Sử dụng mô hình kinh tế lượng phân tích một số các yếu tố ảnh hưởng tới cầu lao động trong các Doanh nghiệp Việt Nam

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -----***----- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP SỬ DỤNG MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG PHÂN TÍCH MỘT SỐ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CẦU LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM Hà Nội - 2009 CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LAO ĐỘNG, CUNG -CẦU LAO ĐỘNG VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CẦU LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP 1.1. Một số khái niệm cơ bản về lao động, việc làm, cung - cầu lao động 1.1.1. Khái niệm về lao động Lao động có thể hiểu là hoạt động có mục đích của con người, t

doc49 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Sử dụng mô hình kinh tế lượng phân tích một số các yếu tố ảnh hưởng tới cầu lao động trong các Doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hông qua hoạt động đó cong người tác động vào tự nhiên cải biến chúng thành những vật có ích nhằm đáp ứng một hay một số nhu cầu nào đó của con người. Hoạt động lao động có ba đặc trưng cơ bản: Thứ nhất, về mặt tính chất, hoạt động lao động phải có mục đích (có ý thức) của con người. Đặc trưng này chỉ ra sự khác biệt giữa hoạt động lao động của con người và hoạt động có tính chất bản năng của con vật. Con vật duy trì sự tồn tại của mình bằng những sản vật có sẵn trong tự nhiên, còn con người dùng sức lao động của bản thân để tạo ra những sản phẩm cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của bản thân mình và cho cả xã hội. Thứ hai, về mục đích, hoạt động lao động phải tạo ra sản phẩm nào đó nhằm thõa mãn nhu cầu nào đó của con người. Vấn đề này nhằm phân biệt với những hoạt động có mục đích không nhằm thõa mãn nhu cầu chính đáng của con người, không phục vụ cho người, cho sự tiến bộ của xã hội. Thứ ba, xét về mặt nội dung, hoạt động lao động của con người là phải tắc động vào tự nhiên và xã hội nhằm tạo ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho lợi ích của con người. Nội dung này nhằm phân biệt giữa hoạt động lao động với hoạt động không tạo ra sản phẩm, hoạt động phá hoại tự nhiên. Ngày nay các hoạt động lao động còn xem xét là các hoạt động bời đắp bảo tồn tự nhiên. 1.1.2. Khái niệm về việc làm Việc làm là phạm trù dùng để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn tư liệu sản suất, công nghệ…) để sử dụng sức lao động đó. Sự phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động có nghĩa là mọi người có khả năng lao động, có nhu cầu làm việc đều có việc làm. Nếu chỉ xem xét trên phương diện sử dụng hết thời gian lao động khi có việc làm thì đó là việc làm đầy đủ; còn nếu xem xét trong trường hợp sử dụng triệt để nguồn lực về vốn, tư liệu sản xuất và sức lao động ta có khái niệm việc làm hợp lý. Điều 13 chương II “Việc làm” của Bộ luật Lao động, một hoạt động được coi là có việc làm cần thõa nãm 2 điều kiện: Một là, hoạt động phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và cho các thành viên trong gia đình. Điều này chỉ rõ tính hữu ích và nhấn mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm. Hai là, hoạt động đó không bị pháp luật ngăn cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm. Tạo việc làm là quá trình tạo ra số lượng, chất lượng của tư liệu sản xuất, số lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội khác để kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động. Để tạo việc làm cần phải kết hợp nhiều cơ quan tổ chức cũng như cá nhân người lao động tạo thành cơ chế tạo việc làm. 1.1.3. Khái niệm về cung – cầu lao động 1.1.3.1. Khái niệm về cung lao động Mỗi người, ở những thời điểm khác nhau, phải quyết định làm việc hay không làm việc, làm việc cho ai và làm việc bao nhiêu thời gian. Đó chính là biểu hiện của cung lao động của mỗi cá nhân. Tại mỗi thời điểm, cung lao động của toàn bộ xã hội được hiểu là tổng cung lao động của mỗi cá nhân. Như vậy cung lao động phản ánh khả năng tham gia trên thị trường lao động của người lao động trong những điều kiện nhất định. Cung lao động của xã hội là khả năng cung cấp sức lao động của nguồn nhân lực xã hội. Nó được thể hiện thông qua số lượng hoặc chất lượng lao động hoặc ở thời gian của những người tham gia và mong muốn tham gia lao động trên thị trường 1.1.3.2. Khái niệm về cầu lao động Có thể hiểu cầu lao động là lực lượng lao động mà người sử dụng lao động chấp nhận thuê ở các điều kiện nhất định. Tổng cầu lao động của một nền kinh tế (hoặc của một tổ chức, doanh nghiệp, một ngành…) là toàn bộ nhu cầu về lao động của nền kinh tế (hoặc một tổ chức, doanh nghiệp, ngành…) ở một thời kỳ nhất định trong những thời kỳ nhất định. Các doanh nghiệp thuê mướn lao động tùy thuộc vào người tiêu dùng mua nhiều hay ít hàng hóa – dịch vụ mà họ sản xuất ra. Nhu cầu thuê mướn lao động cũng giống như nhu cầu về các yếu tố đầu vào khác của quá trình sản xuất, là “cầu phát sinh”. Vì vậy, người sử dụng lao động thuê nhiều hay ít tùy thuộc vào cầu sản phẩm, điều kiện, hoàn cảnh của từng tổ chức, doanh nghiệp hay nền kinh tế. 1.1.3.3.Thị trường lao động và cân bằng thị trường lao động Có thể hiểu thị trường lao động là nơi người lao động tìm việc làm và các doanh nghiệp tìm thuê lao động (nơi diễn tra quá trình mua bán sức lao động). Quá trình trao đổi giữa hai bên làm cho mức tiền công và mức việc làm có xu hướng dịch chuyển tới điểm mà tại đó thời gian người lao động muốn làm việc bằng với thời gian mà doanh nghiệp muốn thuê. Hình 1: Đồ thị mô tả cầu và cung lao động trong thị trường lao động Điểm E được gọi là điểm cân bằng. Thị trường lao động hướng tới điểm này 1.2. Cầu lao động trong doanh nghiệp Tương tự như khái niệm cầu lao động thị trường nói chung, cầu lao động trong doanh nghiệp là lượng lao động mà doanh nghiệp chấp nhận thuê ở những điều kiện hoàn cảnh nhất định. Tùy thuộc vào hoàn cảnh về kinh tế, tình hình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, đặc điểm của doanh nghiệp… mà doanh nghiệp sẽ quyết định lượng lao động là bao nhiêu. Xác định cầu lao động trong doanh nghiệp là một vấn đề rất quan trọng, nó giúp cho doanh nghiệp có thể dễ dàng ứng phó trong sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tính toán được chi phí sản xuất trong tương lai. Vì lao động cũng là một yếu tố đầu vào vô cùng quan trọng cho nên việc xác định được chính xác cầu lao động sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm thiểu được chi phí không cần thiết, tạo được ưu thế trong cạnh tranh. Để xác định lượng cầu lao động trong doanh nghiệp một cách chính xác không phải vấn đề đơn giản, khi xác định cầu lao động trong doanh nghiệp thì trước hết chúng ta cần xem xét các yếu tố nào ảnh hưởng tới cầu lao động trong doanh nghiệp, mức độ tác động của nó như thế nào, mục tiêu sản xuất kinh doanh sắp tơi của doanh nghiệp ra sao, tình hình kinh tế xã hội tương lai như thế nào…ww. Sau đây chúng ta sẽ đi tìm hiểu về một số các yếu tố ảnh hưởng tới cầu lao động trong các doanh nghiệp VIệt Nam. 1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng tới cầu lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam 1.3.1. Vốn doanh nghiệp Vốn được hiểu là của cải do con người tạo ra tích lũy lại, dưới dạng vật thể hoặc tài chính. Công nghiệp hóa hiện đại hóa của nước ta hiện nay có nhiều loại vốn, trong đó vốn trong nước chiếm vị trí quyết định, vốn nước ngoài đóng vai trò chủ đạo.Vốn trong nước bao gồm các tài nguyên thiên nhiên, của cải tích lũy trong nước qua nhiều thế hệ… Vốn nước ngoài là các nguồn đầu tư, viện trợ, cho vay … Một doanh nghiệp muốn tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh trên bất kỳ lĩnh vực nào đi chăng nữa đều phải có vốn. Vốn dùng để xây dựng cơ sở hạ tầng, mua thiết bị máy móc. Vốn dùng để mua nguyên nhiên vật liệu, thuê lao động… Khi doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất (theo chiều rộng hay chiều sâu) đều phải cần có vốn. Trong phần này chúng ta xem xét tới mức độ ảnh hưởng của vốn đầu tư tới nhu cầu lao động trong doanh nghiệp như thế nào. Vốn đầu tư sản xuất là toàn bộ các khoản chi phí nhằm duy trì hoặc gia tăng mức vốn sản xuất. Vốn đầu tư sản xuất được chia thành vốn đầu tư vào tài sản cố định (vốn cố định) và vốn đầu tư vào tài sản lưu động(vốn lưu động). Đến lượt mình, vốn đẩu tư vào tài sản cố định lại chia thành vốn đầu tư cơ bản và vốn đầu tư sửa chữa lớn. Vốn đầu tư cơ bản làm tăng khối lượng thực thể của tài sản cố định, bảo đảm bù đắp số tài sản cố định bị hao mòn và tăng thêm phần xây lắp dở dang. Còn vốn sửa chữa lớn không làm tăng khối lượng thực thể của tài sản, do đó nó không có trong thành phần của vốn đầu tư cơ bản. Nhưng vai trò của vốn sửa chữa lớn tài sản cố định cũng giống như vai trò kinh tế của vốn đầu tư cơ bản và nhằm đảm bảo thay thế tài sản bị hư hỏng. Như vậy, hoạt động đầu tư cho sản xuất là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực sản xuất cũ và tạo thêm năng lực sản xuất mới, nói cách khác, đó là quá trình thực hiện tái sản xuất các loại tài sản sản xuất. Hoạt động đầu tư là hết sức cần thiết, xuất phát từ 3 lý do: Thứ nhất là, do đặc điểm của việc sử dụng tài sản cố định tham gia nhiều lần vào quá trình sản xuất, giá trị bị giảm dần và chuyển dần từng phần vào trong giá trị sản phẩm. Trái lại đối với tài sản lưu động lại tham gia một lần vào quá trình sản xuất và chuyển toàn bộ giá trị vào trong giá trị sản phẩm. Vì vậy, phải tiến hành đầu tư để bù đắp giá trị tài sản cố định bị hao mòn và duy trì dự trữ ngyên vật liệu cho quá trình sản xuất tiếp theo. Nói cách khác, đầu tư nhằm thực hiện tái sản xuất giản đơn tài sản sản xuất. - Thứ hai là, nhu cầu quy mô sản xuất xã hội ngày cành mở rộng đòi hỏi phải tiến hành đầu tư nhằm tăng thêm tài sản cố định mới và tăng thêm dự trữ tài sản lưu động. Tức là, thực hiện tái sản xuất mở rộng tài sản sản xuất. - Thứ ba là, trong thời đại của tiến bộ công nghệ diễn ra rất mạng mẽ, nhiều máy móc, thiết bị … nhanh chóng bị rời vào trạng thái lạc hậy công nghệ. Do đó, phải tiến hành đầu tư mới, nhằm thay thế các tài sản sản xuất đã bị hao mòn vô hình. Tái sản xuất tài sản cố định được xem là một hoạt động hết sức quan trọng, có tính chất lâu dài và có những mối quan hệ ổn định, ảnh hưởng đến tất cả các ngành, các khâu và các yếu tố trong nền kinh tế. Tái sản xuất tài sản cổ định và năng lực sản xuất mới, bao gồm ba giai đoạn của một quá trình đầu tư thống nhất: Giai đoạn một – hình thành nguồn, khối lượng và cơ cấu cốn đầu tư cơ bản; giai đoạn hai – giai đoạn “chín muồi” của vốn đầu tư cơ bản và biến vốn đó thành việc đưa tài sản cố định bà năng lực sản xuất mới vào hoạt động; giai đoạn ba – hoạt động của tài sản cố định và năng lực sản xuất mới trong thời hạn phục vụ của chúng. Hoạt động đầu tư thường được tiến hàng dưới hai hình thức đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiệp. Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư mà người có vốn tham gia trực tiếp vào quá trình hoạt động và quản lý đầu tư, họ biết được mục tiêu đầu tư cũng như phương thức hoạt động của các loại vốn mà họ bỏ ra. Hoạt động đầu tư này có thể được thực hiện dưới các dạng: hợp đồng, liên doanh, cồn ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Đầu tư gián tiếp là hình thức bỏ vốn vào hoạt động kinh tế nhằm đem lại hiệu quả cho bản thân người có vốn cũng như cho xã hội, những người có vốn không trực tiếp thường được thực hiện dưới dạng: cổ phiếu, tín phiếu…Hình thức đầu tư này thường ít gặp rủi ro hơn so với đầu tư trực tiếp. Như vậy ta có thể thấy được tầm quan trọng của vốn nói chung hay vốn đầu tư sản xuất nói riêng trong quá trình sản xuất. Việc vốn tăng thêm (hay giảm đi) sẽ kéo theo tăng thêm một là về quy mô hoặc là về chất lượng sản xuất, từ đó keo theo sự tăng lên (hay giảm đi) về nhu cầu lao động của doanh nghiệp. Chúng ta có thể lấy ví dụ như thế này: một doanh nghiệp đầu tư thêm vốn mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư mua thêm máy móc để sản xuất ra nhiều hàng hóa hơn, như vậy rõ ràng doanh nghiệp sẽ phải thuê thêm lao động để sản xuất, làm cho cầu lao động trong doanh nghiệp tăng lên. Tuy nhiên cũng có trường hợp doanh nghiệp đầu tư vào trang thiết bị mới, cần ít nhân công hơn, như vậy cầu lao động của doanh nghiệp giảm xuống. Từ đó có thể thấy rằng, việc tăng vốn có thể làm cho cầu lao động trong doanh nghiệp tăng hoặc giảm, chúng ta theo dõi và kết hợp với một số các chỉ tiêu khác, từ đó đưa ra nhận định của mình về xu hướng cầu lao động trong một giai đoạn nào đó. 1.3.2.Yếu tố doanh thu Doanh thu là luồng tiền được của hãng sau khi bán các sản phẩm và dịch vụ của mình. Trong kinh tế học, doanh thu thường được xác định bằng giá bán nhân với sản lượng. Theo thuật ngữ kế toán, Doanh thu: Là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu. Phần doanh thu có thêm nhờ sản xuất thêm được một đơn vị sản phẩm gọi là doanh thu biên. Nó có thể diễn đạt bằng tỷ lệ giữa mức thay đổi trong doanh thu với mức thay đổi trong sản lượng. Công thức tính doanh thu biên, vì thế có thể viết như sau: (1) trong đó MR là doanh thu biên, TR là doanh thu, còn Q là sản lượng. Do TR = P.Q (2) trong đó P là giá bán sản phẩm. Từ (1) và (2) ta có: Trong điều kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá sản phẩm do thị trường quy định hoàn toàn, nên không phụ thuộc vào thay đổi sản lượng của hãng. Vì thế, dP/dQ bằng 0. Thành ra doanh thu biên sẽ bằng giá bán sản phẩm. Mình lấy ví dụ trong trường hợp về lúa gạo, giá lúa gạo do thị trường qui định, khi người nông dân bán thêm 01 đơn vị (01kg) thì số tiền (doanh thu) của người nông dân tăng lên đúng bằng với giá của 01kg lúa gạo. Doanh thu biên = giá sản phẩm. 1.3.3. Yếu tố lợi nhuận Lợi nhuận là thu nhập ròng có được do sản xuất hay bán được các hàng hóa và dịch vụ: nghĩa là, số tiền còn lại dành cho nhà doanh nghiệp sau khi thanh toán tất cả các khoản vốn (lãi suất), đất đai (tô), lao động (bao gồm chi phí quản lý, lương và tiền công), nguyên liệu thô, thuế và khấu hao. Nếu như doanh nghiệp làm ăn kém cỏi, lợi nhuận có thể là số âm, và trong trường hợp đó thì chúng biến thành các khoản lỗ. Lợi nhuận, trong kinh tế học, là phần tài sản mà nhà đầu tư nhận thêm nhờ đầu tư sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan đến đầu tư đó, bao gồm cả chi phí cơ hội; là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Công thức tính lợi nhuận: = TR – TC Trong đó: : là lợi nhuận TR: là tổng doanh thu TC: là tổng chi phí (trong đó bao gồm cà thuế) Lợi nhuận, trong kế toán, là phần chênh lệch giữa giá bán và chi phí sản xuất. Sự khác nhau giữa định nghĩa ở hai lĩnh vực là quan niệm về chi phí. Trong kế toán, người ta chỉ quan tâm đến các chi phí bằng tiền, mà không kể chi phí cơ hội như trong kinh tế học. Trong kinh tế học, ở trạng thái cạnh tranh hoàn hảo, lợi nhuận sẽ bằng 0. Chính sự khác nhau này dẫn tới hai khái niệm lợi nhuận: lợi nhuận kinh tế và lợi nhuận kế toán. Lợi nhuận kinh tế lớn hơn 0 khi mà chi phí bình quân nhỏ hơn chi phí biên, cũng tức là nhỏ hơn giá bán. Lợi nhuận kinh tế sẽ bằng 0 khi mà chi phí bình quân bằng chi phí biên, cũng tức là bằng giá bán.[1] Trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo (xét trong dài hạn), lợi nhuận kinh tế thường bằng 0. Tuy nhiên, lợi nhuận kế toán có thể lớn hơn 0 ngay cả trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo. Mục tiêu của doanh nghiệp là có được doanh thu cao nhất với chi phí thấp nhất (tối đa hóa lợi nhuận). Khi mà doanh nghiệp có mức doanh thu cao, mà mức chi phí thấp (lợi nhuận cao), đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất là có lợi, do vậy doanh nghiệp sẽ có xu hướng đầu tư thêm vào để tăng quy mô, từ đó tăng doanh thu lên; hoặc tăng chất lượng sản xuất, từ đó giảm chi phí xuống. Những việc tăng giảm đó kéo theo sự tăng hay giảm nhu cầu về lao động của doanh nghiệp. Thông thường khi thấy có lợi, doanh nghiệp sẽ mở rộng sản xuất thuê thêm lao động, từ đó làm cầu lao động trong doanh nghiệp tăng lên. Còn ngược lại, nếu bị thua lỗ, doanh nghiệp thu hẹp quy mô sản xuất, cắt giảm lao động, làm cho cầu lao động của doanh nghiệp giảm xuống. 1.3.4. Yếu tố tài sản doanh nghiệp Tài sản là của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng. Khi phân loại tài sản theo chu kỳ sản xuất, ta có tài sản cố định và tài sản lưu động. Còn khi phân loại tài sản theo đặc tính cấu tạo của vật chất, ta có tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Tài sản cố định là tư liệu sản xuất chuyên dùng trong sản xuất kinh doanh dùng được vào nhiều chu kì sản xuất. Có ba loại tài sản cố định: Là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất (từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định) thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định hữu hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc, thiết bị... Là những tài sản không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định vô hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh, như một số chi phí liên quan trực tiếp tới đất sử dụng; chi phí về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền tác giả... Là những tài sản cố định mà doanh nghiệp thuê của công ty cho thuê tài chính. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng. Trong kế toán, một tài sản lưu động là một tài sản trong bảng cân đối trong đó dự kiến sẽ được bán hoặc sử dụng hết trong tương lai gần, thường là trong vòng một năm, hoặc một chu kỳ kinh doanh - tùy cái nào dài hơn. Tài sản điển hình hiện nay bao gồm tiền, tương đương tiền, tài khoản phải thu, kho, phần của các tài khoản trả trước đó sẽ được sử dụng trong vòng một năm, và đầu tư ngắn hạn. Trong bảng cân đối, tài sản thông thường sẽ được phân loại thành tài sản lưu động và tài sản dài hạn. Lãi suất hiện hành được tính bằng cách chia tổng tài sản hiện tại của tổng số nợ ngắn hạn. Nó thường được sử dụng như một chỉ báo về tính thanh khoản của công ty , khả năng đáp ứng các nghĩa vụ ngắn hạn . Bao gồm những vật (có những điều kiện nhất định) tiền và giấy tờ có giá (ngôn ngữ luật học). Tài sản hữu hình là những cái có thể dùng giác quan nhận biết được hoặc dùng đơn vị cân đo đong đếm được. Điều kiện để vật trở thành tài sản là một vấn đề còn tranh cãi rất nhiều. Bởi vì khi vật không thuộc của ai gọi là vật vô chủ không ai gọi là tài sản vô chủ cả. Khi nói đến tài sản hữu hình bắt buộc chúng phải có một số đặc tính riêng như: Thuộc sở hữu của ai đó; Có đặc tính vật lý; Có thể trao đổi được; Có thể mang giá trị tinh thần hoặc vật chất; Là những thứ đã tồn tại (tài sản trước kia) đang tồn tại và có thể có trong tưong lai. Là những quyền tài sản (nghĩa hẹp) thuộc sở hữu của một chủ thể nhất định và thường chỉ gắn với một chủ thể nhất định và không thể chuyển giao. Tuy nhiên một số quyền tài sản có thể chuyển giao như thương hiệu hàng hóa hoặc ủy quyền cho chủ thể khác. Tài sản vô hình là những thứ không thể dùng giác quan để thấy được và không thể dùng đại lương để tính. Nhưng trong quá trình chuyển giao có thẻ quy ra tiền (cái này là quan trọng nhất). Tùy từng thời điểm nhất định mà quyền tài sản có giá như thế nào. Việc gây thiệt hại về tài sản vô hình của chủ thể sẽ phải bồi thường nhưng rất khó để xác định giá trị của nó. Ngoài những quy định trong luật còn việc xác định giá trị của tài sản vô hình không thể xác định được 1.3.5. Yếu tố loại hình doanh nghiệp Sau thời kỳ đổi mới, đất nước ta bước vào thời kỳ nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là một nền kinh tế nhiều thành phần. Sự đa dạng của các thành phần kinh tế đó là do sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ đó tạo nên mối sự đa dạng của các loại hình sở hữu, nguyên nhân sâu xa của sự đa dạng loại hình doanh nghiệp. Bởi lẽ, mỗi loại hình sở hữu sẽ quyết định loại hình doanh nghiệp ra sao. Chúng ta có các loại hình sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá nhân và sở hữu tư bản tư nhân. Tùy theo việc sở hữu về vốn mà chúng ta có các loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp nhà nước; hợp tác xã; doanh nghiệp tư nhân; doanh nghiệp các thể hộ gia đình; doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài; doanh nghiệp một trăm phần trăm vốn nước ngoài… Vậy loai hình doanh nghiệp sẽ tác động tới cầu lao động trong các doanh nghiệp như thế nào. Chúng ta có thể phân tích như sau: Loại hình doanh nghiệp khác nhau sẽ quyết định khác nhau tới cầu lao động trong doanh nghiệp. Ví dụ như, loại hình doanh nghiệp nhà nước, sẽ cần nhiều lao động hơn loại hình doanh nghiệp cá thể hộ gia đình; hay loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài sẽ sử dụng lao động nhiều hơn hay thấp hơn loại hình doanh nghiệp khác. Phân tích như thế sẽ cung cấp cho nhà hoạch định chính sách thông tin về mức độ ảnh hưởng của nhà nước, tư nhân và nước ngoài tới việc giải quyết việc làm trong đất nước như thế nào. Từ đó có thể đưa ra những quyết sách cho thời kỳ sắp tới. 1.3.6. Yếu tố ngành sản xuất kinh doanh Do đăc điểm, tính chất của từng ngành là khác nhau nên yêu cầu về trình độ cũng như số lượng lao động trong các ngành khác nhau là khác nhau. Điều đó lý giải tại sao có sự khác biệt về cầu lao động giữa các ngành kinh tế. Cầu lao động trong một ngành là tổng nhu cầu lao động trong ngành đó trong một khoảng thời gian xác đinh. Đặc điểm, tính chất của từng ngành đặt ra yêu cầu đối với lao động trong ngành. Nông nghiệp vốn là ngành thiên về sức mạnh cơ bắp, không đòi hỏi nhiều về trình độ học vấn cũng như trình độ chuyên môn kỹ thuật. Ngược lại ngành công nghiệp lại đòi hỏi cao về trình độ học vấn cũng như trình độ chuyên môn kỹ thuật cùng với sự khéo léo, sức mạnh cơ bắp lẫn sự dẻo dai. Đối với ngành dịch vụ thì sức mạnh trí óc lại là yếu tố hàng đầu. Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, lao động thủ công dần được thay thế bằng những máy móc hiện đại và do đó trí tuệ trở thành yếu tố không thiếu cho phát triển kinh tế thì nhu cầu lao động của các ngành ngày càng khác nhau. Nhiệm vụ đặt ra là xem xét xem sự tác động khác nhau giữa các ngành tới cầu lao động trong doanh nghiệp và đưa ra những lý giải cho sự khác nhau đó. 1.3.7. Tuổi doanh nghiệp Tuổi doanh nghiệp là số năm đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó được tính bằng năm hiện tai (năm điều tra) trừ đi năm doanh nghiệp bắt đầu tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Vấn đề đặt ra là, tuổi doanh nghiệp có ảnh hưởng như thế nào tới cầu lao động trong doanh nghiệp. Nên nhớ rằng trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh rất khốc liệt, một doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển được không phải là một chuyện đơn giản; Khi tuổi doanh nghiệp càng cao, có nghĩa là doanh nghiệp càng lâu đời, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đã có một vị trí đứng nhất định trên thị trường cạnh tranh, với việc càng ngày càng muốn nâng cao vị trí của mình trên thương trường thì doanh nghiệp phải tiếp tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, đồng thời mở rộng sản xuất nhằm chiếm lĩnh thị trương; do đó cùng với tuổi của doanh nghiệp càng lớn thì cầu lao động của doanh nghiệp cũng tăng lên theo. Tuy nhiên cũng có trường hợp tuổi doanh nghiệp ngược chiều với cầu lao động trong doanh nghiệp. Nguyên nhân có thể giải thích như sau: một là doanh nghiệp đó đang trong giai doạn cải tổ về mặt kỹ thuật, tăng cường hệ thống dây chuyền tự động, hoặc có thể nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái, thì mặc dù tuổi doanh nghiệp tăng nhưng cầu lao động lại giảm. Tuy nhiên, thông thường trong ngắn hạn, tuổi doanh nghiệp sẽ thuận chiều với cầu lao động trong doanh nghiệp; có nghĩa là tuổi doanh nghiệp lớn thì cầu lao động trong doanh nghiệp cũng cao. 1.3.8. Yếu tố vùng miền Phân vùng lãnh thổ về mặt tự nhiên thông thường dựa vào điều kiện tự nhiên là chính như đặc điểm về địa hình (độ cao), đặc điểm khí hậu…; có thể phân ra: miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển và hải đảo. Trong nền kinh tế sản xuất nông nghiệp, phân vùng phát triển có thể trùng với phân vùng lãnh thổ về mặt tự nhiên. Phân vùng để quản lý hành chính, thực hiện các chế độ, chính sách xã hội cũng có thể trùng với phân vùng về mặt tự nhiên. Tuy nhiên, việc phân vùng nêu trên chỉ mang tính tương đối để tập trung chỉ đạo phát triển. Và việc phân vùng về mặt kinh tế không thay thế phân vùng về mặt tự nhiên, phân vùng hành chính. Trong thực tiễn, cần nghiên cứu làm rõ những đặc điểm của từng loại phân vùng để có thể sử dụng một cách tổng hợp, tạo thuận lợi trong quá trình chỉ đạo, lãnh đạo, áp dụng vào hoạt động thực tiễn của các cấp, các ngành, địa phương. Vùng kinh tế hình thành trên cơ sở tác động tổng hợp của nhiều yếu tố. Nói một cách khác, để phân chia các vùng kinh tế cần có các căn cứ, đó là các yếu tố tạo vùng kinh tế: Phân công lao động xã hội theo lãnh thổ: Phân công lao động theo lãnh thổ vừa là cơ sở, vừa là động lực của sự hình thành vùng kinh tế. Phân công lao động theo lãnh thổ được biểu hiện bằng sự tập trung các loại sản xuất riêng biệt trên một lãnh thổ nhất định, bằng sự chuyên môn hoá sản xuất của dân cư dựa vào những điều kiện và đặc điểm phát triển sản xuất đặc thù, đó là một vùng kinh tế. Các vùng kinh tế thông qua các mối liên hệ kinh tế, liên kết với nhau trong 1 hệ thống phân công lao động theo lãnh thổ thống nhất. Sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ là yếu tố tạo vùng cơ bản nhất. Yếu tố tự nhiên:Ảnh hưởng trực tiếp, thường xuyên, vĩnh viễn tới quá trình phát triển và phân bố sản xuất và do đó ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành vùng kinh tế. Bao gồm các yếu tố sau: Đất đai, khí hậu, khoáng sản, các nguồn tài nguyên khác Yếu tố cơ sở hạ tầng; Bao gồm: Trung tâm công nghiệp, thành phố lớn, các cơ sở sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp quan trọng, cơ sở giao thông vận tải Vùng kinh tế trước hết phải là một vùng sản xuất chuyên môn hoá. Sự chuyên môn hoá nói lên chức năng sản xuất cơ bản và quyết định phương hướng sản xuất chủ yếu của vùng trong một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định. Mặt khác, sự chuyên môn hoá của vùng kinh tế nói lên vai trò và vị trí của vùng trong nền kinh tế phải gánh vác đối với cả nước hay đối với nhiều vùng khác trong một thời gian tương đối dài. Chuyên môn hoá sản xuất vùng kinh tế là dựa vào những ưu thế của vùng để phát triển một số ngành có ý nghĩa đối với cả nước, hoặc có ý nghĩa đối với thị trường thế giới. Những ưu thế của vùng là những điều kiện đặc thù về tự nhiên, kinh tế, dân cư, lịch sử, xã hội, văn hoá, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Khối lượng và chất lượng sản phẩm hàng hoá xuất ra ngoài vùng là chỉ tiêu chuyên môn hóa quan trọng nhất của vùng về một ngành sản xuất nào đó. Câu hỏi đặt ra cho nhà phân tích là, các khu vực vùng miền khác nhau sẽ có cầu lao động khác nhau như thế nào, tại sao lại có sự khác nhau như vây? CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CẦU LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM Khái quát thực trạng nền kinh tế Việt Nam Việt Nam là nền kinh tế lớn thứ 60 trong các nền kinh tế thành viên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế xét theo quy mô tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa năm 2009 và đứng thứ 133 xét theo tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa bình quân đầu người. Đây là nền kinh tế hỗn hợp, phụ thuộc cao vào xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng ở Việt Nam một hệ thống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam là quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Nhóm Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, ASEAN. Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do đa phương với các nước ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc. Các đặc trưng của kinh tế Việt Nam hiện nay: * Kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hỗn hợp, vận hành theo cơ chế thị trường, theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa và nhiều nước và khối kinh tế bao gồm cả một số nền kinh tế thị trường tiên tiến cũng công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Việt Nam có nhiều thành phần kinh tế. Theo cách xác định hiện nay của chính phủ, Việt Nam có các thành phần kinh tế sau: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Theo số liệu sơ bộ của Tổng cục Thống kê, năm 2007, khu vực kinh tế nhà nước là khu vực lớn nhất, chiếm 36,43 % GDP thực tế của Việt Nam, tiếp theo lần lượt là kinh tế cá thể (29,61 %), kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (17,66 %), kinh tế tư nhân (10,11 %). * Cơ cấu kinh tế Kinh tế Việt Nam được chia thành 3 khu vực (hay còn gọi 3 ngành lớn) kinh tế, đó là: nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; công nghiệp (bao gồm công nghiệp khai thác mỏ và khoáng sản, công nghiệp chế biến, xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất và phân phối khí, điện, nước); thương mại, dịch vụ, tài chính, du lịch, văn hóa, giáo dục, y tế.Tính cho tới năm 2007, khu vực thứ nhất chiếm 20,29 % GDP thực tế, khu vực thứ hai chiếm 41,58 % (trong đó công nghiệp chế biến chiếm 21,38 %). Ngành tài chính tín dụng chỉ chiếm 1,81 % GDP thực tế. * Về địa lý kinh tế: lãnh thổ Việt Nam được chia thành 7 vùng địa lý-kinh tế, đó là: Tây Bắc Bộ, Đông Bắc Bộ, đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, đồng bằng song Cửu Long. Ngoài ra, cũng còn nhiều cách phân vùng kinh tế khác được áp dụng. Ở 3 miền của đất nước có 4 vùng kinh tế trọng điểm làm đầu tàu cho phát triển kinh tế của cả nước và vùng miền. Ở ven biển, có 13 khu kinh tế với những ưu đãi riêng để thu hút đầu tư trong và ngoài nước và làm động lực cho phát triển kinh tế của các vùng. Ngoài ra, dọc biên giới với Trung Quốc, Lào, Campuchia có một loạt các khu kinh tế cửa khẩu, trong đó có 9 khu kinh tế cửa khẩu được ưu tiên phát triển (Móng Cái, Lạng Sơn-Đồng Đăng, Lào Cai, Cầu Treo, Lao Bảo, Bờ Y, Mộc Bài, An Giang, Đồng Tháp). * Kinh tế vĩ mô - tài chính: Năm 2008, Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế tính theo đơn vị tiền tệ quốc gia của Việt Nam năm này là 6,18%. Những lo ngại về lạm phát tăng tốc nhanh trong năm 2007 và nửa đầu năm 2008 đã khiến Chính phủ quyết định thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ và tài chính cũng như tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu đã khiến kinh tế tăng trưởng chậm hơn dự kiến (dự kiến là 7%). Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước tuy thấp hơn 8,48% so với năm 2007, nhưng trong bối cảnh khửng hoảng kinh tế toàn cầu mà nền kinh tế Việt Nam vẫn đạt tốc độ tương đối cao như trên là một cố gắng rất lớn * Kinh tế đối ngoại - hội nhập kinh tế: Năm 2008, Việt Nam xuất khẩu được khoảng 64.8 tỷ dollar Mỹ, trong đó khoảng 32,1% giá trị xuất khẩu là hàng công nghiệp nặng và khoáng sản, 45.2% là hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, 23,5% là hàng nông, lâm, thủy sản. Trong khi đó cùng năm, giá trị nhập khẩu ước đạt 60,8 tỷ dollả, trong đó ước khoảng 30,2% giá trị nhập khẩu là máy móc, thiết bị, dụng cụ các loại, 63,7% là nguyên, vật liệu, chỉ có 6,1% là hàng tiêu dùng. Đầu tư trực ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25905.doc
Tài liệu liên quan