Sự phát triển của nền kinh tế tư bản nhà nước trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Lời mở đầu Qua 20 năm đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ . Cho đến nay Đảng ta đã hình thành những nét cơ bản một hệ thống quan điểm lí luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam , làm cơ sở khoa học cho đường lối của Đảng, góp phần bổ sung và góp phần phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội. Từng bước một qua thực tiễn đổi mới kinh tế, nhất là nh

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1356 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Sự phát triển của nền kinh tế tư bản nhà nước trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ững nhận thức mới về thế giới trong xu thế quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay, Đảng ta thấy rõ yêu cầu khách quan của việc xây dựng nền kinh tế thị trường và chủ động hội nhập nền kinh tế quốc tế. Từ kinh tế thị trường tới xây dựng thị chế kinh tế thị trường và chủ trương phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một bước tiến quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội . Thành tựu công cuộc xây dựng đất nước theo đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang tạo thế lực mới cho đất nước tiến bước trên con đường Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng, văn minh. Đại hội X của Đảng đã khẳng định “phát triển mạnh các thành phần kinh tế , các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh. Các thành phần kinh tế nhà nước , kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thế ,tiểu chủ, tư bản tư nhân) , kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo pháp luật, cùng tồn tại và phát triển lâu dài , hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế tư bản nhà nước là một trong những thành phần kinh tế quan trọng , góp phần phát triển nền kinh tế nước ta . Nghiên cứu về vị trí ,vai trò của nền kinh tế tư bản nhà nước, cùng những mối quan hệ với các thành phần kinh tế khác để phát huy , đẩy mạnh, các nguồn lực, đẩy mạnh công nghiệp hóa-hiện đại hóa theo những mục tiêu đã hoạch định là hết sức quan trọng . Do vậy thấy được “Sự phát triển của nền kinh tế tư bản nhà nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam’’ và những nhược điểm cần khắc phục, hạn chế của thành phần kinh tế này là một trong những mục đích em chọn để làm đề tài này. Nội dung I.Cơ sở lí luận về thành phần kinh tế tư bản nhà nước 1.Kinh tế tư bản nhà nước và tính tất yếu khách quan tồn tại thành phần kinh tế tư bản nhà nước dưới chủ nghĩa xã hội và ở nước ta. 1.1.Khái niệm thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước , mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh . Đây là một trong những khái niệm đơn giản ngắn gọn về thành phần kinh tế tư bản nhà nước . Ta có thể hiểu theo nghĩa rộng hơn , đầy đủ hơn , thành phần kinh tế tư bản nhà nước là hình thức tổ chức liên kết kinh tế tư bản , tư nhân ,kinh tế tư nhân với nhà nước xã hội chủ nghĩa . Đó là hình thức có sự kết hợp giữa nội lực trong nước và tranh thủ những ngoại lực từ bên ngoài . Đây là một hình thức kinh tế hiện đại để phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Thành phần kinh tế là tổng hợp sức mạnh có tổ chức của lực lượng kinh tế dựa trên một chế độ sở hữu nhất định . Theo đại hội lần thứ X chỉ rõ , thành phần kinh tế tư bản nhà nước là một thành phần kinh tế đặc biệt , dựa trên sở hữu hỗn hợp giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa và tư bản tư nhân . Tuy nhiên ở đây không thể gọi nó là thành phần kinh tế nhà nước được vì nó không hoạt động trực tiếp vì lợi ích cho toàn dân . Trong khi đó thành phần kinh tế nhà nước là thành phần dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất (sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước). Và cũng không thể gọi nó là thành phần kinh tế tư bản tư nhân được vì thành phần kinh tế tư bản nhà nước chịu sự chi phối vận hành mang tính xã hội chủ nghĩa. Còn thành phần kinh tế tư bản tư nhân là hình thức kinh tế mà sản xuất , kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê . Tuy nhiên kinh tế tư bản nhà nước là một hình thức kết hợp khá phù hợp giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân , lợi dụng được những tính ưu việt của cả hai hình thức kinh tế trên. Ta có thể hiểu thành phần kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều quan điểm , khía cạnh khác nhau : Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật chung cho mọi phương thức sản xuất. Trong nền kinh tế thực sự chưa phát triển cao , lực lượng sản xuất luôn tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau , tương ứng với mỗi trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất phù hợp . Theo hai quan điểm về quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất thì thành phần kinh tế tư bản nhà nước được hiểu như sau : - Theo quan hệ sản xuất : thành phần kinh tế tư bản nhà nước là một quan hệ kinh tế – xã hội . “Chủ nghĩa xã hội không phải là tiền mà là quan hệ kinh tế” . Nó phụ thuộc vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của một đất nước . Những nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì đó là kinh tế tư bản nhà nước của chủ nghĩa tư bản . Còn những nước đi theo con đường chủ nghĩa xã hội thì đó là thành phần kinh tế tư bản nhà nước mang định hướng xã hội chủ nghĩa .Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ chủ nghĩa tư bản nền kinh tế tư bản nhà nước là một trong những động lực quan trọng để vượt qua những rào cản khó khăn của nền kinh tế thị trường. “Chủ nghĩa tư bản nhà nước là cái gì có tính chất tập trung , được tính toán , được kiểm soát và được xã hội hóa”. - Theo lực lượng sản xuất : được đánh giá ở trình độ của lực lượng sản xuất , kinh tế tư bản nhà nước là một nền sản xuất tiên tiến , hiện đại , nền đại sản xuất , nền sản xuất cơ khí hóa . Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần , đó là một tất yếu khách quan . Các thành phần kinh tế cũ và thành phần kinh tế mới tồn tại khách quan và có quan hệ với nhau tạo thành cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta . Tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ , trong đó có hình thức kinh tế tư bản nhà nước . Thành phần kinh tế tư bản nhà nước như “cầu nối’’ , trạm “trung gian’’ cần thiết để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa . Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta , kinh tế tư bản nhà nước , một thành phần kinh tế , một kiểu tổ chức kinh tế có sự phối kết hợp , gắn bó chặt chẽ giữa một bên là thành phần kinh tế nhà nước ( thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân) , nhà nước của dân , do dân , phục vụ lợi ích của dân , đại biểu cho sở hữu toàn dân , đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu phục vụ lợi ích xã hội , với một bên là nhà tư bản . Đó là mối quan hệ hợp tác có lợi , là các hợp đồng kinh tế giữa nhà nước (đại diện cho giai cấp công nhân) và nhà tư bản. Nếu quan điểm rằng thành phần kinh tế tư bản nhà nước đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản (theo quan điểm của những người cộng sản cánh tả) , là một sai lầm . Không phải thành phần kinh tế tư bản nhà nước đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là giai cấp tiểu tư sản và chủ nghĩa tư bản tư nhân cùng đấu tranh chống lại chủ nghĩa xã hội . Rõ ràng đây là một quan điểm sai lầm của những người theo phái cánh tả . Hiểu rõ đúng bản chất của kinh tế tư bản nhà nước mới có thể vận dụng tốt thành phần kinh tế này vào trong quá trình phát triển nền kinh tế nước nhà , trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội đang còn gặp phải rất nhiều khó khăn khi bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa , tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. 1.2. Tính tất yếu khách quan tồn tại thành phần kinh tế tư bản nhà nước dưới chủ nghĩa xã hội và ở nước ta. Kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay là một thành phần kinh tế có tính bước ngoặt đối với sự phát triển của nền kinh tế nước ta . Quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa là một trong những yêu cầu nhiệm vụ quan trọng của đất nước ta . Chủ nghĩa xã hội muốn tồn tại và phát triển , cũng phải cần có một nền kinh tế tăng trưởng và phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất . Đối với những nước có lực lượng sản xuất phát triển cao thì thời kì qúa độ lên chủ nghĩa xã hội có nhiều thuận lợi , có thể ngắn hơn với những nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ nền kinh tế kém phát triển . V.I.Lênin đã khẳng định rằng : “Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội , không có nấc thang nào là trung gian” . Sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện thêm một số ngành mà các nhà tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn kinh doanh vì đầu tư lớn , thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận , nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như năng lượng , giao thông vận tải , giáo dục , nghiên cứu khoa học cơ bản …Nhà nước trong khi đảm nhận kinh doanh các ngành đó , tạo điều kiện cho các nhà tư bản tư nhân kinh doanh các loại ngành khác có lợi hơn . Sự phát triển của kinh tế tư bản nhà nước không chỉ là hình thức kinh tế trực tiếp , nhanh chóng nhất để đi lên chủ nghĩa xã hội , nó còn là hình thức tổng hợp được sức mạnh của cả kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân . Do đó sự phối kết hợp giữa nhà nước với tư bản tư nhân là một tất yếu khách quan . Sự kết hợp hữu cơ các quan hệ thị trường với sự tác động tập trung của nhà nước tạo ra một hệ thống thống nhất , đó chính là nền kinh tế tư bản nhà nước . Trong quá trình vận động cơ chế kinh tế , nhà nước giữ vai trò điều tiết vĩ mô đối với các quá trình sản xuất xã hội , định hướng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội . Các tư bản tư nhân vẫn chịu sự điều tiết trực tiếp của cạnh tranh thị trường . Các yếu tố này gắn bó chặt chẽ tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau , trong đó thị trường vẫn là sức mạnh cơ bản của cơ chế điều tiết nền kinh tế tư bản chủ nghĩa . Tuy nhiên , tính tự phát của cơ chế thị trường bị giới hạn bởi sự đồng thời tác động của tư nhân và nhà nước làm cho các quan hệ thị trường được thể chế hóa và có tính tổ chức hơn . Như vậy cơ chế điều tiết nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản nhà nước đã tạo ra cách thức phối hợp và phương tiện điều tiết hợp lí hơn so với cơ chế tự do cạnh tranh. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là sản phẩm của lịch sử , là sự phát triển kinh tế xã hội tất yếu. Muốn có chủ nghĩa xã hội tất yếu phải có kĩ thuật của tư bản , có sự linh hoạt mềm dẻo của một tổ chức nhà nước vững mạnh có năng lực quản lí vĩ mô nền kinh tế thị trường trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta . Liên kết để tạo ra được sức mạnh tổng hợp, tạo khả năng phát triển . Đó là điều kiện tất yếu để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường phát triển sôi động . Nước ta xuất phát điểm đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu bỏ qua chế độ tư bản thì thời kì quá độ lại càng gặp phải những khó khăn về: vốn , kỹ thuật , công nghệ và quản lí tiên tiến . Quá trình quốc tế hóa sản xuất và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng lên , cũng như sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ về khách quan đã tạo ra những khả năng để các nước kém phát triển đi sau có thể tiếp thu và vận dụng vào nước mình những lực lượng sản xuất hiện đại của thế giới và những kinh nghiệm của các nước đi trước để thực hiện “ con đường rút ngắn” . Xu thế toàn cầu hóa , sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng tăng lên tuy có chứa đựng nguy cơ và thách thức nhưng vẫn tạo khả năng khách quan cho khắc phục khó khăn về nguồn vốn và kĩ thuật hiện đại cho những nước chậm phát triển . Để vươn lên nhằn thoát khỏi tình trạng của một nước kém phát triển bằng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế là hướng đi đúng của đất nước ta không có con đường nào khác . Cuộc đấu tranh để bảo vệ con đường lựa chọn của mình trong hội nhập kinh tế quốc tế và thực tiễn những năm vừa qua đòi hỏi chúng ta phải biết chớp thời cơ , chủ động sáng tạo , phát huy những thuận lợi để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa , tọa ra thế và lực mới để vượt qua những khó khăn , đẩy lùi những nguy cơ , đưa nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững . Phải khách quan thừa nhận rằng , chủ nghĩa tư bản đã góp phần quan trọng thúc đẩy quá trình quốc tế hóa – toàn cầu hóa ,khu vực hóa của nhân loại . Phát triển các hình thức kinh tế tư bản nhà nước , không chỉ tạo điều kiện để chúng ta khai thác tiềm năng của đất nước , phát huy tối đa lợi thế , mà còn là điều kiện cần thiết để nền kinh tế nước ta hội nhập vào nền kinh tế thế giới . Kinh tế tư bản nhà nước sẽ trở thành chiếc cầu nối để đưa nước ta từ nền kinh tế kém phát triển nối liền với nền sản xuất lớn tiên tiến lớn trên thế giới , tạo cơ hội để xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa . Như vậy việc mở rộng , phát triển hình thức kinh tế tư bản nhà nước góp phần nâng cao trình độ khoa học công nghệ , tăng về vốn cũng như kĩ thuật , quản lí , trình độ sản xuất , phương thức tổ chức lao động . Nhờ đó mà nâng cao hiệu quả kinh tế , năng suất lao động , thúc đẩy nền kinh tế phát triển , thực hiện những mục tiêu trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội mà nhà nước ta đã định ra . 1.3.Quan điểm của Đảng ta về phát triển thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Ơ nước ta thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 , sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất . Chủ nghĩa tư bản có vai trò lịch sử là phát triển lực lượng sản xuất , xã hôi hóa lao động dựa trên nền tảng chế độ tư bản chủ nghĩa . Thực tiễn đã chứng minh chủ nghĩa tư bản là xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử , sớm hay muộn cũng phải thay đổi bằng hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đọan đầu là giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa . Tuy nhiên với con đường cải tạo xã hội xã hội chủ nghĩa nên các hình thức tư bản nhà nước chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn . Kinh tế tư bản nhà nước được Đảng và nhà nước ta quan tâm đẩy mạnh phát triển . Đảng và nhà nước chủ trương thực hiện một cách rộng rãi và lâu dài các hình thức kinh tế tư bản nhà nước để phát triển lực lượng sản xuất cho phù hợp với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Để kinh tế tư bản nhà nước thực hiện được vai trò quan trọng đó , Đảng Cộng Sản Việt Nam chủ trương áp dụng nhiều phương thức góp vốn kinh doanh giữa nhà nứớc với các nhà kinh doanh trong và ngoài nước nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển , tăng sức hợp tác cạnh tranh với bên ngoài , đồng thời cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lí nhà nước để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư từ nước ngoài Cụ thể hóa đường lối đó , tại hội nghị lần thứ tư ban chấp hành trung ương khóa VIII của Đảng (năm 1996) xác định có 5 thành phần kinh tế : Kinh tế nhà nước ; Kinh tế hợp t ác ; Kinh tế tư bản nhà nước ; Kinh tế cá thể tiểu chủ; Kinh tế tư bản tư nhân . Cách sắp xếp theo thứ tự trên của các thành phần kinh tế đó ngụ ý coi vị trí, vai trò cũng như trình độ phát triển của thành phần kinh tế tư bản nhà nước cao hơn cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Như vậy kinh tế tư bản nhà nước trong thời kì đổi mới đã được đặt lên vị trí thứ ba trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần , đánh dấu bước phát triển trong tư duy lí luận của Đảng ta . Một lần nữa Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định , trong nền kinh tế nhiều thành phần , kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế được “khuyến khích phát triển’’ trong những ngành nghề sản xuất mà pháp luật không cấm và đề ra những biện pháp cụ thể để khuyến khích sự phát triển của nó trong khuôn khổ của luật pháp với sự điều tiết của nhà nước nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Đại hội Đảng XI đã khẳng định rằng : đến năm 2020 bên cạnh kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường thì nền kinh tế tư bản nhà nước với các hình thức khác cũng tồn tại một cách phổ biến . Đảng ta chủ trương : “Phát triển mạnh các hình thức kinh tế đa sở hữu mà chủ yếu là các doanh nghiệp đa cổ phần thông qua đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và phát triển mạnh các doanh nghiệp cổ phần mới, để hình thức kinh tế này trở thành phổ biến , chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong nền kinh tế nước ta’’. 2.Vai trò và các hình thức phát triển của chủ nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 2.1.Vai trò của thành phần kinh tế tư bản nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa –hiện đại hóa ở Việt Nam. Từ thập niên 60 của thế kỉ XX , Đảng Cộng Sản Việt Nam đề ra đường lối công nghiệp hóa – hiện đại hóa và coi đó là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội . Thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân là nhân tố quan trọng quyết định sự thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn . - Nền kinh tế nước ta bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn mang nặng tính tự cung tự cấp . Kinh tế hàng hóa tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển . Với tiềm năng và giới hạn , kinh tế tư bản nhà nước luôn luôn vận dụng một cách khoa học , căn cứ vào thị trường để có thể thu được lợi ích kinh tế , hiệu qủa kinh tế , lãi suất kinh tế tối đa cho quốc gia . - Khoa học công nghệ ngày càng phát triển . Việc vận dụng và áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sự phát triển kinh tế là một nhiệm vụ hết sức cần thiết . Việc phát triển thành phần kinh tế tư bản nhà nước để mà thông qua nó chuyển giao có chọn lọc các thành tựu khoa học công nghệ nói chung và khoa học quản lí kinh tế nói riêng của các nước tiến bộ trên thế giới . Công nghiệp hóa , hiện đại hóa đòi hỏi nguồn vốn rất to lớn . Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa , hiện đại hóa , về tình hình kinh tế Việt Nam còn gặp phải rất nhiều khó khăn về nguồn vốn , trình độ kĩ thuật cao , lao động tuy có dôì dào nhưng tay nghề còn thủ công , yếu kém , quy mô thị trường , ngành nghề lĩnh vực còn nhỏ ….. Kinh tế tư bản nhà nước tạo điều kiện tiếp thu và áp dụng một cách có hiệu quả các thành tựu khoa học công nghệ vào nền kinh tế nước ta . Thông qua kinh tế tư bản nhà nước còn góp phần giải quyết vấn đề công ăn việc làm cho người lao động , nâng cao tay nghề kĩ thuật , cải thiện bộ mặt kinh tế đất nước . Công nghiệp hóa , hiện đại hóa là quá trình phát triển cả về kinh tế lẫn xã hội . Kinh tế tư bản nhà nước không chỉ góp phần phát triển cho nền kinh tế mà còn là động lực thúc đẩy phát triển xã hội .Giải quyết vấn đề việc làm , tăng năng suất xã hội là cơ sở để người lao động gắn bó với quá trình sản xuất , phát triển nền kinh tế đất nước .Thông qua đó , giai cấp công nhân có thể học tập được cách quản lí nền sản xuất lớn mà chúng ta đang hướng tới . Đội ngũ lao động được nâng cao tay nghề , trình độ chuyên môn , phát triển cả về số lượng và chất lượng , một nhân tố quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước - Cho đến nay có thể nói Việt Nam mới hoàn thành chặng đường đầu của thời kì quá độ và nhìn chung vẫn còn đang trong tình trạng kém phát triển . Mặt khác hậu quả tàn phá của chiến tranh , do thực hiện cơ chế tập trung , bao cấp kéo dài , chúng ta chưa thể đi vào chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng . Do đó tất yếu chúng ta phải tự tạo cho mình con đường để đi lên chủ nghĩa xã hội . Thành phần kinh tế tư bản nhà nước tạo điều kiện cho kinh tế tư bản tư nhân và tiểu sản xuất hàng hóa nhỏ có môi trường phát triển thuận lợi và từng bước chuyển hóa theo con đường xã hội chủ nghĩa . Thành phần kinh tế tư bản nhà nước trở thành “chiếc cầu nối nhỏ’’ , là khâu trung gian , là một bước tiến thắng lợi trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội . Phát triển thành phần kinh tế tư bản nhà nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước vẫn còn đang trong tình trạng kém phát triển , kinh tế còn lạc hậu nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới như Việt Nam hiện nay không chỉ là con đường , là phương tiện để phát triển nhanh lực lượng sản xuất , đẩy mạnh nhanh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước , mà còn nhanh chóng đưa việt Nam thoát khỏi tình trạng kinh tế kém phát triển , tạo nền tảng để đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. - Kinh tế tư bản nhà nước là lực lượng sản xuất hiện đại và cách tổ chức quản lí tiên tiến , nền kinh tế tư bản nhà nước có trình độ xã hội hóa cao hơn trong nền kinh tế nhiều thành phần .Thành phần kinh tế tư bản nhà nước là một thành phần không thể thiếu được của một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần nhằm khai thác mọi tiềm năng , mọi nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội . - Kinh tế tư bản nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn , hiện đại hóa công nghệ và nâng cao năng lực quản lí cho các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư tư nhân . Kinh tế tư bản nhà nước hiện nay có thể coi là yếu tố đóng góp tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường và yêu cầu của công nghiệp hiện đại hóa đất nước thông qua việc tập trung và hợp vốn giữa nhà nước với các nhà tư bản tư nhân dưới hình thức liên doanh đóng góp cổ phần và hợp đồng hợp tác kinh doanh . Nhờ đó mà sẽ giải thoát được những trở ngại , phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo nhịp độ tiên tiến , hội nhập vào nền kinh tế thế giới - Với tình trạng phân tán , chia cắt trong khâu sản xuất và quản lí kinh tế ở nước ta , kinh tế tư bản nhà nước đã góp phần khắc phục những khó khăn này bằng đặc tính tập trung sản xuất và hệ thống quản lí kinh tế mở của nó . Các ngành kinh tế mang đặc tính tự phát như thương mại , dịch vụ cần được điều chỉnh . Kinh tế tư bản nhà nước là công cụ hữu ích để giải quyết vấn đề này , đẩy lùi những tình trạng tiêu cực trong nền kinh tế như tham nhũng , quan liêu , hối lộ , lãng phí . Kinh tế tư bản nhà nước trở thành bộ phận quản lí , kiểm kê nền kinh tế nhà nước , thông qua nó để giải quyết các vấn đề mới nảy sinh . - Kinh tế tư bản nhà nước có nhu cầu liên kết với nền nông nghiệp nhỏ , thúc đẩy sản xuất hàng hóa . Vì vậy kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong nền công nghiệp hóa nông nghiệp , nông thôn . Chỉ dừng lại ở kinh tế tư nhân , tư bản tư nhân trong nông nghiệp , không tiến tới tư bản nhà nước thì sẽ không có được vai trò định hướng XHCN. Phát triển Kinh tế tư bản nhà nước là nhân tố quan trọng để kết hợp công nghiệp với nông nghiệp trên phạm vi vùng , do đó hình thành vùng kinh tế . - Các hình thức đầu tư nước ngoài vào nước ta , dù gì thì về thực chất là nền kinh tế tư bản nhà nước . Các tổ chức kinh tế ấy hình thành từ sự kết hợp hai phía nội lực và ngoại lực và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước ta . Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò trong định hướng nền kinh tế theo đường lối của Đảng bằng nhân tố kinh tế . Cùng với thời gian , khu vực có vốn đầu tư nước ngoài càng phát triển và càng liên kết sâu vào nền kinh tế nội địa thì vai trò định hướng ấy càng mạnh hơn . - Trong khu vực đầu tư nước ngoài , kinh tế tư bản nhà nước không chỉ đem lại nguồn vốn , chuyển giao công nghệ , mà thậm trí còn đem vào cách quản lí kinh tế thị trường hiện đại _ điểm yếu nhất của quản lí nhà nước . Kinh tế tư bản nhà nước sẽ tạo môi trường thuận lợi cho nhà nước quản lí có hiệu quả . Kinh tế tư bản tự nó mang tính tập trung sản xuất và quản lí hiện đại của một hệ thống mở Sự nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội với yêu cầu cấp thiết trọng tâm là phát triển công nghiệp hóa , hiện đại hóa . Như vậy có thể thấy được rằng , kinh tế tư bản nhà nước đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đất nước , mà trước hết là tác dụng của nó biểu hiện trong quá trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa mà nước ta đang thực hiện . Kinh tế tư bản nhà nước coi như một cứu cánh của nền kinh tế thời kì quá độ . 2.2.Những hình thức cụ thể của thành phần kinh tế tư bản nhà nước ở Việt Nam . Trong điều kiện hiện nay không chỉ nhiều hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước không còn hoàn toàn giống như các hình thức tư bản nhà nước dười thời V.I.Lênin đầu những năm 20 của thế kỉ XX , mà còn xuất hiện nhiều hình thức mới làm tăng thêm sự đa dạng của hình thức kinh tế này . Chủ nghĩa tư bản nhà nước với tính chất là những hình thức kinh tế cụ thể đã được V.I.Lênin đề cập đến trong chính sách kinh tế mới ở Nga . Ngày nay những hình thức cụ thể ấy vẫn có giá trị cụ thể của nó , có tính hiện thực nhiều hơn , đa dạng và phong phú hơn . Những hình thức tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay có thể kể đến là : - Bao gồm các hình thức liên doanh giữa kinh tế nhà nước với các tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài . - Cho các tư bản tư nhân trong và ngoài nước , cho nông dân thuê các cơ sở sản xuất kinh doanh . Đó là điều kiện tất yếu để có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường phát triển sôi động tức là chúng ta hình thành những đặc khu kinh tế . - Hình thức kinh doanh đan xen giữa , hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu , giữa sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể và tư nhân dưới hình thức vốn và đóng góp cổ phần . Theo đó các chủ thể tham gia kinh tế tư bản nhà nước là các doanh nghiệp nhà nước , doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước , các doanh nghiệp tập thể và người lao động . - Thành lập các khu công nghiệp bằng việc cổ phần hóa doanh nghiệp và cổ phần các công ti .Hình thức là kinh tế tư bản nhà nước và cổ phần hóa xí nghiệp để trở thành xí nghiệp tư bản nhà nước .Các công ti tham gia liên doanh ở lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ . Thành lập các công ti cổ phần thông qua cổ phần hóa nhằm tăng hiệu quả kinh tế cho các doanh nghiệp nhà nước . - Hình thành các khu chế xuất , các khu công nghiệp chế biến dành chp xuất khẩu đem lại lợi nhuận và lãi xuất cao Bên cạnh đó thành phần kinh tế tư bản nhà nước còn đang ngày càng đa dạng hóa thêm nhiều hình thức mới bằng cách mở rộng thêm các hình thức kinh tế nhà nước . Nó là biểu hiện bằng cách tiếp cận thông qua mối quan hệ giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác của nền kinh tế nhà nước . II. Thực trạng và một số giải pháp cơ bản trong việc sử dụng và tiếp tục phát triển nền kinh tế tư bản nhà nước 1.Thực trạng việc sử dụng thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Tình trạng kinh tế nước ta hiện nay có nhiều chính sách chồng chéo nhau , sự lặp lại của những cái cũ dưới hình thức cái mới .Trong điều kiện hiện nay thì không chỉ nhiều hình thức của chủ nghĩa nhà nước không còn hoàn toàn giống như các hình thức tư bản nhà nước thời V.I.Lênin những năm 20 của đầu thế kỉ XX , mà còn là sự xuất hiện của nhiều hình thức mới làm tăng thêm tính đa dạng của hình thức kinh tế này . Nhưng dù có đa dạng phong phú đến đâu đi chăng nữa thì những hình thức của chủ nghĩa tư bản đó , trong điều kiện chính đảng của giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo và thực hiện công cuộc xây dựng nền kinh tế quốc dân mà ở đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng, vẫn chỉ là những bước quá độ , những nấc thang trung gian để phát triển lực lượng sản xuất , đưa nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội . Trong bối cảnh mở cửa , giao lưu , hợp tác khu vực và quốc tế ngày càng mở rộng và có chiều sâu, nhất là khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì sự phát triển mạnh mẽ có hiệu quả của thành phần kinh tế tư bản nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chẳng những giúp chúng ta đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế , rút ngắn quá trình khắc phục tình trạng kém phát triển về kinh tế so với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới mà còn tạo thêm việc làm cho người lao động , cải thiện đời sống của họ Trong 10 năm qua các hình thức kinh tế tư bản nhà nước đã góp phần đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa nhièu thành phần . Việc áp dụng rộng rãi các hình thức kinh tế tư bản nhà nước trong chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại những thành tựu rực rỡ . Chiến lược phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , không thể không phát triển nền kinh tế tư bản nhà nước . Về một phương diện nào đó , có thể nói phát triển kinh tế tư bản nhà nước là một yếu tố quan trọng trong việc giữ vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa . Bởi lẽ ở Việt Nam hiện nay , về cơ sở vật chất , nền kinh tế nước ta chưa có đủ điều kiện để trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội và do vậy chúng ta có thể và cần phải sử dụng nền kinh tế tư bản nhà nước để thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa . Đối với Việt Nam , việc tận dụng sản xuất tư bản trong và ngoài nước , nhất là bằng cách hướng chúng vào con đường phát triển kinh tế tư bản nhà nước , lấy kinh tế tư bản nhà nước làm phương tiện để tăng nhanh lực lượng sản xuất có thể coi là một trong những con đường hiện thực nhất , có triển vọng nhất . Dưới đây là một số nhưng thực trạng điển hình của việc sử dụng kinh tế tư bản nhà nước và nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó: 1.1. Thực trạng của tình hình đầu tư trong nước (đầu tư của tư bản tư nhân) Dưới hình thức kinh tế tư bản nhà nước , chẳng những chúng ta thu hút được tư bản nước ngoài mà còn thu hút được tư bản trong nước bằng cách cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước , hùn vốn kinh doanh và do đó thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển hơn nữa . Đây là một trong những nhân tố hình thành nên kinh tế tư bản nhà nước. Nguồn vốn đầu tư trong nước ngày càng được đa dạng hóa , bao gồm từ vốn ngân sách nhà nước , từ doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và dân cư , từ vốn huy động trái phiếu công trình , từ vốn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước . Về cơ cấu đầu tư trong nước có thay đổi , tỉ trọng vốn đầu tư của nhà nước giảm , còn tỉ trọng nguồn vốn ngoài nước ngoài tăng . Hình thức đầu tư cũng có nhiều biến đổi , đã có các dự án. Xu hướng sử dụng vốn đầu tư đang nghiêng về thương mại , dịch vụ , những dịch vụ có lợi nhuận cao, thu hồi vốn nhanh được sử dụng phổ biến . Hiện nay khu vực này có các hình thức tổ chức như : doanh nghiệp tư nhân , công ti trách nhiệm hữu hạn , công ti cổ phần , nhưng chỉ phát triển nhanh trong năm 1992-1996 , còn giảm sút từ 1997-1999 . Tuy nhiên , tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân , tư bản tư nhân chưa phát huy được mấy , còn lâu mới có thể khai thác được một cách triệt để , có hiệu quả nguồn nội lực này . *Nguyên nhân : - Do quan điểm , tư tưởng phân biệtđối xử còn ảnh hưởng trong bộ ph._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0085.doc
Tài liệu liên quan