Sự sẵn sàng của Việt Nam trong việc thực hiện thương mại điện tử trên lĩnh vực phát triển công nghệ thông tin

Mục Lục Trang Lời Mở Đầu CHƯƠNG I Các Vấn Đề Chung Về Thương Mại Điện Tử I Khái niệm về Thương Mại Điện Tử 1. Công nghệ thông tin 2. Khái niệm Thương Mại Điện Tử 3. Phạm vi của Thương Mại Điện Tử 3.1 Lĩnh vực công nghệ 3.2 Lĩnh vực marketing và tạo ra khách hàng mới 3.3 Lĩnh vực kinh tế 3.4 Sự liên kết điện tử 3.5 Giá trị gia tăng của thông tin 3.6 Phát triển thị trường 3.7 Cơ sở hạ tầng dịch vụ 3.8 Luật pháp, tính riêng tư và các chính sách công cộng II Lợi ích của Thương Mại

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1283 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Sự sẵn sàng của Việt Nam trong việc thực hiện thương mại điện tử trên lĩnh vực phát triển công nghệ thông tin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Điện Tử 1. Lợi ích từ phía người sản xuất 2. Lợi ích từ phía người tiêu dùng 3. Lợi ích từ phía xã hội III Các điều kiện cần thiết cho sự phát triển Thương Mại Điện Tử 1. Điều kiện hạ tầng công nghệ thông tin 2. Cơ sở hạ tầng kinh tế 3. Hành lang pháp lý 4. Điều kiện nhân lực IV Tình hình phát triển Thương Mại Điện Tử trên thế giới và trong khu vực. 1. Thương Mại Điện Tử trên thế giới 2. Thương Mại Điện Tử ở Mỹ 3. Thương Mại Điện Tử ở Trung Quốc 4. Thương Mại Điện Tử ở các nước ASEAN CHƯƠNG II Thực Trạng Phát Triển CNTT Cho TMĐT ở Việt Nam I Chiến lược chung phát triển Thương Mại Điện Tử 1. Phát triển cùng Internet. 2. Tổ chức linh hoạt 3 Sử dụng Thương Mại Điện Tử 4. Hoạt động kiểu mới trên thị trường 5. Các vấn đề về tổ chức 6. Vấn đề thực hiện 7. Vấn đề tiếp thị II Thương Mại Điện Tử ở Việt Nam 1. Thực trạng phát triển CNTT ở Việt Nam và tác động của nó đến Thương Mại Điện Tử 2. Hạ tầng cơ sở CNTT ở Việt Nam 2.1 Công nghệ tính toán 2.2 Công nghệ truyền thông III Những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của CNTT tới hoạt động Thương Mại Điện Tử CHƯƠNG III Nhiệm Vụ, Giải Pháp Phát Triển CNTT Trong Thương Mại Điện Tử I Mục tiêu, chủ trương phát triển CNTT ở Việt Nam II Nhiệm vụ, giải pháp phát triển CNTT ở Việt Nam 1. ứng dụng rộng rãi, có hiệu quả CNTT trong toàn xã hội để sớm tiếp cận Thương Mại Điện Tử 2. Tạo môi trường thuận lợi cho ứng dụng CNTT và phát triển CNTT phục vụ Thương Mại Điện Tử 3. Đẩy mạnh việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực cho ứng dụng và phát triển CNTT trợ giúp TMĐT 4. Đẩy mạnh việc xây dựng mạng thông tin quốc gia bao gồm hệ thống viễn thông và Internet Việt Nam 5. Tăng cường đổi mới công tác quản lý nhà nước với lĩnh vực CNTT Kết Luận Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo Lời Mở Đầu Thương mại điện tử là một chủ đề nóng bỏng tác động mạnh tới cuộc sống hàng ngày của nhiều người. Sẽ là không quá khi nói rằng thương mại điện tử là bí quyết mới nhất cho dù nó gắn bó chặt chẽ với công nghệ Internet và máy tính mới. Thương mại điện tử có thể được xem như là một hiện tượng phổ biến nhưng nhiều người chỉ mới hiểu biết mơ hồ về nó. Nhiều người trể tuổi muốn hiểu nó đầy đủ nhưng khi khái niệm thương mại điện tử phức tạp đã cản trở mong muốn của họ. Các doanh nhân cũng muốn nhảy vào phong trào này nhưng lại thiếu tri thức và sự hoach định nhất định. Nhưng với ảnh hưởng sâu xa của nó, thương mại điện tử thực sự hoàn thiện tương lai của nhân loại. Do đó, việc nghiên cứu thương mại điện tử không chỉ giới hạn ở việc am hiểu nó. “Thương mại điện tử nói chung được nhìn nhận như một sự phát triển tự nhiên, tất yếu của thương mại trong một kinh tế số hóa”. Như một tất yếu khách quan, Việt Nam sẽ tham gia thương mại điện tử. Thương mại địên tử sẽ góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ động tham gia thương mại điện tử, chúng ta sẽ nâng cao được vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế Tại sao thương mại điện tử lại xuất hiện ? Thực chất thương mại điện tử là gì ? Tại sao nó lại trở nên quan trọng đến thế ? Thương mại điện tử sẽ tác động thế nào đến cuộc sống của chúng ta ? Đây là những câu hỏi đặt ra mà chúng ta cần nghiên cứu để tìm hiểu rõ hơn về thương mại điện tử. Do vậy, việc nghiên cứu quá trình ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam là việv làm cần thiết để có kế hoạch chiến lược chung phát triển trong tương lai. Với câu hỏi, liệu Việt Nam đã sẵn sàng tham gia vào thương mại điện tử hay chưa, đề tài “ Sự sẵn sàng của Việt Nam trong việc thực hiện thương mại điện tử trên lĩnh vực phát triển công nghệ thông tin” sẽ giải quyết phần nào thắc mắc trên. Đề tài nêu ra những hạn chế và nguyên nhân trong việc thực hiện thương mại điện tử ở Việt Nam để từ đó có thể khắc phục trên con đường thực hiện phương thức giao dịch mới mẻ này. Kết cấu của đề án được chia làm ba chương: Chương I : Các Vấn Đề Chung Về Thương Mại Điện Tử Chương II : Thực Trạng Phát Triển CNTT Cho TMĐT ở Việt Nam. Chương III : Nhiệm Vụ, Giải Pháp Phát Triển CNTT Trong Trong quá trình nghiên cứu, được sự giúp đỡ tận tình của GV Nguyễn Hải Đạt em đã hoàn thành đề án với những phân tích có thể chưa chi tiết rõ ràng, và rất mong nhận được sự góp ý bổ sung để hoàn chỉnh hơn. Chương I : Các Vấn Đề Chung Về Thương Mại Điện Tử. I. Khái niệm về Thương Mại Điện Tử Từ ý nghĩa trực tiếp thì thương mại điện tử (TMĐT) ở quy mô lớn sẽ mang lại nhiều lợi ích về nghiệp vụ cho các công ty viễn thông. Về lâu dài, nó có thể giúp các nghành nghề truyền thống tìm kiếm các cơ hội phát triển mới, thực hiện việc chuyển từ phương thức kinh tế truyền thống sang kinh tế mạng, chuyển đổi cơ sở thông tin trong nước từ trình độ cơ bản hiện nay lên trình độ cao hơn, xây dựng cơ sở vững chắc cho sự phát triển kinh tế và phát triển ngành công nghệ thông tin với tốc độ cao của thế kỉ XI, cuối cùng tạo ra sự hòa hợp giữa mạng thông tin, mạng lưu thông vật chất và lưu thông tiền tệ đồng thời làm cho chúng trở thành hệ thống dịch vụ công cộng của toàn xã hội, thực hiện mục tiêu mạng hóa đời sống cá nhân và hiện đại hóa sự phát triển của doanh nghiệp. Vậy thì phát triển TMĐT đòi hỏi những điều kiện cơ bản gì, TMĐT sẽ kết hợp thống nhất các yếu tố lưu thông tin tức, lưu thông hàng hóa và tiền tệ như thế nào? Đây là vấn đề then chốt cho sự phát triển của TMĐT mà mọi người đều quan tâm, nhất là sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta diễn ra trong giai đoạn bùng nổ công nghệ và xu thế toàn cầu hóa. 1. Công nghệ thông tin (CNTT) Vào đầu thập niên 90 của thế kỉ XX, khi những tiến bộ về khoa học và công nghệ trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động thông tin trong xã hội đã đạt đến một trình độ nhất định thì khái niệm CNTT ngày càng được sử dụng hơn trong xã hội. Cốt lõi của CNTT là phương thức tổ chức hoạt động thông tin xã hội trên nền tảng các hệ thống máy tính liên thông với nhau theo các tiêu chuẩn xác định thay thế cho phương thức truyền thống là tổ chức thông tin cục bộ trên các vật thể nặng (các tài liệu, chứng từ in trên giấy). Những thành tựu to lớn trong lĩnh vực số hóa thông tin đa phương tiện (văn bản, đồ họa, hình ảnh, âm thanh, vi deo là năm phương tiện diễn đạt thông tin) và tổ chức các dữ liệu đó trên các hệ thống máy tính chính là động lực phát triển CNTT hiện đại. Khả năng chuyển những khối thông tin cục bộ, rời rạc thành nguồn tài nguyên quan trọng nhất trong đời sống xã hội đã làm cho CNTT trở thành ngành phát triển chiến lược mà tất cả các quốc gia trên thế giới đều quan tâm. Vậy công nghệ thông tin là gì? -Sách ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước viết: “CNTT là thuật ngữ dùng để chỉ các ngành khoa học và công nghệ liên quan đến thông tin và các quá trình sử lý thông tin. Theo quan niệm này thì CNTT là hệ thống các phương pháp khoa học, công nghệ, phương tiện, công cụ, bao gồm chủ yếu là các máy tính, mạng truyền thông và hệ thống các kho dữ liệu nhằm tổ chức, lưu trữ, truyền dẫn và khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn thông tin trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội, văn hóa...của con người”. -Sách thông tin học viết: “CNTT có thể coi là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại_chủ yếu là máy tính điện tử và các mạng viễn thông _ nhằm cung cấp các giải pháp toàn thể để xử lý, tổ chức, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin phong phú và tiềm tàng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người.” Có thể nói hạt nhân của CNTT là tin học và viễn thông. Tin học là khoa học và công nghệ xử lý thông tin một cách tự động và hợp lý bằng máy tính điện tử. Công cụ nhỏ yếu của tin học là máy tính điện tử (phần cứng) và các chương trình máy tính, gồm các chương trình hệ thống và các chương trình chuyên dụng. Viễn thông là sự truyền chữ viết, âm thanh, hình ảnh hay dữ liệu dưới dạng tín hiệu quang, điện, điện tử hay các xung điện, thông qua các phương tiện truyền tin. Các phương tiện truyền tin bao gồm truyền cáp (dùng dây dẫn kim loại hoặc cáp quang), rađiô, truyền hình, sóng cực ngắn và vệ tinh”. “Dữ liệu số có thể sản sinh trực tiếp dưới dạng mã nhị phân bởi máy tính điện tử hoặc cũng có thể sản sinh bằng cách mã hóa các tín hiệu âm thanh, hình ảnh chữ viết. Mạng truyền dữ liệu là mạng thông tin được tạo ra bằng cách nối các nguồn tin với nhau sao cho các dữ liệu có thể lưu thông tự do giữa chúng. Các dữ liệu có thể là các mục thông tin, các nhóm tin hoặc các chương trình máy tính”. Internet- Intranet được xem là thành phần đặc sắc nhất của CNTT hiện đại. Internet-Intranet là công nghệ tổ chức các mạng máy tính liên thông với nhau trên toàn cầu, tạo nên những siêu lộ thông tin ngay càng hoàn hảo.Với công nghệ Internet-Intranet, các “kho thông tin” hay các “nguồn tin” (website) nằm rải rác khắp nơi trên toàn thế giới ( hiện đã lên đến khoảng 2 tỷ, có nguồn tài liệu có khoảng 4 tỷ) có thể kết nối với nhau và tạo ra một nguồn thông tin chung của nhân loại phục vụ cho mọi đối tượng trên toàn cầu. Hệ thống viễn thông quuốc tế với các tuyến cáp quang và các vệ tinh viễn thông chính là các siêu lộ phục vụ cho hàng trăm triệu người trên khắp hành tinh trao đổi, làm việc với nhau và với các kho tin. Khả năng này mở ra hàng loạt thách thức làm ăn mới, trong đó TMĐT được xem là quan trọng nhất. 2. Khái niệm thương mại điện tử. TMĐT là bước phát triển cùng với sự xã hội thông tin hóa là một khái niệm mới xuất hiện vào thập kỷ 90 ở Hoa Kỳ, châu Âu và các nước phát triển khác. Hiện nay trên thế giới chưa có định nghĩa thống nhất về TMĐT , và dưới đây là một số khái niệm đang phổ biến: Trong báo cáo dự án quốc gia “kỹ thuật thương mại điện tử”, các tác giả viết: “Theo định nghĩa rộng rãi nhất, giản dị nhất, và đã được chấp nhận phổ biến thì TMĐT là việc sử dụng các phương pháp điện tử để làm thương mại”, nói chính xác hơn , TMĐT là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử, mà nói chung là không cần phải in ra giấy trong bất kỳ công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch. Trong định nghĩa trên, chữ “thông tin” (information) không được hiểu theo nghĩa hẹp là “tin tức” mà là bất cứ gì có thể truyền tải bằng kỹ thuật điện tử, bao gồm cả thư từ, các tập tin văn bản, cơ sở dữ liệu, các bảng tính, các bản vẽ thiết kế bằng máy tính điện tử, các hình đồ họa, quảng cáo, hỏi hàng, đơn hàng, hóa đơn, biểu giá, hợp đồng, hình ảnh động, âm thanh,v.v... Khái niệm thương mại trong TMĐT cần được hiểu như cách diễn đạt sau đây của Uỷ ban thuộc Liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế, đã được ghi trong đạo luật mẫu về thương mại điện tử do uỷ ban này thảo ra và đã được liên hợp quốc thông qua. Thuật ngữ ‘thương mại” cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề nảy sinh ra từ mọi mối quan hệ mang tính chất thương mại, dù có hay không có hợp đồng.Các mối quan hệ mang tính thương mại bao gồm , nhưng không chỉ bao gồm các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch thương mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ ; thỏa thuận phân phối ; đại diện hoặc đại lý thương mại; uỷ thác hoa hồng ; cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình; đầu tư ; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh và các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa, hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ. Ngoài ra uỷ ban châu Âu cũng đưa ra định nghĩa TMĐT : TMĐT được hiểu là việc thực hiện kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng văn bản, âm thanh và hình ảnh. TMĐT trong định nghĩa này là gồm nhiều hành vi, trong đó có hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ, giao nhận các nộng dung kỹ thuật số trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, đấu giá thương mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng, tiếp thị trực tiếp tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng, đối với thương mại hàng hóa (ví dụ như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính), các hoạt động tuyên truyền (như chăm sóc sức khỏe giáo dục) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị ảo) Theo tổ chức thương mại thế giới (WTO) : TMĐT bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình cả các sản phẩm được giao nhận cũng như những thông tin số hóa qua mạng Internet. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) cũng đưa ra đinh nghĩa: ”TMĐT được định nghĩa sơ bộ là các giao dịch thương mại dựa trên truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông như Internet” Như vậy, thương mại trong TMĐT không chỉ theo cách hiểu thông thường, mà còn bao quát một phạm vi rộng hơn nhiều và việc áp dụng thương mại điện tử sẽ làm thay đổi hoạt động của hầu hết các hoạt động kinh tế. Theo ước tính hiện nay, TMĐT có tới trên 1300 lĩnh vực ứng dụng, trong đó, buôn bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một lĩnh vực ứng dụng. Ngoài ra còn có rất nhiều khái niệm TMĐT xuất phát từ những góc dộ khác nhau, chúng hoặc là khái quát cao độ các hoạt động của TMĐT, hoặc là chỉ định nghĩa về một đặc trưng của TMĐT : “Thương mại điện tử là hoạt động giao dịch trên mạng thông tin”. “Thương mại điện tử là thực hiện điện tử hóa toàn bộ hoạt động thương mại”. “Thương mại điện tử là việc ứng dụng của các công cụ điện tử trong quá trình thương mại”. “Thương mại điện tử là thực hiện điện tử hóa quá trình giao dịch hàng hóa thông qua Internet với tốc độ cao”. “Thương mại điện tử là chỉ thị trường mua bán hàng hóa đã được điện tử hóa”. “Thương mại điện tử là thực hiện điện tử hóa, tự động hóa tất cả các khâu từ trước khi bán hàng đến sau khi bán hàng”. “Thương mại điện tử chính là thực hiện giao dịch trực tiếp và không dùng giấy tờ trong quá trình hoạt động thương mại”. “Thương mại điện tử là quá trình thực hiện điều tiết quy trình vật tư và nhân lực trên mạng bằng phương thức điện tử để tiến hành các hoạt động trao đổi thương mại”. “Thương mại điện tử =web + nghiệp vụ doanh nghiệp”. “Thương mại điện tử = thị trường điện tử hóa + giao dịch điện tử hóa+ dịch vụ điện tử hóa”. “Thương mại điện tử là để chr toàn bộ quá trình sử dụng các công cụ điện tử thực hiện các hoạt động trao đổi thương nghiệp và thao tác nghiệp vụ thương nghiệp trên cơ sở máy vi tính và mạng thông tin”. Bên cạnh những định nghĩa trên, có nhiều quan điểm cho rằng, TMĐT có thể hiểu theo nhiều nghĩa tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu. Thí dụ , theo R.Kalakota và A.Wiston, TMĐT có thể hiểu theo các cách được mô tả ở bảng sau : Bảng 3. Khái niệm thương mại điện tử từ các góc độ Góc độ Mô tả Công nghệ thông tin Thương mại điện tử là việc cung cấp, phân phối thông tin, các sản phẩm/ dịch vụ, các phương tiện thanh toán qua đường dây điện thoại, các mạng truyền thông hoặc qua các phương tiện điện tử khác. Kinh doanh Thương mại điện tử là việc ứng dụng công nghệ (chủ yếu là công nghệ thông tin) để tự động hóa các giao dịch kinh doanh và các kênh thông tin kinh doanh Dịch vụ Thương mại điện tử là công cụ để các doanh nghiệp , người tiêu dùng , các nhà quản lý cắt giảm các chi phí dịch vụ, đồng thời nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ và tăng tốc độ cung cấp dịch vụ cho khách hàng Trực tuyến Thương mại điện tử cung cấp khả năng tiến hành các hoạt động mua, bán hàng hóa, trao đổi thông tin trực tiếp trên Internet cùng nhiều dịch vụ trực tuyến khác. Để có một cách hiểu thống nhất, có thể định nghĩa : Thương mại điện tử là việc ứng dụng các công nghệ thông tin để tiến hành các giao dịch mua - bán các sản phẩm, dịch vụ và thông tin thông qua các mạng máy tính có sử dụng các tiêu chuẩn truyền thông chung. Những khái niệm trên về TMĐT xuất phát từ những góc dộ khác nhau, chúng hoặc là khái quát cao độ các hoạt động của TMĐT hoặc chỉ là định nghĩa về một đặc trưng của TMĐT. Từ các định nghĩa trên đây, có thể hiểu một cách ngắn gọn như sau: TMĐT là một phương thức thương mại sử dụng: +Phương tiện diễn đạt thông tin điện tử (Electronic Media) +Phương tiện liên lạc điện tử (Electronic Communication) +Phương tiện thanh toán điện tử (Electronic Payment) Như vậy TMĐT là một hình thức hoạt động thương mại mới, nó thông qua việc sử dụng các công cụ của công nghệ thông tin hiện đại, lấy mạng thông tin số hóa và máy vi tính để thay thế cho quá trình sử dụng giấy làm môi trường truyền tải tin, bao gồm tất cả các khâu như lưu trữ, chuyển giao, thống kê, ban bố thông tin v.v...từ đó thực hiện các giao dịch trên mạng về các hoạt động như giao dịch hàng hóa và dịch vụ cũng như việc quản lý giao dịch, đồng thời đạt được mục tiêu thực hiện việc lưu thông hàng hóa và tiền tệ hiệu quả cao, chi phí thấp, thông tin hóa quản lý, mạng hóa hoạt động kinh doanh.Hoạt động TMĐT làm mờ đi khái niệm về không gian cũng như biên giới quốc gia, làm mờ đi khái niệm thời gian, mở ra cho các doanh nghiệp trên toàn thế giới khả năng giao dịch, trao đổi mua bán hàng trên toàn cầu, cho hàng tỷ người tiêu dùng chứ không chỉ giới hạn trong những thị trường nhỏ hẹp trước đây. 3. Phạm vi của TMĐT TMĐT bao trùm nhiều lĩnh vực rộng lớn khác nhau. Một số lĩnh vực cơ bản liên quan trực tiếp đến TMĐT, bao gồm : 3.1 Lĩnh vực công nghệ. Cơ sở để thực hiện TMĐT là các mạng thông tin toàn cầu, nơi diễn ra các hoạt động nghiên cứu thị trường, các hoạt động giao dịch liên tổ chức và các quá trình kinh doanh. Trong số các mạng này, Internet đóng vai trò quan trọng nhất. Ngoài ra, có nhiều mạng thông tin khác như mạng giá trị gia tăng, mạng trao đổi dữ liệu điện tử,... cũng đóng vai trò quan trọng. 3.2 Lĩnh vực marketing và tạo ra khách hàng mới. TMĐT tạo ra những kênh liên kết mới với khách hàng, tạo ra cơ hội mới để xúc tiến, quảng bá các sản phẩm thông qua các phương tiện mới. TMĐT mở rộng biên giới của các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tiếp cận trực tiếp với khách hàng của mình. 3.3 Lĩnh vực kinh tế. TMĐT là yếu tố cơ bản của nền kinh tế mới, một nền kinh tế dựa trên cơ sở thông tin, hình thành từ các cơ quan và các tổ chức kinh tế mới. TMĐT tạo ra các thị trường và các hoạt động mới được mô tả bằng những dòng thông tin trực tiếp, sự xuất hiện của những trung gian mới, sự thay đổi của các quy luật kinh tế và chức năng thị trường. Những thay đổi trên sẽ dẫn tới thay đổi những giá trị chủ yếu của nền kinh tế, đòi hỏi các quốc gia, các doanh nghiệp phải có những chiến lược và những mô hình kinh doanh phù hợp. 3.4 Sự liên kết điện tử. TMĐT cung cấp các mối liên kết mới nhằm tạo ra hiệu quả cao hơn cho các hoạt động kinh tế, bao gồm : a) Giao diện giữa các doanh nghiệp và khách hàng. b) Sự liên kết giữa doanh nghiệp với các kênh kinh doanh của nó. c) Sự phối hợp giữa các bộ phận khác nhau trong nội bộ doanh nghiệp. 3.5 Giá trị gia tăng của thông tin. TMĐT thúc đẩy sự tách rời các chuỗi giá trị trên cơ sở thông tin khỏi các chuỗi giá trị gia tăng vật lý. Các chuỗi giá trị trên cơ sở thông tin (còn gọi là các chuỗi giá trị ảo ) tạo ra những phương thức mới để thu thập, tổng hợp, đóng gói, phân phối thông tin về thị trường cũng như đối với các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. 3.6 Phát triển thị trường. Mạng thông tin toàn cầu giúp TMĐT có cơ hội hình thành các thị trường điện tử phù hợp với người mua và người bán. Đặc trưng cơ bản của thị trường mới này là trao đổi thông tin thời gian thực, tương tác truyền thông, phạm vi hoạt động và liên kết rộng, nội dung phong phú. Các đặc điểm này làm tăng tính hiệu quả của thị trường trong việc trao đổi hàng hóa, phân phối các nguồn lực và các hoạt động mua bán. 3.7 Cơ sở hạ tầng dịch vụ. TMĐT đòi hỏi những dịch vụ khác nhau để hỗ trợ các chức năng tiềm tàng, các hoạt động, các yêu cầu và các ứng dụng của nó. Để thực hiện các dịch vụ này, đòi hỏi phải xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp như hạ tầng về mã hóa công cộng, về thanh toán và ngân hàng, về dịch vụ thông tin cho các tổ chức, về công cụ tìm kiếm, truy lục dữ liệu, tổ chức thông tin, tổng hợp thông tin, hạ tầng cho việc xử lý giao dịch giữa các doanh nghiệp, chia sẻ thông tin từ danh mục hàng hóa của nhà cung ứng và phối hợp các chuỗi cung ứng.. 3.8 Luật pháp, tính riêng tư và các chính sách công cộng. Toàn bộ những thay đổi về cấu trúc, tổ chức, quá trình và công nghệ do TMĐT đưa lại đòi hỏi phải có một khuôn khổ mới, cụ thể hóa các nhu cầu về luật pháp, tính riêng tư và chính sách công cộng. Đây là một nhiệm vụ rất khó khăn bởi số lượng và tính phức tạp của các lĩnh vực có liên quan, nhưng nó cũng là một khía cạnh cần được quan tâm đầu tiên khi áp dụng TMĐT để bảo vệ quyền lợi của những người tham gia. Việc cụ thể hóa các vấn đề liên quan cũng đòi hỏi phải có sự cân nhắc khi tiếp cận để vừa đảm bảo quyền lợi, vừa tránh những xung đột tiềm tàng giữa các bên tham gia TMĐT. II. Lợi ích của thương mại điện tử. 1. Lợi ích từ phía người sản xuất. * TMĐT có ích rất lớn đối với doanh nghiệp trong quá trình sản xuất và tiến hành các giao dịch thương mại. - Cơ hội giảm chi phí : Các doanh nghiệp luôn có xu hướng làm sao giảm chi phí đến mức tối đa để nâng cao lợi nhuận. Cụ thể TMĐT làm giảm chi phí tiêu thụ, chi phí liên quan đến việc mua sắm của doanh nghiệp, chi phí liên quan đến việc quản lý chuỗi cung ứng của doanh nghịep và chi phí liên quan đến các hoạt động hậu cần. - Chi phí tiêu thụ: Do các website hoạt động 24/ 24 giờ một ngày, 7 ngày/1 tuần và có giá trị với thị trường toàn cầu ở bất kỳ thời điểm nào. Do vậy doanh nghiệp có thể phục vụ một tập khách hàng lớn mà không cần phải xây dựng tổ chức hay phân loại các cửa hàng thực. So với việc quản lý nhiều cửa hàng, việc quản lý một cửa hàng ảo cho phép doanh ngiệp cắt giảm được nhiều chi phí trong khâu quản lý, đặc biệt là chi phí kiểm kê hàng hóa. Việc truy cập 24/ 24 giờ tới các cửa hàng ảo đem lại sự tiện lợi này là một đặc tính ưu việt, có giá trị và ngày càng tăng của các hoạt động kinh doanh ảo. -Chi phí liên quan đến việc mua sắm của doanh ngiệp: Mục tiêu của nhiều ứng dụng mua sắm trong TMĐT là kết nối trực tiếp các tổ chức với các catalog của các nhà cung cấp ngay từ trước khi nó được chấp nhận và toàn bộ quá trình mua hàng đều được thực hiện trên web. ở đây không đề cập đến các chi phí liên quan đến mua hàng hóa, sản phẩm kinh doanh và những chi phí mua nguyên liệu, vật liệu thô sử dụng để sản xuất trực tiếp ra các sản phẩm và cung cấp các dịch vụ mà hoạt động mua sắm của các doanh ngiệp chủ yếu bao gồm việc mua các sản phẩm liên quan tới các lĩnh vực bảo trì, sửa chữa và vận hành việc kết nối với các catalog điện tử làm giảm đáng kể nhu vầu kiểm tra tính kịp thời và độ chính xác của các thông tin mà những người bán hàng cung cấp, từ đó làm giảm chi phí cung ứng đầu vào cho các doanh nghiệp. -Chi phí liên quan đến việc quản lý chuỗi cung ứng: Trong kinh doanh điện tử các doanh nghiệp không cạnh tranh trực tiếp với nhau mà dịch chuyển theo chiều hướng cạnh tranh về sự tập trung của chuỗi cung ứng vào các doanh nghiệp, Sự khác nhau về chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp thể hiện qua việc quản lý các thông tin ”trôi nổi”, việc nắm bắt các thông tin đó ở một nơi nào đó, thấy được các lợi ích của nó và biến nó thành hành động ở một nơi khác. Nếu toàn bộ quá trình đó thực hiện tốt hơn của đối thủ, doanh nghiệp sẽ thắng lợi trong cạnh tranh. Chính vì vậy dù là quá trình đơn giản so với các hoạt động kinh doanh khác nhưng các doanh nghiệp kinh doanh điện tử luôn cố gắng cấu trúc và cấu trúc lại toàn bộ chuỗi cung ứng, đồng thời giảm các chi phí liên quan của doanh nghiệp. -Chi phí liên quan đến các hoạt động hậu cần: Có thể nói TMĐT đã làm thay đổi các hoạt động thuộc lĩnh vực hậu cần của doanh nghiệp như việc đóng gói, chuyển dịch hàng hóa... và biến nó thành lĩnh vực kinh doanh thông tin. Tác động của TMĐT tới chi phí của hoạt động hậu cần doanh nghiệp có ý nghĩa to lớn. Hiện nay các doanh nghiệp không cần phải lo lắng về việc theo dõi các kiện hàng của mình gửi đi, dù có phải chuyển nó tới bất cứ đâu trên thế giới. Với những lợi ích mà web mang lại, hoạt động giám sát kiểm tra giao nhận hàng hóa của các doanh nghiệp sẽ trở nên rất đơn giản, tạo điều kiện cho quá trình thanh toán được nhanh hơn. * Ngoài ra kết nối Internet cho phép doanh nghiệp có được những thông tin đầy đủ và cập nhật về những vấn đề mà doanh nghiệp quan tâm. Đồng thời các nhân viên của doanh nghiệp cũng có điều kiện để thảo luận trao đổi trực tiếp với khách hàng, nhà cung ứng...thông qua dịch vụ thư tín điện tử và các dịch vụ viễn thông khác với thời gian và chi phí thấp nhất. Cũng trong quá trình giao tiếp, doanh nghiệp có thể ngay lập tức hình thành sơ đồ về khách hàng và các đối tác kinh doanh của mình, phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp * TMĐT tạo ra những kênh liên kết mới với khách hàng, tạo ra cơ hội mới để xúc tiến, quảng bá các sản phẩm thông qua các phương tiện mới. TMĐT mở rộng biên giới của các doanh nghiệp , giúp doanh nghiệp tiếp cận trực tiếp với khách hàng của mình. * Doanh nghiệp có thể phát triển thị trường bằng mạng thông tin toàn cầu với đặc trưng cơ bản là trao đổi thông tin. 2. Lợi ích từ phía người tiêu dùng. TMĐT giúp khách hàng dễ dàng hơn trong việc lựa chọn khi mua hàng. Quảng cáo điện tử cung cấp cho khách hàng những thông tin chính xác về cửa hàng gần nhất chứa mặt hàng đó, thời gian và cách kinh doanh của cửa hàng, thậm chí cả cách gợi ý cách xem xét sản phẩm. Nếu khách hàng không muốn tận mặt xem hàng trước khi mua, các đơn hàng có thể được đặt và được thanh toán theo kiểu điện tử. TMĐT tạo ra nhiều cơ hội mới cho cả người tiêu dùng cá lẻ và các doanh nghiệp. Khi TMĐT hoàn thiện và ngày càng nhiều doanh nghiệp tổ chức kinh doanh trực tuyến, khách hàng có thể so sánh dễ dàng hơn. Với khả năng tương tác, giao tác TMĐT sẽ giúp cho người bán hàng và người mua hàng giao tiếp với nhau, tuy đó là giao tiếp ảo, hiểu nhau hơn và từ đó điều chỉnh hoạt động của mình, mở ra khả năng mới cho giao thương quốc tế. Khi đặt yêu cầu mua hàng hoặc khi mua hàng qua mạng, khách hàng đã để lại những thông tin về chính mình. Với khả năng tích hợp và kết suất thông tin cao, mạng máy tính sẽ giúp nhà kinh doanh biết và chủ động hướng dẫn khách hàng để khách hàng tiếp cận với sản phẩm gần hơn. TMĐT giúp cho người tiêu dùng có thể tiếp cận mua hàng của bất cứ nhà sản xuất nào trên thế giới mà mình ưa thích. TMĐT tạo ra cho người tiêu dùng khả năng lựa chọn rộng hơn rất nhiều, gần như vô tận. Như vậy đã hình thành một thị trường phi biên giới cho các doanh nghiệp lẫn người tiêu dùng. Lúc này người tiêu dùng có thể mua hàng tại nhà mà không cần phải đi đâu xa. 3. Lợi ích từ phía xã hội. Việc phát triển TMĐT sẽ mở rộng mối quan hệ giao lưu hợp tác về thương mại giữa nước ta với các nước khác trên thế giới, các giá trị kinh tế _văn hóa_xã hội tiêu biểu của dân tộc ta sẽ được giới thiệu ra các nước và các giá trị kinh tế_văn hóa_xã hội tiêu biểu của các nước sẽ được du nhập vào nước ta. Về mặt kinh tế, TMĐT là yếu tố cơ bản của nền kinh tế mới, một nền kinh tế dựa trên cơ sở thông tin, hình thành từ các cơ quan và các tổ chức kinh tế mới. TMĐT tạo ra các thị trường và các hoạt động mới được mô tả bằng những dòng thông tin trực tiếp, sự xuất hiện của những trung gian mới, sự thay đổi của các quy luật kinh tế và các chức năng thị trường. Những thay đổi trên sẽ dẫn tới thay đổi những giá trị chủ yếu của nền kinh tế, đòi hỏi các quốc gia, các doanh nghiệp phải có những chiến lược và những mô hình kinh doanh phù hợp. TMĐT góp phần thúc đẩy và phổ biến ngày càng rộng rãi những thay đổi đang được tiến hành của nền kinh tế, như việc cải cách các quy định, toàn cầu hóa các hoạt động kinh tế. Như vậy, nhờ có TMĐT, nhiều xu hướng thụôc các lĩnh vực cũng đang được tiến hành như ngân hàng điện tử, đặt chỗ du lịch trực tiếp ,v.v... TMĐT trên Internet tác động tới các hoạt động tương tác trong nền kinh tế. Những liên kết này đang được mở rộng trong nước và trải rộng khắp thế giới. Với sự hỗ trợ của kĩ thuật, con người có thể thông tin liên lạc và thực hiện các giao dịch kinh doanh ở mọi lúc và mọi nơi. Chính điều này là một ảnh hưởng sâu rộng làm xói mòn ranh giới giữa các khu vực kinh tế cũng như giới hạn địa lý giữa các quốc gia. III Các điều kiện cần thiết cho sự phát triển TMĐT. Kinh nghiệm của các nước cho thấy để thực hiện TMĐT , phải xác lập được bốn điều kiện cần và đủ sau : 1. Điều kiện hạ tầng công nghệ thông tin. Trước tiên là hạ tầng truyền thông phải đạt mức tiêu chuẩn quốc tế để có thể truyền tải được thông tin dưới dạng hình ảnh, đồ họa, video. Kế tiếp là hệ thống các thiết bị kỹ thuật mạng, truy cập từ xa, an toàn kỹ thuật. Thông thường, một quốc gia muốn phát triển TMĐT thì mạng trục thông tin quốc gia đóng vai trò xương sống. Mạng này, đối với trong nước được ví như con sông cái nơi mọi sông con đổ vào, đối với quốc tế được ví như cửa sông đổ ra biển. Thông tin có thông thương hay không, một phần quan trọng phụ thuộc vào dải thông của mạng trục, hay như thường nói, vào tốc độ của mạng trục thông tin. 2. Cơ sở hạ tầng kinh tế. Để phát triển TMĐT, nền kinh tế trong nước phải đạt đến một trình độ nhất định để hỗ trợ cho phương thức kinh doanh mới này. Nền kinh tế phát triển có nghĩa là các giao dịch được mở rộng, thị trường mua bán không có giới hạn về không gian và thời gian. Như thế tất yếu phải hình thành khả năng thanh toán điện tử. Trong cả ba phương thức nhà sản xuất bán cho người tiêu dùng, mua bán giữa hai hay nhiều doanh nghiệp và mua bán giữa doanh nghiệp và Chính phủ, điều kiện thanh toán đều là thanh toán tự động bằng thẻ tín dụng điện tử thông qua các tác vụ ngân hàng đa quốc gia. 3. Hành lang pháp lý. Mọi hoạt động đều phải tuân thủ những quy định chung. TMĐT là hoạt động thương mại có quy mô toàn cầu, vì vậy nó phải đáp ứng hàng loạt quy định của luật pháp quốc tế và quốc gia về lĩnh vực này. Những nội dung chính của hành lang pháp lý này là quy định về tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, dịch vụ, quy định về những điều cấm và được phếp (thay đổi theo quốc gia ), quy định về sở hữu công nghiệp, bản quyền chế tạo, luật về chữ ký điện tử, luật giải quyết tranh chấp đối với hợp đồng kinh tế điện tử. 4. Điều kiện nhân lực. TMĐT._. là hình thức kinh doanh mua bán hoàn toàn mới, nó đòi hỏi phải có lực lượng chuyên nghiệp điều hành, triển khai, khai thác, phát triển nó. Nói trong diện hẹp, đó là những tập thể của doanh nghiệp và tổ chức dịch vụ mạng có kỹ năng chuyên ngành về TMĐT. Trong diện rộng bao gồm cả người tiêu dùng nghĩa là cả xã hội. IV. Tình hình phát triển TMĐT trên thế giới và trong khu vực. 1. TMĐT trên thế giới. Những tiến bộ to lớn về công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, trong những thập niên cuối của thế kỷ XX, đã tạo ra bước ngoặt mới cho sự phát triển kinh tế và xã hội toàn cầu. Sự hình thành và phát triển các siêu lộ thông tin với khả năng phục vụ ngày càng hoàn hảo đã tăng cường phương tiện cho quá trình toàn cầu hóa. Chính trên nền tảng đó, một phương thức thương mại mới đã xuất hiện, đó là TMĐT. Nhận thức được vị trí quan trọng của TMĐT trong chiến lược phát triển kinh tế tri thức, nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực đã đầu tư vào nghiên cứu những vấn đề phát sinh khi kết nối Internet qua các loại phương tiện điện tử và sử dụng chúng để trao đổi thông tin, đặc biệt là thông tin thương mại, nhằm đề ra các giải pháp thích hợp cho quốc gia mình. CNTT chính là nhân tố trung tâm tạo ra phương tiện thực hiện toàn cầu hóa và kích hoạt cho sự bùng nổ công nghệ đó, bởi vì nhờ có CNTT và đặc biệt là Internet, người ta thực hiện được việc nắm bắt và sử lý kịp thời thông tin phát sinh từ nhiều nơi trên thế giới, khái niệm không gian bị thu hẹp. Chính khả năng này đã dẫn đến những cuộc sáp nhập của các tập đoàn lớn với các chi nhánh tỏa khắp toàn cầu.Qúa trình toàn cầu hóa đến lượt mình lại tạo điều kiện cho hàng loạt công nghệ mới ra đời nhằm phục vụ cho tiến trình đó phát triển nhanh hơn. Trong khoảng 5 năm trở lại đây, trong lĩnh vực công nghệ thông tin, gần 70% số công nghệ mới đều liên quan đến Internet : công nghệ nội dung, công nghệ multimedia, công nghệ IP, ATM. Vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, một số nước phát triển như Mỹ, Canađa, Pháp, Anh, Ôxtrâylia...đã sớm phát hiện ra tiềm năng hình thành một nền kinh tế mới (sau này, vào năm 1995, tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển _OECD đã chính thớc đặt tên cho nó là kinh tế tri thức). Và họ đã nhanh chóng bắt tay vào xây dựng những nền tảng căn bản cho kinh tế đó. Những nền tảng đó là, hành lang pháp lý, hạ tầng thông tin, công nghệ phần mềm và TMĐT. Nhìn khái quát nền tảng cũng như cơ sở hạ tầng cơ bản mang tính chất tiên quyết của TMĐT, Internet phát triển rất nhanh , cả về phạm vi bao phủ, phạm vi ứng dụng và chất lượng vận hành. Số người sử dụng Internet toàn thế giới năm 2000 là 500 triệu người và theo dự báo năm 2005 sẽ lên tới khoảng 1 tỷ người . Internet được bắt đầu nghiên cứu ở Mỹ năm 1962 đến năm 1969 thì đạt được thành công đầu tiên - liên kết được các hệ thống xử lý thông tin cách xa nhau. Đến giữa thập niên 80 và đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, Internet lan mạnh sang Canađa, châu Âu, châu á và bùng nổ khắp toàn cầu . Internetb đã đi qua hai giai đoạn và đang bước vào giai đoạn thứ ba : -Internet 1. Đặc trưng cho giai đoạn hình thành và phát triển Internet từ đầu 1970 đến cuối 1997. Vào thời điểm cuối 1997, cả thế giới có khoảng 80 triệu người sử dụng. - Internet 2. là công nghệ nâng cấp hạ tầng kỹ thuật của Internet 1. -Internet 3. là công nghệ mạng di động mở rộng phạm vi hoạt động của Internet bằng hệ thống vô tuyến nhằm mục tiêu Internet đến từng gia đình, từng cá nhân với chi phí thấp nhất. Số địa chỉ trên Internet, số website cũng như số người sử dụng Internet ngày một tăng ; giữa năm 1994, toàn thế giới có 3,2 triệu địa chỉ trên Internet , tới giữa năm 1996 đã lên 12,9 triệu địa chỉ, với khoảng 67,5 triệu người sử dụng, giữa năm 1998 đã có 36,7 triệu địa chỉ Internet với khoảng 100 triệu người sử dụng .Năm 2000, số người sử dụng Internet là 500 triệu người .Đầu năm 2002 ,có khoảng trên 2 tỷ website , với tổng số người dùng Internet lên đến khoảng 500 triệu người .Dự đoán đến năm 2005 sẽ có hơn 1 tỷ người trên hành tinh sử dụng Internet, 70% trong số đó làm những công việc liên quan đến TMĐT. Gần đây TMĐT phát triển nhanh với tốc độ 200% mỗi năm và rộng khắp trên quy mô toàn cầu, theo các xu hướng phát triển nhanh về cả bề rộng và chiều sâu, đặc biệt là về phương tiện, công nghệ, mở rộng quy mô và phạm vi lĩnh vực họt động. Hàng trăm nghìn công ty và trên 1500 ngân hàng trên thế giới đang hoạt động TMĐT. Tổng doanh số TMĐT toàn thế giới năm 1997 đạt khoảng 18 tỷ USD, NĂM 1998 khoảng 31 tỷ USD, năm 1999 đạt 71 tỷ USD, năm 2000 trên 200 tỷ USD, và năm 2002 đạt khoảng 1000 tỷ USD. Hiện nay TMĐT tiếp tục có xu hướng tăng nhanh trong hoạt động buôn bán của các vùng và các quốc gia.Mặc dù có những bước đi chậm lại do đầu tư vào thương mại có giảm xuống chút ít, tăng trưởng của TMĐT tiếp tục tăng .Theo Hội nghị liên hợp quóc về thương mại và phát triển (UNC-TAD) đầu tư vào TMĐT tăng khoảng 4% trong năm 2003. Đến đầu năm 2003, các nước đang phát triển đã chiếm tới 32% tổng số người dùng Internet .Bắc Mỹ và châu Âu chiếm 89% máy chủ của thế giới trong khi đó khu vực châu Phi có vể chậm chạp nhất với năng lực đường truyền thấp, chỉ bằng 1/20 của châu Âu và 1/8 của châu á. Tại châu Âu và Mỹ , khoảng 38% hoạt động mua bán được thực hiện trên mạng trong giai đoạn 2000-2001 và con số đó có xu hướng tăng .Mặc dù tỷ lệ giao dịch còn nhỏ, khoảng 1,5 %, nhưng tỷ lệ này đang tăng nhanh theo tỷ lệ tăng của sử dụng Internet. Giao dịch B2B đóng vai trò quan trọng nhất trong giao dịch TMĐT , ví dụ ở Mỹ là khoảng 93%. Dự đoán , tốc độ tăng của giao dịch B2B của riêng vùng châu á Thái Bình Dương là 66% trong năm 2003(tức khoảng 200 tỷ USD) và 50% trong năm 2004 (khoảng 300 tỷ USD). 2. TMĐT ở Mỹ . Mỹ là quốc gia có nền tảng kỹ thuật số tiên tiến, nắm quyền khống chế ba nhánh của hạ tầng công nghệ TMĐT: máy tính , truyền thông , bảo mật. Người ta ước tính rằng Mỹ đang chiếm tỷ trọng trên 70% tổng doanh số TMĐT của toàn thế giới. CNTT ở Mỹ phát triển cao , trong các năm 1995-1997 đã đóng góp 28-41% tổng số gia tăng của GDP. Riêng về máy tính điện t, cứ 100 gia đình người Mỹ thì có 38 gia đình có máy , đạt tỷ lệ cao nhất thế giới. Nhờ ứng dụng TMĐT mà chi phí giao dịch đã giảm đi thậm chí hàng chục, hàngẩnăm lần. Theo số liệu thống kê , 2/3 hoạt động TMĐT được thực hiện ở Mỹ - quốc gia chiếm 4,55% dân số thế giới với 40% dân kết nối mạng Internet, trong khi các nước châu á chiếm 61% dân số thế giới nhưng chỉ có 1,8% dân số tham gia mạng và do đó chỉ có chưa tới 1% doanh thu TMĐT ở châu á. Tính tới tháng 7-1997, số lĩnh vực kinh doanh có sử dụng TMĐT ở Mỹ có tới hàng nghìn . Một lợi thế của TMĐT đang được các doan nhân Mỹ tận dụng và nhờ thế mà họ đắt hàng, là thông qua E.mail (thư điện tử), doanh nghiệp có thể chủ động đẩy thông tin, quảng cáo, chào hàng, thậm chí bán hàng cho từng người tiêu dùng. Theo thống kê của Viện Nghiên cứu Forresta, tại Mỹ hiện có 126 triệu người thường xuyên vào mạng, với 105 triệu thư được gửi qua Internet từ nhà và 50 triệu thư từ nơi làm việc. Các công ty kinh doanh đã lợi dụng điều này, gửi thư trực tiếp đến khách hàng của mình, tiếp thị để bán sản phẩm của công ty . Theo thống kê của Hiệp hội Marketing trực tiếp, tính đến hết năm 2001, các công ty Mỹ đã chi 927 triệu USD vào quảng cáo tiếp thị trên thư điện tử , tăng 87% so với năm 2000, trong đó 2/3 số công ty cho biết với nỗ lực gửi thư đến từng địa chỉ đã đăng ký trang web của công ty họ thì doanh số bán hàng tăng thêm 15%. Để tạo thuận lợi cho TMĐT phát triển , tháng 7-1997 Chính phủ Mỹ đã công bố bản “khuôn khổ cho TMĐT toàn cầu, trong đó nêu ra quan điểm của Mỹ về năm nguyên tắc cơ bản, mà tư tưởng chủ đạo là : tự do tuyệt đối (kể cả phi thuế) ; chính phủ không can thiệp mà chỉ tạo điều kiện cho TMĐT ; đề cao vai trò tiên phong của khu vực kinh tế tư nhân trong tiến trình TMĐT ở Mỹ . Trong khuôn khổ Liên hợp quốc và trong khối APEC, Mỹ tích cực tuyền truyền về TMĐT, vì họ nhận thức rõ rằng áp dụng rộng rãi TMĐT trên phạm vi toàn cầu sẽ đem lại lợi ích đa dạng thiết thân và mang tính chiến lược cho Mỹ . Mỹ có quan niệm rằng không phải là Chính phủ, mà chính là thị trường sẽ quyết định các tiêu chuẩn và các cơ chế chính sách đảm bảo tính liên tác trên Internet, khu vực tư nhân yêu cầu thiết lập những tiêu chuẩn cần thiết. 3. TMĐT ở Trung Quốc. Trung Quốc bước vào TMĐT chậm nhưng có tốc độ tăng cao, cuối năm 1997 mới chính thức hòa mạng Internet, tới tháng 3 -1998 Internet đã phủ trên 30 thành phố với số thuê bao hơn nửa triệu người, tới cuối tháng 6 lên 1,17 triệu, cuối năm lên 2,1 triệu và dự báo tới năm 2005 sẽ đạt con số 100 triệu. Trung Quốc đã tiến hành một số dịch vụ qua mạng như dịch vụ quảng cáo, giao dịch thông qua trade point, nhưng chưa công bố chiến lược hay chương trình tổng thể nào về TMĐT. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây với khả năng về CNTT hiện có cùng với một thị trường trong nước rộng lớn với hơn một tỷ dân, Trung Quốc thực sự có một nền tảng rất tốt cho sự phát triển TMĐT. Qủa thật, trong thời gian gần đây, TMĐT ở Trung Quốc đã phát triển rất nhanh, tổng giá trị các giao dịch TMĐT trong năm 2001 được là 9,33 tỷ USD, số người sử dụng Internet tính đến năm 2001 đã lên tới con số 20 triệu người. Tuy nhiên , sự phát triển này vẫn chưa tương xứng với tầm vóc của một quốc gia đầy tiềm năng như Trung Quốc. Hiện tại, Trung Quốc đang gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc mở rộng lĩnh vực kinh doanh mới mẻ này. Vấn đề trước hết mà Trung Quốc cũng hầu như hết các nước châu á khác gặp phải là cước phí điện thoại và cước phí truy cập Internet. Giá cước truy cập Internet của Trung Quốc quá đắt trong khi đó tốc độ truy cập lại rất chậm. Với nỗ lực phổ cập Internet cho dân chúng, gần đây hạ tầng Internet ở Trung Quốc đã được cải tiến dẫn tới cước truy cập vào Internet được giảm đi đáng kể . Nhưng trên thực tế giá cước truy cập vẫn còn cao , khó tạo điều kiện cho TMĐT phát triển. ở Mỹ người sử dụng Internet chỉ phải trả trung bình từ 1-12% thu nhập hàng tháng của họ cho công việc truy cập không giới hạn vào Internet. Trong khi đó, những người sử dụng Internet ở Trung Quốc phải trả trung bình 20% thu nhập hàng tháng của mình cho việc truy cập mỗi ngày một giờ đồng hồ vào Internet. Ngoài ra, người dân Trung Quốc một mặt do tâm lý , một mặt do không được khuyến khích sử dụng các dịch vụ thanh toán trực tuyến (online payment) nên đã gây nhiều khó khăn cho việc phát triển TMĐT. Mặc dù một số ngân hàng Trung Quốc gần đây đã đưa ra một số dịch vụ thanh toán trực tuyến nhưng cho đến nay, nhu cầu của người sử dụng dịch vụ này vẫn còn rất thấp. Một khó khăn khác trong việc thực hiện TMĐT ở Trung Quốc là hệ thống cung ứng và vận chuyển hàng hóa được mua bán trên mạng. ở Mỹ các công ty vận chuyển hàng hóa như FedEx hay UPS là những Công ty hoạt động rất hiệu quả. Họ không chỉ là cầu nối trung chuyển hàng hóa giữa các doanh nghiệp và giao hàng tận nhà cho người tiêu dùng. ở Trung Quốc , ngành vận chuyển sẽ có rất nhiều lợi thế do nguồn lao động nước này dồi dào và rẻ, do vậy nếu biết tận dụng được lợi thế này thì nó sẽ là đòn bẩy cho sự phát triển TMĐT ở Trung Quốc. Trong các hoạt động kinh doanh TMĐT , các hoạt động kinh doanh chỉ tập trung chủ yếu vào các giao dịch kinh doanh B2C (Những giao dịch kinh doanh giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng- Businees to Consumer) còn các giao dịch kinh doanh B2B (những giao dịch kinh doanh giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp- Businees to Businees ) phát triển rất chậm chạp .Điều này đi ngược lại với sự phát triển TMĐT toàn cầu, nơi mà các giao dịch kinh doanh B2B ngày một tăng với tốc độ đáng kể, vượt trội hẳn các giao dịch kinh doanh B2C. Do đó ,chính phủ Trung Quốc đang tìm cách để vực dậy các giao dịch kinh doanh B2B , đưa ra những ưu tiên để phát triển mô hình B2B. Sự cần thiết để phát triển các giao dịch kimh doanh B2B được giải thích bởi hai nguyên nhân sau: Thứ nhất , tại thị trường nội địa Trung Quốc mô hình kinh doanh B2B chính là xúc tác để phá vỡ sự bế tắc hiện tại mà TMĐT Trung Quốc đang gặp phải, để giúp mô hình kinh doanh B2B có thể phát triển kịp với mô hình kimh doanh B2C. Thứ hai, Trung Quốc đã ra nhập WTO do đó Trung Quốc không thể tụt hậu hơn xu thế phát truển của thế giới, đặc biệt trong việc phát triển các giao dịch kinh doanh TMĐT B2B. Lý do khiếncho sự phát triển TMĐT ở Trung Quốc mới chỉ dừng lại ở các giao dịch kimh doanh B2C liên quan tới ba vấn đề sau : Một là, những thuận lợi trước mắt thu được từ các giao dịch kinh doanh B2C đã thực sự thu hút các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực TMĐT ở Trung Quốc , khiến họ quên đi B2B .Còn đối với hoạt động kinh doanh B2B , do lợi nhuận thu được ít, chiến lược đầu tư không đúng đắn .Điều này đã khiến cho các giao dịch kinh doanh B2C vượt trội hơn hẳn các giao dịch B2B ở Trung Quốc. Hai là , các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực TMĐT ở Trung Quốc vẫn chưa mạnh dạn phát triển các giao dịch kinh doanh B2B. Một số doanh nghiệp Trung Quốc đã cố gắng thực hiện giao dịch B2B nhưng chỉ ở mức độ sơ khai. Ba là, những khó khăn, vướng mắc về mặt thể chế là nguyên nhân kìm chế sự phát triển các giao dịch kinh doanh B2B trong TMĐT ở Trung Quốc. Như vậy, việc nghiên cứu và tìm ra giải pháp cho ba vấn đề nêu trên của TMĐT ở Trung Quốc là rất quan trọng để các nhà hoạch định chính sách cũng như những người hoạt động trong lĩnh vực TMĐT ở Trung Quốc tìm ra lối thoát cho một ngành kinh doanh được coi là “thuộc về tương lai” này . 4. Khu vực ASEAN. Phát triển CNTT đến một mức nhất định thì mới có thể triển khai TMĐT .Do đó quan sát phát triển TMĐT trong khu vực trước tiên là dựa trên trình độ phát triển CNTT của các nước .Theo những báo cáo chính thức của Uỷ ban ASEAN , theo trình độ phát triển CNTT , có thể phân ra hai nhóm quốc gia : Nhóm một gồm : Singapo, Malaixia, Thái Lan, Inđônêxia, Brunây và Philípin là các quốc gia có trình độ phát triển CNTT cao hơn trong khu vực tối thiểu trên 1 triệu người dùnh Internet hoặc tương đương trình độ đó (Brunây). Trong nhóm này , Singapo và Malaixia là hai trường hợp đặc biệt mà mô hình phát triển CNTT của họ được cả thế giới quan tâm. Singapo có “Chương trình xây dựng đảo quốc thông minh” ngay từ đầu thập niên 90 với mục tiêu cụ thể là toàn dân sử dụng Internet vào năm 2005. Đến nay , mạng Singapo one mạnh với mạng cáp truy cập lên đến 140 Mbps (mạng backbone toàn quốc )đã lan tỏa đến mọi căn hộ .Đây là một thành tựu mà các nước lớn, đông dân khó mà thực hiện được (Singapo chỉ có 3,9 triệu dân và cả quốc gia nằm gọn trong một thành phố ). Với 42% dân số truy cập mạng, Singapo là nước thứ hai trên thế giới đạt kỷ lục tỷ lệ phần trăm dân số sử dụng mạng Internet (Sau Oxtraylia-48%). Hiện nay trên thế giới, Mỹ , Singapo và HồngKông là ba nơi có hạ tầng CNTT phục vụ TMĐT tốt nhất.Malaixia có hơn 22 triệu dân, khởi đầu là một nước nông nghiệp - tiểu thủ công nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên hiện đại nhờ cách đi thẳng vào công nghệ mới. Siêu hành lang Multimedia của Malaixia dài 70 km rộng 15 km là một thành phố trí tuệ được xếp ngang hạng với thung lũng Silion của Mỹ và thành phố Bangalore của Ân Độ .Kế hoạch xây dựng Malaixia thành giao lộ trí tuệ quốc tế đã nâng Malaixia lên một tầm cao nhất định trong khu vực và quốc tế. Còn đối với Thái Lan, một nước rất gần với Việt Nam nhưng trong TMĐT thì để kịp họ , Việt Nam vẫn cần một thời gian dài . Thái Lan sớm có nhận thức về tầm quan trọng của TMĐT nên đã có những bước chuẩn bị rất thiết thực cho sự phát triển của quốc gia . Đó là họ đã có khung pháp luật về TMĐT, cũng như những luật điều chỉnh cho phát triển TMĐT như chữ ký điện tử, giao dịch điện tử...Họ có những chiến lược rất cụ thể trong phát triển hạ tầng CNTT và viễn thông ..,tiến hành công việc thiết thực như có chính sách hỗ trợ phát triển TMĐT cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ , hỗ trợ cho các nhà xuất khẩu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế , phát triển TMĐT của Thái Lan trong giai đoạn toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Nhóm hai gồm : Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanma là những nước có số người sử dụng Internet thấp (theo số liệu thống kê 2000 Việt Nam là khoảng 200.000 người, Myanma 10.000 người, Lào 4.000 người, Campuchia 3.500 người), hạ tầng CNTT chưa phát triển. Bảng sau cho số liệu thống kê về một số khía cạnh phát triển CNTT trong khu vực , xếp theo thứ tự ABC (Số liệu năm 2001) Quốc gia Dân số Số PC Số NSD Số IPS Tốc độ phát triển Brunây 380.000 - - - - Campuchia 8.000.000 - 3.500 - - Lào 6.000.000 - 4.000 2 - Inđônêxia 204.000.000 3.000.000 2.000.000 35 3,67% Malaixia 22.000.000 2.500.000 1.800.000 7 19,6% Myanma 40.000.000 - 10.000 1 - Philipin 73.000.000 1.400.000 1.300.000 150 12% Singapo 3.900.000 1.200.000 1.500.000 6 44,8% Thái Lan 64.000.000 1.500.000 1.200.000 17 8% Việt Nam 78.000.000 700.000 200.000 5 - Chương II Thực Trạng Phát Triển CNTT Cho TMĐT ở Việt Nam I. Chiến lược chung phát triển TMĐT. Ngày nay, giống như hình ảnh sao chổi TMĐT được đẩy đi trước kéo theo sau nó là hàng loạt các vấn đề khác. Với khả năng mua bán toàn cầu, thị trường mở ra gần như vô tận đối với các doanh nghiệp nếu như sản phẩm hàng hóa của họ đạt tiêu chuẩn quốc tế, được người tiêu dùng ưa thích và tất cả những điều kiện hỗ trợ kèm theo (ràng buộc pháp lý, thanh toán điện tử, hạ tầng kỹ thuật hùng mạnh, đội ngũ lao động chuyên nghiệp...) đều hoàn hảo. Do sức hút của TMĐT, tất cả các nước công nghiệp phát triển đều chú trọng đến TMĐT và xem việc phát triển nó như một chiến lược cần phải tiến tới. Mặc dù trong quá trình phát triển của TMĐT có thể nảy sinh những vấn đề này hoặc vấn đề khác, nhưng chắc chắn sẽ được giải quyết theo hướng đi lên, nhất là trong hai năm gần đây, TMĐT đã đạt được bước phát triển mới có tính đột phá. TMĐT không chỉ giải quyết những yêu cầu thiết yếu cấp bách trên các lĩnh vực như hệ thống giao dịch hành hóa, điện tử hóa tiền tệ và phương án an toàn thông tinv.v.. mà từ hoạt động thực tế của nó còn tạo ra những hiệu quả và lợi ích mà mô hình phát triển truyền thống không thể sánh kịp. Để đưa TMĐT vào doanh nghiệp cần phải tập trung vào thông tin - không chỉ là thu thập và xử lý thông tin, mà còn là sử dụng thông tin trong tiếp thị và biến thông tin thành một thương phẩm. Khái niệm chuỗi giá trị ảo rất quan trọng đối với TMĐT vì nó xác định các cách đưa thông tin số hóa vào kinh doanh. Các hoạt động kinh doanh của thị trường truyền thống, như hoạt động sản xuất, có thể tận dụng thông tin để cải thiện hoạt động, nâng cao chất lượng để phục vụ khách hàng. Do vậy TMĐT không chỉ là thiết lập giao dịch và chuyển tiền mà còn là hoạt động duy trì mối liên hệ với khách hàng và tìm kiếm khách hàng mới, hỗ trợ hậu mãi đối với khách hàng. Mỗi công việc nói trên đều phụ thuộc vào thông tin, và thông tin có thể thu được qua mạng Internet. Việc đưa thông tin vào hoạt động của tổ chức phụ thuộc vào một số yếu tố: đó là về cách thức khai thác Internet cũng như các công nghệ của nó. về sự phù hợp giữa các công nghệ này và cơ cấu công việc và nhận thức về thị trường. 1. Phát triển cùng Internet Kinh doanh trên Internet sẽ tiếp tục phát triển cùng với các công nghệ mạng - mà hiện nay đang tiến bước với một tốc độ chưa từng có. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng những công nghệ này trước đây đã từng được xây dựng hoặc sử dụng cho những mạng nhỏ hơn (mạng LAN) Internet đã đưa ba quan điểm quan trọng mới vào thị trường công nghệ: Thứ nhất, nó khuyến khích việc sử dụng những tiêu chuẩn mở, sẵn có cho bất cứ ai. Thứ hai, Internet là mạng lớn nhất có thể truy cập toàn cầu, và là mạng được nhiều máy tính truy cập nhất. Thứ ba, Internet đang trở thành một môi trường phổ biến để giới thiệu sản phẩm và công nghệ ra một thị trường lớn hơn. Việc định hướng đổi mới liên quan đến Internet có thể là một nhiệm vụ tốn thời gian và tiên bạc, nhưng đây là một công việc cần thiết. Một biện pháp hữu ích để định hướng các công nghệ Internet là theo dõi hoạt động của các cơ quan tiêu chuẩn, và duy trì một cơ cấu linh hoạt để có thể đáp ứng các thay đổi về tiêu chuẩn đó. 2. Tổ chức linh hoạt. Có một thực tế là Interent luôn thay đổi. Với tính mở và năng động trong vận hành cũnh như trong phát triển, Internet đã tạo ra cho các doanh nghiệp mmột hình thái hoạt động rất khác so với truyền thống, mở và luôn chủ động thích ứng với xu thế phát triển công nghệ. Nhưng điều này không có nghĩa là các doanh nghiệp cần phải liên tục bám theo những thay đổi đó. Thậm chí việc thay đổi liên tục là không cần thiết. Các cơ quan tiêu chuẩn tiến hành phân tích những thay đổi đã định trước và bảo đảm rằng nó thực sự mang lại lợi ích (ngắn hoặc dài hạn). Điểm mấu chốt ở đây là phải luôn linh hoạt và sẵn sàng cho thay đổi, và doanh nghiệp sẽ đón nhận có hiệu quả hơn các cơ hội tương lai do Internet và TMĐT mang lại. Và điều quan trọng để sẵn sàng đáp ứng các thay đổi là sự chia sẻ thông tin trong tổ chức. Cấu trúc phân cấp truyền thống tại nhiều doanh nghiệp đánh giá cao thông tin, và quan trọng hơn là sự kiểm soát thông tin. Điều này đi ngược lại sự chia sẻ thông tin. Các tổ chức tự cơ cấu lại để gọn nhẹ hơn thường có cấu trúc phù hợp hơn cho việc trao đổi thông tin. Đó là vì việc ứng dụng TMĐT phụ thuộc vào việc tìm hiểu khách hàng, và sự hiểu biết này lại đòi hỏi một dòng chảy thông tin tự do cả trong và ngoài tổ chức. Điều này tạo ra một sự cân bằng mới giữa người mua và người bán mang tính hướng khách hàng hơn là hướng sản phẩm, với nhiều giao dịch hơn giữa các phòng và cá nhân thay vì giữa một cá nhân và một đại diện tài khoản. Các tổ chức linh hoạt sử lý thông tin khác so với các tổ chức phân cấp truyền thống. Họ nhận ra rằng thông tin có giá trị hơn khi nó được chia sẻ. Hãy thử xem một ví dụ đơn giản về thông tin khách hàng trong một doanh nghiệp phần mềm, nó có thể thu được từ hỗ trợ kỹ thuật, khảo sát thị trường, thư từ, các cuộc họp... Nhưng nếu thông tin đó không tới đúng người trong công ty sẽ trở thành vô giá trị. Và thế nào là đúng người? Tùy vào từng thời điểm cụ thể đó có thể là một kỹ sư đang lập một bảng mã, một nhân viên kinh doanh, hay phó giám đốc tiếp thị... Nếu thông tin không được chia sẻ thì cũng coi thư nó lhông tồn tại. 3. Sử dụng TMĐT. Hầu như khía cạnh nào của quá trình kinh doanh cũng có thể được cải thiện nhằm tận dụng TMĐT. Ví dụ việc khuyến mại sản phẩm có thể được đẩy mạnh nhờ thêm đa phương tiện vào quảng cáo trên Internet và mô tả chi tiết hơn sản phẩm trên trang web. Nguyên tắc cơ bản của tiếp thị là nhằm vào các thông tin liên quan đến đời sống của khách hàng, hoặc một đặc điểm nào đó về tâm lý. Trang web và dịch vụ thư điện tử có thể được thiết kế để kết hợp các cơ sở dữ liệu và tạo nên thông tin về từ khách hàng cụ thể thay vì các nhóm dân cư. Thậm chí, có thể biến Internet thành một kênh bán hàng mới, đưa thẳng việc mua bán vào một danh mục và một đơn đặt hàng trực tuyến, hoặc sử dụng Internet như một phương tiện chuyển tiếp, đưa các đơn đặt hàng tới nhà cung cấp. Việc sử dụng Internet như một phương tiện liên lạc có thể làm giảm chi phí kinh doanh trực tiếp, ví dụ, trong một môi trường doanh nghiệp - doanh nghiệp, đơn đặt hàng có thể chuyển bằng mẵu điện tử, loại bớt nhu cầu ghi lại những thông tin quan trọng. Chuyển hàng qua Internet cũng có thể nếu sản phẩm được số hóa, các phần mềm có thể chuyển cho khách hàng và đăng ký qua Internet, do đó không cần văn bản, không cần đóng gói nữa. Việc chuyển hàng và cập nhật sản phẩm qua mạng một cách trực tiếp hoặc nhờ đại lý sẽ làm giảm thời gian lưu chuyển hàng số hóa trên thị trường. Việc đưa một danh mục điện tử lên mạng, thay cho in ấn và gửi qua đường bưu điện cũng làm giảm thời gian chuyển thông tin về sản phẩm tới khách hàng và đại lý. Việc thu thập thông tin về khách hàng và nhu cầu khách hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động doanh nghiệp vì nó tác động tích cực tới thiết kế sản phẩm và lập kế hoạch, mang lại lợi thế về thị trường cho doanh nghiệp. Thêm vào đó, bằng việc bổ sung thường xuyên thông tin vào các bản FAQ (Frequently - Asked Questions : các vấn đề thường xuyên nảy sinh) hoặc vào các dữ liệu dễ tìm trên web, doanh nghiệp cũng có thể sử dụng Internet để đồng thời nâng cao chất lượng và giảm chi phí hỗ trợ khách hàng. Và tất nhiên, cũng không nên bỏ qua những giá trị về hình thức của Internet. Internet luôn được coi là một công nghệ thời thượng và doanh nghiệp sẽ được coi là nhìn xa trông rộng nếu đưa hàng hóa và dịch vụ lên mạng. TMĐT trên Internet cũng giúp doanh nghiệp có cơ hội chuyển từ chuỗi giá trị thực sang chuỗi giá trị ảo. Ví dụ, quan hệ khách hàng có thể chuyển từ liên lạc phi đồng bộ sang liên lạc tương tác hai chiều. Thay vì phụ thuộc duy nhất vào liên lạc điện thoại trong giờ hành chính, các doanh nghiệp có thể sử dụng web và e-mail để trao đổi thông tin, ý kiến khách hàng và nhân viên. Tuy nhiên điều này chỉ được thực hiện nếu như doanh nghiệp được tổ chức theo hướng tự do trao đổi thông tin, và các nhân viên thực sự hiểu được rằng thông tin có thể tự do gửi và nhận. Các doanh nghiệp có thể thu thập dữ liệu về sở thích và thói quen của khách hàng bằng cách tìm hiểu họ làm gì trên trang web của doanh nghiệp, và sử dụng những thông tin này để điều chỉnh các mặt hàng cũng như dịch vụ. Tất nhiên doanh nghiệp muốn thực hiện điều này cần phải có sẵn các công cụ thu thập dữ liệu và phân tích thông tin để ra quyết định. Cần lưu ý rằng khi cần tạo ra các giá trị trong một chuỗi giá trị ảo, thì có năm hoạt động khác nhau có thể được sử dụng : thu thập, tổ chức, chọn lọc, đồng bộ hóa và phân phối thông tin. Vì doanh nghiệp có thể tạo ra sản phẩm hay giá trị mới nhờ mỗi hoạt động này tại bất kỳ mắt xích nào trong chuỗi giá trị, nên doanh nghiệp cũng có thể tạo ra một ma trận giá trị, nơi điểm giao của thông tin về hoạt động ở mỗi mắt xích là một cơ hội để tăng giá trị. Việc đưa Internet vào hoạt động thương mại cũng mang lại cơ hội đưa ra những sản phẩm và mô hình kinh doanh mới, thường là trong khuôn khổ của chuỗi giá trị ảo hay trong việc tiếp cận thị trường. 4. Hoạt động kiểu mới trên thị trường. Trong quá khứ, nhiều doanh nghiệp hoạt động bằng cách triển khai các nguyên lý về quy mô. Điều này cũng có thể áp dụng cho TMĐT, nhưng trong một nghĩa hẹp hơn nhiều vì còn nhiều nguyên tắc khác cũng có ảnh hưởng lớn. Nếu doanh nghiệp lập kế hoạch bán các sản phẩm số hóa trên thị trường thì cần phải lưi ý đến một nguyên tắc cơ bản : luật tài sản số hóa. Được khởi xướng bởi hai giáo sư tại trường kinh doanh Harvard luật tài sản số hóa được sử dụng nhưng không được tiêu thụ. Nói cách khác, tài sản số hóa có thể được sử dụng hết lần này đến lần khác. Như vậy doanh nghiệp thu được thêm giá trị bằng việc liên tục quay vòng tài sản số hóa thông qua một số lượng lớn, gần như vô tận các giao dịch. Tuy nhiên, điều này không hẳn là các sản phẩm số hóa sẽ tồn tại hữu ích mãi mãi. Thực tiễn thị trường sẽ khiến các doanh nghiệp phải liên tục tăng cường, cải thiện, điều chỉnh lại sản phẩm của mình. Khi chuẩn bị đưa thực hiện điện tử vào kinh doanh, các doanh nghiệp phải sẵn sàng đối phó với một loạt vấn đề phát sinh. Những vấn đề này có thể được khái quát hóa thành bốn nhốm : tổ chức, thực hiện, tiếp thị và pháp lý. - Tổ chức : xây dựng cơ sở hạ tầng để chia sẻ thông tin, quản lý tri thức, sử dụng các cấp trung gian, duy trì tính linh hoạt , làm gọn nhẹ tổ chức. - Thực hiện : thực hiện các dự án thử nghiệm, tự động hóa các quá trình, lập kế hoạch mở rộng và tăng tốc độ phát triển, sử dụng ngân hàng dữ liệu. - Tiếp thị : thúc đẩy liên lạc tương tác hai chiều, tìm hiểu khách hàng, phân nhóm, xác định và duy trì các nhóm lợi ích, định hướng các dòng thông tin. - Pháp lý : thuế, bí mật khách hàng và tổ chức, kiểm soát các sản phẩm. 5. Các vấn đề về tổ chức. Thực hiện TMĐT không chỉ đơn thuần là một dự án công nghệ. Nó thay đổi các thủ tục và hoạt động hiện thời của doanh nghiệp, và thường đòi hỏi những thay đổi lớn về mặt tổ chức. Kèm theo những thay đổi về cơ cấu tổ chức là những thay đổi trong cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc của doanh nghiệp. Một trong những thách thức lớn nhất cho các công ty khi thực hiện TMĐT là quản lý những thay đổi về tổ chức này. Trong nhiều trường hợp, các thay đổi lớn về tổ chức diễn ra xung quanh việc xử lý thông tin liên lạc. Ví dụ, khả năng liên lạc toàn diện cần trở thành một phần cơ bản trong cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp. Nó có thể đơn giản như là thư điện tử, hoặc một ứng dụng khách hàng, máy chủ đặc biệt. Cơ sở hạ tầng truyền thông, sự phát triển và khuyến khích thói quen sử dụng nó là điều cơ bản để bảo đảm tính linh hoạt tổ chức, khả năng đáp ứng nhanh chóng các thay đổivà nắm bắt các cơ hội mới. Khi một doanh nghiệp đổi mới cơ sở hạ tầng để tăng cường trao đổi thông tin thì doanh nghiệp đó cần tìm cách thay thế cơ sở hạ tầng song song bằng một cơ sở hạ tầng chia sẻ chung. Ví dụ, không nên giữ hai hệ thống tách biệt về phục vụ khách hàng, một trả lời qua điện thoại và một qua mạng, mà cần chuyển hai hệ thống đó vào một trạm dữ liệu chung. Điều quan trọng hơn là tìm cách kết nối các hệ thống phòng ban khác biệt cới nhau. Thông tin liên lạc với khách hàng có thể được thu thập từ rất nhiều nguồn (như mua bán, hỗ trợ, tiếp thị...), nhưng nó cần được đưa cho những người thích hợp, như các nhà thiết kế sản phẩm, các kĩ sư và như thế việc chia sẻ thông tin cần được hoàn thiện càng sớm càng tốt. Bên cạnh cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc còn có nhu cầu quản lý tri thức do thông tin tạo nên. Đây không phải là điều gì mới lạ, tuy nhiên số lượng thông tin tăng lên và sự chia sẻ thông tin làm cho việc quản lý tri thức ngày càng quan trọng hơn. Không có nó các công ty và nhân viên sẽ không thể tìm và tận dụng các cơ hội, hoặc có thể bị ngợp trong một núi thông tin mà họ không thể xử lý. Làm việc với các đối tác kinh doanh thông qua TMĐT đòi hỏi sự cân bằng giữa khả năng của bản thân doanh nghiệp và khả năng của các đối tác truyền thông. Đây là một trong những mục tiêu của EDI, ví dụ, hình thức của dữ liệu được truyền giữa các đối tác cũng như phương tiện truyền tin đều cần được tiêu chuẩn hóa. Nhưng các bên hợp tác có thể vẫn cần đổi mới các thủ tục của mình để xử lý các dữ liệu EDI họ nhận được. Nếu một doanh nghiệp k._.ốc độ thấp, giá kết nối và truy cập cao, mức độ bảo mật cho thuê bao kém. Đây là vấn đề cần được quan tâm giải quyết bởi TMĐT nhày càng trở thành hình thức kinh doanh phổ biến trên thế giới và khoảng cách về trình độ phát triển TMĐT giữa Việt Nam với 6 nước ASEAN đầu tàu ngày càng loãng ra. Những yếu kém trên sẽ được giải quyết nếu số doanh nghiệp xây dựng trang chủ tham gia TMĐT nhiều hơn. Có ba giải pháp cho vấn đề này : Một là sớm cho ra đời Luật Cạnh tranh nhằm kiểm soát giá dịch vụ của Bưu chính Viễn thông. Mặc dù ngành đã cấp phép cho nhiều đơn vị tham gia cung cấp dịch vụ Internet nhưng TCty Bưu chính Viễn thông, với hạ tầng kỹ thuật sẵn có rộng khắp và với nhiều ưu đãi khác của ngành chủ quản vẫn là đơn vị có thị phần lớn, chi phối giá dịch vụ làm hạn chế sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp. Hai là trong lúc còn ít các doanh nghiệp xây dựng trang chủ riêng của mình, các hiệp hội ngành nghề cần chủ động xây dựng trang chủ giúp các hội viên quảng bá, giới thiệu sản phẩm. Việc phát triển TMĐT của các hiệp hội thành công sẽ kích thích doanh nghiệp mở trang chủ riêng của mình. Ba là, Chính phủ, các Bộ, ngành cần xây dựng trang chủ có quy mô, nhiều thông tin hữu ích để tạo thói quen truy cập, sử dụng thông tin trên mạng của doanh nghiệp, từ đó nảy ra ý muốn tham gia TMĐT. Chương 3 : Nhiệm vụ, giải pháp phát triển CNTT trong TMĐT. I Mục tiêu chủ trương phát triển công nghệ thông tin ở Việt Nam. Đất nước ta đã bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm phát triển kinh tế xã hội đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, từng bước bắt nhịp với xu thế phát triển mới. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã định hướng phát triển “ khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa , hiện đại hóa. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại ; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định “. Quán triệt quan điểm đó, đại hội Đảng lần thứ IX nhấn mạnh : “ đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao… Tạo thị trường cho khoa học và công nghệ , đổi mới cơ chế tài chính nhằm khuyến khích sáng tạo và gắn ứng dụng khoa học và công nghệ với sản xuất, kinh doanh, quản lý, dịch vụ. Có chính sách khuyến khích và buộc các doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu đổi mới công nghệ. Bám sát sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, CNTT đã có sự phát triển vượt bậc, góp phần quan trọng vào sự thay đổi nền kinh tế-xã hội nước ta cạnh phương thức thương mại truyền thống đã xuất hiện phương thức giao dịch mới- giao dịch TMĐT. Tuy đây là một lĩnh vực có nhiều điều mới mẻ chưa khám phá hết, nhưng TMĐT đã trở thành công cụ hữu ích giúp Việt Nam nhanh chóng hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời giữ vững định hướng phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. ứng dụng và phát triển CNTT là một trong những nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước đi trước, là một trong những động lực thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Một trong những thành tựu ứng dụng CNTT là việc sử dụng các phương tiện điện tử trong toàn bộ quá trình thực hiện các giao dịch thương mại đang diễn ra phổ biến ở các nước có nền CNTT hiện đại. Nó góp phần thúc đẩy mạnh mẽ các nghành sản xuất, dịch vụ phát triển. Nhờ ứng dụng CNTT phát triển TMĐT các nước đang phát triển có thể dễ dàng tiếp xúc với thị trường rộng lớn ở cả trong nước và nước ngoài. Mục tiêu phát triển CNTT ở Việt Nam là đến năm 2010 CNTT Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. CNTT được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế -xã hội , đảm bảo an ninh quốc phòng. Phát triển mạng thông tin quốc gia phủ trên cả nước, với thông lượng lớn, tốc độ và chất lượng cao, giá rẻ, tỷ lệ người sử dụng Internet đạt mức trung bình thế giới. Công nghiệp CNTT trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ phát triển hàng năm cao nhất so với các khu vực khác; có tỷ lệ đóng góp cho tăng trưởng GDP của cả nước ngày càng tăng. Để thực hiện tốt mục tiêu trên, chúng ta đã chủ trương: ứng dụng và phát triển CNTT là nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế -xã hội, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu rút ngắn khoảng cách phát triển so với các nước đi trước. Mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, văn hóa-xã hội, an ninh, quốc phòng đều phải ứng dụng CNTT để phát triển. Mạng thông tin quốc gia là kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội quan trọng, phải tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình ứng dụng và phát triển CNTT đảm bảo tốc độ và chất lượng cao, giá cước rẻ. Phát triển nguồn nhân lực cho CNTT là yếu tố then chốt có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển và ứng dụng CNTT . Phát triển công nghiệp CNTT thành một ngành kinh tế quan trọng, đặc biệt là phát triển công nghệ phần mềm. II Nhiệm vụ và giải pháp phát triển CNTT ở Việt Nam Trong TMĐT. 1. ứng dụng rộng rãi, có hiệu quả CNTT trong toàn xã hội để sớm tiếp cận TMĐT. Như đã phân tích, CNTT có vao trò rất quan trọng để Việt Nam cũng như các nước khác tiếp cận được với TMĐT. Chính vì thế mà việc ứng dụng rộng rãi CNTT trong toàn xã hội trở thành một trong số những nhiệm vụ quan trọng trong thời điểm hiện nay. CNTT với sự ra đời của Internet đã giúp chúng ta rất nhiều trong mọi lĩnh vực nhưng ở đây ta chỉ xet trong lĩnh vực kinh tế. Nó đã giúp con người có thể gần nhau hơn trong các cuộc giao dịch, đàm thoại.Trong xã hội thông tin tới đây, truyền thông đang mở rộng từ mức truyền thông cá nhân đến mức truyền thông xã hội. Người ta nghiên cứu truyền thông xã hội với mục đích tạo nên các diễn đàn cho truyền thông trong cái gọi là “ xã hội Internet để tạo nên khả năng con người “gặp gỡ” và “cộng tác” với nhau thông qua mạng. TMĐT có thể tiến hành ở Việt Nam, vì đây thực ra cũng chỉ là một dạng thương mại bình thường nhưng được giao kết qua mạng Internet. Dovậy, các cơ quan của Đảng Nhà nước, các tổ chức chính trị- xã hội, đi đầu trong việc triển khai, ứng dụng CNTT trong mọi hoạt động theo phương châm đảm bảo tiết kiệm, thiết thực và hiệu quả lâu dài.Tin học hóa mọi hoạt động của các cơ quan Đảng và Nhà nước là bộ phận hữu cơ quan trọng của cải cách nền hành chính quốc gia, là nhiệm vụ thường xuyên của các cơ quan nhằm tăng cường năng lực quản lý, nâng cao năng xuất, chất lượng, hiệu quả. Các cấp ủy, tổ chức Đảng chỉ đạo khẩn trương xây dựng các hệ thống thông tin cần thiết phục vụ lợi ích công cộng của nhân dân, phục vụ sự lãnh đạo của đảng, quản lý của nhà nước. Sớm hoàn thiện thường xuyên nâng cấp và sử dụng có hiệu quả mạng thông tin diện rộng của Đảng và chính phủ. Đảm bảo đến năm 2005, về cơ bản xây dựng và đưa vào hệ thống thông tin điện tử của Đảng và chính phủ. Tập trung phát triển các dịch vụ điện tử trong các lĩnh vực tài chính ( thuế, kho bạc, kiểm toán…), ngân hàng , hải quan, hàng không, thương mại, thương mại điện tử và các dịch vụ công cộng ( giáo dục, đào tạo từ xa, chữa bệnh từ xa, thư điện tử …); đảm bảo các điều kiện cần thiết phù hợp với tiến độ hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Các doanh nghiệp trước hết là các tổng công ty 90 và 91 cần đầu tư cho ứng dụng và phát triển CNTT, sử dụng TMĐT, coi đó là biện pháp cơ bản để đổi mới quản lý, đổi mới công nghệ, cơ cấu lại sản xuất, mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh. Khẩn trương xây dựng các công trình ứng dụng và phát triển CNTT, kết hợp CNTT với công nghệ sinh học để phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt phát triển vùng sâu, vùng xa. Tạo điều kiện để mọi tầng lớp xã hội ở mọi miền đất nước có thể biết khai thác, sử dụng thông tin điện tử và ứng dụng CNTT, đặc biệt quan tâm hỗ trợ những người có hoàn cảnh khó khăn và khuyết tật. Lực lượng an ninh quốc phòng nhanh chóng phổ cập, ứng dụng và phát triển CNTT, tạo tiền đề quan trọng góp phần xây dựng lực lượng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, từng bước xây dựng hệ thống tự động hóa chỉ huy, kiểm soát, làm chủ, cải tiến vũ khí, khí tài và phương tiện chiến đấu, đảm bảo an ninh, quốc phòng, sẵn sàng chủ động đối phó với chiến tranh thông tin hiện đại. Các cơ quan thông tin đại chúng, báo chí, xuất bản và các dịch vụ điện tử công cộng khẩn trương phát triển các loại hình thông tin điện tử, thường xuyên tuyên truyền phổ biến, nâng cao nhận thức và kiến thức về CNTT cho toàn xã hội. 2. Tạo môi trường thuận lợi cho ứng dụng CNTT và phát triển CNTT phục vụ TMĐT. TMĐT là các giao dịch nhằm mục đích thương mại được thực hiện bằng phương pháp điện tử trên mạng truy cập toàn cầu (Internet ) hoặc các mạng thông tin khác. Nhận thức rõ tính tất yếu của việc mở rộng và phát triển TMĐT trên thế giới, Việt Nam đã tạo mội trường thuận lợi bằng cách đã tham gia “ Chương trình hành động chung “ của APEC, trong đó phấn đấu thực hiện “thương mại phi giấy tờ “ vào năm 2010. Đồng thời Chính phủ đã ký Hiệp định khung e- ASEAN tạo thuận lợi cho phát triển TMĐT ở Việt Nam. Nghị định 44/2002/NĐ-CP của Chính phủ thừa nhận các yếu tố của chứng từ điện tử và chữ ký điện tử trong thanh toán của hệ thống ngân hàng. Luật Kế toán vừa được thông qua tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa XI, cũng thừa nhận chứng từ điện tử. Nhìn xa hơn nữa, Luật Thương Mại có hiệu lực thi hành từ 1-1-1998 cũng coi điện báo, telex, fax, thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác là hình thức văn bản của hợp đồng mua bán hàng hóa (Điều 49, khoản 3). ứng dụng phương thức giao dịch này, doanh nghiệp ẽ tiết kiệm đáng kể các chi phí quảng cáo, tiếp thị, xúc tiến thương mại ở nước ngoài mà vẫn đảm bảo tiếp cận được với người tiêu dùng trên toàn thế giới. Chỉ cần nhấn chuột khách hàng sẽ biết được sản phẩm, quy cách phẩm chất, công dụng, đặc tính, bao gói, vận chuyển, khả năng cung ứng sản phẩm... Phát triển CNTT là một trong những cơ sở để áp dụng phương thức TMĐT vào Việt Nam. Chính vì thế phải tạo môi trường thuận lợi, để có thể nắm bắt được thời cơ để khắc phục những tồn tại hạn chế tiến tới xây dựng một cơ cở hạ tầng công nghệ hiện đại. Ngoài ra, chính phủ nên có những cam kết rõ ràng đối với các doanh nghiệp đang phát triển hoạt động trong lĩnh vực TMĐT, đặc biệt với các doanh nghiệp đang phát triển mô hình B2B, để họ có thể yên tâm đầu tư nhiều hơn nữa vào hoạt động kinh doanh này. Muốn đẩy mạnh ứng dụng và phát triển TMĐT, Việt Nam cần phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp. Kinh nghiệm cho Việt Nam phát triển TMĐT thì rất nhiều, tuy nhiên phải nghiên cứu và xem xét trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam, cũng như phù hợp với xu hướng phát triển của TMĐT, có thể tóm tắt như sau: Thứ nhất phải có sự chuẩn bị tốt về cơ sở hạ tầng CNTT và truyền thông, tạo điều kiện cho phát triển TMĐT của các doanh nghiệp. Thứ hai phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện và chặt chẽ nhằm điều chỉnh sự hoạt động của TMĐT. Thứ ba phải có một kế hoạch tổng thể nhằm xây dựng và phát triển TMĐT gắn liền với kế hoạch tổng thể về kinh tế-xã hội của Việt Nam trong thời gian tới. Do đó Việt Nam cần từng bước thực hiện ngay những giải pháp xây dựng cơ sở hạ tầng TMĐT, có chiến lược và kế hoạch cụ thể, cũng như tạo ra một khuôn khổ pháp lý phù hợp, một môi trường cho các doanh nghiệp tham gia TMĐT theo điều kiện cụ thể của Việt Nam cũng như phù hợp với các tiêu chuẩn và xu hướng phát triển của TMĐT . Bởi vậy,tạo môi trương thuận lợi cho TMĐT phát triển cũng đồng nghĩa với việc tạo môi trường cho CNTT phát triển. CNTT là lĩnh vực được đặc biệt khuyến khích đầu tư. Rà soát và tháo bỏ mọi nhận thức và quy định không phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi nhất, áp dụng mức ưu đãi hiện hành cao nhất, và từng bước đạt mức ưu đãi bằng hoặc cao hơn so với các nước trong khu vực cho việc ứng dụng và phát triển CNTT đi đôi với việc thực hiện các biện pháp quản lý chặt chẽ, sử dụng có hiệu quả. Chuẩn hóa thông tin và các hệ thống thông tin trong từng lĩnh vực. Bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc trao đổi và sử dụng chung các cơ sở dữ liệu, các hệ thống thông tin trong nước và quốc tế. Có các biện pháp chủ động và có các qui định cụ thể về an toàn an ninh thông tin, trước hết trong lĩnh vực quản lý nhà nước, an ninh- quốc phòng. Khuyến khích và hỗ trợ việc phổ cập và nâng cao trình độ ngoại ngữ trong một bộ phận nhân dân, trước hết là trong thanh niên, thiếu niên. Có biện pháp và công cụ hỗ trợ để nhiều người Việt Nam có thể dễ dàng sử dụng và ứng dụng CNTT bằng tiếng Việt. Xây dựng tiêu chuẩn ngành, nghề với mức lương và chế độ đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ cán bộ chuyên môn về CNTT. Ưu tiên đầu tư cho ứng dụng và phát triển CNTT trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Coi hạ tầng thông tin là hạ tầng kinh tế-xã hội quan trọng. Ưu tiên sử dụng nguồn vốn ODA cho ứng dụng và phát triển CNTT. Đảm bảo các điều kiện để thực hiện đầy đủ và đúng tiến độ các dự án ứng dụng và phát triển CNTT đã được phê duyệt. Đưa vào hệ thống mục lục ngân sách nhà nước loại chi riêng về CNTT. Hình thành quỹ hỗ trợ, quỹ đầu tư khắc phục rủi ro cho ứng dụng và phát triển CNTT. Các doanh nghiệp ứng dụng CNTT đổi mới quản lý, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh được hưởng các chính sách về đầu tư đổi mới công nghệ. Khuyến khích việc sử dụng các sản phẩm dịch vụ CNTT được tạo ra trong nước. Các đơn vị thụ hưởng ngân sách nhà nước phải sử dụng các sản phẩm và dịch vụ CNTT trong nước đã được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với điều kiện Việt Nam. Các dự án đầu tư về CNTT trước hết phải giao cho các tổ chức, cá nhân trong nước đấu thầu thực hiện, chỉ giao cho tổ chức, cá nhân nước ngoài khi trong nước chưa đủ năng lực. Xử lý nghiêm các hành vi cố ý vi phạm hoặc gây cản trở việc ứng dụng các sản phẩm và dịch vụ CNTT được tạo ra trong nước. Các sản phẩm và dịch vụ CNTT được tạo ra trong nước không chịu thuế GTGT. Các doanh nghiệp trong ngành CNTT được hưởng mức ưu đãi cao nhất về thuế thu nhập doanh nghiệp, được hưởng chế độ ưu đãi về tín dụng, về sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Xây dựng chương trình hỗ trợ xuất khẩu trong lĩnh vực CNTT, trước mắt là gia công phần mềm và xuất khẩu lao động. Tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam làm việc trong lĩnh vực CNTT đi làm việc ở nước ngoài và trở về nước. Tập trung đầu tư, có các chính sách và giải pháp đặc biệt để đảm bảo cho các khu công nghệ cao được triển khai theo đúng tiến độ và sớm đi vào hoạt động, trong đó chú trọng ưu tiên các khu công nghiệp, công nghệ phần mềm, ưu tiên các nguồn vốn ODA cho các khu công nghệ cao, có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu công nghệ cao với mức ưu đãi cao hơn so với các nước trong khu vực. Tích cực phát triển các khu công nghệ cao ở các địa phương khác khi có điều kiện thuận lợi. Hoàn chỉnh hệ thống văn bản qui phạm pháp luật và đảm bảo việc thực hiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có bảo hộ quyền tác giả đối với phần mềm và các sản phẩm CNTT khác. Chính sách khuyến khích phát triển điện tử luôn luôn là đúng đối với Việt Nam trong thời gian tiến hành công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Chính sách này sẽ bao gồm việc thay đổi một số điều khoản trong luật TMĐT, việc giảm giá cước truy cập Internet, mà muốn như thế trước hết phải làm bớt tính độc quyền của ngành viễn thông Vịêt Nam. 3. Đẩy mạnh việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực cho ứng dụng và phát triển CNTT trợ giúp TMĐT. Hiện nay, nguồn nhân lực ở nước ta còn mỏng về số lượng, thiếu kinh nghiệm và hiểu biết về TMĐT. Cả nước hiện mới chỉ có khoảng 32 nghìn chuyên gia tin học. Đa số cán bộ và dân chúng chưa có thói quen làm việc trên máy tính điện tử, quản lý và kinh doanh trên mạng máy tính và các thiết bị thông tin khác. Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng để thực hiện TMĐT : đặc biệt là tư duy của những người mang trọng trách của xã hội nhằm thúc đẩy kinh tế và đời sống của người Việt Nam ngang bằng với trình độ tiên tiến của thế giới. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực là mội trong những việc làm cần thiết trong việc phát triển TMĐT. Theo kết quả nghiên cứu của nhiều nhà quản lý, nhà khoa học trong nước cũng như nước ngoài đếu thấy rằng Việt Nam có rất nhiều tiềm năng về CNTT. Tuy nhiên, cho đến giờ chúng ta vẫn phải chấp nhận một sự thật là Việt Nam vẫn ở trong nhóm thứ hai gồm Việt Nam, Myanma, Lào và Campuchia còn lạc hậu về CNTT của asean. Mặc dù chúng ta có những tiềm năng nhất định về khoa học công nghệ nhưng trình độ ứng dụng và phát triển CNTT vẫn còn lạc hậu. Hiện thực này là điều không vui trong cộng đồng khoa học công nghệ của chúng ta. Nó phản ánh một sự thật là chúng ta có nhiều tiềm năng nhưng chưa biến thành khả năng có thể vận dụng để phát triển kinh tế-xã hội đất nước. Chúng ta là những người quản lý, những người làm CNTT trực tiếp, là những người có trách nhiệm cao nhất trong việc thực hiện những chiến lược của nhà nước, các mục tiêu và chỉ thị 58 của Bộ chính trị. Trong mọi lĩnh vực nguồn nhân lực là hết sức quan trọng, những nguồn nhân lực ấy mới đang ở dạng tiềm năng chứ chưa phải ở dạng khả năng khai thác. Để chuyển từ tiềm năng thành khả năng cần có một chính sách đồng bộ, có thời gian và biện pháp thiết thực thì mới có thể chuyển biến được để phục vụ cho sự phát triển khoa học công nghệ đất nước. KHCN phần mềm cũng là một dạng tiềm năng rất lớn. Chúng ta có nhiều sáng tạo, nhưng để trở thành một khả năng tương ứng làm ra lợi nhuận trong nền kinh tế thì chưa được nhiều. Làm thế nào để có những sản phẩm thay thế được nhập khẩu? Làm thế nào để có thể xây dựng được ngành công nghiệp phần mềm thành một ngành kinh tế có giá trị kinh tế ngày càng cao, hiệu quả ngày càng lớn trong nền kinh tế đang phát triển? Nếu chúng ta không cùng nhau nỗ lực, quyết tâm thực hiện để trong thời gian ngắn có một nguồn nhân lực thật tốt thì rất khó thực hiện những mục tiêu đề ra. Điều này chỉ có thể thông qua việc đào tạo một nguồn nhân lực có đủ khả năng để biến nguồn tiềm năng thành khả năng. Thực tế thì chúng ta đã hợp tác với chính phủ, các công ty CNTT hàng đầu Nhật bản và phía đối tác đã hỗ trợ cho chúng ta rất nhiều trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực. Đây là bước khởi đầu đáng khích lệ. Hội công thương và kinh tế Nhật Bản đã phối hợp với Việt Nam thành lập trung tâm phát triển kỹ sư phần mềm và đã chuyển giao công nghệ đào tạo …Hệ thống đào tạo này sẽ cấp chứng chỉ cho học viên theo học nếu đủ trình độ của Nhật Bản, trước hết có thể làm việc được với các công ty Nhật Bản. Như vậy phát triển quy mô và tăng cường chất lượng đào tạo nguồn nhân lực về CNTT, chú trọng phát triển nhanh lực lượng cán bộ chuyên sâu, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia phần mềm, đáp ứng kịp thời và thường xuyên nhu cầu trong nước và một phần thị nước ngoài là việc làm rất cần thiết. Mục tiêu đặt ra là đến năm 2005 ít nhất phải đào tạo ra được thêm 50.000 người chuyên gia về CNTT ở các trình độ khác nhau, đặt chỉ tiêu về số lượng ( tính trên 10.000 dân ) và chất lượng chuyên gia trong lĩnh vực CNTT ngang với mức bình quân của các nước trong khu vực. Trước mắt bằng những hình thức thích hợp, tổ chức thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về CNTT cho những người đã tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp thuộc các chuyên ngành khác . Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong công tác đào tạo và đào tạo ở các cấp học, bậc học, ngành học. Phát triển các hình thức đào tạo từ xa phục vụ cho nhu cầu học tập của toàn xã hội. Đặc biệt tập trung phát triển mạng máy tính phục vụ cho giáo dục và đào tạo, kết nối Internet với tất cả các cơ sở giáo dục và đào tạo . Đầu tư thỏa đáng cho công tác đào tạo, nghiên cứu về CNTT, gắn trặt giữa đào tạo, nghiên cứu và sản xuất, kinh doanh. Xã hội văn hóa mạnh việc đào tạo công nghệ thông tin, khuyến khích và thu hút các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước tham gia đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực về CNTT của Việt Nam. Xây dựng và thực hiện chương trình cử giáo viên đi đào tạo, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước để nâng cao trình độ giảng dậy, tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên, nghin cứu sinh đi học, thực tập và nghiên cứu về CNTT ở nước ngoài, áp dụng chích sách đặc biệt cho việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên gia giỏi, nhân tài trong lĩnh vực CNTT, có chế độ tạm ứng học phí đối với người nghèo hoặc có hoàn cảnh khó khăn muốn tham gia các chương trình đào nghề trong lĩnh vực CNTT để lập nghiệp. Để chuyển sang nền kinh tế ”số hóa” nói chung và “TMĐT” nói riêng lại càng không thể thiếu vai trò của tầng lớp tri thức mới của nền văn minh thông tin. Đó là các chuyên gia tin học và đông đảo dân chúng có trình độ ứng dụng CNTT vào mục đích quản lý và xản suất, kinh doanh, am hiểu và nghiên cứu thực thi luật pháp để tạo dựng nguồn nhân lực mới . Đó là những người làm việc ở khu vực công việc có đủ năng lực để bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo đảm chất lượng công nghệ và thông tin, không để thị trường bị sụp đổ vì “ thông tin không đối xứng”, để bảo vệ người tiêu dùng, tạo dựng hạ tầng công nghệ kinh tế và pháp lý cũng như bảo mật an toàn của TMĐT. Đó còn là đông đảo dân chúng , những đối tượng của hoạt đông đảo thương mại nói chung và của TMĐT nói riêng – họ cũng cần phải có một tri thức nhất định để biết cách ứng xử trong môi trường TMĐT. Điều cần nhấn mạnh đối với yêu cầu nâng cao trình độ của các chuyên gia tin học cũng như các cán bộ hoạt động trên lĩnh vực TMĐT là học cần có một trình độ nhất định, hiểu sâu biết rộng về kĩ thuật và công nghệ. Chỉ khi ấy, những tri thức Việt Nam hoạt động trên lĩnh vực CNTT, hoặc TMĐT mới làm tròn sứ mạng đối với dân tộc, là đem khả năng của mình tiếp cận với kinh tế tri thức và hướng nó đi đúng định hướng XHCN, bảo vệ được lợi ích dân tộc trong khi mở rộng quan hệ hợp tác và giao lưu. Truyền thống hiếu học và trọng dụng người có học là một giá trị văn hóa dân tộc cần được nuôi dưỡng, để tránh tình trạng bị đứt gẫy bởi thời kì tranh tối tranh sáng của giai đoạn chuyển đổi cơ chế do năng lực thể chế của nhà nước còn yếu kém, cũng như sự chuyển dịch các định hướng giá trị xã hội trước các tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Trước yêu cầu rất cao của kinh tế tri thức, trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ hiện nay của các tầng lớp nhân dân trong xã hội ta là vấn đề đáng quan tâm, nếu không muốn nói là lo ngại bởi khoảng cách tiếp cận với kinh tế tri thức còn rất xa. Điều này được biểu hiện trong sự phát triển nền kinh tế đất nước: tốc độ chuyển dich cơ cấu kinh tế của nước ta diễn ra quá chậm so với kinh tế các nước đã trải qua thời kỳ công nghiệp hóa. Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước cùng toàn xã hội thông qua nhận thức và hành động, càng ngày càng coi trọng “giáo dục là quốc sách” để tiếp cận kinh tế tri thức, loại bỏ nguy cơ ”tụt hậu”. Như vậy xu hướng nâng cao trình độ đang ngày càng được xã hội coi trọng, đây là điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia vào các hoạt động của TMĐT . TMĐT như đã đề cập, là phần nổi của một tiến trình chuyển mình sang kinh tế tri thức. Đó là nền kinh tế mà trong đó việc sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế-xã hội, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Lực lượng lao động trong kinh tế tri thức là lực lượng lao động trí thức, trong đó doanh nhân, nhà khoa học nhà quản lý có thể là một các nhà nghiên cứu đưa ra dự báo rằng kinh tế tri thức sẽ phổ cập toàn cầu vào thập niên 30 của thế kỷ XXI. Rõ ràng việc học tập, nâng cao hiểu biết để trở thành một ” công dân tri thức” không những là điều khẳng định cần phải làm mà còn cần đặt ra như một mục đích có tính chất quốc thể. Truyền thống hiếu học và trọng dụng người có học là một giá trị truyền thống thuận lợi cho ứng dụng TMĐT vào xã hội Việt Nam. 4. Đẩy mạnh việc xây dựng mạng thông tin quốc gia, bao gồm hệ thống viễn thông và Internet Việt Nam. Đẩy mạnh đầu tư xây dựng mạng thông tin quốc gia bao gồm hệ thống viễn thông và Internet Việt Nam. Phát triển nhanh mạng thông tin quốc gia, đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài của toàn xã hội, đặc biệt sớm hình thành siêu xa lộ thông tin trong nước, liên kết với các nước trong khu vực và quốc tế. Phát triển quản lý hệ thống viễn thông và Internet nhất thiết phải phục vụ việc đẩy nhanh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực và trong toàn xã hội, đồng thời phải có biện pháp toàn diện, đồng bộ để ngăn chặn những hành vi lợi dụng gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Có chính sách đảm bảo thúc đẩy môi trường cạnh tranh, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia các hoạt động dịch vụ viễn thông và Internet. Từ năm 2001, đảm bảo cung cấp đầy đủ và thuận lợi các dịch vụ viễn thông và Internet cho người sử dụng với tốc độ và chất lượng cao, giá cước thấp hơn hoặc tương đương với các nước trong khu vực, áp dụng giá cước ưu đãi đặc biệt đối với các cơ quan Đảng, Nhà nước và các lĩnh vực giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học. Xây dựng củng cố hạ tầng thông tin phục vụ cho việc phát triển TMĐT phải thấm nhuần và vận dụng tư tưởng của Đảng Cộng Sản Việt Nam về công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn thực tiễn Việt Nam, những yêu cầu về phát triển thương mại trên thế giới nói chung, để lựa chọn con đường phát triển cho TMĐT Việt Nam. Tránh tư tưởng nóng vội, phi thực tế, đầu tư ào ạt dẫn đến lãng phí, kém hiệu quả. Hạ tầng thông tin là nền tảng để phát triển hình thành kinh tế tri thức. Hạ tầng thông tin bao gồm 2 thành phần là hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng nội dung. Để xây dựng củng cố hạ tầng thông tin phục vụ cho việc phát triển TMĐT phải có sự quan tâm, đầu tư lớn của nhà nước và các cấp, các ngành cùng sự hợp tác của các doanh nghiệp . Việc xây dựng mạng thông tin quốc gia là nhiệm vụ cần thiết đã và đang được triển khai từng bước ở Việt Nam. Hiện nay trong khi chính phủ đang tạo ra môi trường thuận lợi cho TMĐT phát triển như : Tạo môi trường pháp luật, nâng cấp hạ tầng cơ sở thông tin, hạ giá truy cập Internet, tuyên truyền và đào tạo nguồn nhân lực cho TMĐT, thì các doanh nghiệp Việt Nam cần nhận thức được lợi ích của TMĐT mà chủ động chuẩn bị cơ sở vật chất, nguồn nhân lực và những điều kiện cần thiết để triển khai ứng dụng TMĐT . Mặt khác phải nắm được các công nghệ tiên tiến, điều chỉnh cơ sở sản xuất, đầu tư thiết bị cải tiến phương thức kinh doanh để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa , nâng cao chất lượng dịch vụ, giảm giá thành mới có thể cạnh tranh được với hàng hóa và dịch vụ, nhất là các dịch vụ bưu chính viễn thông, khi ta mở cửa hội nhập với các nước ASEAN và tham gia cuộc chơi trên phạm vi toàn cầu. 5. Tăng cường đổi mới công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực CNTT : Phát triển TMĐT cũng đồng nghĩa với việc tăng cường công tác quản lý nhà nước về hạ tầng cơ sở CNTT. Nhà nước phải quản lý để TMĐT có thể phát triển theo đúng mô hình phù hợp với điều kiện của thực tiễn ở Việt Nam. Công tác quản lý trong TMĐT là rất cần thiết bởi đó là sự quản lý của cả một khâu, một chuỗi các công việc theo một quy trình nhất định. Sự quản lý đòi hỏi phải thống nhất đồng bộ, có như vậy TMĐT mới phát triển theo xu hướng chung chứ không phải là một cách tự phát. Chính phủ sớm kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý về viễn thông và CNTT để thống nhất quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Trước mắt mỗi cơ quan Đảng, Nhà nước cấp trung ương và cấp tỉnh thành phố trực thuộc TW cử cán bộ lãnh đạo trực tiếp phụ trách về CNTT. Xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, ứng dụng và phát triển CNTT theo phương châm năng lực quản lý phải theo kịp tốc độ phát triển, đầu tư phải thiết thực hiệu quả, không được lãng phí và đảm bảo công khai, rõ ràng, minh bạch. Một xã hội được tổ chức tốt, nhất là trong bối cảnh công nghiệp hóa, phụ thuộc rất nhiều vào giới quản lý. Cái mới được du nhập từ bên ngoài vào không thể không thông qua vai trò của giới quản lý. Đối với giới quản lý, không phải chỉ dạy cho họ kỹ thuật xúc tiến TMĐT, mà điều quan trọng hơn là làm cho họ có nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí, phương hướng phát triển TMĐT để họ vận dụng vào lĩnh vực quản lý của mình. Tiếp sau đó mới là phổ biến cho họ những kiến thức cần thiết nhất để họ có khả năng xử lý những vấn đề do công tác quản lý đặt ra khi liên quan đến TMĐT. Kết Luận Thật ra, thương mại điện tử không phải là một phương thức mới của thương mại. Thực ra nó đánh dấu sự bắt đầu của một hệ thống tạo ra của cải vật chất mới. Nó là một cơ hội thương mại tuyệt vời để phát triển kinh tế. Đó là lý do tại sao nhiều người đang đổ tiền vào khai thác thương mại điện tử. Với Việt Nam, dưới tác động của thương mại điện tử có định hướng của Đảng và Nhà nước ta, chúng ta sẽ khắc phục được những nhược điểm của lối sống tiểu nông, tiểu thương ( trì trệ, bảo thủ, cô lập, thiếu lòng tin, ít coi trọng chữ tín trong kinh doanh...).Tuy nhiên, mô hình TMĐT ở Việt Nam chưa được chú trọng phát triển một cách đồng bộ. Chỉ riêng về hạ tầng công nghệ thông tin của nước ta, với tốc độ đường truyền và với độ an toàn thông tin còn quá thấp như hiện nay thì chưa thể nói đến hoạt động thương mại điện tử thực sự được. Từ góc độ này, cần khắc phục tính nôn nóng để xác định những bước đi vững chắc. Chỉ có như vậy mới có thể tránh tình trạng đầu tư tràn lan không rõ hướng, không phù hợp với thực tế cho thương mại điện tử, mới tránh được lãng phí sau đó lại là một tâm lý thất vọng do đầu tư không có hiệu quả. Cần tiến hành những bước thử nghiệm chắc chắn, có đúc rút kinh nghiệm đối với hoạt động cụ thể của thương mại điện tử để hoạch định những bước đi và giải pháp thích hợp. Hy vọng rằng đề án đã phản ánh một cách chung nhất về tình hình thương mại điện tử hiện nay để mọi người có thể nhìn nhận lại nó và hiểu được tầm quan trọng của nó trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Chúng ta có thể tin rằng một ngày nào đó thương mại điện tử sẽ phát triển mạnh mẽ hơn để phù hợp với xu thế của thời đại và thương mại điện tử là một ngành phổ biến trong kinh doanh. Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo. Giáo trình Kinh Tế Thương Mại Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Thương Mại Điện Tử Nhà Xuất Bản Lao Động Thời Báo Kinh Tế Việt Nam Số 62, 64- 2002, Số 6, 64,65-2003 Tạp chí Thương Mại Số 46,18-2003 Tạp chí Nghiên Cứu Đông Nam á Số 1-2001 Tạp chí Phát Triển Kinh Tế Tháng giêng 2003 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33779.doc
Tài liệu liên quan