Suy thoái kinh tế và chính sách kích cầu của Chính phủ Việt Nam

Giới thiệu chung về đề tài nghiên cứu. Lý do chọn đề tài. Ngày 11/01/2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Sự kiện này cũng đánh dấu sự hội nhập sâu của kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Hội nhập kinh tế mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội để có thể vươn lên “sánh vai với các cường quốc” nhưng cũng đưa đến không ít những khó khăn thách thức. Như một con tàu vươn ra biển lớn, để kinh tế Việt Nam có thể chống chọi với “bão táp phong ba”

doc63 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1644 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Suy thoái kinh tế và chính sách kích cầu của Chính phủ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mà vẫn vững vàng về đích thì Chính Phủ Việt Nam với vai trò là thuyền trưởng cần có những bước đi đúng hướng để ứng phó với mọi tình hình biến động từ bên ngoài cũng như giải quyết các tốt các vấn đề nội bộ. Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu những năm 2007-2010 đã ảnh hưởng tới hầu hết mọi nền kinh tế trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Vậy suy thoái kinh tế là gì? Nguyên nhân và hậu quả của hiện tượng này như thế nào? Chúng ta biết gì về khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu những năm 2007-2010 và nó ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam ra sao? Chính phủ Việt Nam đã có những hành động gì trong bối cảnh đó? Để tìm câu trả lời cho những câu hỏi trên, em đã chọn đề tài nghiên cứu khoa học cho mình là “ Suy thoái kinh tế và chính sách kích cầu của Chính phủ Việt Nam” Mục tiêu nghiên cứu. Mục tiêu tổng quát: Nhằm nâng cao hiểu biết của bản thân về các vấn đề kinh tế xã hội. Mục tiêu cụ thể: Hệ thống hoá lý thuyết suy thoái kinh tế, tìm hiểu nguyên nhân, cách nhận biết cũng như giải pháp. Phân tích, đánh giá và rút ra bài học kinh nghiệm từ gói kích cầu của chính phủ Việt nam trong năm 2009. Tìm hiểu, phân tích và rút ra kinh nghiệm từ giải pháp kích cầu của Chính phủ Trung Quốc. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Nghiên cứu về khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu những năm cuối thập niên 2000 và những ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế Việt Nam. Nghiên cứu chính sách cầu của chính phủ Việt Nam trong năm 2009. Phương pháp nghiên cứu. Sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng, kết hợp với các phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp… nhằm làm rõ vấn đề nghiên cứu. Phương pháp thu thập, xử lý số liệu từ các nguồn thông tin thứ cấp. Nội dung chính Chương I: Một số vấn đề chung về suy thoái kinh tế và chính sách kích cầu. Suy thoái kinh tế. Định nghĩa: Suy thoái kinh tế: (recession/economic downturn) là giai đoạn thu hẹp quy mô của nền kinh tế trong chu kỳ kinh doanh. Hình 1: Chu kỳ của nền kinh tế Ở Mỹ và Nhật Bản, người ta quy định rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm suốt hai quý liên tiếp thì gọi là suy thoái. Một số đặc điểm thường gặp của suy thoái. - Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền trong các doanh nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản lượng kéo theo đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và kết quả là GDP thực tế giảm sút. - Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm xuống tiếp theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. - Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất giảm bởi nguyên nhân cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng không nhanh trong giai đoạn kinh tế suy thoái. - Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán thường giảm theo khi các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh. Cầu về vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất giảm xuống trong thời kỳ suy thoái. Nguyên nhân suy giảm kinh tế theo quan điểm Keynes. Theo lý thuyết Keynes, trong ngắn hạn sản lượng thực tế có thể thấp hơn so với mức sản lượng tự nhiên của nền kinh tế. Và nguyên nhân của hiện tượng này là do sự suy giảm tổng cầu của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế mở tổng cầu bao gồm các yếu tố sau: (i) tiêu dùng của các hộ gia đình (C); (ii) đầu tư tư nhân (I); (iii) chi tiêu của Chính phủ (G); (iv) và xuất khẩu ròng (NX) là chênh lệch giữa xuất khẩu(X) và nhập khẩu (M). Hình 2: Sự dịch chuyển của đường tổng cầu AD = C + I + G + NX Sự suy giảm của tổng cầu được biểu diễn bằng sự dịch trái của đường AD (AD0=>AD1). Khi đó nền kinh tế sẽ di chuyển theo đường tổng cung (AS) từ trạng thái cân bằng E0 đến trạng thái cân bằng mới E1.Tại trạng thái cân bằng mới, sản lượng của nền kinh tế giảm từ Y0 xuống Y1 và mức giá giảm từ P0 đến P1. Như vậy là sự suy giảm của tổng cầu dẫn đến giảm sản lượng của nền kinh tế và giảm giá cả. Chính vì lẽ đó mà Keynes chủ trương cần có sự can thiệp của nhà nước làm cho đường tổng cầu dịch chuyển trở về vị trí ban đầu hay còn gọi là chính sách kích cầu khi nền kinh tế lâm vào trạng thái suy giảm. Chính sách kích cầu. Khái niệm. Kích cầu là sử dụng các công cụ chính sách để làm tăng các thành phần của tổng cầu của nền kinh tế, kích thích tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu. Trong suy thoái, việc tăng tổng cầu thường được thực hiện nhằm ngăn chặn tổng cầu sụt giảm sẽ dẫn đến đổ vỡ nền kinh tế qua tác động dây chuyền: suy giảm kinh tế ->thất nghiệp-> giảm thu nhập-> giảm tiêu dùng -> giảm tổng cầu-> doanh nghiệp không có đầu ra -> doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, sa thải nhân công và thất nghiệp tăng. Như vậy, mục đích của chính sách kinh tế vĩ mô là giảm thiểu khó khăn nhất thời của nền kinh tế để đưa nền kinh tế về trạng thái ban đầu trước khủng hoảng. Cụ thể là tạo sức cầu cho nền kinh tế, giữ thị trường cho doanh nghiệp, hỗ trợ họ duy trì sản xuất nhằm đảm bảo duy trì được các công việc có sẵn. Các biện pháp kích cầu cơ bản. Để nhằm kích cầu Chính phủ có thể nhắm vào các thành phần của tổng cầu đó là C, I, G và cả X, M. Cụ thể: Để tăng tiêu dùng hộ gia đình (tăng C), có thể giảm thuế thu nhập cá nhân, tăng các khoản thu nhập của các hộ gia đình từ chuyển nhượng của chính phủ, từ trợ cấp thất nghiệp. Các khoản giảm thuế gián thu, thuế trực thu của doanh nghiệp không làm tăng tức thời tiêu dùng của hộ gia đình mà phải đến vòng chu chuyển kinh tế thứ hai mới có tác dụng. Để tăng đầu tư tư nhân (tăng I), có thể giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm thuế đánh vào thu nhập từ vốn, giảm lãi xuất cho vay đối với các khoản đầu tư tăng vốn, cho phép khấu hao nhanh. Ngoài ra đầu tư tư nhân còn có khoản xây nhà của hộ gia đình. Do vậy, hỗ trợ vay vốn xây nhà cũng có tác dụng tăng tổng cầu. Để tăng chi tiêu của chính phủ cho hàng hoá dịch vụ (tăng G), có thể tăng chi tiêu cho tiêu dùng hoặc tăng chi tiêu cho đầu tư công. Để tăng xuất khẩu (tăng X), có thể sử dụng chính sách tỷ giá hối đoái, các hoạt động xúc tiến thương mại. Để giảm nhập khẩu (giảm M), có thể sử dụng chính sách thuế xuất nhập khẩu, các hàng rào phi thuế quan khác hoặc khuyến khích sử dụng hàng trong nước thay thế nhập khẩu. Những nguyên tắc quan trọng khi kích cầu Theo các nhà kinh tế học kích cầu không phải là việc mà các nhà hoạch định chính sách thiết kế các phương án rồi cứ thế thực hiện mà điều quan trọng hàng đầu là phải đảm bảo các nguyên tắc riêng của nó .Nhà kinh tế học Lawrence Summers (giáo sư kinh tế, từng là hiệu trưởng trường đại học Harvard và là cố vấn kinh tế cho tổng thống Mỹ Obama) cho rằng để một gói kích cầu có hiệu quả (effective) thì phải đảm bảo ít nhất 3 tiêu chí (3T), đó là kịp thời (timely), đúng đối tượng (targeted) và ngắn hạn hay nhất thời (temporary). Kích cầu phải kịp thời – Timely Tính kịp thời của kích cầu thường được dựa vào việc chính phủ can thiệp vào nền kinh tế ngay khi có nguy cơ suy thoái, đồng thời việc can thiệp của chính phủ sẽ có tác động kích thích ngay tổng cầu. Chính Phủ phải thực hiện kích cầu ngay khi các doanh nghiệp chưa thu hẹp sản xuất và các hộ gia đình chưa thu hẹp tiêu dùng. Nếu thực hiện sớm quá, kích cầu có thể làm cho nền kinh tế trở nên nóng và tăng áp lực lạm phát. Nhưng nếu thực hiện chậm quá, thì hiệu quả của kích cầu sẽ giảm. Việc thực hiện kích cầu đúng lúc càng phải được chú ý nếu các quá trình chính trị và hành chính để cho một gói kích cầu được phê duyệt và triển khai là phức tạp. Thường thì chính phủ phải đệ trình quốc hội kế hoạch kích cầu và phải được cơ quan lập pháp tối cao này thông qua. Và, muốn nó diễn ra suôn sẻ thì cần có các bằng chứng thuyết phục và kế hoạch rõ ràng. Do đó, thách thức lớn nhất chính là sự thiếu chính xác trong xác định thời điểm chuyển pha của chu kỳ kinh tế. Có trường hợp nền kinh tế đã chuyển hẳn sang pha suy thoái một thời gian rồi mà công tác thu thập và phân tích số liệu thống kê không đủ khả năng phán đoán ra. Một khi chính phủ thực hiện thì các biện pháp này sẽ có hiệu ứng kích thích kinh tế ngay, tức là làm tăng chi tiêu ngay trong nền kinh tế. Nếu để tự nền kinh tế phục hồi thì việc phục hồi sớm muộn cũng sẽ diễn ra, nhưng nó có thể kéo dài và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng, cho nên mục tiêu của kích cầu là đẩy nhanh việc phục hồi của nền kinh tế. Do đó, việc kích cầu chỉ có thể được thực hiện một cách có ý nghĩa trong một khoảng thời gian nhất định. Các chính sách mất quá nhiều thời gian để thực hiện sẽ không có tác dụng, vì khi đó nền kinh tế tự nó đã có thể phục hồi, và việc gói kích cầu lúc đó lại có thể có tác dụng xấu do có khả năng làm hun nóng nền kinh tế dẫn đến lạm phát và những mất cân đối vĩ mô lớn Các chương trình đầu tư, dự án đầu tư có tốc độ giải ngân chậm không phải là những công cụ kích cầu tốt. Điều này là bởi vì khi tổng cầu sụt giảm, thì các biện pháp này lại không có tác động gì tới tổng cầu trong lúc cần phải tăng tổng cầu lên nhiều nhất (để tránh các tác động tích cực của suy thoái như việc các doanh nghiệp sa thải công nhân). Rất khó lượng hoá để đánh giá tính kịp thời trong việc thực hiện kích cầu. Nhưng chúng ta có thể đánh giá tính kịp thời dựa vào so sánh thời điểm suy thoái kinh tế và thời điểm chính sách được ban hành; thời điểm ban hành và thời điểm thực thi chính sách cùng với tốc độ giải ngân gói kích cầu. Kích cầu phải đúng đối tượng – targeted Gói kích cầu có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào xu hướng chi tiêu và đầu tư của các đối tượng mà gói kích cầu nhắm đến. Để kích thích được cầu đối với hàng hoá và dịch vụ thì gói kích cầu phải được nhắm tới đối tượng sao cho gói kích cầu được sử dụng ngay (chi tiêu ngay), và qua đó làm tăng tổng cầu trong nền kinh tế. Những biện pháp kích cầu đúng đối tượng là những biện pháp nhắm tới các đối tượng sẽ chi tiêu hầu như toàn bộ lượng kích cầu dành cho họ. Mục tiêu của gói kích cầu là làm tăng cầu, nên chìa khóa để thực hiện điều này là cấp tiền cho những người sẽ sử dụng ngay những đồng tiền này, và qua đó đưa thêm tiền vào nền kinh tế. Tiền kích cầu phải được sử dụng để khuyến khích các nhóm đối tượng này tiến hành các khoản chi tiêu mới, hoặc hạn chế việc các nhóm này cắt giảm chi tiêu. Việc đánh giá tính hiệu quả trong việc lựa chọn đối tượng kích cầu thường được thực hiện qua việc đánh giá hiệu quả kích cầu trên một đồng đô la thực hiện kích cầu, hay nói cách khác, một đồng đô la bỏ ra sẽ làm tăng tổng cầu lên bao nhiêu đồng. Ví dụ: Giả sử ông A nhận được khoản tiền mặt trợ cấp 100 đồng từ gói trợ cấp của Chính phủ. Với gia cảnh cũng như thói quen của mình, ông A sẽ sử dụng một phần số tiền trợ cấp nhận được. Đây được gọi là xu hướng tiêu dùng cận biên. Nếu ông A tiêu hết 90 đồng thì xu hướng tiêu dùng cận biên sẽ là 90%. Nếu ông A mua sảm phẩm của ông B thì ông B sẽ có thu nhập là 90 đồng. Và cũng giống như ông A, ông B sẽ tiêu dùng khoảng 81 đồng (90% thu nhập), vào sản phẩm của ông C. Đến luợt mình, 81 đồng đó sẽ tạo ra thêm 72,9 đồng cho tổng cầu của nền kinh tế. Trong ví dụ này, 100 đồng kích cầu sẽ tạo ra thêm tổng cầu là 243 đồng, nếu tất cả người có thêm thu nhập có mức tiêu dùng cận biên cao là 90% và chỉ tiêu dùng hàng sản xuất nội địa. Nhưng nếu ở đây có hiện tượng “rò rỉ” ra hàng ngoại nhập thì 100 đồng kích cầu sẽ không tạo ra thêm lượng tổng cầu như cũ nữa mà thấp hơn. Cũng ví dụ trên, nếu ông A dùng 30 đồng mua hàng ngoại nhập thì chỉ còn 60 đồng tiêu dùng trong nước, lượng cầu mới tạo ra đã bị “rò rỉ” đi mất 30 đồng ở vòng 1. Tương tự như vây, hiệu ứng tạo cầu trong vòng 2 còn phụ thuộc vào có bao nhiêu trong tổng số đồng ông B nhận được bị “rò rỉ” sang hàng ngoại nhập. Như vậy, lượng “rò rỉ” sẽ ảnh hưởng đến việc tạo thêm tổng cầu cho nền kinh tế. Nếu nó càng lớn thì hiệu quả của gói kích cầu sẽ càng bé. Vậy để kích cầu có hiệu quả thì gói kích cầu phải nhắm vào những đối tượng có khuynh hướng tiêu dùng biên cao và mức độ “rò rỉ” sang hàng ngoại nhập thấp. Khi nền kinh tế khủng hoảng thì nhóm người có thu nhập thấp là nhóm chịu nhiều bất lợi nhất. Nhóm người này lại thường có mức tiêu dùng biên cao và chi tiêu chủ yếu vào hàng nội. Do vậy nếu kích cầu vào đúng nhóm đối tượng này thì đạt được đồng thời cả hai mục tiêu là hiệu quả và công bằng, khác với sự đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng mà trong kinh tế vẫn thường gặp. Để kích cầu trúng đúng đối tượng, các nhà hoạch định chính sách thường dựa vào các mô hình kinh tế lượng để mô phỏng hiệu quả của gói kích cầu qua các kịch bản khác nhau tương ứng với các mục tiêu khác nhau, từ đó tìm ra mục tiêu hợp lý nhất. Kích cầu chỉ trong ngắn hạn – temporary Nguyên tắc ngắn hạn có nghĩa là sẽ chấm dứt kích cầu khi nền kinh tế được cải thiện. Khi thực hiện các biện pháp kích cầu phải đảm bảo rằng các biện pháp chỉ có tính tạm thời và sẽ chấm dứt khi nền kinh tế đã vượt qua suy thoái. Thông thường, sau khi vượt qua suy thoái, nên thực hiện các biện pháp để giảm thâm hụt ngân sách. Nguyên tắc ngắn hạn có một số điểm cần chú ý sau: Thứ nhất, tính ngắn hạn làm tăng hiệu quả của gói kích cầu. Những chính sách mà vẫn còn hiệu lực sau khi nền kinh tế phục hồi là những biện pháp kích cầu kém hiệu quả bởi vì những biện pháp kích cầu này sẽ trở thành những khoản chi phí của chính phủ hoặc khoản thất thu khi mà thời gian kích thích đã kết thúc. Hơn thế nữa các biện pháp như tín dụng đầu tư, hoặc ưu đãi khấu hao tài sản sẽ là những biện pháp kích cầu hiệu quả hơn khi được thực hiện là những gói tạm thời, ngắn hạn. Nếu là những biện pháp dài hạn thì sẽ không kích thích được cầu. Điều này là do các biện pháp nếu chỉ thực hiện trong ngắn hạn sẽ khuyến khích các doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ đầu tư để tận dụng ưu đãi. Những biện pháp dài hạn sẽ không phải là một biện pháp kích cầu tốt, bởi vì các doanh nghiệp sẽ cảm thấy không cần thiết phải đẩy nhanh tốc độ đầu tư trong giai đoạn nền kinh tế cần được kích thích nhất. Thứ hai, kích cầu vừa đủ để đảm bảo nền kinh tế có thể vượt qua suy thoái nhưng không làm ảnh hưởng lớn tới ngân sách trong dài hạn và làm tăng tính bất ổn của nền kinh tế. Nếu gói kích cầu quá bé thì kích thích sẽ bị hụt hơi và tổng cầu có thể không bị kích thích nữa, khiến cho gói kích cầu trở thành lãng phí. Ngược lại gói kích cầu lớn qua tạo ra tác động kéo dài khiến cho nền kinh tế đã hồi phục mà vẫn trong trạng thái tiếp tục được kích thích thì sẽ dẫn tới kinh tế mở rộng quá mức, lạm phát tăng lên. Thường thì khi thực hiện các biện pháp kích thích nền kinh tế việc mở rộng chi tiêu (tạm thời) của Chính Phủ sẽ dẫn tới thâm hụt ngân sách. Do đó phải đảm bảo các chính sách kích thích kinh tế trong ngắn hạn không có tác động xấu tới nền kinh tế trong dài hạn hoặc gây khó khăn cho ngân sách trong dài hạn hay làm thâm hụt ngân sách trầm trọng hơn. Việc đảm bảo rằng trong dài hạn tình hình kinh tế không kém đi cũng là yếu tố qua trọng để gói kích cầu ngắn hạn đạt hiệu quả hơn. Thâm hụt ngân sách lớn trong tương lai cũng đồng nghĩa với suy giảm tiết kiệm trong dài hạn, dẫn tới giảm đầu tư và ảnh hưởng tới tăng trưởng. Vì vậy cần phải thiết kế một gói kích cầu vừa đủ tức là gói kích cầu sẽ hết hiệu lực khi nền kinh tế đã trở nên tốt hơn. Thứ ba, thời điểm rút kích cầu cũng rất quan trọng. Chính phủ cần rút kích cầu khi nền kinh tế đã phục hồi. Nếu rút kích cầu quá muộn sẽ làm cho nền kinh tế tăng trưởng quá nóng, gây lạm phát tạo ra sự bất ổn kinh tế. Còn nếu rút kích cầu quá sớm, khi nền kinh tế còn chưa phục hồi hay dấu hiệu phục hồi chưa rõ ràng thì sẽ làm cho nền kinh tế không thể phục hồi hoặc sẽ đi vào trạng thái chu kỳ hình W. Như vậy thời điểm rút kích cầu cũng rất quan trọng, nó quyết định cho kết quả của quá trình kích cầu và trạng thái mới của nền kinh tế. Tóm lại: khi nền kinh tế lâm vào tình trang suy thoái thì chính phủ cần có chính sách kích cầu phù hợp. Để có thể đưa nền kinh tế ra khỏi suy thoái nhanh nhất và không ảnh hưởng tới khả năng phát triển trong tương lai chính phủ cần chú ý đến các biện pháp kích cầu và các nguyên tắc khi thực hiện chính sách kích cầu. Chương II: Khủng hoảng tài chính toàn cầu những năm 2007-2010 và những ảnh hưởng tới Việt Nam. Khủng hoảng tài chính toàn cầu. Diễn biến của khủng hoảng. Năm 2007 và đặc biệt năm 2008, thế giới chứng kiến những ngày tồi tệ nhất của thị trường tài chính toàn cầu. Chúng ta sẽ điểm lại những mốc sự kiện chính trong chuỗi này để thấy khủng hoảng đã diễn ra như thế nào: •    Năm 2002-2004: Giá cả ở các bang Arizona,California, Florida, Hawaii, và Nevada tăng trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu. •    Năm 2005: Bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005. Thị trường bất động sản tạm gián đoạn trên một vài bang ở Mỹ vào cuối mùa hè năm 2005 khi tỷ lệ lãi suất tăng từ 1% lên đến 5.35% do có nhiều nhà kinh doanh bất động sản đã đánh giá thấp thị trường. •    Năm 2006: Thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm, kinh doanh bất động sản đi xuống, dẫn đến một lượng nhà dư thừa đáng kể.  Chỉ số Xây dựng Nhà ở tại Mỹ hồi giữa tháng 08 giảm hơn 40% so với một năm trước đó. •    Năm 2007: Kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượng nhà tồn ước tính cao nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ chức cho vay dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bị tịch thu để thế chấp nợ, tăng 79% từ năm 2006. Thư ký bộ tài chính Mỹ gọi bong bóng bất động sản lần này là “mối nguy hiểm ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế”. Ngày 05/02: Công ty Mortage Lenders Network USA  đứng thứ 15 trong số các nhà cho vay dưới chuẩn nhiều nhất ở Mỹ, với tổng dư nợ 3.3 tỷ đô la thời điểm quý 3 năm 2006, tuyên bố phá sản. Ngày 02/04: New Century Financial, nhà cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ, tuyên bố phá sản.  Tháng 6: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại chúng thấp và không bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ quỵ ngã sau khi đánh cược vào các chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ. Ngày 19/07: Chỉ số Dow Jones đóng cửa với mức 14.000 điểm, lần đầu tiên trong lịch sử. Tháng 8: Khủng hoảng tín dụng toàn cầu, mà chính xác là chứng khoán dựa trên các khoản nợ thế chấp dưới chuẩn, được phát hiện trong các danh mục vốn đầu tư  và quỹ trên khắp thế giới từ  BNP Paribas cho đến Ngân hàng Trung Quốc. Nhiều nhà cho vay ngừng cho vay tín dụng mua nhà. Cục dữ trữ liên bang đã cho các ngân hàng vay 100 tỷ đô la với lãi suất thấp. Ngày 16/08: Tập đoàn tài chính Countrywide, đơn vị cho vay thế chấp lớn nhất nước Mỹ, đã phải tránh phá sản bằng cách vay khẩn cấp 11 tỷ đô la từ một nhóm các ngân hàng khác.  Ngày 17/08: Cục dự trữ liên bang đã phải hạ mức hệ số chiếu khấu 50 điểm cơ bản từ mức 6.25% xuống 5.75%   Tháng 9: Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng đầu tiên tại châu Âu chịu ảnh hưởng bởi những khoản đầu tư xấu trên thị trường cho vay dưới chuẩn ở Mỹ. Trong khi đó, Ngân hàng SachsenLB của Đức phải nhận sự cứu trợ từ chính phủ. Ngày 14/09: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn kéo đến bủa vây để đòi rút tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh - Ngân hàng cho vay thế chấp Northern Rock - ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh. Ngày 15–17/10: Liên minh các ngân hàng Mỹ được hỗ trợ bởi chính phủ thông báo lập một siêu quỹ trị giá  100 tỷ đô la để mua lại các chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản thế chấp mà giá trị thị trường đã bị sụt giảm do khủng hoảng vay dưới chuẩn. Chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Ben Bernake và Bộ trưởng Bộ tài chính Mỹ đều đưa ra những cảnh báo về mối nguy hiểm của việc vỡ bong bóng bất động sản. Ngày 15/10: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11. Ngày 31/10: Cục dự trữ liên bang hạ lãi suất quỹ liên bang 25 điểm xuống 4.5% Tháng 11: Cục dự trữ liên bang bơm thêm 41 tỷ đô la cho các ngân hàng vay với lãi suất thấp. Đây là lần xuất tiền lớn nhất của cục dự trữ liên bang kể từ 19 tháng 9 năm 2001 (50.35 tỷ đô la). Ngày 17/12: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với nạn nhân là Tập đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu của các phố buôn bán lớn ở Mỹ tại Úc sau khi tập đoàn này đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro Properties đã tụt giá 70% tại các giao dịch ở Sydney. •    Năm 2008 Ngày 11/01: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá lớn. Ngày 30/01: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS công bố trích lập dự phòng 4 tỷ USD, nâng tổng số tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ USD do những thất thoát quan đến cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố. Ngày 17/02: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock. Ngày 28/02: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất giá là 1,36 tỷ euro. Ngày 16/03: Bear Stearns bán lại cho JP Morgan Chase với giá 2 đôla một cổ phiếu để tránh phá sản. Cục dự trữ liên bang phải cung cấp 30 tỷ đô la để trợ giúp các khoản lỗ của Bear Stearn. Ngày 29/04: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một khoản thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế thấp bất động sản. Ngày 11/07: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày. Ngày 17/07: Các ngân hàng lớn và các tổ chức tài chính trên thế giới đã báo cáo thua lỗ lên đến 435 tỷ đôla. Ngày 31/07: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là 3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu. Ngày 7/09: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền kiểm soát hai tập đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac nhằm hỗ trợ thị trường nhà đất Mỹ. Ngày 11/09: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán lại chính mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%. Ngày 14/09: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29 USD/cp sau khi từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers. Merrill Lynch được bán cho Bank of America với giá 50 tỷ đô la. Ngày 15/09: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này mở cửa trở lại sau vụ khủng bố 2 toà tháp đôi tại Mỹ vào Tháng 9 năm 2001. Lehman Brothers sụp đổ đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ; Merrill Lynch bị Bank of America Corp thâu tóm; American International Group - tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố. Ngày 16/09: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ USD vào các thị trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và ngăn chặn sự đóng băng của hệ thống tài chính toàn cầu. Cổ phiếu AIG giảm gần một nửa. Fed công bố kế hoạch bơm 85 tỷ USD vào AIG và nắm giữ 80% cổ phần. Ngân hàng Barclays của Anh mua lại một phần tài sản tại Bắc Mỹ của Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD. Ngày 17/09: Cổ phiếu của Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm mạnh; Tập đoàn Lloyds TSB của Anh mua lại đối thủ HBOS; Uỷ ban Chứng khoán Mỹ kiềm chế tình trạng bán khống. Ngày 19/09: Các thị trường chứng khoán thế giới tăng vọt sau khi Mỹ công bố kế hoạch mua lại tài sản của các tập đoàn tài chính đang gặp khó khăn, giúp làm thanh sạch hệ thống tài chính. Ngày 20-21/9: Mỹ công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. Hai ngân hàng Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập đoàn ngân hàng đa năng, đánh dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng đầu tư tại Phố Wall. Ngày 22/09: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để thâu tóm hoạt động của Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại Lehman tại châu Âu và Trung Đông. Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua 20% cổ phần Morgan Stanley. Ngày 23/09: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman Sachs; Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) điều tra Fannie, Freddie, AIG và Lehman vì nghi ngờ có sự gian lận trong cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ. Ngày 25/09: Washington Mutual Inc (WaMu), một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm soát WaMu và sau đó bán các tài sản của ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ cho JPMorgan Chase & Co với giá 1,9 tỷ USD. Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn nhất trong lịch sử Mỹ. Trong khi đó tại Washington D.C, các thành viên chủ chốt trong quốc hội đã đồng ý về những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. Ngày 29/09: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ. Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công nghiệp Dow Jones tụt giảm gần 780 điểm - mức giảm trong một ngày mạnh nhất từ trước tới nay. Ngày 30/09: Ngân hàng khổng lồ Wachovia của Mỹ, đồng thời là ngân hàng cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ đồng ý bán lại bộ phận ngân hàng bán lẻ cho đối thủ Citigroup. Ngày 1/10: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD (tỷ lệ 74-25) với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật cắt giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp và cá nhân (tính sẽ làm ngân sách thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại cơ quan bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên 250.000 USD. Ngày 3/10: Sau 3 giờ thảo luận và thuyết phục nhau, Hạ viện Mỹ đã bỏ phiếu lần thứ hai và thông qua dự luật giải cứu với tỷ lệ phiếu 262-171. Không đầy 2 giờ sau đó, Tổng thống Mỹ đặt bút ký để chính thức chuyển kế hoạch thành đạo luật. Ngày 4/10: Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã triệu tập cuộc họp thượng đỉnh khẩn cấp với lãnh đạo 4 nước lớn nhất trong Liên minh Châu Âu là Anh, Pháp, Đức và Ý. Phiên họp kết thúc với tuyên bố hợp tác xử lý khủng hoảng, nhưng không thống nhất được một gói giải pháp tổng thể theo mô hình của Mỹ. Ngày 5/10: Mặc dù Thủ tướng Đức Angela Merkel đã chỉ trích quyết định của Ireland tuần trước về bảo hiểm toàn bộ các tài khoản ngân hàng tại Ireland, nhưng Bộ trưởng Tài chính Đức đã thông báo tất cả các tài khoản tiền gửi ngân hàng tại Đức sẽ được bảo hiểm không có giới hạn. Ngày 6/10:  Ngân hàng BNP Paribas SA của Pháp gửi email thông báo đã thỏa thuận chi 14,5 tỷ Euro (tương đương 19,8 tỷ USD) để mua lại ngân hàng Fortis, trong đó có 9 tỷ Euro bằng cổ phiếu và 5,5 tỷ Euro bằng tiền mặt. BNP sẽ sở hữu 75% Fortis tại Bỉ, 67% Fortis tại Luxembourg, và toàn bộ mảng bảo hiểm của Fortis tại Bỉ. Ngày 8/10: Trong một nỗ lực phối hợp chưa từng có tiền lệ, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và 4 ngân hàng trung ương các nước khác đã đồng loạt cắt giảm lãi suất nhằm giảm ảnh hưởng nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại suy thoái năm 1930. Ngày 10/10: Tập đoàn bảo hiểm có lịch sử hoạt động 98 năm tại Nhật là Yamato Life Insurance Co chính thức đệ đơn xin được bảo hộ phá sản do các khoản nợ đã vượt tài sàn 11,5 tỷ yên (tương đương 116 triệu USD). Đây được coi là mốc đánh dấu cuộc khủng hoảng đã lan sang châu Á. Ngày 13/10: Giải Nobel Kinh tế 2008 được công bố thuộc về Giáo sư Paul Krugman. Ngoài thành tích xây dựng mô hình ứng dụng thương mại toàn cầu, ông cũng là người chỉ trích kịch liệt Chính phủ của Tổng thống Bush, và là người vạch ra những hiểm họa của tự do thị trường thiếu sự giám sát của Chính phủ. Ngày 14/10: Chính phủ Mỹ công bố dành 250 tỉ USD trong gói giải cứu 700 tỉ USD để rót vào các ngân hàng lớn, đổi lại sẽ nhận được cổ phiếu ưu đãi của các ngân hàng này. Đây là bước thay đổi lớn trong chiến lược giải cứu, vì trong kế hoạch ban đầu, Chính phủ vẫn hướng đến giải pháp mua lại nợ xấu ngân hàng, không mua cổ phần. Năm 2009: Kinh tế thế giới đi vào suy thoái. Chính Phủ các nước đồng loạt tung ra các gói kích cầu lớn. Những tác động toàn cầu của khủng hoảng. Suy thoái kinh tế toàn cầu. Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP của một số nước trên thế giới. Các nước phát triển nói chung bắt đầu suy giảm tốc độ tăng trưởng từ quý III năm 2007 và GDP bắt đầu giảm từ quý III năm 2008. Quý IV năm 2008 ghi nhận mức thu hẹp GDP của các nước phát triển nói chung lên đến 7,97%. Hoa Kỳ rơi vào suy thoái bắt đầu từ quý III năm 2008 với mức giảm lớn kỷ lục kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Quỹ Tiền tệ Quốc tế ước lượng rằng nền kinh tế Hoa Kỳ năm 2009 thu hẹp 2,6%. Năm 2009, GDP của Đức giảm 6,2%; và dự báo sẽ còn giảm trong năm 2010. Còn GDP của Nhật Bản năm 2009 cũng giảm tới 6%. Những nước phát triển lớn khác bị giảm GDP là Anh, Canada, Pháp, Tây Ban Nha, Ý. Cả khu vực đồng euro nói chung giảm 4,8% trong năm 2009 và dự báo sẽ còn giảm 0,3% trong năm 2010. Trong các nước OECD, chỉ có Hy Lạp, Hàn Quốc, Ba Lan, Slovaky là không bị rơi vào suy thoái kinh tế (theo cách xác định suy thoái là hai quý liên tục tăng trưởng dưới 0), song vẫn bị suy giảm tốc độ tăng trưởng. Các nước công nghiệp hóa mới châu Á đều là những nền kinh tế theo định hướng xuất khẩu. Suy giảm tăng trưởng kinh tế thế giới đã làm GDP của các nước này đang từ chỗ tăng tới 5,1% trong năm 2007 giảm xuống chỉ còn tăng 1,5% trong năm 2008 và dự kiến sẽ giảm 5,2% trong năm 2009. Các nước và lãnh thổ lâm vào suy thoái là Hồng Kông và Singapore (từ quý IV năm 2008) Các nước đang phát triển châu Á hầu hết đều bị giảm tốc độ tăng trưởng, thậm chi có nước còn tăng trưởng âm. Các nước Bangladesh, Indonesia, Pakistan, Việt Nam vốn có mức tăng trưởng trên dưới 6% trong các năm 2007 và 2008, sang năm 2009 chỉ còn tăng trưởng trên dưới 3%. Các nước Malaysia và Thái Lan tăng trưởng với tốc độ -3,0% và -3,5% trong năm 2009. Các nền kinh tế Mỹ Latinh vốn có độ mở cao và phụ thuộc vào vốn nước ngoài và xuất khẩu nguyên liệu-năng lượng. Vì thế, các nước trong khu vực này bị suy giảm ._.tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức độ khác lớn. Mexico bị suy giảm nhiều nhất do nền kinh tế này gắn kết chặt chẽ với kinh tế Hoa Kỳ. GDP của Mexico giảm tới 3,7% trong năm 2009. Những nước lớn khác có GDP giảm là Argentina, Ecuador và Venezuela. Tất cả các nước ở Trung Đông đều bị suy giảm kinh tế. Những nước Trung Đông xuất khẩu nhiều dầu lửa là Ả Rập Saudi, UAE và Kuwait còn bị giảm GDP. Kinh tế Israel cũng bị giảm 1,7% trong năm 2009. Nền kinh tế này vốn phụ thuộc khá cao vào xuất khẩu trong khi kinh tế toàn cầu lại rơi vào suy thoái và suy giảm tăng trưởng. Kinh tế các nước châu Phi gặp khó khăn chủ yếu do xuất khẩu của họ bị giảm (do lượng cầu thế giới giảm và do giá nguyên liệu-năng lượng giảm) và kiều hối bị giảm. Các nước Ghana, Kenya, Nigeria, Nam Phi và Tunisia bị giảm nguồn vốn nước ngoài (FDI và đầu tư gián tiếp). Angola, Guinea Xích đạo và Nigeria bị tác động mạnh bởi lượng dầu xuất khẩu và giá dầu giảm. Tuy nhiên, kinh tế Côte d’Ivoire và Kenya không những không bị suy giảm mà lại còn tăng tốc. Đồ thị 1: Tốc độ tăng trưởng GDP hàng quý của thế giới (đường màu lam), của khu vực các nước phát triển (đường màu đỏ) và khu vực các nước đang phát triển (đường màu rêu) thời kỳ 2005-2009. Thương mại quốc tế giảm sút. Do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhu cầu giảm sút mạnh, đặc biệt là ở các nước phát triển, đã tác động tiêu cực đến hoạt động tương mại thế giới. Tổng hoạt động thương mại toàn cầu năm 2009 giảm 14,4% so với năm 2008. Bên cạnh giảm sút nhu cầu, giá cả hàng hóa giảm cũng là một nguyên nhân nữa làm giảm hoạt động thương mại. Giá hàng hóa không phải là năng lượng giảm 21,6% so với năm 2008. Giá dầu mỏ bình quân trong năm 2009 cũng thấp hơn các năm trước đó và giảm 36,3% so với năm 2008. Ngoài ra, giá trị trên một đơn vị hàng sản xuất xuất khẩu trên thế giới cũng giảm 4,9% so với năm 2008. Bảng 2: Giá cả và thương mại thế giới (% thay đổi) Nhìn vào diễn biến thương mại thế giới năm 2009 ở bảng trên có thể thấy rõ khuynh hướng phục hồi trong nửa sau của năm 2009. Thương mại thế giới đã giảm mạnh từ năm 2008 và chạm đáy vào tháng 3 năm 2009 (giảm 22%), sau đó có sự phục hồi liên tục. Tuy có sự phục hồi mạnh những đến cuối năm 2009, nó vẫn còn thấp hơn 2,8% so với thời kỳ trước khủng hoảng. Tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Năm 2009 là năm mà tỷ lệ thất nghiệp leo thang tại nhiều nền kinh tế trên thế giới. Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) tỷ lệ thất nghiệp toàn cầu tăng 6,6% trong năm 2009. So với năm 2007 thì tỷ lệ thất nghiệp toàn cầu năm 2009 tăng 0,9 điểm phần trăm. Số người thất nghiệp năm 2009 trên toàn cầu đã tăng kỷ lục 34 triệu người so với năm 2007, đưa số người thất nghiệp trên toàn thế giới lên 212 triệu người trong năm 2009. Trong đó, số thanh niên thất nghiệp đã tăng 13,4% (thêm 10,2 triệu người), mức tăng cao nhất kể từ năm 1991. Đồ thị 2:Thất nghiệp toàn cầu giai đoạn 1999 – 2009* Nguồn: Tổ chức lao động thế giới (ILO), 2009*: Số liệu ước tính sơ bộ Tại Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 10/2009 đạt mức kỷ lục 10,2%, mức cao nhất trong 26 năm qua, trước khi giảm nhẹ nhưng vẫn duy trì ở mức hai con số 10% trong tháng 11 và tháng 12. Tỷ lệ thất nghiệp EU cũng nằm trong xu hướng gia tăng qua các tháng năm 2009. Tháng 10/2009 tỷ lệ thất nghiệp của EU là 9,3%, số người thất nghiệp là 22,51 triệu người, tăng 258.000 người so với tháng 9/2009 và tăng 5 triệu người so với tháng 10/2008. Tháng 11/2009, khu vực EU có thêm nhiều người tham gia nhóm thất nghiệp, đưa mức thất nghiệp của khu vực này lên con số 9.5%. Tại Nhật Bản, tỷ lệ thất nghiệp đã đạt mức kỷ lục 5,7% trong tháng 7/2009. Nguyên nhân gây ra khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng lần này không phải là quá bất ngờ với giới tài chính Mỹ nói riêng và thế giới nói chung. Nó là kết quả của một chuỗi những rủi ro liên tiếp mà chính các tổ chức tài chính, ngân hàng ở Mỹ tạo ra cho chính mình.  Có thể tóm lại một số nguyên nhân chính, mà thực chất là hệ quả của nhau – đã dẫn đến cuộc khủng hoảng tất yếu này ở Mỹ. Cho vay dưới chuẩn Các ngân hàng đầu tư Mỹ đã sử dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa (securitisation) để biến các khoản cho vay mua bất động sản thành các gói trái phiếu có gốc bất động sản (MBS, CDO) đầy rủi ro cung cấp cho thị trường.   Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các khoản vay mua nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các danh mục tín dụng bất động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng gia tăng thì việc phát mại tài sản càng tăng làm giá bất động sản càng giảm. Điều này có nghĩa giá trị tài sản đảm bảo của trái phiếu càng giảm và rủi ro tín dụng càng tăng. Vòng xoáy khủng hoảng cứ tiếp tục như vậy, làm cho giá chứng khoán sụt giảm mạnh. Các ngân hàng đầu tư mặc dù không nắm giữ toàn bộ rủi ro nhưng cũng trực tiếp hoặc gián tiếp duy trì một số danh mục chứng khoán liên quan đến bất động sản. Hậu quả là hàng loạt ngân hàng đầu tư lần lượt báo cáo các khoản lỗ kinh doanh.   Mua bán khống Khi giới đầu cơ đoán chắc rằng cổ phiếu của những tập đoàn dính líu đến cho vay dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán ra, tạo nên một áp lực giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá giảm đến một mức nào đó, họ sẽ mua và trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít phí, còn bao nhiêu tiền chênh lệch họ sẽ hưởng trọn. Thậm chí, họ còn áp dụng cách thức mua bán khống đến hai lần (naked short sale), tức là không thèm vay chứng khoán nữa mà cứ ra lệnh bán theo kiểu “đánh xuống” vì lợi dụng khe hở, mua bán ba ngày sau mới giao cổ phiếu. Bộ trưởng Tư pháp bang New York, Andrew Cuomo than: “Họ giống như kẻ hôi của một cơn bão”. Thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ Có tiền, các công ty cứ thoải mái cho người vay bằng tiền của các ngân hàng đầu tư cung cấp thông qua mua lại danh mục cho vay của các công ty này. Các ngân hàng này trên cơ sở danh mục cho vay vừa mua lại sẽ phát hành chứng khoán để vay tiền. Danh mục cho vay được chia ra, ít rủi ro, rủi ro cao, tùy định mức tín nhiệm, nhà đầu tư tha hồ lựa chọn theo sự mạo hiểm của mình. Có loại chứng khoán không cần định mức tín nhiệm, có thể thu lãi cao nhưng rủi ro cũng lớn. Như vậy, rủi ro trong cho vay đã được chuyển từ bên cho vay là công ty tài chính sang ngân hàng đầu tư. Nhà đầu tư lắm tiền trên thế giới đã đổ tiền mua chứng khoán này, nhờ vậy đã cung cấp một lượng vốn khổng lồ cho thị trường bất động sản ở Mỹ tăng nóng.  Giáo sư kinh tế Joseph Stiglitz, người được giải thưởng kinh tế Nobel kinh tế 2001, kết luận: “Hệ thống tài chính của Mỹ đã không thực hiện được hai trách nhiệm chính của mình đó là quản lý rủi ro và phân chia vốn. Cả hệ thống tài chính Mỹ đã không làm những gì mà nó đáng ra phải làm - chẳng hạn như tạo ra các sản phẩm để giúp người Mỹ quản lý được những rủi ro nguy hiểm nghiêm trọng của mình, như là giữ lại được nhà khi mức lãi suất cho vay tăng cao hoặc khi giá nhà rớt giá”.  Khủng khoảng niềm tin Theo GS. Joseph Stiglitz, cuộc khủng hoảng bắt đầu tư sự sụp đổ thảm khốc của niềm tin. Các ngân hàng đánh đố lẫn nhau về mức độ cho vay cũng như tài sản. Những giao dịch phức tạp được tạo ra để loại bỏ rủi ro và che giấu những trượt giá giá trị tài sản thực của ngân hàng. Đây là một trò chơi mà con người ta khi bắt đầu cảm nhận thấy mùi của sự thua lỗ và nhìn vào hệ thống tài chính, khi đó thua lỗ xuất hiện, cả thị trường xuống dốc và tất cả mọi người đều bị thua lỗ. Những ảnh hưởng tới Việt Nam. Trong một thế giới toàn cầu hoá như hiện nay, khó có một nước nào có thể tránh khỏi sự tác động của cuộc suy thoái kinh tế lần này. Năm 2008 chúng ta đã thấy được những dấu hiệu của suy thoái: tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta năm 2008 đã chậm lại chỉ còn 6,2% so với 8,5% năm 2007, chỉ số giá tiêu dùng 3 tháng cuối năm 2008 liên tục giảm: chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10 của cả nước giảm 0,19% so với tháng 9, tháng 11 vẫn tiếp tục giảm 0,76% so với tháng 10 và tháng 12 giảm 0,68 %. Đây là mức tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 2000; hơn nữa tăng trưởng quí IV/2008 chỉ đạt 5,7% so với 6,5% của ba quí đầu năm 2008. Đến hết quý I/2009, khi so với cùng kỳ, tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 3,1%, xuất khẩu chỉ tăng 2,4% (nếu loại trừ 2,3 tỉ đô la tái xuất vàng thì kim ngạch xuất khẩu giảm tới 15%), vốn đầu tư tuy tăng 9%, song vốn FDI lại giảm tới 32%, , thì chúng ta mới đánh giá hết được tác động sâu sắc của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đến kinh tế Việt Nam, đặc biệt là tới kim ngạch xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, thông qua đó làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đối với nền kinh tế Việt Nam: một nền kinh tế mở phụ thuộc nhiều vào nền kinh tế khác – tỷ lệ xuất khẩu của Việt Nam tính trên GDP lên tới 70%, và sự tăng trưởng của Việt Nam trong nhiều năm qua phụ thuộc nhiều vào dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nên có thể kết luận rằng nền kinh tế Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng lớn bởi cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu thông qua hai kênh chính đó là kênh xuất khẩu và kênh đầu tư nước ngoài, đi kèm với nó là tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Xuất khẩu. Theo báo cáo chính phủ ngày 18/12/2008, kim ngạch xuất khẩu những tháng cuối cùng của năm 2008 đã biểu hiện sự sụt giảm rõ nét. Kim ngạch tháng 10 giảm 3,3% so với tháng 9, tháng 11 giảm 4,4% so với tháng 10. Kim ngạch xuất khẩu tháng 1/2009 sụt giảm nghiêm trọng theo đà giảm của những tháng cuối năm 2008. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 1/2009 chỉ đạt 3,7 tỷ USD, giảm 18,7% so với tháng 12/2008 và giảm 24,3% so với cùng kỳ năm trước. So với cùng kỳ năm 2008, hầu hết các mặt hàng đều cho thấy sự sụt giảm kim ngạch trong tháng 1/2009 như: dệt, may giảm 33,2%; dầu thô giảm 52,4% do giá xuất khẩu dầu thô giảm 57,7%; giày dép giảm 26%; thủy sản giảm 18,6%; cà phê giảm 30,2%; gỗ và sản phẩm gỗ giảm 31,8%. Nền kinh tế Việt Nam chủ yếu dựa vào xuất khẩu, thêm vào đó, thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là Mỹ và EU (chiếm khoảng gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu) - là những nền kinh tế rơi vào suy thoái nặng nề nhất, nên xuất khẩu bị thu hẹp, tác động xấu tới tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhiều mặt hàng xuất khẩu Việt Nam còn phải đối mặt với những rào cản thương mại ngày càng nhiều, với các hành vi bảo hộ thương mại ngày càng tinh vi tại các thị trường lớn để bảo hộ sản xuất nội địa. Cũng do nền kinh tế phát triển lệch, thiên về xuất khẩu nên thị trường nội địa bị sao nhãng. Khi xuất khẩu khó khăn, thị trường nội địa không đóng được vai trò là “phao” đỡ cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Trong thời gian xuất khẩu gặp khó khăn, các doanh nghiệp lại cùng đẩy mạnh phát triển thị trường nội địa, trong khi doanh thu nội địa cũng giảm do sức mua của người tiêu dùng kém, thu nhập thực tế giảm, thất nghiệp tăng; xu hướng tiêu dùng hàng giá rẻ tăng nhanh và hàng nước ngoài giá rẻ có điều kiện thuận lợi tràn vào, gây sức ép cạnh tranh lớn đối với hàng nội địa. Một ngành công nghiệp xuất khẩu mới nổi của Việt Nam là ngành du lịch cũng bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng. Du lịch là một trong những nguồn thu ngoại tệ và nguồn tạo việc làm quan trọng của Việt Nam, nhưng do thu nhập giảm nên lượng khách giảm, đồng thời khách du lịch cũng thắt chặt chi tiêu, dẫn tới nguồn thu từ du lịch cũng sụt giảm. Lượng khách quốc tế tới Việt Nam trong tháng 1/2009 chỉ đạt 370 nghìn lượt người, giảm 11,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch đạt 231,5 nghìn lượt người giảm 10,5%, đến vì công việc đạt 65 nghìn lượt người giảm 17,6%, thăm thân nhân đạt 55 nghìn lượt người giảm 1,2%. Trong khi đó, các ngân hàng Việt Nam đã cho vay hàng tỉ đồng đầu tư vào các dự án xây dựng khách sạn và phát triển du lịch, nếu những dự án này thất bại, ngân hàng sẽ đối mặt với rất nhiều khó khăn. Đầu tư nước ngoài. Mặc dù các nhà đầu tư nước ngoài vẫn có những đánh giá lạc quan vào nền kinh tế của Việt Nam, song cơ hội để chúng ta có thể thu hút được vốn FDI như năm 2007 và 2008 là khó khăn. Thực tế, ba tháng đầu năm 2009 chỉ thu được $2,1 tỷ FDI, giảm 70% so với năm ngoái. Số tiền cam kết cho các dự án đã khởi động đạt 6 tỷ USD trong ba tháng đầu năm, thấp hơn so với năm ngoái tới 40%. Nguồn vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam không được dồi dào. Nguồn tiền của các tổ chức đầu tư ở Việt Nam cũng là tiền từ các công ty mẹ ở nước ngoài. Nếu các công ty ở nước ngoài khó khăn thì công ty con ở Việt Nam cũng phải dè dặt trong đầu tư. Điều này làm hạn chế nguồn cung của thị trường, làm cho thị trường chứng khoán có dấu hiệu sụt giảm. Dòng kiều hối vào Việt Nam cũng bị ảnh hưởng. Với con số từ 8 - 10 tỉ USD/năm, kiều hối là nguồn thu rất quan trọng của Việt Nam, trong thời kỳ kinh tế toàn cầu khó khăn, nguồn vốn này có sự sụt giảm nhất định. Tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Từ những cuối năm 2008, Việt Nam đã phải chịu những tác động của cuộc suy thoái kinh tế thế giới, mà cụ thể là sản xuất đình đốn, đầu tư tăng thấp, tiêu dùng có dấu hiệu chậm lại, dẫn đến sự dư thừa đáng kể năng lực sản xuất, đặc biệt nghiêm trọng là tình trạng dư thừa lao động. Lao động làm việc trong nước gặp khó khăn. Ngay từ tháng 12 /2008, như hãng sản xuất của tập đoàn điện tử Canon tại Hà Nội đã loan báo sẽ cắt giảm 2000 việc làm. Trước đó, hãng Nissei Electric cũng xóa bỏ 300 việc làm tại nhà máy của công ty này ở Hà Nội. Tại Sài Gòn, theo tin từ Liên Đoàn Lao Động của thành phố, chỉ tính riêng trong tháng 11/2008, các chủ doanh nghiệp tại đây đã cắt giảm tổng cộng 30000 việc làm. Theo số liệu của Tổng Cục Thống Kê, số người thất nghiệp ở Việt Nam 1/2009 là khoảng trên 1 triệu người. Trên báo chí Việt Nam tuần trước, ông Nguyễn Đại Đồng, Cục trưởng Việc Làm thuộc bộ Lao Động cho biết là trong năm 2009, sẽ có thêm 300 người thất nghiệp, giảm việc. Nhưng báo chí trong nước dự đoán là con số người thất nghiệp có thể lên tới cả triệu, chứ không phải chỉ có 300 ngàn. Trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ vào tuần trước, kinh tế gia Lê Đăng Doanh cũng cho rằng con số cả triệu người thất nghiệp là không xa với thực tế. Lao động xuất khẩu cũng gặp khó khăn. Malaysia, nơi mà bình thường vẫn tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam nhất (khoảng 30000 người ) thì năm qua chỉ tiếp nhận khoảng hơn 7000 người và từ giữa tháng 12 vừa qua đã loan báo tạm ngưng tuyển dụng lao động nước ngoài, do trong nước này thất nghiệp gia tăng. Thị trường Đài Loan trong những tháng đầu năm đã vươn lên đứng đầu về khả năng tiếp nhận lao động Việt Nam, tức là hơn 30000 người, nhưng những tháng cuối năm đã có dấu hiệu chựng lại, do nhiều doanh nghiệp tạm ngưng sản xuất, đóng cửa một phần hoặc toàn bộ các công xưởng. Điều này càng làm cho việc giải quyết tình trạng thất nghiệp thêm phần khó khăn. Chương III: Chính sách kích cầu của Chính phủ Việt Nam. Các chính sách và cơ cấu gói kích cầu. Các chính sách ngăn chặn suy giảm kinh tế. Nhằm đối phó với khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, đầu năm 2009, Việt Nam đã kịp thời triển khai chính sách kích cầu. Cụ thể, Chính phủ đã dùng quỹ tài chính lớn, trực tiếp chi cho các hoạt động kích cầu đầu tư và tiêu dùng, chống suy giảm kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội. Ngày 15/01/2009, Chính phủ đã quyết định các phương án sử dụng khoản kích cầu 1 tỷ USD (17.000 tỷ VND) để hỗ trợ 4% lãi suất vốn vay cho các khoản vay ngắn hạn trong thời gian tối đa là 8 tháng, kết thúc vào ngày 31/12/2009. Đối tượng được hưởng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, có vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng, sử dụng không quá 300 công nhân, không có nợ đọng thuế và không có nợ tín dụng quá hạn. Ngày 04/04/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định cho các tổ chức, cá nhân vay vốn trung, dài hạn và sẽ được Nhà nước hỗ trợ lãi suất tiền vay 4%/năm trong khoảng thời gian tối đa 24 tháng, với tổng số lãi hỗ trợ là 20.000 tỷ VND. Việc hỗ trợ lãi suất này được thực hiện từ ngày 01/04/2009 đến hết ngày 31/12/2011. Gói kích cầu thứ hai này có quy mô lớn hơn, thời hạn dài hơn (tới 2 năm), điều kiện nới lỏng hơn (doanh nghiệp và cả hợp tác xã có vốn dưới 20 tỷ đồng, sử dụng dưới 500 lao động, có thể nợ thuế và tín dụng quá hạn nhưng có dự án phù hợp vẫn được xét cho vay) và lĩnh vực cho vay cũng được mở rộng hơn. Chính phủ cũng thiết lập cơ chế bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) là đơn vị duy nhất được giao thực hiện giải pháp bảo lãnh tín dụng cho đối tượng là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. VDB có thể đảm bảo 100% khoản vay bằng USD hay VND. Những doanh nghiệp có vốn điều lệ 20 tỷ VND tương đương 1,1 triệu USD với số lao động sử dụng không quá 500 người mới đủ điều kiện tham gia vào chương trình này. Doanh nghiệp không được phép có khoản nợ ngân hàng hay nợ thuế nào quá hạn. Không giống như chương trình hỗ trợ lãi suất, VDB có toàn quyền quyết định doanh nghiệp nào sẽ được nhận bảo lãnh tín dụng. Chính phủ thực hiện miễn, giảm, giãn một số loại thuế, và kéo dài thời hạn nộp thuế xuất nhập khẩu, ước tính có khoảng 28.000 tỷ đồng để kích cầu nhờ thực hiện chính sách giảm thuế. Giảm 50% thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với 19 nhóm mặt hàng tiêu thụ nội địa (Quyết định 16/2009/QĐ-TTg) và hoãn thu thuế thu nhập cá nhân trong 5 tháng đầu năm 2009. Tạm hoàn 90% số thuế GTGT đầu vào khi chưa có chứng từ và hoàn tiếp 10% khi có chứng từ thanh toán. Giãn thời hạn nộp thuế GTGT đến 180 ngày đối với hàng nhập khẩu là thiết bị, máy móc trong nước chưa sản xuất được, phải nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp. Đối với thuế nhập khẩu, thực hiện giảm thuế cho nhiều mặt hàng là nguyên liệu đầu vào và hàng tiêu dùng. Để thực hiện chính sách kích cầu, Chính phủ đã cho phép giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) phải nộp của quý IV/2008 và cả năm 2009 của DN nhỏ và vừa. Đồng thời, giãn thời hạn nộp thuế TNDN trong thời gian 9 tháng của năm 2009 đối với thu nhập từ các hoạt động: sản xuất sản phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất, sản xuất vật liệu xây dựng, dịch vụ du lịch, kinh doanh lương thực, phân bón,... Đẩy mạnh, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, đồng thời phát triển mạng lưới phân phối, hệ thống bán lẻ, nhất là ở vùng sâu vùng xa để cung cấp vật tư và hàng tiêu dùng thiết yếu. Về chính sách tài chính, tiền tệ, sẽ tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng cho các doanh nghiệp. Tiếp tục hạ lãi suất cơ bản và cho phép các tổ chức tín dụng, các quỹ tín dụng nhân dân cho vay theo lãi suất thỏa thuận. Chính phủ sẽ điều chỉnh tỷ giá ngoại tệ theo nguyên tắc linh hoạt, nhằm khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Cơ cấu gói kích cầu 8 tỷ USD của chính phủ Việt Nam. Gói kích cầu tương đương 8 tỷ USD được chia thành 8 phần có các giá trị khác nhau. Cụ thể các phần của gói kích cầu này bao gồm: Thứ nhất, hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng khoảng 17.000 tỷ đồng. Thứ hai, tạm thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ bản ứng trước khoảng 3.400 tỷ đồng. Thứ ba, ứng trước ngân sách nhà nước để thực hiện một số dự án cấp bách khoảng 37.200 tỷ đồng. Thứ tư, chuyển nguồn vốn đầu tư kế hoạch năm 2008 sang năm 2009 khoảng 30.200 tỷ đồng. Thứ năm, phát hành thêm trái phiếu Chính phủ khoảng 20.000 tỷ đồng. Thứ sáu, thực hiện chính sách giảm thuế khoảng 28.000 tỷ đồng. Thứ bảy, tăng thêm dư nợ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp khoảng 17.000 tỷ đồng (không phải là khoản chi). Thứ tám, các khoản chi kích cầu khác nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội khoảng 7.200 tỷ đồng. Như vậy, tổng nguồn lực sử dụng để kích cầu đầu tư và tiêu dùng của Việt Nam là rất lớn, nếu tính thêm cả 17.000 tỷ đồng tăng thêm dư nợ bảo lãnh tín dụng cho DN thì tổng giá trị các gói kích cầu của Chính phủ Việt Nam hiện nay lên đến 160.000 tỷ đồng, tương đương 9 tỷ USD, chiếm gần 10% GDP của Việt Nam hiện nay. Tình hình thực hiện gói kích cầu Về các gói hỗ trợ lãi xuất. Tính đến 24-9-2009, vốn tín dụng theo Quyết định 131 ngày 23-1-2009 của Thủ tướng (gói hỗ trợ lãi suất 4%) đã giải ngân trên 405.000 tỉ đồng (95%), tín dụng theo Quyết định 443 (hỗ trợ lãi suất 4% cho vay trung và dài hạn) và Quyết định 497 (hỗ trợ lãi suất cho nông nghiệp nông thôn) trên 34.000 tỉ đồng, giải ngân tín dụng bảo lãnh qua Ngân hàng Phát triển Việt Nam trên 10.000 tỉ đồng (59%). Tổng số tiền hỗ trợ lãi suất chuyển cho các tổ chức tín dụng ước thực hiện năm 2009 khoảng 10.000 tỉ đồng (59%). Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT), gói hỗ trợ lãi suất đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận lãi suất thấp, thông qua đó, hạ giá thành sản phẩm, duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động, tuy nhiên lại không có số liệu chứng minh cụ thể. Thực tế cho thấy đã có sự trùng lắp về đối tượng hỗ trợ lãi suất, việc triển khai nhiều cơ chế hỗ trợ lãi suất cùng với chính sách nới lỏng tiền tệ làm tổng phương tiện thanh toán và tín dụng tăng ở mức cao, gây sức ép tăng lãi suất và lạm phát. Theo các đánh giá khác nhau, có tới 80-92% số doanh nghiệp không được hưởng chính sách ưu đãi này và tổng tín dụng ưu đãi lãi suất cũng chỉ chiếm khoảng 80% tổng tín dụng. Mức hỗ trợ lãi suất tiền vay 4% là quá lớn, nên kéo dài sẽ phát sinh tâm lý ỷ lại sự hỗ trợ của Nhà nước. Đến nay, hiệu quả thật sự của gói hỗ trợ lãi suất 4% chưa được chứng minh trong khi những hệ lụy tiêu cực của nó là rất lớn, làm “méo mó” thị trường tín dụng đang tăng trưởng quá nóng. Tín dụng đối với nền kinh tế ước đến cuối tháng 10 đã tăng 33,29%, trong khi huy động vốn chỉ tăng 25,72%. Theo dự báo của IMF, từ đầu năm 2009, tín dụng chỉ cần tăng 12,9% đã đảm bảo cho Việt Nam tăng trưởng kinh tế khoảng 4%. Tăng trưởng tín dụng nhanh đã gây sức ép tăng lãi suất, dẫn đến hệ quả là tăng chi phí vốn, làm tăng giá thành sản xuất, khiến việc huy động vốn trái phiếu chính phủ gặp nhiều khó khăn. Đồ thị 3: Dư nợ cho vay kích cầu qua từng tháng năm 2009. Nguồn CTCK Bảo Việt. Vốn kích cầu đầu tư tư nhân ở nông thôn được thực hiện qua quyết định 497 đạt được 330,364 tỷ đồng. Tới ngày 27/8/2009 theo tài liệu báo cáo Chính phủ tại phiên họp tháng 9 của Bộ công thương, dư nợ cho vay theo quyết định này ước đạt 818.72 tỉ đồng, chiếm 0,21% trong tổng dư nợ. Trong khi đây là khoản vay nhằm tăng đầu tư tư nhân trong lĩnh vực có hệ số lan toả mạnh và có khả năng tạo nhiều việc làm. Về kích cầu đầu tư Chính phủ. Vốn kích cầu đầu tư chính phủ không đạt kế hoạch mong muốn. Theo số liệu báo cáo Chính Phủ tại phiên họp thứ 24 Uỷ ban thường vụ quốc hội, vốn đầu tư trái phiếu chính phủ ước thực hiện trong kế hoạch 2009 là 45 nghìn tỷ đồng, đạt 80,4% kế hoạch giao; về giải ngân, nguồn vốn trái phiếu chính phủ dành cho giao thông thuỷ lợi tính đến nay chỉ đạt 45,1% kế hoạch, cho y tế chỉ đạt 35,2% kế hoạch, giáo dục 60%. Nguồn vốn ngân sách Nhà nước kế hoạch năm 2008 được kéo dài giải ngân đến hết tháng 6-2009 thực hiện khoảng 22.000 tỉ đồng (97,8%). Vốn trái phiếu chính phủ chuyển nguồn sang năm 2009 giải ngân đến hết tháng 8-2009 đạt 4.500 tỉ đồng (60%). Vốn phát hành bổ sung trái phiếu chính phủ, ước đến hết tháng 9-2009 giải ngân được khoảng 10.000 tỉ đồng (50%). Ủy ban Kinh tế Quốc hội cho biết có tới 36/40 đợt phát hành trái phiếu không thành công. Tính đến đầu tháng 10-2009, tổng số vốn ngân sách nhà nước đã ứng trước kế hoạch năm 2009 được hoãn thu hồi là 3.400 tỉ đồng (100%). Vốn ứng trước kế hoạch 2010-2011 cho các chương trình dự án đến ngày 30-6-2009 là 15.492 tỉ đồng; vốn ứng trước năm 2010-2011 để bổ sung cho các dự án quan trọng cấp bách là 12.627 tỉ đồng (47%); tổng vốn ứng trước cho kiên cố hóa kênh mương, cấp bù chênh lệch lãi suất, hỗ trợ doanh nghiệp duy trì lao động... khoảng 37.100 tỉ đồng (99,7%). Về việc miễn, giảm, giãn thuế. Tình hình thực hiện chính sách miễn, giảm, giãn thuế, theo thống kê, đến ngày 31/8/2009 đã có trên 125.500 lượt doanh nghiệp và khoảng 937.000 đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân được hưởng các ưu đãi về chính sách thuế, trong đó có trên 36.000 doanh nghiệp được giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp, 42.000 doanh nghiệp được giãn thuế thu nhập doanh nghiệp, 47.000 doanh nghiệp được giảm 50% thuế giá trị gia tăng… Tổng thu ngân sách được miễn, giảm, giãn đến hết 7/2009 khoảng 14.700 tỉ đồng, ước cả năm khoảng 20.000 tỉ đồng (71%), trong đó giảm, giãn thuế thu nhập doanh nghiệp khoảng 9.900 tỉ đồng; giảm thuế giá trị gia tăng khoảng 4.470 tỉ đồng; miễn thuế thu nhập cá nhân khoảng 4.507 tỉ đồng; giảm thu lệ phí trước bạ khoảng 1.140 tỉ đồng. Ngoài ra, giảm và giãn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa xuất nhập khẩu năm 2009 khoảng 7.000 tỉ đồng, trong đó giảm thu do giảm thuế 50% tại khâu nhập khẩu ước khoảng 5.000 tỉ đồng; giãn nộp thuế 180 ngày cho máy móc thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng ước khoảng 2.000 tỉ đồng. Mặc dù thực hiện miễn giảm thuế như vậy nhưng Ủy ban Tài chính ngân sách Quốc hội vẫn đánh giá thu ngân sách Nhà nước năm 2009 vẫn vượt khoảng 2,9% so với dự toán. Bộ KH&ĐT đánh giá, việc thực hiện các ưu đãi về thuế là khẩn trương, đúng đối tượng, góp phần giúp doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh, tạo chuyển biến tích cực cho nền kinh tế. Tuy vậy cũng không có số liệu cụ thể chứng minh cho nhận định này. Về hỗ trợ đảm bảo an sinh xã hội. Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chính sách giảm nghèo, trong đó có chính sách hỗ trợ cho các hộ nghèo xây nhà ở, vay vốn sản xuất, kinh doanh, cho vay học sinh, sinh viên, mua thẻ bảo hiểm y tế. Đồng thời, chính phủ cũng triển khai công tác hỗ trợ các hộ nghèo, hộ bị ảnh hưởng thiên tai, bị thiệt hại về gia súc, gia cầm, vật nuôi để ổn định sản xuất và đời sống. Ngoài ra, chính phủ cũng đã tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới; tổ chức, động viên các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân hỗ trợ các huyện nghèo thực hiện chương trình này; ứng trước vốn cho các huyện; triển khai các chính sách mới, trong đó có chính sách cấp gạo cho hộ nghèo ở biên giới, thực hiện mức khoán mới về bảo vệ rừng, hỗ trợ học nghề, xuất khẩu lao động và tăng cường cán bộ cho các huyện nghèo. Hoạt động chăm sóc người có công và các đối tượng chính sách tiếp tục được duy trì và mở rộng.  Năm 2009 tổng số chi cho an sinh xã hội ước khoảng 22.470 tỷ đồng, tăng 62% so với năm 2008, trong đó chi điều chỉnh tiền lương, trợ cấp, phụ cấp khoảng 36.700 tỷ đồng; trợ cấp cứu đói giáp hạt và khắc phục thiên tai 41.580 tấn gạo (riêng số gạo cứu trợ đợt đầu khắc phục hậu quả bão số 9 là 10.300 tấn). Tổng dư nợ của 18 chương trình cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách do Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện ước đến cuối năm đạt 76 nghìn tỷ đồng, tăng 45,3% so với năm 2008. Các doanh nghiệp đã hỗ trợ 62 huyện nghèo trên 1.600 tỷ đồng. Kết quả các nỗ lực chung đó đã góp phần ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, các đối tượng chính sách, góp phần xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm và giữ vững ổn định chính trị, xã hội, đặc biệt là đối với người nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo đến cuối năm 2009 giảm còn khoảng 11%. Tuy nhiên, tình hình suy giảm kinh tế đã ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng giải quyết việc làm cho người lao động. Dự kiến đến cuối năm 2009, có khoảng 1,51 triệu lượt lao động được giải quyết việc làm, đạt 88,5% kế hoạch năm và bằng 93,2% so với thực hiện năm 2008. Số lao động đi làm việc ở nước ngoài năm 2009 ước đạt 7 vạn người, giảm đáng kể so với con số 8,5 vạn người của năm 2008.  Tình hình thâm hụt ngân sách. Nới lỏng chính sách tài khóa đã dẫn tới hệ quả trực tiếp là bội chi ngân sách lên đến 6,9% GDP chưa tính đến các khoản chi từ nguồn trái phiếu chính phủ, các khoản Chính phủ vay về cho doanh nghiệp vay lại. Nợ chính phủ cũng tăng mạnh từ 36,5% GDP năm 2008 lên đến 40% GDP năm 2009 và năm 2010 dự kiến khoảng 44% GDP. Mức độ đáp ứng các nguyên tắc cơ bản của gói kích cầu. Tính kịp thời của gói kích cầu. Việc đánh giá tính kịp thời của kích cầu thường được dựa vào việc chính phủ can thiệp vào nền kinh tế ngay khi có nguy cơ suy thoái, đồng thời , việc can thiệp của chính phủ sẽ có tác động kích thích ngay tổng cầu trong thời gian ngắn. Rất khó lượng hoá để đánh giá tính kịp thời trong việc thực hiện kích cầu. Chính vì vậy trong bài viết này, để đánh giá tính kịp thời ta có thể dựa vào việc so sánh thời điểm suy thoái kinh tế và thời điểm chính sách được ban hành; thời điểm ban hành và thời điểm thực thi chính sách cũng như đem ra những nhận định về độ tác động kích thích ngay lên tổng cầu. Dưới đây chúng ta sẽ khảo sát tác động của khủng hoảng tài chính đến xuất khẩu và đây là lĩnh vực nhạy cảm nhất đối với biến động trên thị trường thế giới. Bảng 3: Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam từ 01/2007 đến 10/2009 (đơn vị: tỷ đô la) Tháng 01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12 2007 Xuất khẩu 3.76 2.89 3.86 3.64 4.08 4.17 4.25 4.3 3.77 4.3 4.5 4.68 Nhập khẩu 4.33 3.44 4.43 4.45 5.28 4.96 5.22 5.29 4.9 5.6 6 4.33 Cán cân thương mại -0.57 -0.55 -0.57 -0.8 -1.2 -0.8 -1 -1 -1.1 -1.3 -2 0.35 2008 Xuất khẩu 4.91 3.33 4.83 5 5.75 6.2 6.55 6 5.27 5.04 4.8 4.67 Nhập khẩu 7.2 6.04 8.07 8.24 7.67 6.93 7.3 6.28 5.51 5.71 5.3 - Cán cân thương mại -2.29 -2.71 -3.24 -3.2 -1.9 -0.7 -0.8 -0.3 -0.2 -0.7 -1 - 2009 Xuất khẩu 3.7 5.02 5.3 4.28 4.41 4.74 4.81 4.52 4.56 5.03 Nhập khẩu 3.3 4.18 5.04 5.46 5.57 5.9 6.32 5.85 6.37 6.62 Cán cân thương mại 0.4 0.84 0.26 -1.18 -1.25 -1.16 -1.52 -1.32 -1.81 -1.59 Số liệu thống kê cho thấy xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2007 tăng đều qua các tháng (Bảng 1), nhưng qua năm 2008, chỉ tăng đến tháng 7/2008, sau đó giảm dần, sang năm 2009, kim ngạch xuất khẩu có tăng trong hai tháng đầu năm nhưng vẫn chưa bằng trước lúc giảm năm 2008, cán cân thương mại thăng dư trong ba tháng đầu năm. Số liệu về kim ngạch xuất khẩu cho thấy một số dấu hiệu tích cực, nhưng về bản chất, việc cải thiện này chỉ là vẻ bề ngoài, kim ngạch xuất khẩu tăng chủ yếu do xuất khẩu vàng. So với cùng kỳ năm 2008, kim ngạch xuất khẩu giảm nhanh: kim ngạch xuất khẩu trong ba tháng đầu năm, sáu tháng đầu năm và 9 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước giảm lần lượt là 24%, 24.4% và 20.5%. Như vậy có thể xem thời điểm bắt đầu chị tác động của cuộc khủng hoảng là tháng 8/2008. Trong cuộc khủng hoảng năm 1997, Chính phủ không đánh giá đúng mức ảnh hưởng của chính phủ đến nền kinh._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26853.doc
Tài liệu liên quan