Sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước để cho vay giải quyết việc làm trong nông nghiệp

Mở đầu 1- Tính cấp thiết của đề tài: Trong những năm gần đây, cùng với việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Đảng và Nhà nước đã luôn coi trọng vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Tuy nhiên do sự phát triển nhanh chóng của dân số, hàng năm có trên một triệu người đến độ tuổi lao động cần việc làm, đồng thời một số không nhỏ lao động dôi thừa do sắp xếp lại tổ chức sản xuất và bộ máy trong khu vực Nhà nước, bộ đội xuất ngũ, học sinh tốt nghiệp các trường chuyên nghiệp và dạy ngh

doc131 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1369 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước để cho vay giải quyết việc làm trong nông nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ề, lao động đi làm ở nước ngoài trở về đang có nhu cầu bố trí việc làm, dẫn đến sức ép về việc làm ngày càng tăng và bức bách hơn. Xuất phát từ tầm quan trọng và tính bức xúc của vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách chế độ mà khởi đầu là Nghị quyết số120/HĐBT ngày 11 tháng 4 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng “ Về chủ trương, phương hướng và biện pháp giải quyết việc làm trong các năm tới” và gần đây Đại hội Đảng toàn quốc Lần thứ IX đã chỉ rõ chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001- 2010 trong đó có nhấn mạnh: Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh hoá xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân. Đến năm 2010, nước ta có 56,8 triệu người ở độ tuổi lao động, tăng gần 11 triệu người so với năm 2000. Để tạo việc làm cho người lao động, phải tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển rộng rãi các cơ sở sản xuất, kinh doanh, tạo nhiều việc làm và phát triển thị trường lao động [14, tr.210-211]. Trên cơ sở các chủ trương, biện pháp, các bộ, ngành chức năng đã thể chế hoá, triển khai chính sách việc làm bằng nhiều giải pháp đồng bộ trong đó có cho vay vốn giải quyết việc làm, tạo ra hành lang pháp lý để người quản lý vốn vay và người đi vay cùng thực hiện. Cho vay GQVL trong những năm qua đã thu được một số thành tựu quan trọng, tạo thế mạnh về khai thác tiềm năng lao động đất đai, tài nguyên rừng và biển... Song cơ chế cho vay GQVL còn bộc lộ nhiều hạn chế về phạm vi và đối tượng cho vay, quy trình thẩm định, thủ tục cho vay, thu hồi và xử lý vốn vay quá hạn, xử lý rủi ro ... Xuất phát từ những thực tế nói trên, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài nghiên cứu: “Sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước để cho vay giải quyết việc làm trong nông nghiệp” nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cho vay GQVL, góp phần đổi mới và phát triển nông nghiệp nông thôn. 2- Mục đích nghiên cứu của đề tài : - Nghiên cứu cơ sở lý luận cho vay GQVL, khẳng định sự cần thiết sử dụng vốn NSNN để cho vay GQVL ở các nước đang phát triển nói chung và ở Việt Nam nói riêng. - Đánh giá một cách tổng quát thực trạng cho vay GQVL tại Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, rút ra nguyên nhân, từ đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cho vay GQVL trong thời gian tới. 3- Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu : - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Cho vay GQVL từ nguồn vốn NSNN trong nông nghiệp. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng hoạt động cho vay GQVL qua kho bạc nhà nước giai đoạn 1992 - 2000 và qua ngân hàng phục vụ người nghèo giai đoạn 1996 - 2000; qua đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cho vay GQVL. - Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Kết hợp giữa phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các phương pháp tổng hợp phân tích, diễn giải, quy nạp... 4- ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài: - Về mặt lý luận: Luận án khái quát hoá, hệ thống hoá và góp phần bổ sung, hoàn thiện một số vấn đề lý luận về cho vay tài trợ nói chung cũng như cho vay GQVL nói riêng. Phân tích một số mô hình giải quyết việc làm và kinh nghiệm cho vay tài trợ nhằm giải quyết việc làm ở một số nước phát triển và đang phát triển. Qua đó rút ra bài học cho Việt Nam trong cho vay GQVL. - Về mặt thực tiễn: Luận án phân tích, đánh giá thực trạng cho vay GQVL trong nông nghiệp. Tổng kết những kết quả cũng như những tồn tại, đi sâu phân tích nguyên nhân của những tồn tại cả về cơ chế chính sách lẫn tổ chức thực hiện, cả về phía Nhà nước và người vay. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận đánh giá thực tiễn và tổng kết kinh nghiệm nước ngoài, luận án đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cho vay GQVL trong nông nghiệp. Kết cấu luận án: Ngoài phần mở đầu, kết luận, 15 bảng biểu sơ đồ, đồ thị và danh mục 48 tài liệu tham khảo, nội dung luận án được thể hiện trong 160 trang đánh máy phân thành 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về cho vay giải quyết việc làm. Chương 2: Thực trạng cho vay giải quyết việc làm trong nông nghiệp từ nguồn vốn ngân sách nhà nước. Chương 3: giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cho vay giải quyết việc làm trong nông nghiệp. Chương 2 Thực trạng cho vay Giải quyết việc làm trong nông nghiệp từ nguồn vốn Ngân sách Nhà nước 2.1- Cho vay Giải quyết việc làm qua hệ thống Kho bạc nhà nước. 2.1.1- Cơ chế cho vay giải quyết việc làm. Cơ chế cho vay giải quyết việc làm hiện hành theo quy định tại thông tư liên tịch số 06/2002/TT-LT-BLĐTBXH-BTC-BKHĐT, ngày 10 tháng 4 năm 2002 của liên Bộ Lao động Thương binh và Xã hội - Bộ Tài chính - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, một số nội dung cụ thể của thông tư: 2.1.1.1- Đối tượng và điều kiện vay vốn giải quyết việc làm: Đối tượng vay vốn GQVL trong nông nghiệp bao gồm các hộ gia đình, thành viên các tổ chức đoàn thể, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các trang trại nhằm thu hút lao động nông nhàn, lao động chưa có hoặc thiếu việc làm trong xã hội. Quan niệm về đối tượng vay GQVL trong nông nghiệp được hiểu trên cả hai phương diện: Người lao động vay để họ tự tạo việc làm hoặc người kinh doanh vay để phát triển sản xuất kinh doanh thu hút và tạo việc làm lao động. - Điều kiện để vay vốn: Để được vay vốn tài trợ theo các chương trình dự án qua KBNN, các đối tượng vay vốn phải đảm bảo các điều kiện sau đây: Hộ gia đình phải có hộ khẩu thường trú tại địa phương nơi thực hiện dự án, có đơn đề nghị vay vốn gửi chủ dự án, (đối với dự án có nhiều hộ vay), nếu là pháp nhân phải có dự án vay vốn phù hợp với nghành nghề ghi trong giấy phép kinh doanh. Dự án tập thể phải có bảo lãnh bằng tín chấp của chủ tịch UBND xã phường (đối với dự án cấp xã phường), của chủ tịch UBND huyện, quận (đối với dự án cấp huyện, quận), hoặc của người đứng đầu tổ chức đoàn thể, hội quần chúng quản lý. Cơ sở sản xuất - kinh doanh phải có TSTC khi vay vốn. Thế chấp, cầm cố, bảo lãnh bằng tài sản nhằm thực hiện các “giao dịch bảo đảm”. “Giao dịch bảo đảm” là hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản, bảo lãnh bằng tài sản theo đó bên bảo đảm cam kết với bên nhận bảo đảm về việc dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Định giá TSTC là việc đánh giá, kiểm định về số lượng, chất lượng và giá trị TSTC. Do TSTC bao gồm nhiều loại nên việc định giá phải căn cứ vào tính chất, đặc điểm của từng loại TSTC để xác định giá trị tài sản đem ra thế chấp. Trước năm 1999, việc định giá TSTC do KBNN cùng người vay thống nhất xác định nên chưa có tính khách quan và những căn cứ chuẩn làm cơ sở cho việc định giá. Hiện nay việc định giá TSTC do cơ quan KBNN và cơ quan tài chính đồng cấp phối hợp vơí người vay thực hiện.Trong quan hệ vay vốn giữa KBNN và người vay, giá trị TSTC được định giá là một trong những căn cứ để xác định mức vay đối với từng đối tượng vay cụ thể: Đối với mọi TSTC cầm cố, mức vay tối đa bằng 70% giá trị TSTC cầm cố đã được xác định. Riêng tài sản cầm cố là các giấy tờ có giá như: Công trái, trái phiếu, kỳ phiếu, sổ tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi... thì số tiền cho vay tối đa bằng 80% giá trị tài sản. 2.1.1.2-Thẩm định và xét duyệt dự án: Trong quản lý vốn vay GQVL có thể phân định thành ba giai đoạn: trước, trong và sau khi cho vay. Thẩm định dự án được xem như một yêu cầu không thể thiếu được và là cơ sở để ra quyết định duyệt vay. Đây là những công việc được tiến hành trong giai đoạn trước khi cho vay. Thực chất của việc thẩm định dự án là phân tích, đánh giá tính khả thi của dự án trên tất cả các phương diện kinh tế, xã hội, kỹ thuật trên cơ sở các nguyên tắc, các quy định của cơ quan quản lý nhà nước về cho vay GQVL. Thẩm định dự án nhằm làm sáng tỏ và phân tích một loạt vấn đề có liên quan tới tính khả thi quá trình thực hiện dự án: Địa điểm thực hiện dự án, tư cách pháp nhân của chủ dự án, vốn tự có và nhu cầu tăng thêm, hiệu quả kinh tế, khả năng thu hút lao động của dự án... Thẩm định dự án cho vay GQVL là trách nhiệm của các cơ quan quản lý vốn vay mà trực tiếp là cơ quan LĐTB & XH, KBNN và các hội đoàn thể. Do tính đa dạng của các dự án nên việc thẩm định dự án là vấn đề phức tạp và động chạm đến nhiều khía cạnh kinh tế, kỹ thuật, xã hội, đòi hỏi người làm công tác thẩm định phải nắm vững chuyên môn, am hiểu nhiều lĩnh vực ngành nghề, có kinh nghiệm và bản lĩnh. Giai đoạn thẩm định dự án đưa đến kết quả là chấp thuận hay bác bỏ dự án. Nói chung thẩm định dự án nhằm tránh thực hiện các dự án đầu tư không có hiệu quả, mặt khác cũng không bỏ mất các dự án đầu tư có lợi. Trong quá trình thẩm định dự án, do có nhiều cơ quan tham gia thực hiện nên phải có sự phân định trách nhiệm giữa các cơ quan này. - Các cơ quan tham gia thẩm định dự án: Hiện nay, các dự án được duyệt vay do UBND tỉnh hoặc cơ quan Trung ương của hội đoàn thể quyết định. Các dự án mà chủ dự án lập và gửi về Ban chỉ đạo cho vay GQVL huyện, thành phố thẩm định do UBND tỉnh ra quyết định duyệt vay. Các dự án lập và gửi về hội đoàn thể cấp tỉnh thẩm định do Trung ương hội đoàn thể ra quyết định duyệt vay. Thực ra việc phân định cơ quan ra quyết định duyệt vay nhằm tạo điều kiện cho các hội đoàn thể nâng cao vị trí, vai trò, thúc đẩy hoạt động của hội đoàn thể phát triển (các hội đoàn thể Trung ương ra quyết định duyệt vay nếu được Nhà nước cho phép lập một đầu mối riêng để vay vốn GQVL). * Mối quan hệ giữa lập và thẩm định dự án vay: Lập và thẩm định dự án là hai quá trình vừa có sự khác biệt, vừa có sự thống nhất và có liên quan chặt chẽ với nhau trong giai đoạn trước khi cho vay. - Sự thống nhất giữa lập và thẩm định dự án: + Về nội dung; cả lập và thẩm định dự án đều phải tuân thủ các quy định của Nhà nước. Lập dự án xây dựng chỉ tiêu, thẩm định dự án xét cho cùng là phân tích, đánh giá các chỉ tiêu đó, đối chiếu với thực tế sản xuất kinh doanh của hộ vay. + Về phương pháp; các bước lấy số liệu trong dự án của chủ dự án phải có căn cứ và cơ quan thẩm định cũng đánh giá, xem xét trên cơ sở các tài liệu do chủ dự án xuất trình. Lập và thẩm định dự án là hai quá trình có liên quan chặt chẽ với nhau. Nếu khâu lập dự án làm tốt thì thẩm định sẽ kịp thời, nhanh chóng và nếu khâu thẩm định dự án làm tốt sẽ chấn chỉnh việc lập dự án, đảm bảo các dự án được phê duyệt mang tính hiệu quả và thuyết phục. - Sự khác nhau giữa lập và thẩm định dự án vay: + Khác nhau về thời gian tiến hành và chủ thể: Lập dự án tiến hành trước và chủ thể lập dự án là các đối tượng vay hoặc người được hội đoàn thể, hội quần chúng chỉ định. Thẩm định dự án tiến hành sau và chủ thể thẩm định là các cơ quan trong Ban chỉ đạo cho vay GQVL các cấp. + Khác nhau về nhiệm vụ: Chủ dự án chịu trách nhiệm về lập dự án, mục tiêu và hiệu quả của dự án, cơ quan thẩm định dự án chịu trách nhiệm kiểm tra dự án về xác định các chỉ tiêu trong dự án, đánh giá, phân tích rút ra kết luận chấp thuận hay loại bỏ dự án. + Khác nhau về quan điểm và tiêu chuẩn xem xét: Thông thường chủ dự án quan tâm đến nhu cầu vay và quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả kinh tế, trong khi cơ quan thẩm định quan tâm nhiều hơn đến việc xác định mức vay thực tế và hiệu quả xã hội. Sở dĩ giữa lập và thẩm định dự án có sự khác nhau như vậy là do có sự khác biệt về mối quan tâm và lợi ích do người đầu tư và người thẩm định đại diện. 2.1.1.3- Mức vay, thời hạn và lãi suất cho vay: - Mức vay và thời hạn vay: + Mức vốn vay là mức vốn tối đa mà một người vay có thể được vay vốn để GQVL. Mức vốn vay do Nhà nước quy định đối với từng thời kỳ. Trong quản lý, vấn đề cần được quan tâm của cả người cho vay và đi vay là số tiền duyệt cho vay. Số tiền duyệt cho vay của một người vay cụ thể là số tiền vay được cấp có thẩm quyền phê duyệt sau khi đã thẩm định, kiểm tra thực tế. +Thời hạn cho vay GQVL được quy định gồm có 3 loại: 12, 24 và 36 tháng, nhìn chung dài hơn so với thời hạn cho vay của tín dụng ngân hàng cho cùng một đối tượng, nhằm tạo điều kiện cho những người vay có thêm thuận lợi trong quá trình sử dụng vốn vay và bố trí nguồn trả nợ. Hiện nay thời hạn vay được xác định căn cứ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành nghề hoặc chu kỳ sinh trưởng của từng loại cây con, phù hợp với từng dự án vay vốn. - Lãi suất cho vay: Lãi suất cho vay GQVL được áp dụng thống nhất theo quy định của trung ương. Trong thời kỳ 1993 -1995, lãi suất cho vay 0,5% tháng, thấp hơn nhiều so với lãi suất cùng loại của NHTM trên địa bàn (chênh lệch 0,8% tháng). Lãi suất cho vay thấp đã thực sự thu hút sự chú ý, sự hấp dẫn của nhiều đối tượng có nhu cầu vay vốn, thể hiện tính ưu đãi của loại hình tín dụng này. Trong thời kỳ 1996 - 1997, Nhà nước đã điều chỉnh lãi suất cho vay lên 0,9% tháng, bằng 75% lãi suất NHTM, lãi suất quá hạn tương đương lãi suất quá hạn của NHTM. Từ năm 1997 đến nay, mức lãi suất ổn định 0,5% tháng, lãi suất phạt quá hạn 200%, mức chênh lệch với lãi suất NHTM khoảng 0,5% tháng, đã thể hiện tính ưu đãi, đồng thời với việc nâng lãi suất nợ quá hạn từ 150% lên 200% so với lãi suất nợ trong hạn đã hạn chế phần nào tính chây ì trong trả nợ tiền vay. Diễn biến thay đổi lãi suất tín dụng GQVL so với lãi suất Ngân hàng thương mại thể hiện ở bảng 2.1: Bảng 2.1: Lãi suất cho vay GQVL, cho vay ngân hàng thương mại (lãi suất tính theo tháng) Chỉ tiêu 93- 95 1996 1997 1998 1999 2000 1- Lãi suất vay GQVL 0,5% 0,9% 0,6% 0,6% 0,6% 0,5% *Lãi suất quá hạn 0,75% 1,8% 1,2% 1,2% 1,2% 1,05% 2 - Lãi suất vay NHTM 1,3% 1,2% 1,2% 1,1% 1,1% 1,0% 3- Chênh lệch (1 - 2) - 0,8% - 0,3% - 0,6% - 0,5% - 0,5% - 0,5% Nguồn: Ngân hàng thương mại, KBNN. Việc tính và thu lãi tiền vay được thực hiện cùng với thu nợ gốc, tiền lãi không nhập vào vốn gốc cho vay. Nếu số tiền bên vay hoàn trả chưa đủ thanh toán một lần cho khoản nợ vay, thì KBNN thực hiện thu hồi cả tiền gốc và lãi tương ứng với số tiền bên vay mang trả. Lãi vay chỉ bù đắp chi phí rủi ro và các chi phí quản lý cho vay, bổ sung nguồn vốn vay. Lãi suất cho vay GQVL có những đặc điểm: . Lãi suất các khoản cho vay trong hạn nhỏ hơn lãi suất các khoản cho vay quá hạn. . Lãi suất cho vay GQVL thấp hơn lãi suất ngân hàng thương mại. Mức cụ thể từng thời kỳ do Bộ Tài chính quy định sau khi thống nhất với Bộ LĐTB & XH, Bộ Kế hoạch và đầu tư. . Ngoài mức lãi suất cho vay theo quy định, đối tượng vay không phải trả bất cứ một khoản phí nào khác. . Có quy định lãi suất thấp đối với các đối tượng đặc biệt khó khăn (Thương binh, người tàn tật...). Có thể rút ra một số nhận xét về diễn biến lãi suất cho vay GQVL: . Các quy định về lãi suất vay phù hợp với cách tính lợi tức và đúng nguyên tắc đặc điểm của lãi suất vay. . Chiều hướng biến động của lãi suất cho vay có xu hướng giảm dần. Điều này là dễ hiểu bởi xuất phát từ nguyên tắc xác định lãi vay từ nguồn vốn vay GQVL nhỏ hơn lãi suất vay của các ngân hàng thương mại. Trong điều kiện của các nước đang phát triển như hiện nay, muốn tăng trưởng và phát triển, giải phóng năng lực sản xuất xã hội, phải tìm các biện pháp kích cầu, một trong những biện pháp đó là hạ lãi suất cho vay nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cá nhân trong xã hội mở rộng sản xuất, tạo ra thêm nhiều sản phẩm cho xã hội, góp phần giải quyết công ăn việc làm. . Lãi suất cho vay các kỳ hạn khác nhau quy về cùng một lãi suất. Bởi vì vấn đề thời hạn trong cho vay GQVL là hết sức tương đối. Một dự án có thể được xem xét duyệt thêm cùng kỳ hạn vay tuỳ theo chu kỳ sống của vốn vay. . Lãi suất vay các xí nghiệp sản xuất của thương bệnh binh, người tàn tật (kể cả hội người mù) thấp hơn lãi suất chung về cho vay GQVL. Cơ sở sản xuất kinh doanh của thương bệnh binh và người tàn tật là tổ chức kinh tế được Nhà nước bảo hộ và khuyến khích phát triển, do đó cần được quan tâm giúp đỡ của các bộ, ngành, các cấp chính quyền, cơ quan đoàn thể, các đơn vị kinh tế, các tổ chức quần chúng tạo thuận lợi để các cơ sở tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường, trong đó có việc ưu đãi lãi suất cho vay GQVL. 2.1.1.4- Cách thức quản lý và điều hành công tác cho vay GQVL: - Kênh quản lý vốn vay. Vốn vay GQVL được quản lý tập trung thống nhất từ Trung ương tới các địa phương. Thuật ngữ “kênh” quản lý vốn chỉ rõ cơ quan đầu mối trực tiếp quản lý, điều hành vốn vay GQVL, ra quyết định cho vay. Hiện nay kênh quản lý vốn vay gồm: Kênh UBND tỉnh và các kênh Trung ương các hội đoàn thể, tổ chức quần chúng. Các dự án vay vốn do UBND tỉnh ra quyết định cho vay thuộc kênh UBND tỉnh quản lý. Các dự án vay vốn do cơ quan Trung ương hội đoàn thể quần chúng ra quyết định cho vay thuộc các kênh Trung ương đoàn thể quần chúng quản lý. Tuỳ theo điều kiện thực tế mà dự án có thể gửi theo các kênh để đề nghị ra quyết định cho vay. Việc phân kênh quản lý vốn vay có tính tích cực là tăng cường tính chủ động, tích cực của các cơ quan đầu mối được giao nhiệm vụ cho vay GQVL, nhưng nhược điểm là khó khăn cho việc quản lý tập trung, thống nhất các dự án trên địa bàn tỉnh, huyện. - Phương thức quản lý cho vay GQVL. Quỹ Quốc gia HTVL được tập trung thống nhất ở Trung ương, do ban chỉ đạo Quỹ Quốc gia HTVL trực tiếp điều hành. Ban này bao gồm đại diện của các Bộ LĐTB & XH, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư do lãnh đạo Bộ LĐTB & XH làm trưởng ban. Ban chỉ đạo chương trình cho vay từ Quỹ Quốc gia HTVL Trung ương có trách nhiệm tham mưu cho lãnh đạo các bộ, ngành, Chính phủ các vấn đề chính sau đây. Thứ nhất: Nghiên cứu ban hành các văn bản trong phạm vi quyền hạn hoặc trình Chính phủ ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện cơ chế cho vay GQVL theo đúng đường lối, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Thứ hai: Hàng năm xây dựng kế hoạch vốn cho vay GQVL để Chính phủ trình quốc hội thông qua phần vốn mới tăng thêm trong kế hoạch chi ngân sách nhà nước, đồng thời phân bổ dự toán ngân sách cấp mới vốn vay GQVL cho các bộ ngành, các địa phương triển khai dự án vay vốn. Thứ ba: Tiếp tục chỉ đạo các ngành, các địa phương triển khai thực hiện việc xây dựng thẩm định, phê duyệt dự án, cho vay đúng chế độ. Tổ chức đánh giá, tổng kết, tập huấn chương trình cho vay GQVL. Thứ tư: Thiết lập hệ thống thông tin thường xuyên với KBNN, bảo đảm kiểm soát việc thực hiện công tác cho vay vốn của hệ thống KBNN. Thứ năm: Xử lý các trường hợp rủi ro, các kiến nghị do các tỉnh gửi về, kiểm tra tình hình quản lý vốn vay tại các địa phương. Tại các địa phương cũng thành lập các Ban chỉ đạo cho vay GQVL. Ban này gồm các thành viên là đại diện các cơ sở, ngành thuộc các bộ trong Ban chỉ đạo cho vay GQVL ở Trung ương do đồng chí chủ tịch hoặc phó chủ tịch UBND tỉnh làm trưởng ban và có các nhiệm vụ chủ yếu sau: Thứ nhất : Hướng dẫn các đối tượng tại địa phương xây dựng dự án vay vốn theo qui định của ban chỉ đạo chương trình dự án, tuyên truyền, phổ biến chính sách cho vay GQVL. Thứ hai: Tổ chức thẩm định các dự án vay vốn đảm bảo đúng đối tượng, đúng mục đích và có hiệu quả trình UBND tỉnh ra quyết định cho vay. Tham mưu cho UBND tỉnh quản lý chương trình vay vốn phù hợp với lợi thế, đặc thù của địa phương. Thứ ba: Chỉ đạo KBNN thực hiện cho vay kịp thời, đúng chế độ, giám sát việc thực hiện cho vay cũng như sử dụng vốn vay, xử lý các trường hợp do KBNN kiến nghị. Thứ tư: Định kỳ tổ chức, đánh giá kết quả thực hiện chương trình, báo cáo với UBND tỉnh và Ban chỉ đạo cho vay GQVL ở Trung ương. Ngoài các Ban chỉ đạo cho vay GQVL ở Trung ương và địa phương, các bộ ngành, cơ quan hội đoàn thể được giao nhiệm vụ là đầu mối quản lý vốn vay cũng thành lập các ban, phòng theo dõi và thực hiện chương trình vay vốn GQVL ở ngành, cơ quan hội đoàn thể quần chúng. 2.1.2 - Kết quả cho vay giải quyết việc làm từ nguồn vốn ngân sách nhà nước: 2.1.2.1- Về cơ chế chính sách: Ngay từ khi bắt đầu triển khai cho vay, Chính phủ, các cơ quan bộ, ngành đã ban hành hệ thống văn bản tạo hành lang pháp lý để công tác cho vay GQVL thực hiện kịp thời và có hiệu quả. Đồng thời qua quá trình thực tiễn cho vay cũng như căn cứ vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Nhà nước cũng đã bổ xung nhiều chính sách, chế độ để công tác cho vay ngày càng chặt chẽ nhưng lại dễ làm, dễ kiểm tra. Trong các văn bản quản lý vốn vay, cũng chỉ ra các biện pháp chung cho quản lý cho vay, thu nợ, xử lý các dự án nợ quá hạn. Nội dung mới và quan trọng nhất của các văn bản này là xác định rõ đối tượng vay vốn, quy định cụ thể quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của từng cơ quan tham gia quản lý chương trình. Điểm nổi bật dễ đi vào cuộc sống thực tế được thể hiện qua khâu thẩm định dự án mà trước đây có tới bốn cơ quan cùng thực hiện (cơ quan LĐTB & XH - Tài chính - Kế hoạch và đầu tư - KBNN) đã dẫn đến nhiều bất cập như thời gian thẩm định kéo dài, làm chậm tiến độ thực hiện của chương trình. Đến nay công việc thẩm định dự án được giao cho hai cơ quan LĐTB & XH, KBNN phối hợp thực hiện, vì vậy việc triển khai dự án tại các địa phương được đẩy nhanh và khẩn trương hơn. Một điểm thay đổi căn bản là trước kia cơ quan phê duyệt và ra quyết định cho vay là Bộ LĐTB & XH thì nay được giao cho UBND tỉnh, cơ quan đoàn thể ở Trung ương, từ đó các dự án triển khai nhanh, sát và phù hợp với thực tế hơn. Bên cạnh đó các thủ tục cho vay được nghiên cứu bổ xung phù hợp với quy định hiện hành của pháp luật, thuận lợi cho người vay như: - Quy định rõ về đối tượng vay gồm hai loại: Dự án hộ gia đình, thành viên tổ chức đoàn thể và dự án cơ sở sản xuất có đăng ký kinh doanh. - Thẩm quyền bảo lãnh tín chấp: Trước dây các dự án của Hội đoàn thể chỉ cơ quan Hội đoàn thể cấp tỉnh trở lên đứng ra bảo lãnh, nay được phân cấp rộng hơn, cụ thể là do hội đoàn thể cấp huyện trở lên được quyền bảo lãnh cho các hộ vay. - Mức vay bình quân trên một hộ từ 5 triệu đồng được nâng lên 10 triệu đồng. Mức vay của 1 dự án cơ sở kinh doanh từ 200 triệu đồng lên 300 triệu đồng. - TSTC được quy định chặt chẽ hơn, loại tài sản đem thế chấp phù hợp với các quy định của luật dân sự. - Gia hạn nợ : Trước năm 1999 KBNN không được quyền gia hạn nợ, từ 1999 đến nay KBNN được gia hạn nợ đối với những dự án khó khăn như sản xuất chưa đến kỳ thu hoạch, sản phẩm chưa tiêu thụ được, chưa được thanh toán tiền bán sản phẩm. Phụ lục biểu số 01 làm rõ hơn vấn đề bổ sung hoàn thiện cơ chế cho vay. 2.1.2.2 - Về thực hiện cho vay thu nợ: Kết quả cho vay thu nợ được thể hiện trên một số mặt chủ yếu sau: Thứ nhất: Bộ máy quản lý điều hành và phối hợp trong việc cho vay, thu nợ được thiết lập từ Trung ương tới địa phương. Hoạt động của ban điều hành, Ban chỉ đạo cho vay GQVL đã có sự phối hợp tốt từ trung ương đến địa phương. Căn cứ vào quy định của Liên bộ LĐTB & XH - Tài chính - Uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Trung ương đã thành lập ban chỉ đạo cho vay GQVL, các địa phương (tỉnh, huyện) tuỳ theo điều kiện thực tế có thể có thêm các thành phần thuộc các sở, ban, ngành tham gia vào Ban chỉ đạo cho vay GQVL; đã có sự phối hợp thường xuyên giữa các thành viên trong Ban chỉ đạo cho vay GQVL đặc biệt là trong thẩm định và chế độ thông tin báo cáo. Thứ hai, sự tăng trưởng của nguồn vốn vay. Khi nói đến nguồn vốn vay, người ta thường quan tâm đến nguồn vốn kế hoạch và nguồn vốn thu hồi Nguồn vốn kế hoạch gồm vốn kênh UBND tỉnh, kênh Trung ương hội đoàn thể quản lý. Hàng năm Bộ Kế hoạch đầu tư trình Chính phủ phê duyệt dự toán ngân sách cấp mới vốn cho vay GQVL cho từng địa phương và cơ quan trung ương hội đoàn thể. Nguồn vốn kế hoạch được bổ sung hàng năm cho các tỉnh là tương đối ổn định. Nguồn vốn thu hồi là nguồn vốn lớn, quan trọng vì được luỹ kế qua các năm thực hiện. Nguồn vốn thu hồi trong một thời kỳ căn cứ vào số thu nợ thực tế từ các dự án vay đã đến hạn. Theo quy định hiện nay, vốn thu hồi tại địa phương nào được giữ lại cho địa phương đó để tiếp tục cho vay các dự án khác. Việc chuyển nguồn vốn thu hồi đi địa phương khác chỉ tiến hành các trường hợp cụ thể như: Vốn vay tại địa phương không hiệu quả và đặc biệt nguồn vốn tồn đọng lớn, thời hạn dài không giải quyết cho vay. Việc kế hoạch hoá nguồn vốn thu hồi là hết sức quan trọng nhằm luân chuyển vốn, tránh tồn đọng vốn vay. Do thu hồi vốn vay là quá trình diễn ra thường xuyên nên đòi hỏi công tác dự báo tình hình vốn thu hồi phải nhanh chóng, kịp thời theo từng tháng, quý. Tính đến hết tháng 12 năm 2000 tổng nguồn vốn bố trí cho chương trình cho vay GQVL là 1.410 tỷ đồng, bình quân các năm nguồn vốn tăng thêm là 156 tỷ đồng. Nguồn vốn lớn tập trung ở các tỉnh thành phố có số dân cư đông và nhu cầu GQVL là Hà Nội 53,9 tỷ đồng, Thành phố Hồ Chí Minh 89 tỷ đồng, Thanh Hoá 43 tỷ đồng. Nguồn vốn cho vay bình quân tại các tỉnh là 23 tỷ đồng. Hiện tại các KBNN đảm bảo đủ nguồn vốn để giải ngân bất cứ lúc nào nếu người vay có dự án khả thi được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Thứ ba: Tình hình cho vay thu nợ và các dự án vay vốn điển hình. Qua 9 năm từ 1992 đến 2000, KBNN đã phối hợp với các ngành, các cấp thẩm tra xét duyệt trên 84.000 dự án với doanh số cho vay là: 4.393.379 triệu đồng tạo việc làm cho 3.738.646 người lao động. KBNN đã tích cực thu nợ vay khi đến hạn, doanh số thu nợ gốc là: 3.102.660 triệu đồng, lãi là 316.059 triệu đồng. Tình hình cho vay thu nợ qua các năm xem bảng 2.2: Bảng 2.2: Doanh số cho vay, thu nợ và số lao động thu hút qua các năm. Năm Số vốn cho vay (triệu đồng) Số vốn thu nợ (triệu đồng) Số lao động thu hút (người) Gốc Lãi 1992 36167 0 0 20.000 1993 355176 27724 2249 400.545 1994 363.334 195.868 16.970 487.826 1995 497.581 300.933 26.543 834.760 1996 602.937 446.965 43.854 592.733 1997 578.487 502.546 48.800 334.033 1998 585.569 540.456 57.235 404.901 1999 619.497 535.729 61908 314.179 2000 754.631 552.439 58.500 349.669 Tổng số 4.393.379 3.102.660 316.059 3.738.646 Nguồn: Báo cáo KBNN Trung ương 1992 - 2000. Bảng 2.2 cho thấy số vốn cho vay, thu nợ năm sau đều tăng cao hơn năm trước. Đặc biệt năm 2000 doanh số cho vay đạt 754 tỷ đồng (tăng 29% so với năm 1998 và 22% so với năm 1999). Đây là năm doanh số cho vay đạt cao nhất từ năm 1992. Mức vay bình quân trên một lao động (chưa có hoặc thiếu việc làm) trong 8 năm là 1,2 triệu đồng, năm 1999 là 2 triệu đồng, năm 2000 là 2,2 triệu đồng, điều đó cho thấy rằng mức vay bình quân đã tăng lên và phù hợp với việc điều chỉnh hạn mức vay tối đa trên một lao động từ 5 triệu đồng lên 10 triệu đồng kể từ năm 1999. Các dự án vay vốn của các tổ chức hội đoàn thể quần chúng như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Mặt trận tổ quốc, Hội cựu chiến binh... có ý nghĩa rất quan trọng, làm phong phú thêm các hoạt động mang tính chất kinh tế xã hội, góp phần nâng cao vai trò và uy tín của các tổ chức xã hội. Tình hình cho vay các dự án theo kênh vay vốn thể hiện qua phụ lục biểu số 02. Kết quả cho vay GQVL được thể hiện cụ thể qua hoạt động cho vay từ quỹ GQVL địa phương. Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và các văn bản hướng dẫn của liên Bộ LĐTB & XH - Tài chính - Kế hoạch và đầu tư, trong năm 2000 có 9 tỉnh, thành phố đã chi 17,897 tỷ đồng từ ngân sách địa phương để tạo quỹ cho vay GQVL của địa phương. Điển hình là các tỉnh như: Hà Nội 5,85 tỷ đồng, Nghệ An 2,625 tỷ đồng, Hà Tây 2 tỷ đồng, Bình Phước 2 tỷ đồng, Bình Định 2 tỷ đồng... Căn cứ nguồn vốn do các sở Tài chính vật giá chuyển tới và hồ sơ dự án được UBND tỉnh, thành phố phê duyệt, các KBNN đã thực hiện giải ngân được 10,94 tỷ đồng, GQVL cho 3479 lao động. Nhìn chung việc triển khai vốn vay các dự án từ quỹ việc làm địa phương được thực hiện theo đúng các quy định về cho vay GQVL. Số liệu cụ thể (Xem phụ lục biểu số 03). * Các dự án vay vốn điển hình: Tuy chưa thể thống kê đầy đủ hiệu quả sử dụng vốn vay của các dự án, song qua đánh giá của các nhà nghiên cứu, và các tài liệu báo cáo của nhiều ngành cho thấy ý nghĩa quan trọng của vốn vay GQVL: “Đây là nguồn vốn khá quan trọng và hiệu quả, khuyến khích nhân dân phát triển sản xuất mở rộng ngành nghề, tác động tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn...” [10, tr.2]. - Đối với các doanh nghiệp nhờ có vốn vay hỗ trợ của Nhà nước đã mở rộng thêm một số ngành nghề mới như may mặc, xuất khẩu, cơ khí nhỏ, sản xuất thêm một số mặt hàng mới tiêu dùng, sản xuất vật liệu xây dựng... có khả năng thu hút nhiều lao động. Mặt khác chính sách cho vay ưu đãi đã mở ra triển vọng cho nhiều doanh nghiệp tư nhân mở rộng sản xuất, tạo việc làm, thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.Tại tỉnh Tiền Giang: Với số vốn đầu tư lãi suất thấp đã giúp cho người vay mạnh dạn đầu tư sản xuất kinh doanh và tìm cách khai thác những tiềm năng, ngành nghề truyền thống của mỗi địa phương, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động đem lại hiệu quả tạo thêm nhiều sản phẩm đáp ứng yêu cầu của nhân dân. Dự án của công ty trách nhiệm hữu hạn may Tiền Tiến được vay 200 triệu đồng, qua hai vòng quay đã GQVL cho 300 người lao động nữ, tăng thêm 750 nghìn sản phẩm. Dự án phát triển và mở rộng sản xuất hợp tác xã Bình Tây với số vốn vay 189 triệu đồng, đã xây dựng được hệ thống nước lọc, thiết bị trộn thức ăn, hệ thống ấp trứng 12 nghìn gà giống, 65 heo giống để cung cấp trứng gà giống, heo giống cho xã viên hợp tác xã tổ chức chăn nuôi [27]. Nhờ được vay vốn KBNN Nam Định với số tiền 70 triệu đồng, cơ sở chăn nuôi Trung Tín đã trở thành một trong những cơ sở chăn nuôi làm ăn có hiệu quả nhất tỉnh. Cơ sở này chuyên chăn nuôi lợn nái siêu nạc và gà đẻ trứng, hàng tháng xuất chuồng khoảng 5 - 6 tấn lợn hơi ra các thị trường trong nước và sang Hồng Kông. Có khoảng 400 - 500 con gà, mỗi tháng thu được hàng nghìn quả trứng bán ra trong tỉnh và chủ yếu là Hà Nội. Ngoài ra cơ sở còn gây dựng lợn giống để xuất cho các cơ sở chăn nuôi khác với giá từ 4- 5 triệu đồng một con. - Đối với khu vực nông thôn: Nhờ có vốn vay nhiều hộ gia đình đã tính toán làm ăn, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, tăng khả năng sử dụng đất, từ chỗ canh tác một vụ tiến tới canh tác hai vụ và trồng thêm nhiều màu, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện: Các dự án đã triển khai đầu tư phát triển sản xuất chăn nuôi trồng trọt những cây con có giá trị kinh tế cao, phát triển ngành nghề mới, từng bước chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích cực. Hỗ trợ nhân dân cải tạo gần 3 n._.ghìn hecta vườn tạp trồng nhãn, chăn nuôi 200 nghìn gà công nghiệp, tạo ra 300 nghìn sản phẩm tiểu thủ công nghiệp (đan lưới, dệt chiếu, làm hàng sáo, mô hình VAC ) [27]. - Đối với đồng bào dân tộc miền núi, vùng sâu vùng xa: Nhờ có vốn hỗ trợ của Nhà nước đã đánh thức tiềm năng tài nguyên đất rừng, đã tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc sống du canh, du cư chuyển sang định canh, định cư. Một minh chứng rõ rệt là cho vay GQVL ở Kon Tum: Trong những năm từ 1993 - 1998 ở Kon Tum đã có tới 75 xã, phường có vốn GQVL chiếm tỷ lệ 94,9% tổng số xã trong toàn tỉnh. Cũng trong thời gian trên KBNN Kon Tum đã tham gia duyệt 1.243 dự án, đã chính thức thẩm định cho vay 1.222 dự án, chiếm tỷ lệ 98,3%. Doanh số cho vay là 28.642 triệu đồng, thu hút 22.010 lượt người lao động. Bình quân mỗi năm GQVL cho trên 3.668 lao động. Vốn GQVL đầu tư chủ yếu vào các loại cây trồng, vật nuôi có tính chất chiến lược của tỉnh như: Cà phê, cao su và chăn nuôi đại gia súc... đã tạo ra một khối lượng sản phẩm đáng kể, phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu, ổn định đời sống và góp phần xoá đói giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI của tỉnh đã đề ra [39, tr.28]. - Đối với các hội đoàn thể: Vốn vay đã phát huy tác dụng vừa phát triển kinh tế, vừa tăng thêm sự gắn bó của hội viên đoàn thể với tổ chức của mình. Điển hình các dự án như: Dự án vay vốn của hội cựu chiến binh Quận Đống Đa Hà Nội, đây là mô hình hội, đoàn thể đứng ra vay vốn để sản xuất, chủ yếu là làm kinh tế tại gia đình. Hội cựu chiến binh Quận gồm 4.900 hội viên, từ năm 1996 đến nay đã có 2306 lượt người được vay vốn, giải quyết cho 3210 lao động có việc làm. Các hội viên được vay vốn đã phát triển nhiều ngành nghề tại gia đình, tạo việc làm cho con em cũng như những lao động trên địa bàn. Từ đồng vốn này, đã có nhiều cá nhân và tập thể cựu chiến binh tổ chức sản xuất giỏi, tạo ra cuộc sống vật chất đầy đủ hơn cho gia đình và xã hội. Dự án vay vốn của Hội người mù tỉnh Thái bình triển khai tháng 12 năm 1992 với số vốn 100 triệu đồng cho 162 hộ vay, chủ yếu là phát triển kinh tế gia đình, phù hợp với hoàn cảnh lao động của người mù như làm hàng mây tre, thừng chão, võng, dệt chiếu, vó lưới, chăn nuôi, làm dịch vụ ở chợ, thôn xóm. Trung bình mỗi hộ được vay 550.000 đồng, ai cũng cảm thấy thật phấn khởi vì xưa nay người mù phần lớn là đói nghèo vẫn bị mặc cảm, nay được Nhà nước cho vay vốn họ đều quyết tâm tìm cách làm ăn có hiệu quả để trả được nợ. - Đối với việc khôi phục các làng nghề truyền thống, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn: Tại tỉnh Yên Bái, bắt đầu từ năm 1995, KBNN Nghĩa Lộ thực hiện chương trình cho vay GQVL để mở mang ngành nghề mới và từng bước khôi phục một số ngành nghề thủ công truyền thống đã bị mai một qua năm tháng. Qua hơn năm năm thực hiện, KBNN đã thẩm định và cho vay được trên 212 lượt dự án, thu hút gần 2.500 lao động: Đặc biệt là các dự án khôi phục nghề dệt thổ cẩm đã được KBNN quan tâm đầu tư và giải ngân sớm, thông qua các tổ chức đoàn thể như đoàn thanh niên, hội phụ nữ, nhóm hộ. Năm đầu tiên, Hội phụ nữ thị xã Nghĩa Lộ xây dựng ba dự án, mỗi dự án vay 30 triệu đồng, những năm tiếp theo Hội phụ nữ lại xây dựng từ 3 đến 5 dự án để vay tiền KBNN đầu tư vào nghề dệt thổ cẩm truyền thống. Trong quá trình triển khai dự án, chị em phụ nữ đã sử dụng tiền vay đúng mục đích có hiệu quả [13, tr.29]. ở làng Vòng thuộc phường Dịch Vọng quận Cầu Giấy Hà Nội, cách đây khoảng chục năm, cả làng có tới 600 “ lò ” cốm, bây giờ chỉ còn chừng 70 gia đình theo nghề. Rất nhiều nhà bỏ nghề bởi doanh thu thấp, lãi ít, trong khi công sức bỏ ra để làm nên hạt cốm vất vả biết nhường nào. KBNN quận đã mạnh dạn cho 39 hộ của làng vay số tiền 100 triệu đồng để thực hiện dự án phát triển nghề làm cốm truyền thống, với niềm tin duy trì được nghề quý giá này. Kết quả thật đáng trân trọng: với số vốn vay bình quân mỗi hộ tuy còn nhỏ: 2,5 triệu đồng/hộ, nhưng đồng vốn ấy đã được sử dụng đúng mục đích và phát huy hiệu quả, tạo việc làm cho nhiều lao động nhàn rỗi [25, tr.57]. Qua 9 năm thực hiện, có thể khái quát đánh giá kết quả cho vay GQVL trên các mặt chủ yếu sau: - Cho vay GQVL là một biện pháp tài chính quan trọng. Vốn vay ưu đãi với lãi suất thấp là bước đột phá tạo điều kiện thu hút được một lượng đáng kể vốn tự có cũng như vốn huy động từ các nguồn khác trong dân cư. Từ việc đầu tư vốn đã khai thác được tiềm năng về vốn, tài sản, lao động, kinh nghiệm sản xuất, tạo ra sản phẩm cho xã hội. Hiệu quả GQVL cũng được nhân lên vượt ra ngoài phạm vi dự án vay vốn. - Việc định hướng đầu tư cho vay có tác dụng góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đối với khu vực nông thôn đã chuyển từ cơ cấu kinh tế thuần nông sang cơ cấu nông - công nghiệp và dịch vụ. Trong nông nghiệp, đã từng bước chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng phát triển các loại cây con có giá trị kinh tế cao phục vụ xuất khẩu. Về tiểu thủ công nghiệp, đã khôi phục và phát triển các ngành nghề, các làng nghề truyền thống như sản xuất mây tre đan, đồ gỗ mỹ nghệ, sản xuất gốm sứ và các ngành như dịch vụ sửa chữa cơ khí nhỏ, may mặc, sản xuất vật liệu xây dựng... - Thông qua việc vay vốn GQVL phát triển sản xuất, người lao động đã có được việc làm, có thu nhập, đời sống từng bước được ổn định. Đặc biệt, đối với khu vực nông thôn thì việc GQVL cho lao động nông nhàn đã làm giảm bớt tình trạng người lao động ở nông thôn di chuyển về các thành phố, thị xã để tìm việc làm, giảm bớt sức ép về lao động việc làm và các vấn đề xã hội phức tạp khác. - Từ nguồn vốn đầu tư của chương trình, với sự cần cù lao động, tìm tòi sáng tạo, tính toán hiệu quả kinh tế mà người lao động đã tích luỹ được kinh nghiệm làm ăn, có kiến thức quản lý kinh tế. Từ đó, tự vươn lên không chỉ ổn định cuộc sống mà còn làm giàu cho bản thân và cộng đồng. Các điển hình sản xuất - kinh doanh hiệu quả ngày càng được nhân rộng thông qua việc học hỏi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau, từ đó đã tạo nên cuộc sống cộng đồng gắn bó, đoàn kết, cùng nhau phát triển kinh tế. - Việc cho vay vốn thông qua các tổ chức đoàn thể quần chúng như: Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh... có ý nghĩa rất quan trọng. Với nguồn vốn vay được phân bổ, các tổ chức đã đứng ra xây dựng dự án, vận động các thành viên tham gia. Ngoài ra còn bảo lãnh, tạo điều kiện hướng dẫn cách làm ăn, phổ biến kinh nghiệm sản xuất giúp thực hiện dự án hiệu quả. Đây là nội dung hoạt động rất thiết thực, tạo điều kiện cho tổ chức chăm lo đời sống hội viên, tạo nên sự gắn kết chặt chẽ giữa tổ chức và từng thành viên. Nhiều địa phương đã dựa vào thế mạnh của các đoàn thể là có số lượng thành viên đông đảo, tổ chức đến cơ sở, hoạt động thường xuyên để giao vốn thực hiện chương trình. Thực tế cho thấy, cho vay qua các tổ chức đoàn thể như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Người mù... đạt hiệu quả kinh tế và GQVL rất cao. 2.1.3- Những hạn chế tồn tại: Bên cạnh những kết quả đạt được, cho vay GQVL qua KBNN cũng còn bộc lộ những vấn đề tồn tại về nguồn vốn vay và tiến độ giải ngân, tình hình nợ quá hạn kéo dài... những tồn tại đó do một loạt những nguyên nhân cả về cơ chế chính sách lẫn tổ chức thực hiện, cả về phía Nhà nước và người vay. Bên cạnh đó có cả những nguyên nhân do môi trường thiên nhiên và môi trường kinh doanh. Những tồn tại và nguyên nhân tồn tại của cho vay GQVL được thể hiện qua các nội dung sau đây: 2.1.3.1-Vấn đề nguồn vốn cho vay và tiến độ giải ngân: Theo đánh giá của KBNN Trung ương: “Bình quân mỗi năm vốn vay GQVL tạo việc làm cho khoảng 20-25% tổng số lao động cần được GQVL”[21, tr.79]. Như vậy, so với mục tiêu GQVL, mỗi năm 1,9 triệu lao động thì lượng vốn vay GQVL hàng năm tham gia GQVL cho khoảng 270.000 lao động chưa có hoặc thiếu việc làm. Nếu theo mức vay bình quân qua các năm là 2 triệu đồng/ cho một chỗ làm việc mới hoặc ổn định chỗ làm việc thì mỗi năm cần tới 540 tỷ đồng. Thực tế tổng nguồn vốn cho vay GQVL 9 năm mới đạt 1.410 tỷ đồng, vẫn thấp hơn so với nhu cầu vay vốn “Nhìn chung, nhu cầu của người lao động và xã hội đối với nguồn vốn vay này rất lớn, nhưng khả năng đáp ứng của quỹ còn hạn hẹp. Nếu quỹ có số vốn khoảng 2.000 tỷ đồng chắc chắn đáp ứng cơ bản vốn vay của người lao động”[10, tr.2]. Công tác phân bổ vốn kế hoạch hiện nay do Trung ương ấn định, địa phương hoặc các cơ quan Trung ương hội đoàn thể không xây dựng kế hoạch nhu cầu vốn vay nên việc phân bổ vốn kế hoạch chưa sát thực tế. Không ít địa phương cho vay chậm nhưng năm nào cũng được phân bổ vốn (Thái Bình, Nghệ An, Đồng Tháp, Trung ương Đoàn thanh niên, Hội đồng Trung ương Liên minh Hợp tác xã Việt Nam). Trong khi nhiều địa phương thực hiện tốt nhưng lại phân bổ vốn ít, hoặc có năm không phân bổ vốn (Vĩnh Phúc, Lâm Đồng, Bà Rịa Vũng Tàu). Một trong những vấn đề mâu thuẫn trong việc quản lý nguồn vốn cho vay GQVL là nguồn vốn còn nhỏ so với nhu cầu vay nhưng lại có tình trạng đọng vốn xảy ra tại các Kho bạc. Tổng nguồn vốn NSNN cấp cho chương trình đến hết năm 2000 là 1.410 tỷ đồng, vốn tồn đọng tại KBNN năm 1998 là 226 tỷ đồng, 1999 là 235 tỷ đồng và 2000 là 120 tỷ đồng. Năm 2000 nguồn vốn tồn đọng tuy có giảm nhưng vẫn còn ở mức cao. Tình hình đọng vốn được thể hiện cụ thể qua bảng 2.3. Bảng 2.3: Nguồn vốn tồn đọng qua các năm Đơn vị: triệu đồng Năm Nguồn vốn Dư nợ Tồn đọng % 1 2 3 4 = 2 – 3 5 = 4 / 2 Đến 1998 1.231.000 1.004.759 226.241 18,37 Đến 1999 1.323.846 1.088.526 235.320 17,77 Đến 2000 1.410.361 1.289.766 120.595 8,50 Nguồn: Báo cáo KBNN Trung ương 1998, 1999, 2000. Các tỉnh có nguồn vốn tồn đọng lớn là: Hà Tây 2.639 triệu đồng (9,7%), Long An 4.756 triệu đồng (19,3%), Gia Lai 4.907 triệu đồng (22,38%). Đối với nguồn vốn phân bổ theo kênh Trung ương các tổ chức đoàn thể năm1999 là 172 tỷ thì vốn tồn đọng lên tới 37 tỷ đồng (21,5%) năm 2000 là 184 tỷ đồng thì vốn tồn đọng là 28 tỷ đồng (15,2%). Tình hình đọng vốn các kênh Trung ương thể hiện qua phụ lục số 04. Năm 2000 các kênh có số vốn tồn đọng lớn là hội Phụ nữ 5,2 tỷ đồng (chiếm 18,48%), Trung ương Đoàn 4 tỷ đồng (chiếm 15,84%), Bộ Quốc phòng 3,8 tỷ đồng (chiếm 34,46%). 2.1.3.2 - Vấn đề nợ quá hạn: Đến hết năm 2000, tổng số nợ quá hạn là 109 tỷ đồng ( chiếm 8,49% dư nợ) ngành KBNN chủ động và phối hợp với các cơ quan LĐTB & XH, các cơ quan hội đoàn thể đôn đốc thu hồi nợ vì vậy tỷ lệ nợ quá hạn năm 2000 có giảm xong vẫn ở mức cao. Nếu tính từ thời điểm bắt đầu cho vay là năm 1992 thì trong suốt thời gian từ năm 1993 đến 1998, nợ quá hạn liên tục tăng cả về số tuyệt đối và tương đối. Năm 1999 và 2000 nợ quá hạn có xu thế giảm nhưng nguy cơ tiềm ẩn nợ quá hạn có thể xuất hiện ở các năm tiếp theo. Tình hình nợ quá hạn cụ thể được thể hiện qua bảng 2.4. Bảng 2.4: Tình hình nợ quá hạn qua các năm (Đơn vị: triệu đồng) Năm Dư nợ Nợ trong hạn Khoanh nợ Quá hạn Tỷ lệ quá hạn % 1 2 3 4 5 6 = 5 / 2 1992 36.167 36.167 0 0 0 1993 363.619 362.609 0 1.010 0,28 1994 531.085 508.760 0 22.325 4,2 1995 727.733 682.776 0 44.957 6,18 1996 883.705 793.531 0 90.174 10,2 1997 959.646 831.832 0 127.814 13,32 1998 1.004.759 854.287 0 150.472 14,98 1999 1.088.527 942.319 0 146.208 13,43 2000 1.289.766 1.127.887 52.426 109.453 8,49 Nguồn: Báo cáo KBNN Trung ương 1992 - 2000. Các tỉnh nợ quá hạn cao năm 2000 là Bạc Liêu 29%, Yên Bái 27%, Trà Vinh 20%, Ninh Thuận 20%, Bình Thuận 19%. Bảng 2.4 cho thấy nợ quá hạn tăng mạnh vào các năm 1994 đến 1998, đây là thời kỳ các dự án cho vay đến hạn phải thu và nợ không thu được quá hạn từ năm này sang năm khác. Năm 1999 và 2000 nhờ những nỗ lực của cơ quan trực tiếp thu nợ là KBNN và các cơ quan có trách nhiệm, nợ quá hạn có giảm nhưng vẫn duy trì ở mức cao so với mục tiêu ngành KBNN đề ra là: “Giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống dưới 5%” [40, tr.12]. Nợ quá hạn của các kênh Trung ương hội đoàn thể thấp hơn so với kênh địa phương . Tỷ lệ nợ quá hạn của kênh Trung ương hội đoàn thể năm 2000 là 4,41% trong khi kênh địa phương là 7,93%. Nguyên nhân của tình hình này là do đối với kênh địa phương tập trung nhiều dự án tư nhân, dự án vùng có mức vay lớn nên mức quá hạn cao do chưa xử lý phát mại TSTC để thu nợ. Tình hình nợ quá hạn theo kênh Trung ương quản lý vốn vay thể hiện qua phụ lục số 05. Qua bảng 2.4 và phụ lục số 05 cho thấy, nợ quá hạn năm 2000 giảm đáng kể chủ yếu là do đã xử lý rủi ro một số dự án và dư nợ vay tăng.Trên bảng 2.4, nợ quá hạn năm 1999 là 146 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 13,43%. Nợ quá hạn năm 2000 là 109 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 8,49%. Về số tuyệt đối nợ quá hạn giảm 37 tỷ đồng trong đó có 12 tỷ đồng thu được từ các dự án khê đọng. Nếu ta giả định các dự án không được khoanh, xoá nợ năm 2000 thì lúc đó nợ quá hạn sẽ là 162 tỷ đồng và tỷ lệ nợ quá hạn là 12,56%. Một trong những nguyên nhân làm tỷ lệ nợ quá hạn giảm mạnh đó là do dư nợ vốn vay tăng lên. Năm 2000 dư nợ vốn vay đạt 1289 tỷ đồng so với năm 1999 là 1088 tỷ đồng tăng 201 tỷ đồng (19%). Nếu dư nợ không tăng và năm 2000 không được khoanh, xoá nợ thì tỷ lệ nợ quá hạn sẽ là: 162/1088 = 14,8%. Để chứng minh thêm cho nhận định trên, có thể xem xét một kênh vay vốn trong phụ lục số 05. Ví dụ là kênh Hội đồng liên minh Hợp tác xã dư nợ vốn vay năm 2000 là 19.978 triệu đồng, so với năm 1999 tăng 3.213 triệu đồng, số vốn vay được khoanh nợ là 539 triệu đồng. Nếu không được khoanh nợ, nợ quá hạn năm 2000 là 3.410 tỷ đồng và trong điều kiện dư nợ vay không tăng thì tỷ lệ nợ quá hạn năm 2000 là 3.410/16.765 = 20,3%. Nhờ có việc tăng dư nợ vốn vay và khoanh nợ, nợ quá hạn thực tế năm 2000 của kênh hội đồng Trung ương liên minh Hợp tác xã là 14,37%. Từ tình hình nợ quá hạn nêu trên có thể rút ra nhận định việc thu nợ quá hạn tính theo số tuyệt đối vẫn còn ở mức thấp, nợ quá hạn giảm về tuyệt đối và tương đối nhưng chủ yếu là do số khoanh nợ lớn và dư nợ tăng. Do vậy cần phải coi trọng công tác thu nợ ở các địa phương, đối với các kênh vẫn là số thu nợ tuyệt đối quá hạn dây dưa, nhận định rõ trong số được khoanh nợ các dự án được xoá nợ hoặc thu nợ, tránh nguy cơ sau khoanh nợ không thu được thì nợ quá hạn lại bùng phát ở mức độ cao. 2.1.4 - Nguyên nhân của những tồn tại: 2.1.4.1 - Về cơ chế chính sách: - Về thời hạn, mức vay: + Về thời hạn vay: Theo quy định hiện nay thời hạn vay được xác định căn cứ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng ngành, nghề hoặc chu kỳ sinh trưởng của từng loại cây con, phù hợp với từng dự án vay vốn, chưa xét đến độ bền vững của việc thu hút lao động của từng dự án trong quá trình vay vốn . + Về mức vay: Hiện nay mới chỉ có quy định mức vay đối với các đối tượng nhưng chưa quy định rõ tỷ lệ giữa vốn vay và vốn tự có của người vay. Chính điều này không khuyến khích việc người vay phải tự bỏ vốn cùng với vốn của Nhà nước để phát triển sản xuất kinh doanh. Với mức vốn vay cao sẽ tạo thuận lợi cho chủ dự án lúc đầu nhưng rất khó khăn cho việc thu hồi vốn vay bởi vì cơ sở vay vốn chưa đủ sức, kinh nghiệm kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường đang diễn ra mạnh mẽ ở nước ta. - Cơ chế bảo đảm tiền vay: Chưa có quy định cụ thể xử lý phát mại TSTC, chưa quy định rõ trách nhiệm của cơ quan bảo lãnh cho vay. + Về thế chấp cầm cố tài sản: Quy định về thế chấp cầm cố tài sản tại Quyết định số 48/1999/QĐ/BTC ngày 11/05/1999 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn thể lệ cho vay từ Qũy Quốc gia HTVL còn một số điều bất cập cụ thể : Điều 15 : Điều kiện TSTC cầm cố: mục 2 quy định “ Phải có đầy đủ giấy tờ hợp pháp hợp lệ (bản gốc). Riêng nhà ở được xây dựng trên đất ở thuộc khu dân cư nông thôn, nếu chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải có giấy xác nhận quyền sử dụng đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tại địa phương. Quy định này không nêu rõ cấp thẩm quyền là cơ quan nào do đó khi thế chấp quyền sử dụng đất ở các địa phương, người vay không biết lấy xác nhận ở đâu. Điều 19: Nghĩa vụ của bên thế chấp tài sản: ở mục b quy định “ Lấy chứng nhận của cơ quan công chứng nhà nước, hoặc chứng thực của UBND tại địa phương đối với hợp đồng thế chấp cầm cố tài sản”. Trong thực tế khi người có TSTC cùng KBNN cùng ký vào hợp đồng thế chấp cầm cố tài sản thì KBNN đã lưu giữ giấy tờ gốc của TSTC. Do đó khi người vay lấy xác nhận của công chứng hoặc UBND địa phương thì không còn giấy tờ gốc để xuất trình khi các cơ quan này yêu cầu. Ngoài ra cũng tại mục (đ) của điều này quy định: “ bảo quản, duy trì nguyên hình dạng; không được bán tặng trao đổi, cho thuê, cho mượn TSTC cầm cố. Nếu do việc sử dụng TSTC cầm cố có nguy cơ bị mất giá trị, hoặc giảm sút giá trị thì phải bồi thường hoặc thay thế bằng tài sản khác có giá trị tương ứng”. Điều này là khó thực hiện vì người vay hoặc người bảo lãnh vốn vay không có tài sản nào khác để thay thế khi tài sản đã thế chấp vay vốn không còn giữ nguyên hiện trạng. Điều 25: Về xử lý TSTC, cầm cố: “ Sau 3 tháng kể từ ngày chuyển sang nợ quá hạn, nếu bên vay không trả được nợ, KBNN có quyền chuyển hồ sơ cho vay đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền đề nghị phát mại TSTC, cầm cố để thu hồi vốn, KBNN không tự tổ chức phát mại TSTC, cầm cố”. Trong quy định này không nêu rõ cơ quan có thẩm quyền phát mại TSTC, cầm cố là cơ quan nào dẫn đến tình trạng dự án phải phát mại TSTC, cầm cố để thu hồi nợ tại các địa phương không thực hiện được hoặc thực hiện chậm. Một trong những vấn đề nan giải nữa là dự án vay vốn của các kênh trung ương hội đoàn thể như cuả Hội đồng liên minh Trung ương các hợp tác xã, các kênh khác người vay có thế chấp tài sản để vay vốn, không rõ cơ quan nào ra quyết định và thực hiện phát mại TSTC. Điều 25 này mâu thuẫn với quy định trong hợp đồng thế chấp tài sản, cầm cố giữa KBNN với bên thế tài sản cụ thể tại điều 5 của hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản quy định: Quyền hạn và nghĩa vụ của KBNN (bên A) được quyền xử lý TSTC, cầm cố khi người vay vi phạm chế độ cho vay. + Về bảo lãnh tín chấp: Theo quy định hiện hành, đối tượng vay là “Cá nhân, hộ gia đình, thành viên của tổ chức đoàn thể, hội quần chúng khi vay vốn không phải thế chấp, cầm cố tài sản, nhưng phải được người thứ ba đứng ra bảo lãnh bằng tín chấp”. Trách nhiệm của người bảo lãnh vốn vay được thể hiện “Bên bảo lãnh có trách nhiệm đôn đốc bên vay hoàn trả đầy đủ nợ vay (cả tiền gốc và lãi) đúng hạn cho KBNN. Đến hạn, nếu bên vay không trả được nợ thì bên bảo lãnh có trách nhiệm cùng bên vay tìm nguồn để trả nợ cho KBNN”. Như vậy, trách nhiệm của bên bảo lãnh chỉ là đôn đốc hoặc tìm nguồn trả trả nợ cho Nhà nước, còn trường hợp người vay không trả nợ thì người bảo lãnh không chịu trách nhiệm trả nợ. Trong quy định bảo lãnh không nêu rõ việc thẩm quyền bảo lãnh cho số tiền vay là bao nhiêu dẫn đến tình trạng người bảo lãnh có thể bảo lãnh cho nhiều hộ vay với số tiền vay lớn; điều này mâu thuẫn với quy định của Bộ luật dân sự “Tổ chức chính trị xã hội tại cơ sở có thể bảo lãnh cho cá nhân và hộ gia đình nghèo vay một số tiền nhỏ tại tổ chức tín dụng”[11, tr.14]. Trường hợp bên bảo lãnh dùng ngân sách hoặc tài sản để bảo lãnh thì thực tế KBNN không thể khấu trừ ngân sách hoặc tài sản bảo lãnh để thu nợ vì như vậy là vi phạm Luật Ngân sách vì các khoản chi trả nợ vay không có trong dự toán được duyệt. Việc xử lý các đối tượng vay ở dạng tín chấp, khi chuyển hồ sơ sang cơ quan pháp luật cũng rất khó thực hiện vì các đối tượng này mức vay một hộ nhỏ và số lượng nhiều, dẫn đến tình trạng quá hạn vốn vay. - Đối tượng và phạm vi xử lý rủi ro: Rủi ro là điều không lành ngẫu nhiên xảy ra, trong hoạt động sản xuất kinh doanh rủi ro là điều hay xảy ra. Ngày nay thuật ngữ rủi ro được quan niệm khá đồng nhất. Nói chung, chúng được coi là những sự kiện nằm ngoài ý muốn của con người, gây thiệt hại hay bất lợi cho con người. Trong hoạt động đầu tư nói chung cũng như thực hiện các dự án phát triển kinh tế theo chương trình vay vốn tạo việc làm, rủi ro là một tất yếu. Điều này cũng dễ hiểu bởi ở nước ta trong những năm qua, không năm nào không xảy ra thiên tai bão lũ, hạn hán dịch bệnh ở nhiều vùng với nhiều mức độ khác nhau. Bên cạnh đó do tác động của cơ chế thị trường, nhiều doanh nghiệp (cả nhà nước và tư nhân) đã không đứng vững trong cạnh tranh dẫn đến phá sản, không trả được nợ vay. Cho vay GQVL được bắt đầu thực hiện từ năm 1992 nhưng suốt 8 năm liền sau đó, chúng ta chưa có cơ chế xử lý vốn bị rủi ro, dẫn đến tình trạng nhiều dự án bị rủi ro không được xử lý, nợ đang kéo dài từ năm này sang năm khác. Xử lý rủi ro là vấn đề hết sức phức tạp, bởi vì nếu làm đúng làm tốt sẽ giải toả dự án, hạn chế nợ quá hạn, ngược lại nếu làm sai, thiếu trách nhiệm sẽ gây hậu quả: gây bất bình trong nhân dân, gây thiệt hại tài sản nhà nước và tạo ra phản ứng dây chuyền về hiện tượng chây ì trả nợ để chờ được đưa vào diện xử lý rủi ro. Bên cạnh đó có tình trạng không ít cán bộ ngại động chạm đến các dự án rủi ro, phần vì khó xác định thực trạng rủi ro (dẫn đến sai lầm trong nhận định), phần vì áp lực trách nhiệm trong công việc rất lớn. Có thể thấy rằng, việc ban hành thông tư Liên Tịch số: 08/TT-LT -BLĐTBXH-BTC-BKHĐT ngày 15/3/1999 và thông tư Liên Tịch số:16/TT-LT-BLĐTBXH-BTC-BKHĐT ngày 05/07/ 2000 của liên bộ Lao động - Thương binh và Xã hội- Tài chính - Kế hoạch và Đầu tư đã tạo cơ sở pháp lý cần thiết để giúp các địa phương xử lý các dự án gặp rủi ro do nguyên nhân bất khả kháng. Thông tư đã quy định khá chặt chẽ, chi tiết đến các trường hợp cụ thể để xử lý, tuy nhiên một số quy định cần được xem xét bổ sung cho phù hợp với thực tiễn hơn. + Về đối tượng và phạm vi áp dụng: Hiện nay việc quy định đối tượng và phạm vi áp dụng khá chặt chẽ nên xử lý rủi ro còn chậm. Những nguyên nhân khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của con người có rất nhiều nhưng trong quy định tại Thông tư hướng dẫn xử lý rủi ro chỉ nêu gồm: Thiên tai (động đất, bão, lũ lụt, hạn hán), hoả hoạn, dịch bệnh. Trong thực tế cho vay có nhiều nguyên nhân khách quan khác như: Vật nuôi bị rủi ro gặp tai nạn, cơ sở kinh doanh thua lỗ do sự biến động của thị trường, chủ trương chính sách của Chính phủ chưa được đề cập trong Thông tư này. + Về thẩm quyền xử lý rủi ro và kiểm tra xác minh: Theo quy định hiện hành thì tất cả các dự án xin xoá nợ đều phải gửi về Trung ương quyết định, do đó địa phương phải gửi về Trung ương rất nhiều hồ sơ, tài liệu dẫn đến việc xử lý không kịp thời, không sát với thực tế và làm chậm tiến độ xử lý rủi ro của các dự án. Một trong những vấn đề quan trọng và còn nhiều vấn đề bất cập trong xử lý rủi ro hiện nay là việc kiểm tra xác minh của các cơ quan có trách nhiệm. Theo quy định thì “Sau khi nhận đơn xin giảm, miễn lãi, khoanh nợ, xoá nợ của người vay vốn (hay người thừa kế), Phòng tổ chức xã hội huyện (quận) chủ trì cùng KBNN huyện (quận) kiểm tra, xác minh và lập biên bản của từng trường hợp cụ thể. Biên bản phải được lập kịp thời, phản ánh đúng thực trạng, phân tích rõ số thiệt hại (trong đó vốn của chủ dự án, vốn vay Ngân hàng, vốn vay của Quỹ Quốc gia HTVL, các nguồn khác)”. Sự bất cập ở đây là quá trình gửi đơn của người vay bị rủi ro lên xã (phường) hoặc các cơ quan khác như bộ phận quản lý vốn của Sở tài chính sau đó mới gửi về Phòng tổ chức xã hội để kiểm tra xác minh thì không đảm bảo tính kịp thời và càng không thể phản ánh được thực tế trong rủi ro. Khi xác định mức độ rủi ro phải phân tích rõ số thiệt hại không những của số vốn vay vay GQVL mà còn nhiều nguồn vốn khác là công việc hết sức khó khăn. - Thủ tục vay vốn: Đối với dự án hội đoàn thể, nhóm hộ vay vốn, ngoài việc người vay phải làm đơn xin vay gửi chủ dự án, khi nhận tiền vay phải ghi 2 đơn và 3 hợp đồng tín dụng theo mẫu của KBNN. Việc lập đơn xin vay là không cần thiết vì những hộ này có mức vay thấp và đã được duyệt đích danh vay. Đối với người kinh doanh đứng ra vay vốn, ngoài 2 đơn này và 3 hợp đồng tín dụng, còn 3 hợp đồng thế chấp tài sản, 2 danh mục tài sản thế cầm cố, biên bản định giá TSTC cầm cố. Đặc biệt là trong hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp cầm cố tài sản có những điểm trùng lặp không cần thiết như quy định về xử lý tài sản hình thành từ tiền vay để trả nợ. 2.1.4.2 - Về tổ chức thực hiện: - Thẩm định và xét duyệt dự án: Thẩm định dự án là công việc phức tạp bởi vì các dự án xây dựng đầu tư sản xuất, kinh doanh hết sức đa dạng, nhiều loại hình khác nhau. Do đó đội ngũ cán bộ thẩm định khó có thể am hiểu về nhiều lĩnh vực, ngành nghề. Nguồn vốn vay Quỹ Quốc gia HTVL còn thấp so với thực tế, dẫn đến khi xác định được mức vay của dự án thì nguồn vốn không có đủ đáp ứng. Thời gian thẩm định dự án kéo dài do quá trình thẩm định ở cấp huyện (quận) chưa kỹ. Khi chuyển lên Ban chỉ đạo cho vay GQVL tỉnh (thành phố) kiểm tra thấy có sai sót và dự án phải chuyển về huyện (quận) để thẩm định hoặc bổ sung các thiếu sót. Trường hợp có nhiều dự án cùng gửi xét duyệt thẩm định, trong điều kiện nguồn vốn vay có hạn việc duyệt dự án nào trước, sau có thể tạo ra cơ chế xin cho hoặc khi thẩm định do tình cảm hoặc lợi ích cá nhân, có thể có trường hợp thẩm định không đúng với thực tế của người vay. Đối với các dự án vùng, dự án hội đoàn thể quần chúng, hội nghề nghiệp (dự án có nhiều hộ vay), không thể thẩm định hết các hộ vay do lực lượng cán bộ thẩm định còn quá ít, vì vậy kết quả thẩm định chưa đạt hiệu quả cao. Một số nơi việc cấp đăng ký kinh doanh chưa đúng với thực tế, tạo điều kiện cho chủ cơ sở kinh doanh hoàn tất thủ tục hồ sơ vay vốn nhưng thực tế các cơ sở này chưa đủ điều kiện để cấp đăng ký kinh doanh. Hiện nay việc phê duyệt ra quyết định cho vay do UBND tỉnh hoặc cơ quan trung ương các tổ chức đoàn thể, hội quần chúng ra quyết định. Vì vậy hồ sơ dự án vay sau khi được thẩm định ở huyện phải chuyển về Ban chỉ đạo cho vay GQVL tỉnh hoặc hội đoàn thể cấp tỉnh xem xét trình duyệt, làm chậm tiến độ kể từ khi thẩm định đến lúc có quyết định cho vay. - Về định giá TSTC: Trong thực tế hiện nay việc định giá TSTC, cầm cố còn gặp rất nhiều khó khăn bởi vì: + Định giá TSTC, cầm cố, đặc biệt là đối với loại tài sản là máy móc, thiết bị khi không có giấy tờ hoặc tài liệu để xác định nguyên giá, khấu hao, giá trị còn lại. + Việc quy định cho vay với mức vay tối đa bằng 70% giá trị TSTC được định giá có thể dẫn tới 2 khả năng: .Định giá cao hơn so với mức giá thực tế. Đây là trường hợp người vay và người định giá TSTC thông đồng với nhau để được vay với một mức vay cao hơn so với thực tế. .Định giá thấp hơn so với mức giá thực tế. Do tâm lý người cho vay muốn đảm bảo an toàn vốn hoặc có thể xuất hiện việc “xin cho” trong định giá TSTC. - Vấn đề kiểm tra, kiểm soát vốn vay và phối hợp thu nợ: Việc kiểm tra, kiểm soát trong quá trình cho vay là hết sức cần thiết, vừa đảm bảo vốn vay sử dụng đúng mục đích đúng đối tượng và có hiệu quả, mặt khác đảm bảo thu hồi đầy đủ nợ vay về cho Nhà nước. Trách nhiệm kiểm tra vốn vay thuộc về các cơ quan thuộc ban chỉ đạo cho vay GQVL, nhưng hiện nay việc kiểm tra này chủ yếu do cơ quan KBNN đảm nhận nên chưa thực hiện kiểm tra được thường xuyên kịp thời. Nguyên nhân chính là do đội ngũ cán bộ thiếu về số lượng, bên cạnh đó một số loại hình đầu tư cho vay rất khó kiểm tra như: đầu tư nuôi trồng thuỷ hải sản, nuôi cá ở ao hồ mặt nước... Một số dự án đầu tư bằng nhiều nguồn vốn vay nên khó kiểm tra được vật tư đảm bảo tiền vay. Bất kỳ hoạt động tín dụng nào, cho vay luôn gắn với vấn đề thu nợ. Trong cho vay GQVL, tập thể quyết định xét duyệt cho vay nhưng khi thu nợ thì trách nhiệm chính thuộc về KBNN. Nếu chỉ riêng ngành KBNN đôn đốc nợ rồi mới kiến nghị xử lý thì việc thu nợ quá hạn là rất khó khăn, đặc biệt là đối với các dự án phải xử lý TSTC, tín chấp để thu nợ. Trong thu nợ vốn vay, đối với các hộ vay không có đảm bảo tiền vay bằng thế chấp tài sản, khi người vay bị chuyển nợ sang nợ quá hạn, KBNN chỉ có thể đôn đốc hộ vay chứ không có biện pháp nào khác để thu nợ quá hạn. Ngoài ra có một số trường hợp người vay chấp nhận chịu phạt theo quy định của pháp luật chứ không thể trả được nợ, dẫn đến nợ quá hạn dây dưa, khó đòi. Một số dự án chuyển hồ sơ sang cơ quan pháp luật nhờ thu hộ, nhưng tốc độ thu nợ vẫn chậm vì đây là những khoản nợ khó thu, người vay chây ì hoặc không còn khả năng trả nợ. Bên cạnh đó do số tiền vay ở một số dự án quá hạn không lớn nên các cơ quan phối hợp thu nợ cũng chưa thật sự quan tâm đến các dự án này. - Về lập dự án vay: Nhiều chủ dự án chưa thấy hết tầm quan trọng của việc lập dự án vay, coi việc xây dựng dự án là thủ tục hành chính để được vay vốn. Dự án lập còn nhiều sai sót như: Không luận chứng theo trình tự thống nhất; kết cấu các mục, các chỉ tiêu chưa theo quy định, chủ dự án chưa nghiên cứu kỹ văn bản về lập dự án. Các thông số tính toán trong dự án không đúng, không phù hợp với các định mức kỹ thuật, với thực tế sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân của những sai sót này là: Chủ dự án chưa nắm hết các văn bản quy định về chế độ vay vốn, bản thân chủ dự án là người lao động chưa quen với lập dự án. Quá trình điều tra, khảo sát để lập dự án chưa kỹ (đặc biệt là các dự án có nhiều hộ tham gia thực hiện) chủ dự án thường chỉ tập hợp nhu cầu của các hộ vay mà chưa xét kỹ điều kiện thực tế của hộ vay. Đối với dự án của người kinh doanh, các sai sót thường gặp ở khâu xác định vốn hiện có và nhu cầu tăng thêm cho dự án do các doanh nghiệp chưa có chế độ ghi chép, chưa có các căn cứ cụ thể để tính, đánh giá tài sản hoặc dù có ghi chép, có số liệu cụ thể nhưng người kinh doanh không muốn đưa số liệu thực, chính xác vào trong dự án. Trong thực tế có nhiều dự án hội đoàn thể hoặc các dự án tư nhân đầu tư vào cùng loại hình sản xuất sao chép từ dự án khác. Dự án được lập chỉ khác so với dự án cùng loại hình sản xuất về tên và địa điểm thực hiện dự án. Công tác chỉ định chủ dự án đối với dự án vùng, dự án hội đoàn thể làm chưa được chặt chẽ. Chính vì vậy nhiều chủ dự án phải làm một cách miễn cưỡng, chưa tích cực trong xây dựng và lập dự án. - Vấn đề gia hạn nợ và vay lại: Người vay chưa nắm chắc chế độ vay nên thủ tục vay lại, gia hạn nợ không kịp thời. Các dự án muốn được vay lại người vay phải làm các thủ tục theo quy định về điều kiện để được vay lại. Mọi thủ tục vay lại phải hoàn tất trước khi vốn vay đến hạn, nhưng do các nguyên nhân khác nhau: người vay không kịp._. của người vay cần làm rõ trách nhiệm cá nhân của những sai phạm và cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối với khoản nợ quá hạn bị thiệt hại do bất khả kháng xảy ra năm 1999 đã được Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước thẩm định hồ sơ, đề nghị Chính phủ có hướng xử lý cụ thể. Xử lý nợ quá hạn, nợ khó đòi không thể tách rời việc hạn chế nợ quá hạn phát sinh. Do vậy cần phải làm tốt việc lựa chọn đối tượng vay, đủ điều kiện giúp đỡ người vay không những về vốn mà cả cách làm ăn và tiêu thụ sản phẩm. 3.4 - Những điều kiện cần thiết để đảm bảo thực hiện có hiệu quả các giải pháp cho vay Giải quyết việc làm trong nông nghiệp: Để đảm bảo thực hiện có hiệu quả các giải pháp cho vay GQVL trong nông nghiệp như đã nêu trên đòi hỏi phải tạo được các điều kiện cần thiết sau đây: 3.4.1- Nhà nước cần bố trí nguồn vốn hợp lý cho Quỹ Quốc giahỗ trợ việc làm: Dự báo về lao động và việc làm năm 2001- 2005: Trong 5 năm tới, dự tính thu hút và tạo việc làm thêm cho khoảng trên 7,5 triệu lao động trong các ngành kinh tế xã hội, bình quân mỗi năm khoảng 1,5 triệu người trong đó: ở khu vực nông thôn, với việc đổi mạnh cơ cấu sản xuất, mùa vụ cây trồng, vật nuôi phát triển đa dạng ngành nghề trong các lĩnh vực nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ, dịch vụ... dự kiến có thể thu hút và tạo việc làm cho khoảng trên 9 triệu lao động (tính theo ngày công quy đổi). ở khu vực thành thị, dự kiến trong 5 năm có thể thu hút và tạo việc làm khoảng 1,78 triệu người trong các ngành sản xuất công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, đưa tổng số lao động có việc làm ở thành thị chiếm khoảng 5,4% số lao động trong độ tuổi [14, tr.267]. Để đáp ứng nhu cầu về vốn thì chúng ta phải xác định lượng vốn vay cần thiết để thực hiện mục tiêu GQVL hàng năm. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế thì mức vốn cần thiết để tạo ra một chỗ làm việc mới là 5 triệu đồng thì với khả năng GQVL bình quân hàng năm của Quỹ Quốc giaHTVL là 22%, số vốn cần thiết mỗi năm sẽ là : 1,5 triệu người * 5 triệu đồng/người * 22% =1.650 tỷ đồng (3.3) Thực tế những năm gần đây số vốn để bổ sung cho Quỹ Quốc giaHTVL chỉ khoảng trên dưới 80 tỷ đồng nên chưa đáp ứng được nhu cầu vay. Muốn giải quyết vấn đề này, không chỉ trông chờ vào nguồn vốn NSNN được cân đối trong kế hoạch hàng năm mà phải được tạo ra bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, chúng tôi xin đề xuất một số hướng cụ thể: Thứ nhất, huy động vốn từ phát hành trái phiếu KBNN. Qua 10 năm thực hiện, KBNN đã huy động một khối lượng vốn lớn hàng chục ngàn tỷ đồng, góp phần cân đối NSNN và bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Trên cơ sở nhu cầu vốn của chương trình cho vay GQVL, KBNN tính toán số vốn cụ thể cần huy động theo từng đợt ở những địa bàn nhất định. Toàn bộ số vốn huy động từ thu do phát hành trái phiếu được ghi bổ sung cho nguồn vốn vay GQVL. Việc trả nợ được tính từ nguồn trả nợ vay của các dự án để thanh toán cho người mua trái phiếu. Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn được trích từ quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp. Thứ hai, sử dụng nguồn vay nợ viện trợ của nước ngoài, các quỹ dự trữ tài chính. Nguồn vốn vay nợ và viện trợ của nước ngoài là nguồn vốn tuy không ổn định thường xuyên nhưng với lãi suất thấp và thời hạn dài có thể bổ sung làm nguồn vốn tín dụng tài trợ đối với các dự án vay vốn GQVL. Hiện nay các quỹ dự trữ tài chính như quỹ ngoại tệ tập trung của Nhà nước, quỹ dự trữ Nhà nước tương đối ổn định và tăng dần theo sự tăng trưởng của nền kinh tế . KBNN có thể đề nghị Chính phủ cho phép sử dụng một tỷ lệ nhất định bổ sung cho nguồn vốn tín dụng tài trợ. Tất nhiên việc quản lý nguồn vốn này phải bảo toàn vốn và bù đắp ngay khi phải trả nợ nước ngoài hoặc hoàn trả lại các quỹ dự trữ. Việc bổ sung nguồn vốn tín dụng từ các quỹ này phải cân đối với quỹ dự phòng rủi ro vốn vay GQVL. Thứ ba, lập quỹ giải quyết việc làm của địa phương. Đến hết năm 2000, trong 61 tỉnh, thành phố toàn quốc mới chỉ có 9 đơn vị cho vay từ quỹ GQVL địa phương. Trong thời gian tới, muốn giải quyết tốt vấn đề việc làm, các tỉnh cần bố trí nguồn vốn trong kế hoạch ngân sách hàng năm để lập quỹ GQVL tại địa phương. Mức trích lập quỹ từ ngân sách địa phương do Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định căn cứ vào nhu cầu việc làm của từng tỉnh. Song song với việc tạo lập nguồn vốn, Trung ương cần có biện pháp sử dụng vốn hợp lý bằng cách điều hoà nguồn vốn cho các tỉnh. Những nơi để nguồn vốn tồn đọng kéo dài (trên 3 tháng) thì Trung ương điều chuyển ngay cho các đơn vị khác sử dụng nhằm tránh tình trạng vốn vay vừa thừa vừa thiếu như hiện nay. 3.4.2 - Nâng cao trình độ chuyên môn và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ: Cho vay GQVL là công việc mới mẻ và phức tạp, động chạm đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, vừa phải đảm bảo tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc, vừa phải hết sức linh hoạt trong lựa chọn kiểm tra các dự án. Đối với cho vay qua KBNN, thực tế đội ngũ cán bộ cơ quan LĐTB & XH chủ yếu là kiêm nhiệm, không có những cán bộ chuyên làm công tác cho vay GQVL, đội ngũ cán bộ KBNN còn mỏng: Biên chế cán bộ có hạn, việc bố trí cán bộ trực tiếp quản lý chương trình cho vay GQVL hiện nay đối với kho bạc cấp tỉnh chỉ có 1 - 2 cán bộ, đối với kho bạc cấp huyện, rất ít huyện bố trí được 1 cán bộ, hầu hết các huyện chỉ có 1 cán bộ quản lý tất cả các chương trình mục tiêu trong đó có chương trình cho vay GQVL [28]. Với thực trạng cán bộ như vậy và yêu cầu quản lý vốn vay Quỹ Quốc giaHTVL, vừa phải nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực phẩm chất cho cán bộ, vừa phải bổ sung đội ngũ cán bộ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý vốn vay có thể đảm nhận tốt công việc. Đội ngũ cán bộ không những phải am hiểu về các nguyên tắc, chế độ về chính sách tín dụng của Nhà nước mà còn phải có kiến thức rộng về nhiều lĩnh vực xã hội, các chính sách về pháp luật của Nhà nước như : Luật hình sự, Luật dân sự, Luật đất đai... đây là những luật hết sức cơ bản trong vận dụng xử lý các trường hợp nợ quá hạn. Đối với cho vay qua NHNg, đội ngũ cán bộ là cán bộ của các ngân hàng thương mại, chủ yếu là kiêm nhiệm do đó chưa thể đi sâu sát trong các nghiệp vụ từ cho vay đến kiểm tra sử dụng vốn vay. Từ thực tế đội ngũ cán bộ như vậy phải tăng cường tập huấn nghiệp vụ, phổ biến các kiến thức pháp luật thường thức thông qua diễn đàn, qua sách báo và các phương tiện thông tin khác. Đội ngũ cán bộ phải tâm huyết, có bản lĩnh nghề nghiệp và có kinh nghiệm, cán bộ phải được thử thách, điều chuyển phù hợp với công việc. Đánh giá và lựa chọn cán bộ cho công tác tín dụng GQVL là yêu cầu hết sức cần thiết để quản lý tốt công tác cho vay GQVL. Một trong những yêu cầu về chất lượng cán bộ là không những làm tốt công việc nghiệp vụ mà phải có năng lực phát hiện những bất cập trong công tác để đề xuất các giải pháp nhằm làm cho công tác cho vay GQVL ngày càng hoàn thiện, cán bộ phải được đào tạo những kiến thức mới đặc biệt là am hiểu về kinh tế thị trường. Để làm tốt công tác cán bộ, một trong những yêu cầu quản lý là xây dựng chế độ thưởng phạt nghiêm minh, phải có kiểm tra, kiểm soát và giúp đỡ của cán bộ có kinh nghiệm, của lãnh đạo thì mới tránh cho cán bộ vấp váp, sai lầm và động viên đội ngũ cán bộ tâm huyết, sáng tạo với công việc. Các cơ quan quản lý cho vay cần giữ nghiêm kỷ luật trong quản lý cán bộ, xác định rõ trách nhiệm cán bộ trong quá trình từ thẩm định, cho vay đến thu nợ vốn vay. 3.4.3 - Hoàn thiện bộ máy quản lý ở Trung ương và địa phương: Hiện nay, có những quan điểm khác nhau về việc giao KBNN là cơ quan cho vay GQVL. Quan điểm giao KBNN là cơ quan quản lý vốn vay GQVL dựa trên các lập luận: - Bản chất cho vay GQVL là một khoản chi từ NSNN có hoàn lại, KBNN thực hiện chức năng kiểm soát chi ngân sách thì thực hiện cho vay GQVL là điều đương nhiên. - Hệ thống KBNN hoạt động như một ngân hàng Chính phủ, trong những điều kiện cụ thể, Nhà nước có thể cho phép nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các quỹ dự trữ để tạo nguồn cho vay. - KBNN đã có hệ thống bộ máy quản lý vốn từ Trung ương đến địa phương, có cơ sở vật chất, có đội ngũ cán bộ đang thực hiện nhiệm vụ thì việc giao cho KBNN quản lý vốn vay GQVL sẽ tiết kiệm chi phí quản lý tín dụng nhà nước. Có những quan điểm cho rằng nên giao cho hệ thống ngân hàng thương mại dưới hình thức đại lý cho Nhà nước nhằm tận dụng kinh nghiệm và đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác cán bộ của hệ thống ngân hàng.Theo chúng tôi việc giao nhiệm vụ cho cơ quan nào chịu trách nhiệm phải xuất phát từ những thuận lợi và khó khăn trong quản lý vốn vay của mỗi hệ thống tài chính hoặc ngân hàng. Thực tế nhiều năm thực hiện cho vay GQVL cho thấy việc giao nhiệm vụ tín dụng cho vay GQVL cho KBNN có những vướng mắc sau: - Nhiệm vụ của ngành KBNN ngày càng tăng nhưng biên chế có hạn đặc biệt là biên chế cán bộ vốn vay GQVL do vậy ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ giải ngân và thu hồi nợ của chương trình, nhất là khả năng nguồn vốn GQVL ngày càng tăng. - Xét về chức năng nhiệm vụ thì hoạt động KBNN không có chức năng tín dụng. Quá trình thực hiên chính sách cho vay GQVL, KBNN khi xử lý các vướng mắc phát sinh nhất là các thủ tục về bảo đảm vốn vay như thế chấp, tín chấp... thiếu các căn cứ pháp lý hoặc không đủ thẩm quyền để giải quyết nên còn nhiều vấn đề tồn tại. - Việc thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi hiện nay gồm cả hệ thống ngân hàng, tài chính (Kho bạc), Quỹ hỗ trợ phát triển thuộc Chính phủ dẫn đến nguồn vốn tín dụng bị dàn trải, thiếu tập trung, trùng lắp về đối tượng được vay, khó khăn trong kiểm tra sử dụng vốn vay và đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của các chương trình tín dụng. Nếu giao cho ngân hàng thương mại thực hiện cho vay GQVL thì không phù hợp với yêu cầu cải cách hệ thống ngân hàng là: Giảm mạnh các hình thức bao cấp về vốn tín dụng, cải cách hệ thống ngân hàng thương mại tách chức năng tín dụng chính sách ra khỏi chức năng kinh doanh của các ngân hàng thương mại quốc doanh. Về mô hình quản lý của NHNg, trước mắt giữ như hiện tại nhưng cần xem xét lại căn cứ tính phí trả cho ngân hàng nông nghiệp để nâng cao hơn nữa trách nhiệm của ngân hàng nông nghiệp đối với tín dụng hộ nghèo. Hiện nay, Chính phủ đã quyết định thành lập ngân hàng chính sách, vì vậy nên giao nhiệm vụ quản lý cho vay GQVL qua KBNN và NHNg sang ngân hàng chính sách. Sự chuyển giao đó nhằm khắc phục tình trạng phức tạp, phân tán của nhiều loại hình tín dụng chính sách khác nhau, tạo điều kiện quản lý tập trung thống nhất các hình thức tín dụng chính sách, gắn chặt giữa cho vay và thu nợ. 3.4.4 - Tăng cường công tác tuyên truyền chế độ chính sách cho vay giải quyết việc làm: Các cơ quan quản lý vốn vay phải giải thích, phổ biến rõ chủ trương chính sách pháp luật của Nhà nước trong cho vay và thu hồi vốn vay. Đặc biệt trong kiểm tra sử dụng vốn vay và xử lý vốn vay phải làm cho người vay thấy rõ việc đầu tư đã đúng mục đích chưa, phải kiên quyết xử lý thu hồi nợ vay cho Nhà nước đối với các trường hợp vi phạm chế độ quản lý vốn vay. Việc tuyên truyền phổ biến chế độ chính sách vay vốn phải hết sức linh hoạt, vừa trực tiếp với các hộ vay vừa gián tiếp thông qua các hội đoàn thể, chính quyền hoặc các hộ vay khác. Giải đáp kịp thời các ý kiến của người vay về xử lý rủi ro, cho vay lại, gia hạn nợ... Thông qua tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về vốn vay GQVL nhằm tăng cường trách nhiệm giám sát kiểm tra cuả người vay đối với hoạt động cho vay, giúp người vay có nhận thức và xử lý được các tình huống phát sinh trong quá trình sử dụng vốn vay và trả nợ. 3.4.5 - Làm tốt việc tổng kết đánh giá công tác cho vay giải quyết việc làm: Tổng kết công tác cho vay GQVL phải được làm tốt từ Trung ương tới các địa phương. Thông qua việc tổng kết phải đánh giá được những mặt mạnh, tồn tại trong công tác cho vay GQVL đối với từng địa bàn. Nêu những gương điển hình trong quản lý và sử dụng vốn vay, kiến nghị với các ngành các cấp bổ sung chỉnh lý những vấn đề còn tồn tại cả về cơ chế chính sách và thực tiễn. Phải có những giải pháp cụ thể và đồng bộ để giải quyết dứt điểm những tồn tại, đặc biệt là nợ quá hạn dây dưa kéo dài. Cần xác định rõ lượng vốn cần thiết để đáp ứng nhu cầu GQVL ở địa bàn huyện, tỉnh. Khen thưởng và biểu dương những cá nhân đơn vị thực hiện tốt chính sách cho vay GQVL, khuyến khích bằng lợi ích vật chất với những đơn vị và cá nhân có thành tích, đặc biệt cần chú ý tới các chủ dự án hội đoàn thể. Phát động và giao chỉ tiêu thi đua đối với các ban chỉ đạo GQVL nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm và sự phối hợp các thành viên trong ban chỉ đạo GQVL. 3.4.6 - Lồng ghép hợp lý chương trình cho vay giải quyết việc làm với các chương trình kinh tế xã hội khác trên địa bàn: Là một bộ phận của chính sách việc làm, cho vay GQVL phải kết hợp đồng bộ với các chính sách xã hội khác trên từng địa bàn. Các chính sách đó như chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, chính sách về đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn, chính sách về cải tạo kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Đối với việc GQVL ở khu vực nông thôn cần đặc biệt chú trọng với việc đào tạo nghề cho lao động, phát triển kinh tế trang trại, phát triển các làng nghề truyền thống. Nhiệm vụ GQVL không tách rời việc nâng cao về học vấn và đào tạo nghề. Không có kiến thức tay nghề khó có thể tìm được việc làm ổn định: Hiện nay ở nông thôn hơn 60% số lao động thuần nông (nông, lâm , ngư) còn lại là ngành nghề và dịch vụ; hầu như chưa thoát khỏi tình trạng làm nông nghiệp bằng kinh nghiệm cổ truyền. Theo báo cáo của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, tỷ lệ lao động nông nghiệp được đào tạo nghề quá thấp, chỉ chiếm dưới 1% [3, tr.7]. Do vậy để giải quyết tốt việc làm trong nông nghiệp, cho vay GQVL cần khuyến khích những đối tượng có nghề vay vốn để sản xuất kinh doanh. Đối với mọi đối tượng vay cần xem xét các cơ quan chuyên môn kỹ thuật giúp đỡ người vay trong quá trình thực hiện dự án vay. Cho vay GQVL phải tập trung cho việc phát triển các làng nghề truyền thống, vì hiện nay làng nghề đã có một vị thế quan trọng đối với GQVL ở nông thôn. “Chung cả nước các hoạt động ngành nghề đã thu hút khoảng 29,5% lực lượng lao động nông thôn, một tỷ lệ tuy chưa được cao nhưng chiếm vị trí đáng kể về việc làm cho người lao động” [36, tr.7]. Vốn vay GQVL đầu tư vào tăng cường năng lực sản xuất, trang thiết bị máy móc, các sản phẩm hiện nay đang chiếm thị phần cao trong xuất khẩu. Một trong những vấn đề cũng cần được quan tâm đầu tư bằng vốn vay GQVL đó là đầu tư vào các trang trại. Mặc dù vốn đầu tư vào các trang trại hiện nay là nguồn vốn thuộc chương trình 135 (Chương trình giúp đỡ các xã nghèo của Chính phủ). Nhưng nguồn vốn này còn hạn hẹp do đó để tạo ra mô hình kinh tế trang trại, thu hút được nhiều lao động thì cần có sự đầu tư thông qua các chương trình, dự án trong đó có vốn vay GQVL, nhằm ổn định lao động tại các trang trại. Xuất phát từ đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của nước ta được đề cập trong các chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước, đặc biệt là Văn kiện Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ thực tiễn hoạt động cho vay GQVL trong nông nghiệp, luận án đã đưa ra những quan điểm định hướng nhằm tiếp tục mở rộng và hoàn thiện chương trình quốc gia GQVL. Đồng thời luận án đã đề ra những giải pháp về cả trước mắt cũng như lâu dài, nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách, cũng như mô hình quản lý cho vay GQVL trong nông nghiệp. Kết luận Cho vay GQVL từ nguồn vốn NSNN là một biện pháp tài chính hữu hiệu nhằm giải quyết việc làm cho người lao động, ổn định tình hình kinh tế và xã hội. Đối với nước ta, lao động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp và thời gian sử dụng lao động còn thấp, sử dụng nguồn vốn NSNN cho vay GQVL trong nông nghiệp là đòi hỏi, là yêu cầu của việc phát triển kinh tế gắn liền với ổn định xã hội. Qua toàn bộ những vấn đề đã trình bày, luận án giải quyết cơ bản những yêu cầu đặt ra, thể hiện trên các nội dung chủ yếu sau đây: 1- Khái quát hoá những vấn đề lý luận về việc làm, thất nghiệp, một số mô hình về việc làm. Chỉ rõ vai trò, sự cần thiết cho vay GQVL trong nông nghiệp, bản chất của tín dụng tài trợ cũng như của cho vay GQVL từ nguồn vốn NSNN. Phân tích mối quan hệ giữa cho vay GQVL với các hình thức tín dụng khác để thấy rõ hơn đặc điểm tầm quan trọng của cho vay GQVL trong việc giải quyết và ổn định việc làm cho người lao động, trong quá trình thực hiện quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước. Thông qua trình bày kinh nghiệm của tín dụng tài trợ của một số nước trong khu vực, đã làm rõ thêm sự cần thiết sử dụng vốn tín dụng tài trợ của Nhà nước phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội phù hợp với đặc thù của mỗi nước. 2- Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động cho vay GQVL từ nguồn vốn NSNN trong nông nghiệp, luận án đã chỉ rõ những vấn đề cơ bản để phát triển nông nghiệp hiện nay là vấn đề thị trường, xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn, từ đó đặt ra yêu cầu mục tiêu cho vay, nội dung cho vay phải phù hợp với việc phát triển nền nông nghiệp tương xứng với yêu cầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Với việc nghiên cứu cho vay GQVL được thực hiện bởi hệ thống KBNN và NHNg, luận án đã đánh giá thực trạng cho vay GQVL về cơ chế chính sách và tổ chức thực hiện. Đối với cho vay GQVL qua hệ thống KBNN, luận án đã đi sâu phân tích về cơ chế chính sách vay vốn, trong đó đặc biệt chú ý về phương thức quản lý vốn vay, về thẩm định dự án, đảm bảo tiền vay, vấn đề lãi suất cho vay. Trong thực hiện cho vay thu nợ, với những số liệu và dẫn chứng phong phú, xác thực, luận án đã làm rõ những kết quả cũng như hạn chế trong cho vay GQVL. Đối với cho vay qua NHNg, luận án đã chỉ rõ tác động của thất nghiệp và vấn đề đói nghèo, thất nghiệp đồng hành với đói nghèo và xét ở lĩnh vực GQVL, vốn vay xoá đói giảm nghèo qua NHNg chính là tạo điều kiện cho người nghèo có việc làm, có vốn để sản xuất kinh doanh và làm quen với nền sản xuất hàng hoá. Tuy không đi sâu phân tích toàn bộ hoạt động nghiệp vụ cho vay của NHNg nhưng luận án đã làm sáng tỏ kết quả, chỉ ra những tồn tại trong cho vay với hộ nghèo đó là vấn đề nguồn vốn và tình hình nợ quá hạn. Mặc dù nợ quá hạn của NHNg không phải là cao so với cho vay GQVL qua KBNN nhưng những vấn đề tiềm ẩn nợ quá hạn đang đặt ra yêu cầu phải có những giải pháp, phương thức cho vay phù hợp nhằm đạt hiệu quả cả về kinh tế và xã hội. 3- Trình bày và phân tích rõ nguyên nhân của những tồn tại ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay GQVL, những nguyên nhân đó bao gồm cả nguyên nhân về cơ chế chính sách và tổ chức thực hiện. Lồng ghép trong nguyên nhân cơ bản đó, luận án cũng phân tích và sắp xếp các nguyên nhân theo trình tự: Các nguyên nhân thuộc về Nhà nước, thuộc về người vay, thuộc về môi trường. Những nguyên nhân đó có thể được khái quát là: Sự thiếu đồng bộ trong các văn bản pháp luật, hạn chế trong phối hợp cho vay thu nợ, ý thức chấp hành pháp luật của người vay, của các cơ quan quản lý vốn vay, sự thiếu hiểu biết thông tin của người vay, vấn đề môi trường sản xuất kinh doanh và điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến cho vay và thu nợ. 4 - Đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cho vay GQVL bao gồm 3 nhóm giải pháp lớn: Các giải pháp mang tính định hướng; các giải pháp cụ thể qua 2 hệ thống KBNN và NHNg; những điều kiện cần thiết để thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cho vay GQVL trong nông nghiệp. Việc xây dựng hệ thống giải pháp dựa trên chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra, đồng thời dựa trên cơ sở thực tiễn tình hình thực hiện cho vay thu nợ những năm vừa qua. Những giải pháp đưa ra trong luận án là có tính khả thi vì chúng dựa trên sự kết hợp chặt chẽ giữa thực tiễn với nghiên cứu lý luận chung về tín dụng tài trợ trong nền kinh tế thị trường. 5- Cho vay GQVL trong nông nghiệp là một vấn đề lớn và rất phức tạp, bởi vì việc làm trong nông nghiệp có liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội, tác động trực tiếp đến chủ trương của Đảng và pháp luật của nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp; việc bố trí lao động và việc làm giữa thành thị, nông thôn...Vì vậy, nâng cao hiệu quả công tác cho vay GQVL trong nông nghiệp góp phần ổn định và tạo việc làm cho người lao động, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Alvin Toffler và heiditoffler (1996), Tạo dựng một nền văn minh mới, chính trị của làn sóng thứ ba, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2. Vũ Đình Bách (Chủ biên) (1998), Những vấn đề cơ bản về kinh tế vĩ mô, Nxb Thống kê, Hà Nội. 3. Báo nhân dân (2001)"Đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn”, (16836), tr.7. 4. Báo nhân dân (2001), “Phát biểu của Thủ tướng Phan Văn Khải tại kỳ họp Quốc hội khoá X ngày 18/6/2001”, tr. 2. 5. David Begg ( 1992), Kinh tế học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 6. Lê Bình (2001), “Hiệu quả xoá đói giảm nghèo ở Sóc trăng”, Báo nhân dân (16911), tr.3. 7. Bộ lao động TB & XH – BTC – BKHĐT ( 1999), Thông tư liên tịch hướng dẫn cho vay từ quỹ Quốc gia HTVL và lập quỹ Giải quyết việc làm địa phương số 13/1999/TT – BLĐ Bộ LĐ TB & XH BTC – BKHĐT ngày 8/5/1999. 8. Bộ Kế hoạch đầu tư ( 1998), Chuyên đề thẩm định dự án đầu tư, Hà Nội. 9. Nguyễn Thanh Cai (2000), Những giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vốn tín dụng tài trợ của nhà nước ở tỉnh Thừa Thiên Huế, đề tài khoa học cấp ngành, Hà Nội. 10. Trần Đình Chính (1999), “ Tỷ lệ thất nghiệp và vấn đề việc làm”, Báo nhân dân, (16199) tr.2. 11. Chủ tịch nước C.H.X.H.C.N.V.N (1995), "Luật dân sự", Phụ trương báo nhân dân cuối tuần, (H8), tr. 14. 12. Mai Ngọc Cường(chủ biên) (1996), Hướng dẫn học tập lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb Thống kê, Hà Nội. 13. Thuỳ Dương (2001), “ Vốn 120 khôi phục nghề thổ cẩm”, Bản tin KBNN, (81), tr.29. 14. Đảng CSVN (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Frede ris. Mishkin (1995), Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. 16. Phạm Thu Hà, Nguyễn Thị Ngọc Huyền (1999), Chính sách kinh tế xã hội, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 17. Võ Đình Hảo ( Chủ biên) (1993), Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý tài chính, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Nguyễn Sinh Hùng ( Chủ nhiệm) (1993), Hoàn thiện cơ chế tín dụng ở Việt nam và việc áp dụng nó trong hệ thống Kho bạc nhà nước, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ , Hà Nội. 19. Hoàng Huy (2000), “ Xoá đói giảm nghèo – Sự nghiệp còn lắm khó khăn”, Báo nhân dân cuối tuần, (H2), tr.1. 20. Bạch Thị Minh Huyền (1994), “ Một số quan điểm về vay nợ cho đầu tư phát triển ở Việt Nam”, Tài chính, (1), tr.10. 21. Lê Văn Hưng ( Chủ biên) ( 2000), Kho Bạc nhà nước Việt nam – Quá trình xây dựng và phát triển, Nxb Tài chính, Hà Nội. 22. Lê văn Hưng (1992), “Một số vấn đề về tín dụng nhà nước”, Thông tin KBNN (1), tr.18. 23. Lê Văn Hưng ( 1993), “Một số vấn đề về cho vay tài trợ giải quyết việc làm”, Tài chính, (7), tr.12. 24. Hàng Tấn Hưng (2000), “ Nhìn lại 7 năm thực hiện công tác cho vay quỹ Quốc gia HTVL”, Bản tin KBNN, (70), tr.33. 25. Thu Hương (2001), “Đồng vốn 120 – Những nghi nhận khả quan”, Bản tin KBNN, (78,79), tr.57. 26. Lê Hữu Khi (Chủ biên), (1999), Kinh tế công cộng, Nxb Thống kê, Hà Nội. 27. Kho bạc Nhà nước tỉnh Tiền giang (1999) Báo cáo chuyên đề cho vay giải quyết việc làm tại tỉnh Tiền giang - Kết quả và những kiến nghị. 28. Kho bạc Nhà nước TW (2001), Báo cáo tình hình và kết quả thực hiện cho vay từ quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm năm 2000 và một số kiến nghị biện pháp quản lý trong những năm tới, Hà Nội. 29. Phạm Xuân Nam (2000), “ Phát triển kinh tế gắn liền với tăng trưởng xã hội”, Báo nhân dân, tr.2. 30. Ngân hàng phục vụ người nghèo (2001), Báo cáo tổng kết năm 2000 và định hướng năm 2001, Hà Nội. 31. Ngân hàng phục vụ người nghèo (2001), tài liệu tập tập huấn tổ vay vốn, Hà Nội. 32. Nguyễn Đức Nhật (1997), Hoàn thiện cơ chế tín dụng tài trợ đối với các dự án qua hệ thống KBNN, Đề tài khoa học cấp ngành, Hà Nội. 33. Vũ Thị Ngọc Phùng ( Chủ biên) (1999), Kinh tế phát triển, NXb Thống kê, Hà Nội. 34. Hồ Xuân Phương (1997), “ Đầu tư phát triển sự nghiệp khoa học côn,g nghệ của đất nước”, Tài chính trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, Viện nghiên cứu tài chính, Hà Nội. 35. Robert Raymond(1992), Tiền tệ ngân hàng và tín dụng, Viện khoa học –ngân hàng. 36. Nguyễn Sinh (2001), “ Làng nghề và việc làm ở nông thôn” Thông tin tài chính, (7) tr. 7. 37. Nguyễn Đình Tài (1997), Sử dụng công cụ tài chính tiền tệ để huy động vốn cho đầu tư phát triển, Nxb Tài chính, Hà Nội 38. Nguyễn Thị Hồng Thuỷ và nguyễn Thị Ngọc Huyền (Chủ biên) (1997), Lý thuyết quản trị kinh doanh, Nxb khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. 39. Nguyễn Văn Tới (1999), “Thực trạng cho vay giải quyết việc làm ở Kontum”, Bản tin Kho bạc nhà nước (59) tr. 28. 40. Trần Xuân Trí (2000), “ Kho bạc nhà nước qua 8 năm thực hiện chính sách cho vay từ quỹ quốc gia HTVL”, Bản tin KBNN (71), tr.12. 41. Nguyễn Đức Triều ( 2001), “Sự lãnh đạo của Đảng đối với hội nông dân Việt Nam – Một nhân tố quyết định thắng lớị nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn”, Cộng sản, (609), tr. 27. 42. Trung tâm thông tin thống kê lao động và xã hội – Bộ lao động thương binh và xã hội, (1999, 2000, 2001) Thực trạng lao động – việc làm ở Việt Nam, Nxb Thống kê - Hà Nội. 43. Trường Đại học Tài chính Kế toán - Hà Nội (1998), Quản lý tài chính nhà nước, Tập bài giảng dùng cho cao học và nghiên cứu sinh. Hà Nội. 44. Thanh Tùng(2001) ,"Ngân hàng chính sách được cho người lao động ở nước ngoài vay vốn", Thời báo tài chính Việt Nam, (109), tr.2. 45. Vũ Công Ty ( 1996), Phương pháp lựa chọn phương án đầu tư có hiệu quả trong doanh nghiệp, Nxb Tài chính, Hà Nội. 46. Uỷ ban khoa học và kỹ thuật nhà nước (1990), Đầu tư phục vụ phát triển – Những bài học của ngân hàng thế giới , Hà Nội. 47. Uỷ ban khoa học và xã hội nhà nước (1977), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 48. Nguyễn Quế Văn (2001), “Bình xét hộ nghèo xã nghèo sao cho đúng”, Báo nhân dân, (16907), tr.4. Mở đầu Chương 2 Thực trạng cho vay Giải quyết việc làm trong nông nghiệp từ nguồn vốn Ngân sách Nhà nước 2.1- Cho vay Giải quyết việc làm qua hệ thống Kho bạc nhà nước. 2.1.1- Cơ chế cho vay giải quyết việc làm. 2.1.1.1- Đối tượng và điều kiện vay vốn giải quyết việc làm: 2.1.1.2-Thẩm định và xét duyệt dự án: 2.1.1.3- Mức vay, thời hạn và lãi suất cho vay: 2.1.1.4- Cách thức quản lý và điều hành công tác cho vay GQVL: 2.1.2 - Kết quả cho vay giải quyết việc làm từ nguồn vốn ngân sách nhà nước: 2.1.2.1- Về cơ chế chính sách: 2.1.2.2 - Về thực hiện cho vay thu nợ: 2.1.3- Những hạn chế tồn tại: 2.1.3.1-Vấn đề nguồn vốn cho vay và tiến độ giải ngân: 2.1.3.2 - Vấn đề nợ quá hạn: 2.1.4 - Nguyên nhân của những tồn tại: 2.1.4.1 - Về cơ chế chính sách: 2.1.4.2 - Về tổ chức thực hiện: 2.2 - Cho vay qua ngân hàng phục vụ người nghèo: 2.2.1: Khái quát cơ chế cho vay qua ngân hàng phục vụ người nghèo: 2.2.1.1- Đối tượng, điều kiện, thủ tục vay: 2.2.1.2 - Phương thức quản lý và cho vay của ngân hàng phục vụ người nghèo: 2.2.1.3- Mức vay, thời hạn và lãi suất vay: 2.2.2-Kết quả cho vay qua ngân hàng phục vụ người nghèo: 2.2.2.1-Về cơ chế chính sách: 2.2.2.2 -Về thực hiện cho vay thu nợ: 2.2.3- Những tồn tại: 2.2.3.1-Vấn đề nguồn vốn: 2.2.3.2 -Tình hình nợ quá hạn. 2.2.4- Nguyên nhân của những tồn tại: 2.2.4.1- Về cơ chế chính sách: 2.2.4.2- Về tổ chức thực hiện: Chương 3 giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cho vay Giải quyết việc làm trong nông nghiệp. 3.1 - Đặc điểm nông nghiệp Việt Nam và những vấn đề kinh tế chủ yếu ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp. 3.1.1- Đặc điểm của nông nghiệp Việt Nam: 3.1.2 - Những vấn đề kinh tế chủ yếu ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp: 3.1.2.1 - Vấn đề thị trường: 3.1.2.2- Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng nông thôn. 3.1.2.3 - Xây dựng các vùng nông nghiệp chuyên môn hoá sản xuất, nhất là những nông sản chủ yếu, có giá trị xuất khẩu cao. 3.1.2.4 Đổi mới hoàn thiện chính sách vĩ mô trong nông nghiệp. 3.2- Một số quan điểm cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới công tác cho vay Giải quyết việc làm: 3.2.1- Nhận thức đầy đủ, sâu sắc vai trò, vị trí của nông nghiệp nông thôn và nông dân khi chuyển sang kinh tế thị trường, tăng cường hỗ trợ tín dụng từ Ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn và đặc biệt cho nông dân phát triển kinh tế hộ. 3.2.2- Cho vay giải quyết việc làm phải đảm bảo khai thác tiềm năng đất đai, thế mạnh về nguồn lực lao động, phải kết hợp giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội: 3.2.3 - Cho vay giải quyết việc làm phải dựa trên chiến lược phát triển kinh tế xã hội và gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp: 3.2.3.1- Cho vay giải quyết việc làm phải gắn chặt với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 3.2.3.2 - Cho vay giải quyết việc làm phải kết hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế xã hội khác . 3.2.4 - Cho vay giải quyết việc làm trong nông nghiệp phải dựa trên quan điểm đầu tư - hoàn vốn, bảo toàn và phát triển nguồn vốn. 3.2.5- Thực hiện sự công bằng, công khai, đảm bảo vốn vay đến tận tay người lao động, tăng cường giám sát kiểm tra để đồng vốn sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả: 3.3- Các giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả công tác cho vay Giải quyết việc làm: 3.3.1- Các giải pháp cho vay giải quyết việc làm qua Kho bạc Nhà nước: 3.3.1.1- Về cơ chế chính sách: 3.3.1.2- Về tổ chức thực hiện: 3.3.2- Các giải pháp cho vay qua ngân hàng phục vụ người nghèo: 3.3.2.1- Về cơ chế chính sách: 3.3.2.2- Về tổ chức thực hiện: 3.4 - Những điều kiện cần thiết để đảm bảo thực hiện có hiệu quả các giải pháp cho vay Giải quyết việc làm trong nông nghiệp: 3.4.1- Nhà nước cần bố trí nguồn vốn hợp lý cho Quỹ Quốc giahỗ trợ việc làm: 3.4.2 - Nâng cao trình độ chuyên môn và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ: 3.4.3 - Hoàn thiện bộ máy quản lý ở Trung ương và địa phương: 3.4.4 - Tăng cường công tác tuyên truyền chế độ chính sách cho vay giải quyết việc làm: 3.4.5 - Làm tốt việc tổng kết đánh giá công tác cho vay giải quyết việc làm: 3.4.6 - Lồng ghép hợp lý chương trình cho vay giải quyết việc làm với các chương trình kinh tế xã hội khác trên địa bàn: Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThSA11.doc
Tài liệu liên quan