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của Ngân hàng khác như hoạt động bảo lãnh, tài trợ ngoại thương, cho thuê tài chính. Rủi ro tín dụng rất khó kiểm soát hay quản lý với diễn biến phức tạp có thể xảy ra cho các Ngân hàng bất cứ lúc nào, với bất kỳ món vay nào và nó có thể làm ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của Ngân hàng, nặng hơn nó có thể khiến Ngân hàng đi đến bờ vực của sự phá sản, gây hậu quả nặng nề cho Ngân hàng. 2.2/ Rủi ro lãi suất. Lãi suất là giá cả của sản phẩm Ngân hàng hay cũng chính là chi phí để vay, là giá phải trả cho việc chuyển quyền tạm thời sử dụng vốn trong một thời gian nào đó. Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi lãi suất thay đổi ngoài dự kiến. Trong quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng tồn tại hai loại lãi suất: lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay. Cả hai loại lãi suất trên đều biến động theo quy luật cung cầu của thị trường. Do đó, mọi sự thay đổi của lãi suất đều có thể tác động đến việc làm tăng giảm thu nhập, chi phí và lợi nhuận của Ngân hàng, điều đó cũng có nghĩa là Ngân hàn cũng thường xuyên phải đối đầu với khả năng gặp phỉa rủi ro lãi suất. Nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất là do sự không cân xứng giữa các tài sản nợ và có. Nếu ngân hàng dùng các tài sản nợ ngắn hạn để đầu tư vào các tài sản có dài hạn thì khi lãi suất ngắn hạn tăng lên, trong khi lãi suất đầu tư vẫn giữ nguyên, ngân hàng sẽ gặp rủi ro. Ngược lại, nếu ngân hàng dùng tài sản nợ dài hạn để đầu tư vào tài sản có ngắn hạn thì khi lãi suất đầu tư giảm ngân hàng cũng có nguy cơ gặp rủi ro. Ngoài ra rủi ro lãi suất còn có thể xảy ra do các nguyên nhân khác như: Do bất lợi trong cạnh tranh,buộc ngân hàng phải tăng lãi suất huy động và hạ lãi suất cho vay để thu hút khách hàng, do đó làm tăng chi phí và làm giảm thu nhập của ngân hàng. Do cung tiền tệ nhỏ hơn cầu tiền tệ nên ngân hàng phải tăng lãi suất để huy động vốn. ngân hàng phải giảm lãi suất cho vay…. Do chính sách ưu đãi trong cho vay của nhà nước nên Rủi ro lãi suất có liên quan chặt chẽ với rủi ro tín dụng. 2.3/ Rủi ro thanh khoản. Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi nhu cầu thanh toán thực tế vượt khả năng thanh toán dự kiến làm gia tăng các chi phí để đáp ứng các nhu cầu về thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán Khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức sẽ phát sinh rủi ro thanh khoản đối với ngân hàng. Một ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả năng thanh toán hiện tại, trong tương lai và đột xuất. Trong điều kiện bình thường, nhu cầu rút tiền có thể được dự báo trước và được đảm bảo bằng dự trữ tiền mặt hoặc tài sản có an toàn với tính lỏng cao. Tuy nhiên, vào các mùa lễ, kỳ nghỉ...và đặc biệt là khi người gửi tiền nghi ngờ sự an toàn và thiếu tin tưởng vào khả năng kinh doanh, thanh toán cũng như điều hành của ngân hàng, công chúng có yêu cầu rút tiền ồ ạt. khi đó ngân hàng đứng trước khả năng chịu tổn thất do nhu cầu thamh toán thục tế vượt quá khả năng dự kiến làm cho ngân hàng mất khả năng thanh khoản. Ngoài ra, rủi ro thanh khoản cũng có thể xảy ra do sai sót nghiệp vụ, hay bị lợi dụng trong thanh toán séc, thanh toán điện tử…. Rủi ro thanh khoản là rủi ro nguy hiểm nhất đối với ngân hàng và có liên quan đến sự sống còn của một ngân hàng. 2.4/ Rủi ro hối đoái. Rủi ro hối đoái là khả năng xảy ra những tổn thất cho ngân hàng khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Những rủi ro này có thể phát sinh trong tất cả các nghiệp vụ liên quan đến ngoại tệ của ngân hàng như: cho vay, huy động vốn bằng ngoại tệ, mua bán ngoại tệ, đầu tư chúng khoán bằng ngoại tệ…Rủi ro hối đoái là sự lỗ tiềm tàng cho các NHTM. Khi tỷ giá ngoại tệ biến động thì giá trị tài sán có ròng bằng ngoại tệ thay đổi và rủi ro ngoại hối xảy ra khi giá trị này âm. Điều này xảy ra trong 2 trường hợp đó là trạng thái “trường” và “đoản” về hối đoái. Nếu ngân hàng ở trạng thái ngoại tệ “trường” thì khi ngoại tệ tăng giá ngân hàng sẽ có lãi, ngược lại ngân hàng sẽ bị lỗ nếu ngoại tệ đó xuống hìa. Nếu ngân hàng đang ở trạng thái “đoản” về ngoại tệ nào đó, khi ngoại tệ lên giá ngân hàng sẽ bị lỗ và ngược lại. 2.5/ Rủi ro hoạt động ngoại bảng Hoạt động ngoại bảng là các hoạt động không thuộc bảng cân đối tài sản (nội bảng). Các hoạt động này không liên quan đến việc nắm giữ các chứng khoán hay giấy nhận nợ sơ cấp hoặc ngân hàng phàt hành cá chứng khoán hay giấy nhận nợ thứ cấp nhưng lại có thể ảnh hưởng đến trạng thái tương lai của bảng cân đối tài sản nội bảng, vì các hoạt động ngoại bảng có thể tạo ra những tài sản có và tài snả nợ bổ sung cho bảng cân đối nội bảng. Xuất phát từ hoạt động ngoại bảng là ngân hàng thu được phí trong khi không sử dụng đến vốn kinh doanh nên các hoạt động này ngày càng phát triể, đi cùng với nó là những rủi ro tiềm ẩn. Có trường hợp rủi ro trong trường hợp ngoại bảng là nguyên nhân dẫn đến ngân hàng phá sản. Nhưng thông thường các hoạt động ngoại bảng tham gia tích cực trong phòn ngừa rủi ro tín dụng, rủi ro ngoại hối, rủi ro lãi suất.. 2.6/ Rủi ro quốc gia Rủi ro quốc gia là rủi rođầu tư nước ngoài mà khi ngân hàng gặp phải khi đầu tư bản tệ cho cá công ty nước ngoài có trụ sở ở nước ngoài. Rủi ro quốc gia còn nghiêm trọng hơn cả trường hợp rủi ro tín dụng trong trường hợp ngân hàng đầu tư cho cá cong ty nội địa, vì khi rủi ro xảy ra ngân hàng hầu như không thể thu hồi lại một phần vốn nào. 2.7/ Rủi ro công nghệ và hoạt động. Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho công nghệ không tạo ra khoản tiết liệm chi phí như dự kiến khi mở rộng quy mô hoạt động. Rủi ro hoạt động có liên quan chặt chẽ với rủi ro công nghệ và có thể phát sinh bất cứ khi nào khi hệ thống công nghệ bị trục trặc hoặc khi hệ thống hỗ trợ bên trong ngừng hoạt động. Ngoài ra còn có các rủi ro thuộc về tự nhiên như động đất, bão lụt.. hay do trộm cắp, hoả hoạn. 2.8/ Rủi ro khác Ngoài ra còn có các loại rủi ro khác như rủi ro môi trường, rủi ro pháp lý, rủi ro tồn đọng vốn… Có thể thấy rằng, đồng nghĩa với việc cố gắng loại trừ, hạn chế rủi ro là việc hy sinh lợi nhuận và thủ tiêu các chức năng trung gian tài chính bởi rủi ro luôn gắn liền với hoạt động kinh doanh. Do đó khi đánh giá hoạt động kinh doanh hay khi đặt ra những kế hoạch kinh doanh cho chính mình, mọi ngân hàng đều chú trọng tới việc dụ báo sự biến động của thị trường, khả năng thu hút khách hàng, thông tin từ khách hàng…dể hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra. II/ Lý thuyết về rủi ro tín dụng 1/ Khái quát về rủi ro tín dụng đối với hoạt động của ngân hàng. Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng (còn được gọi là tín dụng ngân hàng). Tín dụng là quan hệ vay mượn gồm cả cho vay và đi vay, chính vì thế tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất cho các ngân hàng thương mại đồng thời với nó cũng là hoạt động hàm chứa trong mình rủi ro lớn nhất rủi ro tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn cao nhất. Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấyan toàn. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán một cách chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa, nhiều cán bộ ngân hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy, trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro là không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điếm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ. Do vậy, rủi ro dự kiến luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng. 2/ Rủi ro tín dụng 2.1/ Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới rủi ro tín dụng: Nguyên nhân bất khả kháng. Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm họ mất khả năng thanh toán cho ngân hàng. Ví dụ: thiên tia, chiến tranh hoặc những thay đổi tầm vĩ mô (thay đổi chính phủ, chính sách kinh tế, hàng rào thuế quan…) vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay. Những thay đổi này thư._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31854.doc