Tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ đến quan hệ thương mại giữa hai nước

Lời mở đầu Tính cấp thiết của đề tài Trong thế giới ngày nay, không một quốc gia nào có thể tách rời khỏi quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ. Để hoà nhập với xu hướng chung này của các nước trên thế giới cũng như trong khu vực, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế, thương mại, nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nước nhà. Chính sách đó được Đảng và Nhà nước từng bước thực

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1339 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ đến quan hệ thương mại giữa hai nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiện trong nhiều năm qua và cho đến nay đã đạt được những thành tựu to lớn, trong đó có việc ký kết Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ. Sự kiện này không chỉ đánh dấu một bước tiến mới trong quá trình bình thường hoá hoàn toàn quan hệ giữa hai nước mà còn mở đường cho Việt Nam tiếp tục hội nhập kinh tế, mà cụ thể là việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Trong khi đó Hoa Kỳ từ trước đến nay được toàn thế giới biết đến như là một siêu cường quốc về mặt kinh tế cũng như chính trị, đồng thời là một thị trường hết sức rộng lớn, đa dạng và vô cùng hấp dẫn. Vì vậy trong chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam, quan hệ với Hoa Kỳ luôn được giành một vị trí ưu tiên đặc biệt. Sau những nỗ lực từ hai phía Việt Nam và Hoa Kỳ, Hiệp định thương mại giữa hai nước đã được ký kết và chính thức có hiệu lực. Đây có lẽ là sự kiện được mong chờ nhất trong thập kỷ qua. Hiệp định thương Việt- Mỹ đi vào thực thi đã mở ra triển vọng to lớn thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai nước, đặc biệt mở ra một thị trường khổng lồ cho hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Do vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu nội dung chủ yếu của Hiệp định và bước đầu đánh giá tác động của Hiệp định thương mại đến quan hệ thương mại giữa hai nước để từ đó đề xuất những giải pháp phù hợp nhằm tận dụng tất cả những cơ hội mà hiệp định đem lại cho các doanh nghiệp Việt Nam, cũng như hạn chế những tác động tiêu cực mà Hiệp định mang lại là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Đó chính là lý do người viết chọn đề tài “ Tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ đến quan hệ thương mại giữa hai nước” cho khoá luận của mình. Mục đích nghiên cứu - Khoá luận này tập trung hệ thống hoá một số vấn đề trong chính sách xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ, phân tích nội dung cơ bản của Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, từ đó bước đầu góp phần trang bị cho các doanh nghiệp Việt Nam một hành trang cần thiết trước khi xâm nhập vào khu vực thị trường đầy sức hấp dẫn này. - Đánh giá thực trạng quan hệ ngoại thương giữa hai nước qua từng thời kỳ, đặc biệt phân tích những tác động bước đầu sau khi Hiệp định có hiệu lực nhằm nêu bật những khó khăn, thuận lợi, những bất cập, cản trở trong quan hệ thương mại giữa hai nước. Từ đó các doanh nghiệp có thể rút kinh nghiệm cho quá trình thực hiện Hiệp định thương mại cũng như cho cả quá trình hội nhập kinh tế trong tương lai. - Đề xuất những biện pháp và chính sách cụ thể mang tính chất vi mô và vĩ mô nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai nước nói chung và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ nói riêng. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của Khoá luận chủ yếu là quan hệ thương mại hàng hoá giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trước và sau khi Hiệp định được ký kết. Cụ thể, khoá luận sẽ đi sâu phân tích thực trạng quan hệ thương mại giữa hai nước qua từng thời kỳ cụ thể, đặc biệt đi sâu phân tích những chuyển biến trong mối quan hệ thương mại sau khi Hiệp định được ký kết và chính thức có hiệu lực. - Đề tài tập trung vào quan hệ thương mại hàng hoá hữu hình, cụ thể là các chính sách xuất nhập khẩu cho các mặt hàng mang tính chất hữu hình chứ không nghiên cứu chính sách về đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại dịch vụ... Do giới hạn của thời gian nghiên cứu cũng như phạm vi của một khoá luận, người viết cũng không phân tích cụ thể và chi tiết nội dung của Hiệp định, chỉ nêu và phân tích sâu những nội dung quan trọng có liên quan đến đề tài đang nghiên cứu. Phương pháp luận nghiên cứu Đề tài này được xây dựng dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đường lối phát triển và tiến trình hội nhập kinh tế. Bên cạnh đó người viết cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như: phân tích, thống kê, hệ thống hoá và diễn giải. Bố cục của khoá luận Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khoá luận được chia thành 3 chương: Chương 1: Tổng quan về mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trước khi ký hiệp định Chương 2: Quan hệ thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ sau khi Hiệp định thương mại được ký kết Chương 3: Các biện pháp nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ. Chương I Tổng quan về mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và hoa kỳ trước khi kí hiệp định I . Khái quát chung về thị trường và hệ thống pháp luật Hoa Kỳ 1. Khái quát về thị trường Hoa Kỳ Hoa Kỳ là một nền kinh tế lớn nhất thế giới với tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2000 là 9.872,9 tỷ USD. Mười năm liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao chưa từng có trong lịch sử của mình kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai( tốc độ tăng trưởng GDP năm 1998 là 4,3%; năm 1999 là 4,16%; năm 2000 là 4,4%). Theo thống kê của Worldbank thì Hoa Kỳ chỉ cần tăng trưởng 1% thì đã tạo ra một giá trị tuyệt đối lớn hơn giá trị tuyệt đối của 15% tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc. Hoa Kỳ theo nền kinh tế thị trường tự do. Hoa Kỳ tham gia WTO, lập khối NAFTA và gần đây cam kết khối mậu dịch tự do 34 nước NAFTA và FTAA vào năm 2005 và là nước tiên phong trong việc phát động vòng đàm phán mới ở Doha. Thị trường Hoa Kỳ là một thị trường rất rộng, nhu cầu đa dạng. Dân số Hoa Kỳ hiện nay là khoảng 275 triệu người, với mức thu nhập bình quân khoảng USD 36.200. Nếu xét riêng về thu nhập hay dân số thì Hoa Kỳ không phải là nước đứng đầu nhưng nếu kết hợp cả hai yếu tố trên thì Hoa Kỳ là nước đứng đầu trên thế giới. Từ đầu thập kỷ 1990 đến nay, sức mạnh của nền kinh tế Hoa Kỳ liên tục được nâng cao cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Trong khi vào thời kỳ này, trên thế giới có nhiều khu vực rơi vào khó khăn, khủng hoảng mà rõ nét nhất là sự suy thoái của nền kinh tế Nhật Bản thì GDP của Hoa Kỳ vẫn tăng lên ổn định ở mức 3-4% Bảng 1: GDP và tốc độ tăng trưởng của Hoa Kỳ từ 1994 đến 2000 Đơn vị tính: Tỷ USD Năm Giá Trị 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 GDP 7054,3 7400,6 7813,2 8318,4 8781,5 9268,6 9872,9 Tăng trưởng GDP thực tế(%) 4,0 2,7 3,6 4,4 4,3 4,1 4,4 Nguồn: Báo cáo kinh tế của APEC.( Vào năm 2000, GDP của Hoa Kỳ đạt 9.872,9 tỷ USD trong khi đó hai nền kinh tế Nhật Bản và Đức đứng thứ 2 và 3 thế giới về GDP chỉ đạt các con số tương ứng là 4.441,6 tỷ USD và 1.873 tỷ USD. Trong những năm gần đây, GDP của Hoa Kỳ thường chiếm khoảng 27% GDP của toàn thế giới. Sau thời kỳ suy thoái, kinh tế toàn cầu bước vào giai đoạn đầu của quá trình hồi phục, với mức tăng trưởng dự kiến năm 2002 là 2,5%. Trong khi đó kinh tế Hoa Kỳ dự kiến sẽ đạt tốc độ tăng trưởng vào khoảng 6%. Tuy nhiên nếu chỉ nhìn vào tốc độ tăng trưởng cũng như GDP thì chưa thấy hết được sức mạnh của nền kinh tế Hoa Kỳ. Sức mạnh của nền kinh tế Hoa Kỳ thể hiện tương đối rõ nét trong cơ cấu kinh tế. Hiện nay, có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nước Hoa Kỳ đã chuyển sang nền kinh tế tri thức, một nền kinh tế trong đó tỷ trọng của các ngành công nghệ cao và dịch vụ rất lớn. Năm 2001, cơ cấu kinh tế của Hoa Kỳ nông nghiệp chiếm 2%, công nghiệp chiếm 17% và dịch vụ chiếm 81%. Hoa Kỳ hiện là quốc gia dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực công nghệ cao và dịch vụ, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin thì Hoa Kỳ đã bỏ xa các quốc gia khác nhờ lượng vốn đầu tư trong ngành này chiếm 40% tổng số vốn đầu tư vào công nghệ thông tin của toàn thế giới. Với cơ cấu kinh tế như vậy, trong tương lai Hoa Kỳ vẫn hoàn toàn có khả năng duy trì địa vị siêu cường kinh tế hiện nay của mình. Đặc biệt, trong nền kinh tế Mỹ có rất nhiều ngành nghề tham gia vào xuất khẩu và nhập khẩu, bao gồm cả lĩnh vực có giá trị gia tăng cao và trung bình. Là một nền kinh tế tự do nhất thế giới, hoạt động xuất khẩu, trừ một số ít hạn chế, còn lại đều tự do về nguồn hàng lẫn thương nhân. Hoạt động xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ ngày nay còn được hỗ trợ và mang tính dần thay thế phương thức kiểu cũ do sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, internet và thương mại điện tử. Do đó, luồng di chuyển hàng hoá và dịch vụ vào Hoa Kỳ rất lớn, đa dạng và đa chiều, xuất khẩu và nhập khẩu rất nhiều chủng loại hàng hoá khác nhau trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn . 1.1. Tiềm năng xuất khẩu của Hoa Kỳ Có thể nói rằng Hoa Kỳ là một nước xuất khẩu lớn nhất thế giới. Năm 1996, kim ngạch xuất khẩu của Mỹ đạt 874,2 tỷ USD, trong đó giá trị xuất khẩu hàng hoá đạt 618,4 tỷ USD. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu đạt 1.033,6 tỷ USD, trong đó giá trị xuất khẩu hàng hoá đạt 752.2 tỷ USD. Trong cán cân thương mại Hoa Kỳ luôn là nước nhập siêu. Tuy nhiên, nếu chỉ tính riêng cán cân xuất nhập khẩu công nghệ và dịch vụ thì Hoa Kỳ luôn xuất siêu, bởi vì sức mạnh nền kinh tế Hoa Kỳ nằm trong lĩnh vực dịch vụ và công nghệ. Năm 2001, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ là 1.487,606 tỷ USD, trong đó xuất khẩu hàng hoá đạt 828,432 tỷ USD và dịch vụ là 659,174 tỷ USD. Trong năm 2001, nếu tính riêng thương mại hàng hoá hữu hình, Hoa Kỳ nhập siêu 629,854 tỷ USD thì trong thương mại dịch vụ, Hoa Kỳ lại xuất siêu 402,632 tỷ USD. Các sản phẩm công nghiệp xuất khẩu của Hoa Kỳ hết sức đa dạng, phong phú cả về chủng loại, trình độ kỹ thuật và thuộc đủ mọi ngành nghề và lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, Hoa Kỳ có thế mạnh xuất khẩu những mặt hàng công nghiệp có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao và đồng thời có giá trị gia tăng cao, đem lại nhều lợi nhuận so với các nghành khác. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là ô tô, máy móc, thiết bị đầu vào, nguyên liệu công nghiệp. Cụ thể, năm 1998, giá trị xuất khẩu nhóm máy móc thiết bị( trừ ô tô) 299,484 tỷ USD, chiếm 29,8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Hoa Kỳ. Trong khi đó giá trị xuất khẩu nguyên vật liệu công nghiệp đạt 147,914 tỷ USD, chiếm 14,7 % tổng kim ngạch xuất khẩu của Hoa Kỳ. Trong những năm gần đây, thế mạnh của Mỹ ở những mặt hàng này không những không giảm mà còn ngày càng gia tăng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Mỹ. Năm 2001, giá trị xuất khẩu máy móc thiết bị (trừ ô tô) tăng mạnh, đạt 476,25 tỷ USD, chiếm 32% tổng kim ngạch xuất khẩu của Mỹ, còn kim ngạch xuất khẩu nguyên vật liệu công nghiệp đạt 184,32 tỷ USD, chiếm 12,4% tổng kim ngạch xuất khẩu. Sự tăng trưởng nhanh chóng của các nghành công nghiệp do Mỹ đã tận dụng hiệu quả ưu thế về công nghệ cũng như quy mô sản xuất. Gần đây do giá nhân công cao và chính sách khuyến khích và hỗ trợ của chính phủ, Hoa Kỳ đã chuyển đổi một số ngành sản xuất kỹ thuật cao tốn lao động sang các nước và các khu vực có lợi thế cạnh tranh về lao động như ngành công nghiệp dệt may, giày dép, hàng tiêu dùng, đồ điện gia dụng, dụng cụ gia đình... Các doanh nghiệp Hoa Kỳ có thể cạnh tranh được với các nước trên thế giới trong những ngành này. Trước kia, những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này chủ yếu đáp ứng nhu cầu trong nước, còn hiện nay, dần dần các doanh nghiệp Mỹ đã bắt đầu xuất khẩu sản phẩm của mình sang nhiều quốc gia trên thế giới do tận dụng được công nghệ kỹ thuật hiện đại kết hợp với giá nhân công rẻ ở các nước phát triển và các nước đang phát triển. Trong lĩnh vực dịch vụ, thế mạnh xuất khẩu chính của Hoa Kỳ là các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, các dịch vụ tài chính, tư vấn. Mặt khác nói đến sức mạnh xuất khẩu của nền kinh tế Hoa Kỳ không thể không kể đến thế mạnh của Hoa Kỳ trong lĩnh vực nông nghiệp và sản phẩm nông nghiệp do trình độ hợp tác hoá, tự động hoá và ứng dụng công nghệ-kỹ thuật rất rộng và rất sâu. Có lẽ việc theo dõi và quản lý trang trại bằng vệ tinh là điều tương đối mới đối với đa số quốc gia trên thế giới. Đặc biệt, trong lĩnh vực này, Hoa Kỳ coi trọng hoạt động nghiên cứu chuyên sâu và phát triển với chi phí rất lớn. Do vậy nông nghiệp Hoa Kỳ đã đạt được nhiều thành tựu hết sức tiên tiến với sự xuất hiện nhiều ngành có hàm lượng khoa học công nghệ như hoá sinh, công nghệ gen. Người ta biết đến Hoa Kỳ như một quốc gia công nghiệp phát triển nhưng có nhiều nước không biết, thậm chí chính bản thân nhiều người Mỹ không biết nước mình là nước cung cấp ngũ cốc lớn nhất thế giới: 12% lúa mỳ, 45% ngô, 18% bông của thế giới....Trong khi Hoa Kỳ chỉ chiếm 12% đất canh tác của thế giới và chỉ có 2% dân Hoa Kỳ làm nông nghiệp. Riêng năm 1998, giá trị xuất khẩu nhóm mặt hàng nông nghiệp đạt 46,379 tỷ USD, đến năm 2000, giá trị xuất khẩu tăng lên 76,13 tỷ USD. Qua phân tích khái quát về tiềm năng xuất khẩu của Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp muốn xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp cần phải tìm hiểu kỹ thị trường trước khi xuất khẩu vì không nên có suy nghĩ Hoa Kỳ chỉ mạnh về những sản phẩm công nghiệp kỹ thuật cao mà bỏ qua thực tế là Hoa Kỳ có nền nông nghiệp rất phát triển. 1.2. Tiềm năng nhập khẩu của Hoa Kỳ Tổng dung lượng nhập khẩu của Hoa Kỳ hiện nay lớn nhất trên thế giới, trên cả liên minh Châu âu. Nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng năm 1996 là 808.3 tỷ USD. Năm 1999, giá trị kim ngạch nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng đã lên tới 1.161,1 tỷ USD tăng so với năm 1996 là 352,8 tỷ USD. Năm 2001, giá trị nhập khẩu hàng hoá của Hoa Kỳ đạt 1.458,286 tỷ USD, tăng gần gấp đôi so với năm 1996. Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu hàng tiêu dùng hàng năm tăng trung bình 9,8%. Khối lượng hàng hoá tiêu dùng trên thị trường Hoa Kỳ lớn một phần do trong 9 năm gần đây, Hoa Kỳ đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao chưa từng có trong lịch sử của mình. Vì thế thu nhập và đời sống của người dân rất cao dẫn đến nhu cầu mua sắm và tiêu thụ hàng hoá tăng mạnh và luôn duy trì ở mức cao. Ngoài ra, cần phải hiểu Hoa Kỳ là một dân tộc chuộng mua sắm và tiêu dùng. Họ có tâm lý là càng mua sắm và tiêu xài nhiều thì càng kích thích sản xuất và dịch vụ tăng trưởng và dẫn đến nền kinh tế sẽ phát triển. Cộng với đặc điểm riêng về địa lý và lịch sử làm cho Hoa Kỳ trở thành một thị trường tiêu dùng khổng lồ và đa dạng nhất thế giới. Tài nguyên phong phú, không bị ảnh hưởng nặng nề của hai cuộc chiến tranh thế giới cộng với chiến lược phát triển kinh tế lâu dài tạo cho Hoa Kỳ một sức mạnh kinh tế khổng lồ và thu nhập cao cho người dân. Với trình độ phát triển về kinh tế, cộng với thu nhập cao làm cho mua sắm trở thành một nét không thể thiếu trong văn hoá hiện đại của nước này. Hệ thống các siêu thị là nơi họ đến mua hàng, dạo chơi, gặp nhau trò chuyện và mở rộng giao tiếp xã hội. Qua thời gian, người tiêu dùng Hoa Kỳ có một niềm tin gần như tuyệt đối vào hệ thống các cửa hàng đại lý bán lẻ tại Hoa Kỳ, nơi họ có sự đảm bảo về chất lượng, bảo hành và các điều kiện vệ sinh an toàn khác. Điều này làm cho họ có ấn tượng rất mạnh với lần tiếp xúc đầu tiên với hàng hoá mới. Nếu ấn tượng này là xấu hàng hoá đó sẽ hầu như không có cơ hội. Do vậy, khi mới xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ cần phải tìm sự bảo đảm của các nhà phân phối có tiếng, chắc chắn hàng hoá đó sẽ được chấp nhận. Đối với những đồ dùng cá nhân như sản phẩm quần áo, may mặc và giày dép, nói chung người Hoa Kỳ thích sự giản tiện, nhưng hiện đại, hợp mốt. Hơn nữa, đồ dùng cá nhân là đồ hiệu thì càng được ưa thích và được mua sắm nhiều ở Hoa Kỳ. Năm 2001, Hoa Kỳ đã nhập khẩu 75,438 tỷ USD hàng may mặc từ các nước đang phát triển trong đó chủ yếu là áo complê, váy áo hoặc juyp, quần jean và quần vải thô, áo thun, T-Shirt. Do Hoa Kỳ là một quốc gia rộng lớn, gồm có nhiều bang làm xuất hiện nhiều nhóm người khác nhau sống theo văn hoá, tôn giáo của mình. Chính điều này đã tạo ra sự khác biệt trong thói quen tiêu dùng của người dân Hoa Kỳ so với người tiêu dùng ở các nước Châu Âu, đặc biệt là Châu á. Cũng tôn trọng chất lượng, nhưng sự thay đổi luôn là yếu tố chính làm thay đổi thị hiếu tiêu dùng của người Hoa Kỳ. Cùng một đồ vật nhưng thời gian sử dụng của họ có thể chỉ bằng một nửa thời gian sử dụng của ngươì tiêu dùng ở các quốc gia phát triển khác. Với sự thay đổi nhanh như vậy, giá cả là yếu tố đóng vai trò quan trọng. Điều này lý giải tại sao hàng hoá tiêu dùng từ một số nước đang phát triển có chất lượng kém hơn hàng từ các nước phát triển nhưng vẫn có chỗ đứng ở Hoa Kỳ vì giá bán thực sự cạnh tranh (trong khi điều này hầu như không có ở các nước Châu âu) Tóm lại phân phối, giá cả và chất lượng là những yếu tố ưu tiên đặc biệt trong thứ tự cân nhắc quyết định mua hàng của người dân Hoa Kỳ. Địa lý rộng lớn, phong cảnh đa dạng đã tạo cho người dân Hoa Kỳ có thói quen du lịch, ưa khám phá trong và ngoài nước. Tất cả các đồ đạc, hàng hoá tiêu dùng liên quan đến các chuyến di du lịch bằng xe hơi đều có một thị trường hết sức rộng lớn. Các đồ dùng như may mặc và giày dép, mũ liên quan đến thể thao bán rất chạy với đủ dải thị trường từ hàng rất đắt cho giới có thu nhập cao hay hàng rẻ cho dân nghèo thành thị. Do vậy xác định rõ phân đoạn thị trường cần xâm nhập và cân nhắc khi quyết định tham gia vào hệ thống phân phối sẵn có tại Hoa Kỳ cũng như các tiêu chuẩn kỹ thuật, thương mại mang tính toàn cầu mà Hoa Kỳ đang áp dụng là yếu tố quyết định sống còn khi tham gia vào thị trường nước này. Để làm được điều này, các nhà xuất khẩu trước hết phải nắm được một điểm hết sức cơ bản của hệ thống chính sách luật lệ và thủ tục của chính phủ Hoa Kỳ liên quan đến việc tiếp cận và khai thác thị trường. 2. Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ Tham gia vào quá trình hoạch định chính sách thương mại của Hoa Kỳ bao gồm nhiều cơ quan. Mỗi cơ quan có vai trò và chức năng khác nhau, mức độ ảnh hưởng khác nhau. Tuy nhiên quan trọng nhất phải kể đến ba bộ phận sau: Thứ nhất là nhánh lập pháp, tức quốc hội Hoa Kỳ, bao gồm cả Thượng viện và Hạ viện. Là cơ quan lập pháp, đây là bộ phận có ảnh hưởng đến mọi chính sách nói chung của Hoa Kỳ, trong đó bao gồm cả chính sách thương mại. Theo Hiến pháp Hoa Kỳ, quốc hội có ba nhiệm vụ chủ yếu là dự thảo Luật Thương mại, quyết định tham gia vào các vòng đàm phán thương mại mới và phê chuẩn các thoả thuận sau các vòng đàm phán này. Quốc hội thực hiện các chức năng của mình thông qua các Uỷ ban thường trực. Những uỷ ban này có trách nhiệm riêng đối với từng lĩnh vực trong chính sách nói chung và chính sách thương mại nói riêng. Bộ phận thứ hai tham gia vào hoạch định là nhánh hành pháp. Nhánh này do tổng thống đứng đầu, bên dưới là nhiều bộ phận và cơ quan chức năng khác. Về thương mại, cơ quan (USTR) có trách nhiệm phát triển và phối hợp các chính sách thương mại của Hoa Kỳ, đồng thời phụ trách và đề ra định hướng cho các cuộc đàm phán thương mại quốc tế. Ngoài ra, phải kể đến bộ phận thứ ba tham gia vào quá trình hoạch định chính sách thương mại đó là Hội đồng Thương mại quốc tế(USITC), Cơ quan này không thuộc nhánh hành pháp lẫn lập pháp nhưng vẫn tham gia vào quá trình hoạch định chính sách thương mại của Hoa Kỳ. Cơ quan này đôi khi đóng vai trò như một cơ quan xét xử. Hội đồng thương mại quốc tế có chức năng điều tra thiệt hại trong các trường hợp sữa chữa các điều khoản thương mại và cố vấn cho các nhà lập pháp. Chính sách thương mại của Hoa Kỳ hết sức đa dạng và phức tạp. Trong quan hệ song phương, Hoa Kỳ thường áp dụng hệ thống Thang ưu đãi (Ladder of Prefrences), theo đó các đối tác được chia làm nhiều nhóm khác nhau, với mỗi nhóm Hoa Kỳ đều áp dụng một chính sách riêng. Mức thấp nhất là nhóm các nước bị Hoa Kỳ cấm vận. Trước đây, Việt Nam cũng nằm trong nhóm nước này(từ năm 1975-năm 1994) Mức tiếp theo là các nước bị Hoa Kỳ từ chối cho hưởng quy chế tối huệ quốc(MFN). Hàng hoá nước này khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ sẽ phải chịu thuế suất cao, thường ở mức 30%-40%, Việt Nam nằm trong nhóm nước này kể từ năm 1994 đến khi hiệp định thương mại chính thức có hiệu lực( ngày 10/12/2001). Tiếp đó là nhóm nước được hưởng quy chế tối huệ quốc nhưng có điều kiện. Mức ưu đãi cao hơn là chế độ thuế quan ưu đãi phổ cập(GSP). Đây là quy chế ưu đãi Hoa Kỳ giành cho các nước đang phát triển, hàng hoá của các quốc gia được hưởng quy chế này khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ phần lớn được miễn thuế trừ một số mặt hàng đặc biệt. Đối với một số nước có quan hệ tốt với với Hoa Kỳ như các nước vùng Trung Hoa Kỳ, Peru, Ecuador...thì các nước này được nhận chế độ ưu đãi thương mại đặc biệt( Special Trade Prefrences). Hàng hoá của các nước này được miễn thuế nhập khẩu vào Hoa Kỳ trừ dầu thô, hàng dệt và một số ít mặt hàng khác. Nhóm nước được hưởng mức thuế quan ưu đãi cao nhất của Hoa Kỳ là các nước đồng minh lâu năm bao gồm Israel, Canada và Mexico. Các nước này được miễn hoàn toàn thuế nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Qua phân tích trên, ta phần nào hình dung được cách vận hành của hệ thống pháp luật Hoa Kỳ. Nhìn chung hệ thống luật pháp Hoa Kỳ là hệ thống luật pháp tương đối chặt chẽ, chi tiết và rất phức tạp. Trong phạm vi khuôn khổ nghiên cứu của khoá luận này, chúng ta cùng đi vào xem xét một số luật, cũng như những quy định cơ bản trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ. Luật Thương mại Hoa Kỳ Xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Hoa Kỳ có nghĩa là các doanh nghiệp Việt Nam ký kết hợp đồng bán hàng hóa cho thương nhân Hoa Kỳ. Việc ký kết hợp đồng như vậy chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại Việt Nam cũng như Luật Thương mại Hoa Kỳ. Vì vậy, ngoài việc nắm bắt được nội dung của Luật Thương mại Việt Nam, tìm hiểu Luật Thương mại Hoa Kỳ là một đòi hỏi cấp thiết đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. Những quy định điều chỉnh hợp đồng mua bán của Luật Thương mại Hoa Kỳ lại có nhiều điểm khác so với Luật Thương mại Việt Nam. Chẳng hạn, cả Luật Việt Nam và Luật Hoa Kỳ đều quy định chủ thể ký kết hợp đồng phải có năng lực hành vi, nhưng quy định về độ tuổi có năng lực hành vi đối với cá nhân không giống nhau. Luật Hoa Kỳ quy định cá nhân phải đủ 21 tuổi mới có năng lực hành vi, nhưng Luật Việt Nam quy định độ tuổi này là 18. Một ví dụ khác là: theo Luật Hoa Kỳ, kể cả hợp đồng giao kết với người nước ngoài, chỉ những hợp đồng trị giá từ 500 USD trở lên mới phải ký dưới hình thức văn bản, trong khi đó Luật Việt Nam lại quy định mọi hợp đồng kinh tế ký kết với người nước ngoài đều phải được ký dưới hình thức văn bản. Ngoài ra, để kinh doanh xuất khẩu sang Hoa Kỳ các doanh nghiệp không thể không tìm hiểu những luật, quy định về thuế và hải quan của Hoa Kỳ (Tariff and Customs Laws). Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập GSP Hiện nay trong danh sách các nước được Hoa Kỳ cho hưởng chế độ GSP - Generalised System of Preference (ghi trong danh bạ thuế quan HTS) chưa có Việt Nam. Tuy nhiên, GSP là hệ thống những ưu đãi về thuế mà Hoa Kỳ dành cho các nước đang phát triển và mức ưu đãi về thuế rất cao. Hàng hóa được hưởng chế độ này có thể được miễn thuế hoàn toàn hoặc được hưởng thuế suất rất thấp, thấp hơn mức thuế MFN khi xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Vì vậy, tìm hiểu về GSP và từng bước đáp ứng những điều kiện đặt ra của chế độ này là điều không thể thiếu nếu các doanh nghiệp Việt Nam muốn tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ. GSP là chế độ tương đối phức tạp, dựa trên cơ sở pháp lý là chế độ ưu đãi đơn phương, không ràng buộc điều kiện có đi, có lại mà Hoa Kỳ dành cho các nước đang phát triển, khác hẳn với chế độ ưu đãi tối huệ quốc (MFN), là chế độ ưu đãi có đi, có lại. Chế độ này chỉ tập trung ưu đãi về thuế và mức ưu đãi cao hơn mức thuế MFN. Tác dụng của GSP là miễn hoàn toàn hoặc ưu đãi mức thuế thấp cho hàng nhập khẩu. Một điểm đáng chú ý trong vấn đề GSP của Hoa Kỳ là: vì đây là chế độ ưu đãi đơn phương nên Hoa Kỳ luôn giành quyền chấm dứt, tạm đình chỉ hoặc chỉ áp dụng có giới hạn chế độ GSP của mình. Tổng thống Hoa Kỳ thực hiện quyền này khi thấy quyền lợi, thị trường Hoa Kỳ bị đe dọa hoặc phương hại. Làm như vậy, Hoa Kỳ bảo lưu quyền bảo hộ nền công nghiệp trong nước. Luật điều tiết nhập khẩu Một trong những luật, quy định các doanh nghiệp phải tham khảo trong quá trình kinh doanh xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ là luật điều tiết nhập khẩu. Thực chất đây là tổng hợp các hàng rào phi thuế quan để điều tiết ổn định tình hình nhập khẩu của Hoa Kỳ. Nó bao gồm các luật, hiệp định ký kết, quy định về hạn ngạch, quy định về hạn chế nhập, cấm nhập: Ví dụ, hạn ngạch được áp dụng đối với hàng nông sản nhập khẩu gây tổn hại cho chương trình nông sản trong nước. Mục đích của biện pháp này là để ổn định và hỗ trợ giá nông sản trong nước, đảm bảo thu nhập cho nông dân, cân đối cung cầu, tránh lạm phát. Hiện nay, Hoa Kỳ vẫn áp dụng cách khống chế này đối với bông, sản phẩm sữa, lạc, đường. Những quy định về tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh dịch tễ cũng là một biện pháp phi thuế quan mà Hoa Kỳ hay áp dụng để bảo hộ một cách hợp pháp cho nền sản xuất trong nước. Hoa Kỳ thường có các biện pháp kiểm tra thử nghiệm xem có phù hợp với những tiêu chuẩn hay không rồi sau đó cấp giấy chứng nhận, nếu không phù hợp thì hàng sẽ bị trả lại. Những nhóm hàng khác nhau sẽ do các cơ quan chức năng chứng nhận hợp chuẩn khác nhau tiến hành. Chẳng hạn, pho mát, sản phẩm pho mát phải tuân theo yêu cầu của Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm; Thịt và sản phẩm thịt nhập khẩu vào Hoa Kỳ phải tuân theo quy định của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ và phải qua giám định của Cơ quan Giám định Y tế về Động và Thực vật; Hoa quả, rau và hạt (các loại) phải qua giám định và được cấp giấy phép của Cơ quan giám định và an toàn thực phẩm thuộc Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là nước có nhiều biện pháp để bảo hộ các nhà sản xuất trong nước. Một trong các biện pháp đó là Điều luật chống phá giá và Điều luật thuế bù trừ. Nếu trong trường hợp các cơ quan chức năng của Hoa Kỳ phát hiện thấy hàng hoá nhập khẩu được bán ở Hoa Kỳ với giá thấp hơn giá trị đúng trên thị trường thì hàng hoá đó sẽ bị đánh thuế chống phá giá. Trong trường hợp khác, nếu chính phủ nước ngoài giành cho hàng hoá của họ trợ cấp xuất khẩu thì khi những hàng hoá này vào thị trường Hoa Kỳ sẽ bị đánh Thuế bù trợ cấp, bởi vì việc trợ cấp làm giảm giá hàng nhập khẩu và do đó gây thiệt hại cho các nhà sản xuất Hoa Kỳ. Bên cạnh đó, Luật của Hoa Kỳ cũng có những quy định hết sức chặt chẽ về nguồn gốc xuất xứ của hàng hoá. Thường thì Hoa Kỳ quy đinh rằng một sản phẩm cuối cùng được gọi là sản phẩm của nước mà tại đó nó được biến đổi một cách căn bản. Sở dĩ có quy định này vì như đã trình bày ở trên, Hoa Kỳ có những chính sách, ưu đãi rất khác nhau đối với những nước khác nhau. Vì thế cần phải xác định chính xác nguồn gốc xuất xứ của hàng hoá để từ đó có cách đối xử đúng khi hàng hoá đó nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Ngoài ra, hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ còn phải tuân theo những tiêu chuẩn về kỹ thuật và vệ sinh được quy định trong các bộ luật như Luật Bảo vệ môi trường, Luật bảo vệ thực động vật, Luật về Y tế. Mặc dù theo quan điểm của các nhà lập pháp Hoa Kỳ những tiêu chuẩn này nhằm bảo vệ lợi ích về kinh tế, an ninh, sức khoẻ người tiêu dùng cũng như nhằm bảo tồn động thực vật trong nước, nhưng đối với các nhà xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ thì những quy định này thực chất là các hàng rào phi thuế quan. II. Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trước khi hiệp định được ký kết 1. Thời kỳ trước khi Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam Trước năm 1975, Hoa Kỳ có quan hệ thương mại với chính quyền Sài Gòn cũ. Kim nghạch buôn bán không lớn, chủ yếu là hàng nhập khẩu bằng viện trợ của Hoa Kỳ để phục vụ cuộc chiến tranh của xâm lược. Trong thời kỳ này, xuất khẩu sang Hoa Kỳ bao gồm một số mặt hàng như cao su, gỗ, hải sản, đồ gốm...song kim nghạch xuất khẩu không đáng kể. Tháng 5 năm 1964, Hoa Kỳ thực thi chính sách cấm vận chống miền Bắc Việt Nam và khi Việt Nam thống nhất vào tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ mở rộng cấm vận đối với toàn bộ lãnh thổ Việt Nam trong tất cả các lĩnh vực thương mại, tài chính, tín dụng, ngân hàng...Đồng thời, Hoa Kỳ khống chế các nước đồng minh và ngăn cản các tổ chức quốc tế trong quan hệ kinh tế-thương mại với Việt Nam. Việt Nam vẫn có quan hệ kinh tế với Hoa Kỳ( chủ yếu thông qua hình thức viện trợ) và các tổ chức kinh tế( chủ yếu là các tổ chức phi chính phủ) của Hoa Kỳ. Theo số liệu thống kê của Bộ thương mại Hoa Kỳ, giá trị nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ theo con đường gián tiếp trong 3 năm 1987,1988,1989 lần lượt là 23 triệu USD, 15 triệu USD và 11 triệu USD. Trong suốt giai đoạn này, không một tấn hàng hoá nào của Việt Nam được xuất khẩu sang Hoa Kỳ theo con đường chính nghạch Nhìn chung, quan hệ thương mại giữa Hoa Kỳ và Việt Nam về cơ bản bị đóng băng hơn một thập kỷ kể từ sau chiến thắng lich sử vào năm 1975.Tuy nhiên sang đầu thập kỷ 90, quan hệ ngoại giao cũng như quan hệ kinh tế-thương mại giữa hai nước bắt đầu có triển vọng mới. Cả Việt Nam và Hoa Kỳ đang nổ lực hướng tới một mối quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng cùng có lợi. 2. Thời kỳ sau khi Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam Đến năm 1994, khi Hoa Kỳ tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm vận thì quan hệ thương mại bắt đầu phát triển.Ngày 11 tháng 7 năm 1995, chính quyền Bill Clinton chính thức tuyên bố bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Tiếp đó, Bộ trưởng bộ thương mại Hoa Kỳ đã chuyển Việt Nam từ nhóm Z ( gồm Bắc Triều Tiên, Cu Ba và Việt Nam) lên nhóm Y- ít hạn chế thương mại hơn (gồm Mông Cổ, Lào, Campuchia và một số nước thuộc Đông Âu và Liên Xô). Sau nhiều cuộc gặp gỡ tiếp xúc quan trọng, vào 30/3/1999, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã quyết định miễn áp dụng tù chính án của Đạo luật Jackson-Vanik đối với Việt Nam, để tạo thuận lợi cho Công ty Đầu tư Hải Ngoại (OPIC) và ngân hàng Xuất-Nhập khẩu hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh của Hoa Kỳ ở Việt Nam và một hiệp định chính thức về OPIC đã được ký kết 8 ngày sau đó. Ngày 30/11/1999, OPIC ký thoả thuận tài trợ đầu tiên cho hoạt động kinh doanh của Hoa Kỳ ở Việt Nam- một khoản vay trị giá 2,3 triệu đô-la Hoa Kỳ cho hoạt động kinh doanh thương mại của Caterpillar tại Việt Nam kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc. Ngày 10/4/1998, Ngân hàng Xuất-Nhập khẩu (EXIM Bank) thông báo ngân hàng này sẵn sàng đầu tư cho hoạt động thương mại với Việt Nam. Ngày 9/12/1999, Ngân hàng EXIM Bank đã ký kết hai hiệp định chung với ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhằm thúc đẩy việc hợp tác tài trợ cho các dự án kinh doanh giữa hai ngân hàng. Bộ Vận Tải và Bộ thương mại Hoa Kỳ đã bãi bỏ lệnh cấm tầu biển và máy bay Hoa Kỳ vận chuyển hàng hoá sang Việt Nam, đồng thời cho phép tầu mang cờ Việt Nam được cập cảng Hoa Kỳ.Trong thời gian này, mặc dù Việt Nam chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc, nguyên tắc đối xử quốc gia trong buôn bán với Hoa Kỳ và cũng chưa được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập ( GSP._.: Generalised System of Preprences) mà Hoa Kỳ dành cho các nước đang phát triển- nghĩa là chưa có hành lang pháp lý về thương mại đầy đủ để các nhà kinh doanh hai nước hoạt động bình thường và bình đẳng như các nhà kinh doanh khác khi có quan hệ xuất nhập khẩu với Việt Nam hoặc Hoa Kỳ - nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Hoa Kỳ không ngừng tăng lên. Sở dĩ như vậy là do tính bổ sung giữa hai nền kinh tế. Một mặt, Hoa Kỳ có thể đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng công nghiệp có công nghệ cao như máy móc trang thiết bị hiện đại, đáp ứng nhu cầu của một nước trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế như Việt Nam. Mặt khác, Hoa Kỳ lại là thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới với nhu cầu đa dạng và phong phú về chủng loại hàng hoá từ cao cấp đến bình dân, từ sản phẩm công nghiệp kỹ thuật cao đến hàng nông-thuỷ sản. Chính vì vậy, trong thời kỳ này, kim ngạch thương mại hai chiều gia tăng mạnh mẽ. Bảng 2: Kim ngạch thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ 1994-2000 Đơn vị tính: Triệu USD Năm Giá Trị 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ 50,4 198,9 310,2 390,4 519,5 601,9 827,4 Nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ 172,2 252,9 612,8 272,7 269,5 277,3 330,5 Tổng kim ngạch XNK với Hoa Kỳ 222,6 451,8 923,0 663,1 789,0 879,2 1157,9 Nguồn: USITC, Thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Hoa kỳ đã đạt được những bước tiến đáng kể so với thời kỳ đầu. Nếu như tổng kim ngạch vào năm 1994 chỉ đạt 222,6 triệu USD thì năm 1995 là 451,8 triệu USD và năm 1996 đã là 923 triệu USD. Đến năm 2000, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 1157,9 triệu, so với năm 1994 đã tăng lên gấp 5 lần. Xét kim ngạch nhập khẩu nói riêng thì Việt Nam nhập khẩu từ Hoa Kỳ chủ yếu là máy móc, thiết bị. Nhìn chung kim ngạch nhập khẩu từ Hoa Kỳ là tương đối ổn định trong giai đoạn này. Năm 1994, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ đạt 172,2 triệu USD, đạt 252,9 USD vào năm 1995 và năm 2000 kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là 330,5 triệu USD. Việt Nam nhập khẩu chủ yếu từ Hoa Kỳ là máy móc thiết bị, hàng tiêu dùng chất lượng cao như điều hoà nhiệt độ, thang máy, máy vi tính, phần mềm, máy nhắn tin và điện thoại di động, sản phẩm nội thất. Tuy nhiên,số liệu thống kê trên của USITC ( dựa trên số liệu thống kê của hải quan Hoa Kỳ) không phản ánh đầy đủ giá trị hàng hoá Việt Nam từ Hoa Kỳ bởi lẽ Việt Nam tiêu thụ một phần hàng lớn từ các chi nhánh của công ty Hoa Kỳ ở nước ngoài, đặc biệt là các chi nhánh ở Châu á. Do vậy, trên thực tế kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ có thể cao hơn so với con số thống kê. Trong khi đó, tình hình xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng không ngừng. Nếu như tổng kim ngạch vào năm 1994 chỉ đạt 222,6 triệu USD thì năm 1995 là 451,8 triệu USD và năm 1995 đã là 923 triệu USD. Đến năm 2000, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 1157,9 triệu, so với năm 1994 đã tăng lên gấp 5 lần. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nói riêng cũng tăng đều kể từ năm 1994. Nếu như năm 1994, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ chỉ ở mức khiêm tốn là 50,4 triệu USD. Chỉ sau một năm , Năm 1995 con số này đã tăng lên gấp 4 lần, lên đến 200 triệu USD. Trong những năm 1996, 1997 tổng giá trị các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ tăng mạnh so với năm 1995, tăng 54% trong 1996 ( đạt 310,2 triệu USD) và đạt 390,4 triệu USD năm 1997, tăng 87% so với năm 1995. Kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng trong những năm 1998 và năm 1999 và lên tới những con số tương ứng là 519,5 triệu USD và 601,9 triệu USD. Đến năm 2000 thì giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đã đạt 827,4 triệu đô la, gấp 4 lần giá trị năm 1995 và gấp 16 lần giá trị năm 1994. Tốc độ xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ tăng nhanh đã đưa Hoa Kỳ trở thành thị trường xuất khẩu quan trọng thứ 7 của Việt Nam năm 1998 ( thứ 9 năm 1997). Hiện nay Việt Nam đang đứng thứ 61 trong số 229 nước xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Hàng hoá xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ chủ yếu là nông sản, giày dép và phụ kiện, cà phê, chè gia vị, nhiên liệu khoáng, dầu khoáng và chất chiết xuất. Bảng 3: Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Hoa Kỳ từ năm 1997 đến năm 2000 (Xếp thứ tự theo kim ngạch năm 2000 từ cao xuống thấp) Đơn vị: Triệu USD STT Nhóm các sản phẩm 1997 1998 1999 2000 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. Thuỷ sản Cà phê, chè, gia vị Giầy dép và phụ kiện Nhiên liệu khoáng, dầu khoáng và chất chiết xuất Sản phẩm chế biến từ thịt, cá, hải sản. Hàng may mặc và phụ trợ dệt kim, đan hoặc móc Đồ gỗ và đồ dùng khác Sản phẩm gốm Ceramic Cao su và sản phẩm cao su 46,3 108,2 97,6 36,6 10,4 5,3 5,3 2,1 3,0 80,6 147,9 114,9 107,4 13,8 7,1 1,3 2,5 2,9 108,1 117,7 145,7 100,6 31,5 11,1 4,0 3,6 3,5 242,9 132,9 124,5 90,7 57,7 29,9 9,7 5,8 6,0 Nguồn: USITC Trade Database(dữ liệu thương mại của USITC) Qua thống kê, ta có thể thấy mặt hàng nông sản, giày dép, thuỷ hải sản là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. Đáng kể nhất là sự gia tăng nhanh chóng kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. Đến năm 2000, mặt hàng này là mặt hàng dẫn đầu trong nhóm mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Năm 1997, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này chỉ đạt 46,3 triệu USD, chiếm 11,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu đến năm 2000 mặt hàng này đã chiếm 29,3%, tương ứng với giá trị tuyệt đối là 242,9 triệu USD (tăng gần gấp 5 lần so với năm 1997) . Bên cạnh đó phải kể đến kim ngạch xuất khẩu cà phê, chè và gia vị sang thị trường Hoa Kỳ. Kim ngạch mặt hàng này tương đối ổn định.Năm 1997 đạt 108,2 triệu USD, đến năm 2000 con số này là 132,9 triệu USD, chiếm 16,0% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Ngoài ra, giá trị xuất khẩu hàng giày dép tăng tương đối mạnh. Nếu như năm 1997, giá trị xuất khẩu chỉ đạt 97,6 triệu USD thì đến cuối năm 2000, giá trị xuất khẩu đạt 124,5 triệu USD, chiếm tỷ trọng 15% tổng kim ngạch xuất khẩu. Bảng 4: Tỷ trọng 3 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ Đơn vị tính: Triệu USD Năm Giá trị 1997 1998 1999 2000 Thuỷ hải sản 11,9% 15,5% 18,1% 29,3% Cà phê, chè và gia vị 27,7% 28,5% 19,6% 16,0% Giầy dép và nguyên liệu 25% 22,1% 24,2% 15,0% Nguồn: Tổng hợp từ số liệu của USITC ( Trong khi đó Việt Nam nhập khẩu từ Hoa Kỳ chủ yếu là máy móc, thiết bị. Nhìn chung kim ngạch nhập khẩu từ Hoa Kỳ là tương đối ổn định trong giai đoạn này. Năm 1994, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ đạt 172,2 triệu USD, đạt 252,9 USD vào năm 1995 và năm 2000 kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là 330,5 triệu USD. Việt Nam nhập khẩu chủ yếu từ Hoa Kỳ là máy móc thiết bị, hàng tiêu dùng chất lượng cao như điều hoà nhiệt độ, thang máy, máy vi tính, phần mềm, máy nhắn tin và điện thoại di động, sản phẩm nội thất. Tuy nhiên, số liệu thống kê trên của USITC ( dựa trên số liệu thống kê của hải quan Hoa Kỳ) không phản ánh đầy đủ giá trị hàng hoá Việt Nam từ Hoa Kỳ bởi lẽ Việt Nam tiêu thụ một phần hàng lớn từ các chi nhánh của công ty Hoa Kỳ ở nước ngoài, đặc biệt là các chi nhánh ở Châu á. Do vậy, trên thực tế kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ có thể cao hơn so với con số thống kê. Về mặt cơ cấu xuất nhập khẩu, theo thống kê của Bộ thương mại Hoa Kỳ, các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ không chỉ tăng về số lượng mà còn có sự chuyển đổi mạnh về cơ cấu mặt hàng trong những năm đầu sau khi lệnh cấm vận được bãi bỏ. Trong hai năm 1994 và 1995, các mặt hàng nông nghiệp chiếm 76% và phi nông nghiệp là 24%, nhưng sang năm 1996, hàng nông nghiệp chỉ còn chiếm 45,74%, hàng phi nông nghiệp chiếm 54,26%. Sự gia tăng này chủ yếu là do xuất khẩu nhóm mặt hàng nguyên liệu khoáng, dầu, mỡ khoáng tăng từ 6,38% năm 1994 và 10,99% năm 1995 lên 27,45% năm 1996. Đồng thời tỷ trọng hàng nông nghiệp xuất khẩu sang Hoa Kỳ giảm chủ yếu là do tỷ trọng nhóm hàng lương thực và súc vật tươi sống giảm, từ 83,77% năm 1994 và 85,23% năm 1995 xuống 54,68% trong tổng kim ngạch hàng nông sản năm 1996. Trong giai đoạn 1997-2000, cơ cấu hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ ổn định hơn và tập trung ở một số nhóm hàng chính như thuỷ sản, cà phê, giày dép, nhiên liệu khoáng, dầu mỏ, dệt may. Hoạt động thương mại giữa hai nước phát triển nhanh trong những năm gần đây. Tuy nhiên giá trị và buôn bán hai chiều chưa thật sự tương xứng với tiềm năng cũng như mong muốn của các doanh nghiệp ở hai quốc gia. Mặc dù đạt được mức tăng trưởng cao như vậy, nhưng kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ của Việt Nam chỉ mới chiếm chưa đầy 5 % tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và mới chỉ bằng khoảng 28% kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản, 20% kim ngạch xuất khẩu sang EU. Nếu xét về tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ so với tổng trị giá NK của Hoa Kỳ thì tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam không đáng kể. Năm 1994 chỉ chiếm khoảng 0,062% so với tổng kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ. Tuy kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng tương đối mạnh trong thời kỳ này nhưng nhìn chung thị phần của Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ là chưa đáng kể. Đến năm 2000, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm 0,054% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ. Bên cạnh đó, nếu xét về giá trị xuất khẩu của Hoa Kỳ sang thị trường Việt Nam so với tổng khối lượng hàng hoá mà Việt Nam nhập khẩu thì hàng hoá của Hoa Kỳ chưa có chỗ đứng trên thị trường Việt Nam so với các nước khác, đặc biệt là so với Trung Quốc và Nhật Bản. Năm 2000, tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ chỉ khoảng 14 triệu USD. Một phần là do số lượng hàng hoá nhập khẩu trực tiếp từ Hoa Kỳ rất ít chủ yếu tiêu thụ của các công ty Hoa Kỳ đặt trụ sở ở nước ngoài do đó con số thống kê đưa ra của hải quan Hoa Kỳ chưa thật sự chính xác ( dựa trên kim ngạch ghi sổ để tính toán) Nhìn chung, quan hệ thương mại giữa hai nước đã có những bước tiến đáng kể từ khi hai nước bình thường hoá quan hệ. Tuy nhiên vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước. Sau khi hiệp định thương mại được ký kết và có hiệu lực, quan hệ thương mại giữa hai nước đã phát triển nhanh chóng và phần nào tương xứng với tiềm năng của hai nước . CHƯƠNG II QUAN Hệ THƯƠNG MạI VIệT nam-Hoa Kỳ SAU KHI HIệP ĐịNH thương mại ĐƯợC Ký KếT I. Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ - Những nội dung cơ bản 1. Quá trình đàm phán dẫn đến ký kết hiệp định Quá trình đàm phán và ký kết hiệp định giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về quan hệ thương mại ( gọi tắt là hiệp định thương mại Việt-Mỹ). Có thể nói, đây là kết quả của cả một quá trình bình thường hoá và phát triển quan hệ song phương được bắt đầu từ cuối những năm 1980 khi hai nước tiến hành hợp tác về các vấn đề nhân đạo của người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam, đàm phán giải quyết các vấn đề về tài sản sau chiến tranh Việt Nam và đối thoại về các vấn đề nhân đạo khác như chương trình ra đi có trật tự, đoàn tụ...Từ đầu thập kỷ 90, quan hệ giữa hai nước có dấu hiệu ấm dần lên và con đường đi đến Hiệp định thương mại song phương đã được mở ra bằng nỗ lực của cả hai phía theo tiến trình như sau: Tháng 7 năm 1995, Việt Nam chính thức bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ. Đầu năm 1996, Chính phủ cử đoàn đàm phán do ông Nguyễn Đình Lương, trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao làm trưởng đoàn chính thức bắt đầu đàm phán về việc ký kết hiệp định thương mại Việt-Mỹ. Trong thời gian 1996-1997 đã liên tục diễn ra các vòng đàm phán hiệp định tại thủ đô hai nước. Tháng 4 năm 1997, đoàn đàm phán Hoa Kỳ đã trao đổi dự thảo hiệp định của phía Hoa Kỳ cho đoàn đàm phán Việt Nam. Sau một năm nghiên cứu kỹ lưỡng các dự thảo của phía Hoa Kỳ, tháng 4 năm 1998, đoàn đàm phán Việt Nam đã trao cho đoàn đàm phán Hoa Kỳ dự thảo Hiệp định thương mại của Việt Nam ( dự thảo này gồm các chương: thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ và phát triển quan hệ đầu tư). Tháng 5/1998, đoàn đàm phán hai nước đã thảo luận chi tiết về từng điều khoản cụ thể trong các dự thảo Hiệp định tại Washington D.C. Kết quả hai bên nhận thấy còn quá nhiều các điểm khác biệt giữa hai bên đòi hỏi phải tiếp tục có các vòng đàm phán tiếp theo mà chưa thể thống nhất ký Hiệp định. Tháng 1/1999, Việt Nam đã gửi cho đại diện thương mại Hoa Kỳ bản đề xuất một số vấn đề nội dung đàm phán. Tài liệu này được đánh giá có tính chất đột phá làm chuyển biến căn bản tình hình thương lượng Hiệp Định. Cuối năm 1999 sau 7 vòng đàm phán, hai nước đã ký thoả thuận về nguyên tắc của các điều khoản chủ yếu của Hiệp định thương mại song phương. Năm 2000, trong thời gian chờ hoàn tất các thủ tục pháp lý trong nước đối với Hiệp định thương mại, hai nước cũng đã đàm phán và ký kết Hiệp định hợp tác về khoa học và công nghệ Sau hai vòng đàm phán mang tính “Kỹ Thuật” để hoàn thiện nội dung chi tiết của văn bản. Việt Nam và Hoa Kỳ đã chính thức ký hiệp định thương mại song phương vào ngày 14/7/2000 tại thủ đô Washington của Hoa Kỳ, kết thúc hơn 4 năm đàm phán hết sức khó khăn, gian khổ và căng thẳng (trong quá trình đàm phán đã có giai đoạn hai nước đã rất gần tới việc ký văn bản Hiệp định song có giai đoạn việc đàm phán ký kết gần như bị “đóng băng” ). Ngày 3/10/2001, Thượng nghị viện Hoa Kỳ bỏ phiếu thông qua Hiệp định thương mại với số phiếu áp đảo 88/12 và không xem xét Đạo luật nhân quyền Việt Nam. Sau khi Hạ viện và Thượng viện thông qua, ngày 16/10/2001, Tổng thống Bush đã ký lệnh ban hành và Hiệp định được hoàn tất thủ tục pháp lý trong nước, trở thành luật áp dụng của Hoa Kỳ. Ngày 28/11/2001, tại phiên họp lần thứ 10 của mình, Quốc hội khoá X đã phê chuẩn Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ, hoàn tất thủ tục pháp lý trong nước của Việt Nam. Ngày 10/12/2001, đại diện hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ đã chính thức ký trao đổi công hàm phê chuẩn để hoàn tất thủ tục được quy định tại Điều 8 Khoản 1, Chương VII Hiệp định. Kể từ ngày 10/12/2001 thì Hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chính thức có hiệu lực pháp luật. Nhìn lại quá trình đàm phán và đưa Hiệp định thương mại vào hiệu lực có thể thấy đây là một quá trình khá gian nan và chịu nhiều ảnh hưởng của mối quan hệ nhạy cảm và đặc thù giữa hai nước cũng như tính chất phức tạp trong các vấn đề nội dung của Hiệp định. Trước hết, sự phức tạp và khó khăn ở đây là do Hiệp định thương mại này là hiệp định thương mại song phương rộng, phức tạp và đồ sộ nhất đối với cả hai nước ( quy mô và tính chất phức tạp của hiệp định này chỉ kém các hiệp định thương mại tự do mà Hoa Kỳ đã ký kết). Hoa Kỳ là cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới, một quốc gia có thế mạnh vượt trội trong nhiều lĩnh vực, trong đó có thương mại và pháp luật thương mại, do đó có thể gây ảnh hưởng tới sự phát triển thương mại và pháp luật quốc tế trong lĩnh vực này và là một trong những nước có nền kinh tế mở với khả năng cạnh tranh cao nhất thế giới. Trong khi đó, thì Việt Nam mới chỉ thực sự tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế kể từ khi có chính sách đổi mới, do đó nhiều yếu tố cần thiết, kể cả nhiều yếu tố thuộc hệ thống pháp luật, chưa hoàn toàn sẵn sàng hay có thể nói là ở vị thế không thuận lợi cho việc đàm phán và thực thi Hiệp định đồ sộ này. Bên cạnh đó, quan hệ ngoại giao Việt Nam-Hoa Kỳ mới chỉ được thiết lập từ năm 1995, tức là chỉ một năm trước khi bắt đầu đàm phán Hiệp định, sau gần 4 thập kỷ kể từ lúc Hoa Kỳ can thiệp gây ra cuộc chiến tranh Việt Nam và sau 20 năm chiến tranh lạnh kể từ sau ngày Việt Nam thống nhất năm 1975. Các yếu tố này tất yếu dẫn đến hệ quả là rất khó xây dựng được lòng tin giữa hai bên với nhau trong quá trình đàm phán cũng như khó lường trước được kết quả đàm phán nếu chỉ dựa trên các vấn đề nội dung thương mại của Hiệp Định. Các chuyên gia quốc tế nhận xét, trong Hiệp Định này Việt Nam và Hoa Kỳ theo đuổi những mục tiêu riêng của mình bên cạnh những mục tiêu chung đã nêu tại lời nói đầu của hiệp định. Kết quả đàm phán, do đó, khó có thể được phân tích đầy đủ và chính xác nếu không tính hết tất cả các yếu tố “ ngoài thương mại” tác động lên quá trình đàm phán và thực thi Hiệp định này. Tóm lại có thể nói hoàn tất đàm phán và đưa vào thực thi Hiệp định thương mại song phương này là một bước ngoặt trong quan hệ giữa hai nước, tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động thương mại, đối tác, sỡ hữu trí tuệ.. phát triển. Tuy nhiên, nhìn lại quá trình đàm phán chúng ta phải nhận thức được đây là quá trình “ trao và nhận” giống như bất kỳ đàm phán một điều ước quốc tế nào khác trong đó Việt Nam không thể chỉ có “ nhận” mà không có “ trao”. Bên cạnh đó, sự phức tạp tinh vi của các quy định Hiệp định cùng với các yếu tố “ ngoài thương mại” và sức ép của những cơ hội cũng như thách thức mà Hiệp định sẽ đem lại cho thấy bản Hiệp định thương mại giữa hai nước chưa phải là một phương án hoàn hảo đối với cả Việt Nam và Hoa Kỳ( không kể đến các lỗi kỹ thuật trong văn kiện Hiệp định, kể cả tiếng Việt và Bản tiếng Anh). Nhìn nhận một cách khách quan, có thể nói nội dung Hiệp định là những thoả hiệp, nhượng bộ lẫn nhau, có những quy định được thể hiện theo ngôn ngữ của WTO nên chỉ hiểu hết được ý nghĩa khi đi vào thực hiện...Song dung lượng và phạm vi các nội dung quy định trong Hiệp định (sẽ được trình bày ở phần sau) cho thấy Hiệp định đã được đàm phán thành công, vượt qua được nhiều vấn đề nhạy cảm khó khăn của quan hệ giữa hai nước. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để hai bên thúc đẩy thương mại song phương và là tiền đề mang tính chất đòn bẩy cho các hiệp định phát sinh, cũng như cho các cuộc đàm phán song phương giữa hai nước trong tương lai. 2. Những nội dung cơ bản của Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ đánh dấu một bước phát triển mới trong mối quan hệ kinh tế-thương mại giữa hai nước, tạo dựng tiền đề cho những bước đi sâu rộng hơn, thiết thực hơn trong quan hệ song phương Việt Nam-Hoa Kỳ. Thủ tướng Phan Văn Khải nhận định rằng:” Hiệp định thương mại Viêt-Mỹ không chỉ đảm bảo lợi ích của hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ mà còn là một đóng góp tích cực cho hoà bình, ổn định hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Việc ký kết Hiệp định là phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước Việt Nam góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, theo định hướng xã hội chủ nghĩa...”. Tổng thống Bill Clintơn cho rằng: “ Hiệp định này là một mốc lịch sử quan trọng trong quá trình bình thường hoá, hàn gắn và hoà giải trong quan hệ giữa hai nước.” Hiệp định này được đánh giá là khác biệt so với các hiệp định thương mại khác thể hiện ở bảng so sánh sau đây: Sự khác nhau của Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ và các hiệp định thương mại song phương khác mà Việt Nam đã ký kết với các nước Tiêu thức so sánh Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ Các hiệp định thương mại song phương khác 1. Cơ sở so sánh Dựa vào các tiêu chuẩn của WTO Không dựa vào các tiêu chuẩn của WTO 2. Tính khái quát của Hiệp định Vừa mang tính tổng hợp vừa mang tính chi tiết: có các chương, mỗi chương có các điều khoản và phụ lục kèm theo Mang tính chất tổng hợp cao, không có các cam kết thực hiện cụ thể. 3.Nội dung của Hiệp định Không chỉ đề cập đến thương mại hàng hoá mà còn đề cập những lĩnh vực khác như: thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ... Chỉ đề cập đến khái niệm thương mại truyền thống: thương mại hàng hoá song phương giữa các bên. 4. Lộ trình thực hiện hiệp định Có cam kết và lộ trình thực hiện cụ thể, rõ ràng. Không có lộ trình thực hiện 5. Cơ quan giám sát thi hành hiệp định Có cơ quan giám sát, đảm bảo thực hiện hiệp định Không có Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ dài khoảng 140 trang, gồm 7 chương với 72 điều và 9 phụ lục, đề cập tới 4 nội dung chủ yếu: thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ và quan hệ đầu tư. Mở đầu chương là cam kết chương trình của chính phủ hai nước mong muốn thiết lập và phát triển quan hệ kinh tế và thương mại trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, trên cơ sở tôn trọng độc lập và chủ quyền của nhau. Hai bên cũng đồng ý thực hiện các cam kết chung trên cơ sở tôn trọng độc lập và chủ quyền của nhau. Hai bên cũng đồng ý thực hiện các cam kết chung trên cơ sở những quy định chuẩn mực quốc tế và của Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO). Tuy nhiên, trong khi phía Hoa Kỳ đồng ý thực hiện ngay các điều khoản quy định trong các mục của Hiệp định, thì phía Việt Nam, do điều kiện thực tế và trình độ phát triển còn thấp, nên sẽ có một giai đoạn chuyển tiếp nhất định ( theo thoả thuận của Việt Nam và Hoa Kỳ) để thực hiện các cam kết trong Hiệp định. Điều này giúp Việt Nam có thời gian để làm quen với các chuẩn mực quốc tế, dần dần hoà nhập với nền kinh tế thế giới, và đáp ứng những yêu cầu đặt ra trong hiệp định. Ví dụ, về thương mại hàng hoá, đối với việc cắt giảm thuế quan, trong khi phía Hoa Kỳ cam kết thực hiện ngay những mức cắt giảm thuế quan theo quy định của WTO, thì phía Việt Nam có thể thực hiện việc cắt giảm thuế quan dần dần từ 3- 5 năm. Tương tự như vậy, đối với các cam kết về thương mại dịch vụ, chẳng hạn là dịch vụ ngân hàng, phía Hoa Kỳ cam kết cho phép Việt Nam ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực, trong khi đó, các ngân hàng Hoa Kỳ chỉ được phép thành lập ngân hàng chi nhánh 100% vốn Hoa Kỳ sau 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Với 7 chương, gồm 72 điều và 9 phụ lục, Hiệp định được kết cấu như sau: Chương I về thương mại hàng hoá, gồm 9 điều khoản và 5 Phụ lục A, B, C, D, E quy định về những vấn đề sau: Quy chế tối huệ quốc và không phân biệt đối xử, Đối xử quốc gia, Những nghĩa vụ chung về thương mại, Mở rộng và thúc đẩy thương mại, Văn phòng thương mại chính phủ, hành động khẩn cấp đối với hàng nhập khẩu, tranh chấp khẩn cấp đối với hàng nhập khẩu, tranh chấp thương mại, thương mại Nhà nước. Các định nghĩa về “công ty”, “ doanh nghiệp”, “công dân”, “tranh chấp”, “ thương mại”, “quyền kinh doanh”. Do khuôn khổ có hạn của khoá luận, Người viết sẽ đi sâu phân tích và trình bày một số nội dung cơ bản, quan trọng của chương Thương mại Hàng hoá (Chương I). Những quy định về thương mại hàng hoá trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ A. Quy chế đối xử tối huệ quốc (Quy chế MFN) Quy chế tối huệ quốc- MFN( Most Favoured Nation) được xem là viên đá tảng trong hiệp định Thương mại Việt-Mỹ . Điều 1, Chương I của Hiệp định này quy định nội dung cụ thể của quy chế tối huệ quốc, đó là: "Mỗi bên giành ngay lập tức và vô điều kiện cho hàng hoá có xuất xứ tại hoặc được xuất khẩu từ lãnh thổ của Bên kia sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử giành cho hàng hoá tương tự có xuất xứ tại hoặc được xuất khẩu từ lãnh thổ của bất cứ nước thứ ba nào khác trong tất cả các vấn đề có liên quan tới: Mọi loại thuế quan và phí đánh vào hoặc liên quan đến việc nhập khẩu và xuất khẩu, bao gồm cả các phương pháp tính các loại thuế quan và phí đó: Phương thức thanh toán đối với hàng nhập khẩu hoặc xuất khẩu, và việc chuyển tiền quốc tế của các khoản thanh toán đó. Những quy định và thủ tục liên quan đến xuất nhập khẩu, kể cả những quy định về hoàn tất thủ tục hải quan, quá cảnh, lưu kho và chuyển tải. Mọi loại thuế và phí khác trong nước đánh trực tiếp hoặc gián tiếp vào hàng nhập khẩu. Luật, quy định và các yêu cầu khác có ảnh hưởng đến việc bán, chào bán, mua, vận tải, phân phối, lưu kho và sử dụng hàng hoá trong thị trường nội địa và Việc áp dụng các hạn chế định lượng và cấp giấy phép. Trong thực tiễn, quy chế Tối huệ quốc được các nước trên thế giới áp dụng rất khác nhau tuỳ theo mục đích kinh tế hoặc chính trị của mình: Quy chế Tối huệ quốc đa phương hoặc quy chế Tối huệ quốc song phương và cũng có thể là quy chế Tối huệ quốc không hạn chế và có hạn chế. Tuy nhiên, quy chế Tối huệ quốc được quy định trong Hiệp định Thương Mại Việt-Mỹ là quy chế Tối huệ quốc song phương, có điều kiện và có hạn chế về mặt thời gian. Có nghĩa là, đây là quy chế Tối huệ quốc Việt Nam và Hoa Kỳ giành cho nhau trên cơ sở có đi có lại, khi hai bên đã ký kết một hiệp định thương mại song phương, nhưng chỉ có hiệu lực trong ba năm (có thể được gia hạn tiếp tục ba năm một) và Hoa Kỳ sẽ xem xét lại quyền kinh doanh với Việt Nam hàng năm. Ngoài ra, các Khoản 2,3,4 của Điều 1 Chương Thương Mại Hàng hoá cũng quy định những ngoại lệ của chế độ Tối huệ quốc, đó là các trường hợp sau: - Quy chế Tối huệ quốc không được áp dụng đối với hành động của mỗi bên (Việt Nam và Hoa Kỳ) phù hợp với nghĩa vụ của bên đó trong Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các hiệp định trong khuôn khổ của tổ chức này, nhưng vẫn được áp dụng với các sản phẩm có xuất xứ tại lãnh thổ bên kia trong việc giảm thuế do các đàm phán đa phương dưới sự bảo trợ của WTO mang lại, với điều kiện là bên đó cũng giành lợi ích đó trong tất cả các thành viên WTO. - Các thoả thuận trong khu vực mậu dịch tự do hoặc ưu đãi trong liên minh thuế quan là một ngoại lệ quan trọng của quy chế MFN, theo đó các thành viên đầy đủ của thoả thuận khu vực hoặc liên minh thuế quan giành cho nhau hưởng mức thuế thấp hơn hoặc miễn thuế cho nhau mà không cần phải giành những ưu đãi này cho những nước khác không phải là thành viên của thoả thuận đó. Ví dụ, Hoa Kỳ không được hưởng những ưu đãi của Việt Nam giành cho các nước tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và tương tự, Việt Nam cũng không được hưởng những ưu đãi Hoa Kỳ giành cho các nước trong Khu vực mậu dịch tự do Bắc Hoa Kỳ (NAFTA) - Mậu dịch biên giới: Một số nước có biên giới chung thường cho phép cư dân vùng biên giới tiến hành mậu dịch tiểu ngạch ở khu vực biên giới, do đó thuế và thủ tục hải quan thường được miễn giảm. Theo quy định của Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ, những quyền lợi và ưu đãi mà một bên giành cho mậu dịch biên giới không áp dụng chế độ Tối huệ quốc. - Hai bên sẽ giành cho nhau đối xử tối huệ quốc liên quan đến việc áp dụng các hạn chế định lượng và cấp giấy phép đối với thương mại hàng hoá và sản phẩm dệt. B. Nguyên tắc đối xử quốc gia Quy chế Tối huệ quốc như đã đề cập đến ở trên yêu cầu mỗi bên trong hiệp định không được phân biệt đối xử đối với cùng một loại sản phẩm giữa bên kia và các nước xuất khẩu khác. Bổ sung cho quy chế này, nguyên tắc Đối xử quốc gia trong Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ quy định: " Mỗi bên đều giành những biện pháp thuế quan hoặc phi thuế quan có ảnh hưởng tới thương mại để tạo cho hàng hoá của bên kia những cơ hội cạnh tranh có ý nghĩa đối với các nhà cạnh tranh trong nước" Nói một cách cụ thể thì nguyên tắc này của Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ yêu cầu mỗi bên trong hiệp định không được phân biệt đối xử giữa hàng sản xuất trong nước với hàng nhập khẩu cùng loại của bên kia về các vấn đề như thuế hoặc phí nội địa, các luật lệ, quy định và các yêu cầu khác có ảnh hưởng tới việc bán và sử dụng hàng hoá nói chung, chẳng hạn như không được đánh thuế trực thu hay thuế gián thu và các phụ phí khác vào các sản phẩm nhập khẩu ở mức cao hơn các sản phẩm cùng loại trong nước mình. Các sản phẩm nhập khẩu cũng được hưởng cùng một mức ưu đãi như các sản phẩm trong nước về các khâu tiêu thụ, vận tải, phân phối, lưu kho và sử dụng. Đồng thời, nguyên tắc này cũng yêu cầu các bên không áp dụng các biện pháp điều hành thuế quan và phi thuế quan trên theo cách khác đối với hàng nhập khẩu hoặc hàng hoá trong nước nhằm tạo ra sự bảo hộ đối với sản xuất trong nước. Tuy nhiên, giống như quy chế MFN, nguyên tắc đối xử quốc gia trong Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ cũng có những ngoại lệ: Không áp dụng NT đối với các sản phẩm do các cơ quan chính phủ mua, chế độ NT không ngăn cản việc trợ cấp đặc biệt cho người sản xuất nội địa, gồm cả khoản trợ cấp trích từ thuế thu nhập trong nước và trợ cấp cho người sản xuất sản phẩm trong nước nhằm đáp ứng cho việc mua sắm của Chính phủ. Đồng thời, thuế quan và các biện pháp mậu dịch biên giới và những ngoại lệ được quy định tại Phụ lục A của Hiệp định này cũng nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của NT. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu của mỗi bên, nguyên tắc đối xử quốc gia đảm bảo cho hàng hoá của họ không gặp phải những khó khăn bất lợi khi được xuất khẩu sang nước bên kia. Trong điều kiện các chính phủ ngày càng quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường, sức khoẻ, sự an toàn của người dân thì một nguyên tắc cho phép việc áp dụng các loại quy định về tiêu chuẩn trên cơ sở không phân biệt đối xử giữa sản phẩm nhập khẩu và sản phẩm nội địa là điều có ý nghĩa sống còn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Cụ thể Khoản 6 của Điều 2, Chương 1 trong Hiệp định này đã quy định như sau: "Phù hợp với các quy định của GATT 1994, các bên đảm bảo không soạn thảo, ban hành hoặc áp dụng những quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật nhằm tạo ra sự trở ngại đối với thương mại quốc tế hoặc bảo hộ sản xuất trong nước. Ngoài ra, mỗi bên giành cho hàng nhập khẩu từ lãnh thổ của bên kia sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đôí xử tốt nhất cho hàng hoá nội địa tương tự hoặc hàng tương tự có xuất xứ từ bất cứ nước thứ ba có liên quan đến những quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật nêu trên, kể cả việc kiểm tra và chứng nhận đạt tiêu chuẩn. Theo đó, các bên: Bảo đảm rằng, mọi biện pháp vệ sinh hoặc vệ sinh thực phẩm không trái với những quy định của GATT 1994 chỉ được áp dụng ở mức cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức khỏe của con người, động vật và không được duy trì nếu không có bằng chứng đầy đủ( cụ thể như đánh giá mức độ rủi ro), có tính đến những thông tin khoa học sẵn có và điều kiện khu vực có liên quan, chẳng hạn như những vùng không có côn trùng gây hại: Đảm bảo rằng, những quy định về kỹ thuật không được soạn thảo, ban hành hoặc áp dụng nhằm tạo ra hoặc có tác dụng tạo ra những trở ngại không cần thiết đối với thương mại quốc tế. Vì mục tiêu này những quy định về kỹ thuật không mang tính chất hạn chế thương mại cao hơn mức cần thiết để hoàn thành một mục tiêu chính đáng có tính đến rủi ro mà việc không thi hành có thể gây ra. Những mục tiêu chính đáng như vậy bao gồm những yêu cầu về an ninh quốc gia: ngăn ngừa những hành vi lừa đảo; bảo vệ sức khoẻ và an toàn cho con người; đời sống và sức khoẻ động thực vật và môi trường. Trong việc đánh giá những rủi ro như vậy, các yếu tố liên quan để xem xét là những thông tin khoa học và công nghệ sẵn có, công nghệ chế biến có liên quan hoặc các ý định sử dụng cuối cùng của sản phẩm." Quyền kinh doanh của các doanh ng._.đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, còn kinh tế ngoài quốc doanh thì hoạt động theo Luật doanh nghiệp (Trước 1/1/2000 là Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân). Mỗi đạo luật nói trên đều có những mục tiêu khác nhau, có mục đích ưu đãi khác nhau đối với đối tượng được điều chỉnh. Một ví dụ điển hình là các doanh nghiệp tư nhân trong thực tế chưa được đối xử bình đẳng như các doanh nghiệp Nhà nước trong việc vay vốn tín dụng của ngân hàng. Các doanh nghiệp tư nhân thường phải chịu lãi suất cao hơn đối với tín dụng thương mại và gặp nhiều khó khăn hơn trong việc dùng đất đai và tài sản cố định làm thế chấp vay vốn ngân hàng. + Ban hành Luật cạnh tranh và chống độc quyền Thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh thương mại của Việt Nam hiện nay đòi hỏi phải có Luật cạnh tranh và chống độc quyền nhằm tạo ra một “sân chơi” bình đẳng cho các doanh nghiệp, chống khuynh hướng độc quyền hoặc lạm dụng vị thế trên thị trường để có lợi nhuận siêu nghạch. Nghị quyết Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã ghi: “ Cơ chế thị trường đòi hỏi phải hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh. Cạnh tranh vì lợi ích phát triển đất nước, chứ không phải làm phá sản hàng loạt, lãng phí nguồn lực, thôn tính lẫn nhau”. Ban hành Luật cạnh tranh và chống độc quyền là phù hợp với xu thế hội nhập chung của khu vực và toàn cầu. Hầu hết các nước phát triển trên thế giới đều đã có luật này và hiện có khoảng 40 nước đang phát triển cũng đang tiến hành xây dựng luật này. + Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu theo hướng hiệu quả hơn ổn định hệ thống thuế xuất nhập khẩu. Hiện nay, một trong những trở ngại trong kinh doanh của các doanh nghiệp là thuế suất đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu liên tục thay đổi. Với khung thuế rộng, quyền hạn thay đổi thuế suất của ngành hành pháp lớn nên thuế suất hay thay đổi, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong tính toán hiệu quả kinh doanh. Miễn giảm thuế xuất khẩu: Chính sách thuế cần được điều chỉnh theo hướng miễn giảm đối với các sản phẩm xuất khẩu, chỉ đánh thuế với những sản phẩm không khuyến khích xuất khẩu hoặc đánh phụ thu khi có lợi nhuận cao. Đặc biệt , đối với hàng khuyến khích xuất khẩu thì nên miễn hoàn toàn. Mặt khác, cần có chính sách thuế phù hợp để bảo hộ sản xuất nông nghiệp khi diễn biến trên thị trường thế giới có tác động tiêu cực đến người sản xuất nông nghiệp. Tăng cường hoạt động của Quỹ hỗ trợ xuất khẩu và khuyến khích các hiệp hội ngành hàng tự thành lập các quỹ phòng ngừa rủi ro: Vừa qua chính phủ cho phép hình thành một quỹ tại Bộ Tài chính có tên gọi là là Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nhưng phưong thức hoạt động lại thiên về trợ cấp, hoàn toàn không phù hợp với Điều 10 của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (Sửa đổi). Nên chăng, chúng ta hãy chuyển hướng sử dụng của Quỹ nêu trên vào việc hỗ trợ các doanh nghiệp có tiềm năng xuất khẩu hàng hoá nhưng không có điều kiện tiếp cận vốn ngân hàng do không có tài sản thế chấp. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu có thể đứng ra bảo lãnh các khoản vay hoặc cung cấp các khoản tín dụng để doanh nghiệp có thể bán hàng trả chậm cho nước ngoài...Quỹ hỗ trợ xuất khẩu phải hoạt động theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn như các tổ chức tín dụng khác, cùng chia sẽ thành công với doanh nghiệp và rủi ro với ngân hàng. Ngoài Quỹ hỗ trợ xuất khẩu ra các hiệp hội nghành hàng nên tự lập các quỹ phòng ngừa rủi ro riêng cho ngành hàng của mình, nhất là trong những nghành quan trọng, có khối lượng xuất khẩu lớn. 1.2. Phổ cập hệ thống pháp luật thương mại của Hoa Kỳ cho các doanh nghiệp Như đã phân tích ở phần trên để có thể xâm nhập thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tìm hiểu rất nhiều luật và quy định về thương mại của Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp phải nắm được những quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán giữa mình và các thương nhân Hoa Kỳ trong Luật Thương mại của Hoa Kỳ cùng những điểm khác biệt so với Luật Thương mại Việt Nam. Mặt khác, luật và các quy định về thuế và hải quan của Hoa Kỳ như Danh bạ thuế thống nhất. Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập, cơ sở tính thuế hải quan hay những quy định về xuất xứ hàng hóa...có tác động trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không thể thành công trên thị trường nếu không nghiên cứu hệ thống hàng rào phi thuế quan với những quy định chi tiết về danh mục hàng hoá hạn chế nhập khẩu, cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, những quy định về vệ sinh dịch tễ đối với hàng hoá nhập khẩu...hay Luật chống phá giá, Luật bù thuế của Hoa Kỳ. Với một hệ thống những luật và quy định phức tạp như vậy và một thực tế rằng đối với các bang khác nhau ở Hoa Kỳ nhiều luật hay quy định lại khác nhau, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc nghiên cứu và rất cần sự giúp đỡ từ phía Nhà nước. Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực này, Nhà nước cần tổ chức các khoá đào tạo, các lớp tập huấn hay hội nghị, hội thảo về hệ thống pháp luật thương mại của Hoa Kỳ nhằm nâng cao hiểu biết của các doanh nghiệp về khía cạnh pháp lý trong kinh doanh với Hoa Kỳ. Đồng thời, Nhà nước cần khuyến khích các cơ quan, Bộ, nghành liên quan và các cá nhân xuất bản và lưu hành những ấn phẩm hay băng đĩa về vấn đề này dưới dạng sách hay những bài viết trên báo, tạp chí hay đĩa hình...nhằm tạo ra nguồn thông tin phong phú và chính xác cho các doanh nghiệp tham khảo. Mặt khác, Nhà nước cũng có thể hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua việc cung cấp một số địa chỉ tư vấn pháp luật đáng tin cậy cho các doanh nghiệp. 1.3. Hỗ trợ các doanh nghiệp về thông tin thị trường và các hoạt động xúc tiến thương mại Hoa Kỳ là thị trường hoàn toàn mới đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp hiện đang gặp khó nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu thông tin về thị trường Hoa Kỳ cũng như thực hiện các hoạt động xúc tiến bán sản phẩm. Vì vậy, Nhà nước cần có sự hỗ trợ các doanh nghiệp về vấn đề này. Thông qua thương vụ của Việt Nam tại Hoa Kỳ, Bộ Thương mại phải thu thập và phổ biến thông tin về thị trường Hoa Kỳ cho các doanh nghiệp. Đồng thời, với những thông tin về thị trường như nhu cầu, đặc điểm, tính chất...của hàng hoá, Bộ thương mại và thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ cần xây dựng một chiến lược tổng thể về thị trường để giúp các doanh nghiệp trong việc định hướng sản xuất và xây dựng chiến lược xuất khẩu cho riêng mình. Các doanh nghiệp sẽ biết được mặt hàng nào nên sản xuất và với chất lượng ra sao, với mức giá là bao nhiêu, đối thủ cạnh tranh trên thị trường cũng như phương thức cạnh tranh của các đối thủ... Về công tác xúc tiến bán sản phẩm, Nhà nước cần nhanh chóng thành lập Cục xúc tiến thương mại để hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực thông tin và tiếp thị. Chức năng của Cục xúc tiến thương mại là phổ biến thông tin và tổ chức, xúc tiến các hoạt động thương mại. Trên cơ sở chiến lược thâm nhập thị trường đã được hoạch định, Cục xúc tiến có nhiệm vụ xây dựng lộ trình hành động cụ thể để giúp các doanh nghiệp đưa hàng hoá Việt Nam ra thị trường nước ngoài. 2. Nhóm giải pháp vi mô 2.1. áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trên thế giới Sau khi đã nắm vững được các thông tin về thị trường Hoa Kỳ các doanh nghiệp phải chủ động cải tiến sản phẩm cũng như dây chuyền sản xuất để có thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu cũng như những quy định hết sức khắt khe do Hoa Kỳ quy định.Trước mắt để có thể xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ thành công, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải áp dụng một trong những mô hình hệ thống đảm bảo chất lượng như : +ISO 9000: Đây là hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế trong doanh nghiệp. Tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000 đề cập đến các yếu tố chính sách trong quản lý chất lượng như chính sách chỉ đạo về chất lượng, nghiên cứu thị trường, thiết kế triển khai sản phẩm, quá trình cung ứng, bao gói, phân phối, xem xét đánh giá nội bộ, dịch vụ sau khi bán hàng, kiểm soát tài liệu, đào tạo. + ISO 9001: áp dụng khi doanh nghiệp muốn đảm bảo chất lượng trong sản phẩm, lắp đặt và dịch vụ kỹ thuật( phổ biến vì nó không bao gồm khâu thiết kế) + ISO 9003: áp dụng khi doanh nghiệp muốn bảo đảm chất lượng trong kiểm tra và thử nghiệm cuối cùng giành cho doanh nghiệp làm ra sản phẩm, chủ yếu dùng quy trình kiểm tra chất lượng sản phẩm để đảm bảo sản phẩm hay dịch vụ đạt đúng yêu cầu đề ra. Hệ thống trên có giá trị như thước đo chung có giá trị quốc tế về quản lý chất lượng. Ngoài ra, trong lĩnh vực chế biến thực phẩm cần hết sức lưu ý đến hệ thống HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point- Phân tích nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu). Hệ thống này tập chung vào vấn đề vệ sinh và đưa ra một cách tiếp cận có hệ thống để phòng ngừa và giảm thiểu nguy cơ. Theo luật pháp Hoa Kỳ hệ thống này có tính chất bắt buộc đối với các công ty thực phẩm hoạt động trong lãnh thổ nước Hoa Kỳ. Do đó, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nếu muốn thâm nhập thị trường Hoa Kỳ thì không còn cách nào khác là phải ứng dụng hệ thống HACCP trong sản xuất và thuyết phục các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ (bằng chứng chỉ hoặc bằng báo cáo kiểm tra) rằng mình đã tuân thủ đúng các nguyên tắc của hệ thống HACCP. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần áp dụng công nghệ mã số, mã vạch vào hoạt động của mình. áp dụng công nghệ này sẽ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất, dịch vụ thương mại có thể quản lý sản xuất, kinh doanh một cách khoa học, thuận tiện, nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm trong khâu phân phối, lưu thông hàng hoá, kiểm kê, kiểm soát và thanh toán, góp phần bảo hộ bản quyền của hàng hoá một cách tích cực, chống sự làm giả, làm nhái... 2.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam Để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu, các doanh nghiệp cần phải quan tâm đầu tư vào một số lĩnh vực sau: - Ngoài nguồn vốn đầu tư trong nước, các doanh nghiệp cần phải thu hút và tận dụng tối đa các nguồn đầu tư nước ngoài dưới hình thức vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hoặc là vốn việc trợ chính thức (ODA) vào việc sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là các nghành sản xuất sử dụng công nghệ cao nhằm tạo những sản phẩm có chất lượng tốt và đồng đều, có sức cạnh tranh trên thị trường. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần phải cố gắng không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như nỗ lực nâng cao khả năng cạnh tranh về giá cả của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam, các doanh nghiệp cần tận dụng đến mức tối đa các nguyên phụ liệu sản xuất trong nước nhằm hạn chế chi phí đến mức thấp nhất có thể. Trong tương lai, cơ cấu hàng xuất khẩu cũng cần được cải thiện nếu doanh nghiệp muốn nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp nên giảm xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến ngày càng sâu và tinh trong cơ cấu hàng xuất khẩu nhằm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá, đồng thời làm gia tăng giá trị hàng xuất khẩu và đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu. 2.3. Chủ động tiếp cận công nghệ thông qua việc tích cực sử dụng có hiệu quả hơn hệ thống internet Thương mại điện tử tuy mới xuất hiện nhưng đang phát triển rất nhanh và có tiềm năng cũng rất lớn. Thương mại điện tử có nhiều điểm ưu việt và thực sự là một công cụ mới cho chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu của doanh nghiệp. Trước hết, người bán và người mua được nối trực tiếp với nhau, không hạn chế về không gian và thời gian, cho nên các doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu quả của quá trình nghiên cứu thị trường. Nhờ có thương mại điện tử mà các doanh nghiệp xuất khẩu có thể lập các Web-site riêng của mình trên mạng, do đó có thể giảm được chi phí quảng cáo, chi phí vận chuyển đặc biệt là đối với hàng hoá là các ấn phẩm điện tử, giảm các loại chi phí khác như chi phí giao dịch...Mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam phải có thời gian dài mới có thể tham gia xuất khẩu hàng hoá trên Internet, nhưng các doanh nghiệp Việt Nam phải nhận thức được xu thế của phương thức kinh doanh hiện đại này và chuẩn bị đầy đủ về vốn, ngoại ngữ cũng như các yếu tố kỹ thuật công nghệ thông tin...để sẵn sàng hoà nhập khi có thể. 3. Nhóm giải pháp đối với một số mặt hàng cụ thể 3.1.Thuỷ sản Thứ nhất cần phải tăng cường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý việc đánh bắt cá xa bờ và nuôi trồng thuỷ sản để một mặt đảm bảo dù nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu, mặt khác đa dạng hoá chủng loại sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ (Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu hiện nay là tôm và mực sơ chế) Trước tình hình nguồn tài nguyên ven bờ đã cạn kiệt do khai thác quá công suất trong thời gian qua thì việc tăng sản lượng khai thác đánh bắt xa bờ là một biện pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề nguyên liệu cho chế biến thuỷ sản xuất khẩu, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để lựa chọn những loại thuỷ sản mới đưa vào xuất khẩu. Bên cạnh việc đánh bắt xa bờ, một lợi thế so sánh khác của Việt Nam để tham gia thương mại quốc tế thời gian tới là đẩy mạnh nuôi trồng thuỷ sản. Tôm sú và tôm càng xanh là những giá trị có giá trị xuất khẩu cao và được người tiêu dùng Hoa Kỳ rất ưa chuộng. Tuy nhiên, để có thể giải quyết được những vấn đề liên quan đến vốn, diện tích, kỹ thuật nuôi trồng như giống, thức ăn và những ràng buộc về môi trường sinh thái..ngành thuỷ sản chắc chắn rất cần sự trợ giúp của Nhà nước và cộng đồng quốc tế. Thứ hai, giá thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ nhìn chung là vẫn thấp, chỉ bằng 70% mức giá cùng loại của Thái Lan và Indonesia nhưng vẫn không cạnh tranh được với hàng từ các nước xuất khẩu khác. Sỡ dĩ như vậy là do kỹ thuật chế biến hàng thuỷ sản Việt Nam còn hạn chế. Để khắc phục điểm bất lợi này, cần phải tăng cường hợp tác kinh tế-kỹ thuật với nước ngoài trong việc chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu. Việc gia nhập Hiệp hội Nghề cá các nước Đông Nam á cũng như gia nhập các tổ chức khu vực và thế giới AFTA, APEC...sẽ mở ra cho Việt Nam những cơ hội vô cùng to lớn để tranh thủ nguồn vốn đầu tư, đổi mới công nghệ đánh bắt, chế biến và nuôi trồng thuỷ sản, cũng như học hỏi những kinh nghiệm trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật của các nước như Thái Lan, Indonesia, Philippines...là những nước chế biến thuỷ sản khá tiên tiến và có sản phẩm thuỷ sản đạt tiêu chuẩn quốc tế. Thứ ba, song song với việc phấn đấu giảm giá thành để có ưu thế trong cạnh tranh quốc tế thì vấn đề đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh hàng thực phẩm có tầm quan trọng sống còn đối với hoạt động xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam nói chung, hoạt động xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ nói riêng. Tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point - Phân tích các nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu) là yêu cầu bắt buộc đối với hàng thuỷ sản Việt Nam khi xuất sang thị trường Hoa Kỳ. Để chiếm lĩnh thị trường Hoa Kỳ, thì không còn cách nào khác ngoài việc các doanh nghiệp sản xuất chế biến thuỷ sản Việt Nam phải tranh thủ sự trợ giúp về kỹ thuật, tài chính của Nhà nước và quốc tế để đạt tiêu chuẩn HACCP. Cuối cùng, do thuỷ sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chiến lược sang thị trường Hoa Kỳ cho nên để giúp các doanh nghiệp sản xuất và chế biến thuỷ sản đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường Hoa Kỳ đề nghị Nhà nước tăng cường các biện pháp khuyến khích xuất khẩu thuỷ sản. Chẳng hạn, có chính sách hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật cho các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực này thông qua hình thức như tài trợ xuất khẩu thuỷ sản và thành lập quỹ hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu thuỷ sản... 3.2. Dệt May Theo Luật Nhãn hiệu sản phẩm len năm 1993 đối với tất cả các sản phẩm có chứa sợi len nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ và theo Luật Nhãn hiệu sản phẩm lông, da thú, thì tất cả các sản phẩm nhập khẩu có giá thành hay giá bán từ 7 USD trở lên phải ghi nhãn, mác và nước xuất xứ. Do đó tất cả hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đều phải được ghi nhãn, nêu rõ tên nhà sản xuất và nước chế tạo, gia công sản phẩm. Do đó các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần đặc biệt quan tâm đến thương hiệu cũng như nhãn mác của sản phẩm. Hơn nữa, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần đặc biệt lưu ý đến tập quán thương mại của Hoa Kỳ là thường yêu cầu mua hàng FOB tức là mua thẳng hàng thành phẩm và như vậy doanh nghiệp phải đảm nhiệm từ công đoạn tổ chức nguồn nguyên liệu, sản xuất cho tới bao bì, đóng gói giao cho khách hàng. Trong thực tế , nghành may mặc Việt Nam lại chủ yếu kinh doanh theo phương thức gia công xuất khẩu vì một mặt, các doanh nghiệp Việt Nam chưa tự đáp ứng được nguyên liệu chất lượng cao, thiết kế mẫu hàng phục vụ nhu cầu sản xuất hàng xuất khẩu, mặt khác, kinh doanh theo phương thức gia công xuất khẩu ít rủi ro hơn. Vì vậy, muốn tăng cường xuất khẩu mặt hàng may mặc sang thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng khắc phục các trở ngại và xuất khẩu hàng may mặc sang Hoa Kỳ theo phương thức bán FOB. Muốn vậy, ngành may mặc Việt Nam cần phải tăng tốc đầu tư sản xuất nguyên liệu mới, phụ liệu may mặc đầy đủ chất lượng làm hàng xuất khẩu như nguyên liệu sản xuất hàng côtông, hoặc pha côtông...mà người tiêu dùng Hoa Kỳ rất ưa chuộng. Đồng thời, một số lượng lớn vốn cần được đầu tư vào trang thiết bị, máy móc sản xuất cũng như kỹ thuật thiết kế mẫu quần áo trên máy tính (cho sự chuẩn xác và đạt yêu cầu cao về mặt kỹ thuật) Ngoài ra, đơn hàng nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ thường có giá trị lớn nên doanh nghiệp phải có lượng hàng lớn để kịp thời cung ứng. Số lượng hàng lớn mà thời gian cung ứng lại gắn nên bản thân từng doanh nghiệp Việt Nam hiện nay khó lòng đảm đương nổi. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải sớm xem xét khả năng hợp tác với nhau, cùng đầu tư trang thiết bị chuyên dùng một cách đồng bộ để có thể sản xuất những lô hàng có tiêu chuẩn giống nhau nhằm thực hiện đơn hàng lớn từ nước bạn. Đồng thời, Hiệp hội Dệt May Việt Nam cần tăng cường hoạt động hơn nữa, từng bước góp phần khắc phục những điểm yếu hiện nay của ngành dệt may. Mặt khác, là đại diện cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, Hiệp hội cần tích cực tham gia hoạt động với các tổ chức quốc tế và khu vực liên quan đến lĩnh vực dệt may như Hiệp hội Dệt May ASEAN, diễn đàn ngành Dệt may vùng Châu á Thái Bình Dương...để trao đổi thông tin và truyền đạt những kiến nghị của ngành dệt may trong quá trình kinh doanh xuất khẩu nói chung và xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ nói riêng. Nhiệm vụ của nghành dệt may Việt Nam là rất nặng nề trong nỗ lực đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ. Phải cố gắng xâm nhập thị trường Hoa Kỳ càng nhanh càng tốt ngay trong một vài năm sau khi Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực mặc dù con đường còn nhiều “ chông gai”. Sỡ dĩ như vậy là do Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ có một hiệp định về hàng dệt may, trong đó hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam sẽ được xác định trên cơ sở thực tế xuất khẩu hàng dệt may trong một hoặc hai năm đầu sau khi Hiệp định có hiệu lực. Điều này sẽ ảnh hưởng đến tương lai xuất khẩu lâu dài của ngành dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. 3.3. Hàng nông sản Tuy nghành nông sản đã có một số mặt hàng được thị trường Hoa Kỳ chấp nhận song hiện nay vẫn còn nhiều lợi thế chưa được khai thác và phát huy tương xứng với tiềm năng. Nhiều loại sản phẩm nông nghiệp chưa được khai thác đưa vào xuất khẩu như nhóm hàng hạt có dầu, các sản phẩm thịt gia cầm, một số loại hoa quả nhiệt đới (chuối, quả có mùi..). Những sản phẩm đã được khai thác xuất khẩu như cà phê, cao su, chè và gia vị thì hầu hết là ở dạng thô (chiếm tới 70-80%), do đó không có lợi thế trong cạnh tranh. Nguyên nhân chính của tình trạng trên là: Cơ sở hạ tầng yếu, thiếu tính đồng bộ của các yếu tố sản xuất (điện, nước, vốn, kỹ thuật...) tại các vùng tập trung chuyên canh sản xuất hàng nông sản. Công nghệ sau thu hoạch còn rất nhiều bất cập, máy móc thiết bị sản xuất còn sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu chế biến tiêu hao nhiều nguyên liệu nhưng chất lượng còn thấp. Tổ chức hệ thống kinh doanh xuất khẩu còn yếu kém, không hiệu quả, lưu thông chồng chéo, tranh mua, tranh bán, gây tổn hại đến lợi ích chung trong kinh doanh xuất khẩu cũng như lợi ích người sản xuất. Để tăng cường khả năng xuất khẩu của ngành nông sản sang thị trường Hoa Kỳ, cần phải thực hiện những biện pháp sau: Đầu tư vốn và kỹ thuật để phát triển và mở rộng nguồn hàng nông sản xuất khẩu: mục tiêu chủ yếu là nhằm khai thác hết tiềm năng của sản xuất nông nghiệp Việt Nam và tạo ra các cơ sở nguồn hàng nông sản xuất khẩu không chỉ có quy mô lớn mà còn phong phú về chủng loại sản phẩm. Tăng cường năng lực chế biến để nâng cao giá trị hàng xuất khẩu song song với việc tăng cường vốn đầu tư để nâng cấp máy móc thiết bị với khoa học công nghệ tiên tiến. Trong giải pháp này cần chú ý tới việc xây dựng một chương trình đồng bộ cho các sản phẩm có ưu thế xuất khẩu. Đồng thời cần tổ chức một ban chỉ đạo thống nhất nhằm mục đích liên kết các ngành sản xuất và cơ quan chức năng cùng phối hợp hành động xuyên suốt quá trình sản xuất-thu mua-chế biến-xuất khẩu các sản phẩm nông sản. 3.4. Giày dép Hiện nay phần lớn sản phẩm xuất khẩu hiện nay là hàng gia công xuất khẩu, làm theo mẫu mã đặt hàng, nên doanh nghiệp Việt Nam chưa phải lo cạnh tranh trực tiếp trên thị trường xuất khẩu về thiết kế, mẫu mã. Tuy nhiên, các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ lại thường mua theo phương thức FOB (nhập thẳng hàng thành phẩm) hơn. Hơn nữa, về lâu dài, muốn thoát khỏi tình trạng “ làm thuê”, tự chủ sản xuất, tiêu thụ và xác lập nhãn hiệu riêng cho sản phẩm của mình, thì ngành giày da Việt Nam cần sớm đầu tư nâng cao năng lực thiết kế mẫu mốt sản phẩm. Muốn làm được như vậy, phải xây dựng trung tâm nghiên cứu mẫu mốt, chuyên ngành giày dép với trang thiết bị tiên tiến, đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ. Đồng thời, tăng cường công tác nghiên cứu thị trường, nắm bắt nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường Hoa Kỳ, cũng như học tập kinh nghiệm của các nước sản xuất giày dép trên thế giới như Thái Lan: khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các chủ sở hữu những nhãn mác quốc tế nỗi tiếng đầu tư vào các doanh nghiệp giày da trong nước, mời chuyên gia thời trang quốc tế đến tư vấn về mẫu mốt thời trang. Ngoài ra, cũng như hàng dệp may, một khó khăn lớn trong sản xuất giầy dép xuất khẩu của Việt Nam hiện nay là sự kém linh hoạt trong sản xuất do phải nhập một số lượng lớn và ngày càng tăng các nguyên phụ liệu từ bên ngoài, ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực xuất khẩu giày dép sang Hoa Kỳ của các doanh nghiệp. Vì vậy, một trong những vấn đề quan trọng là phải phát triển nguyên vật liệu, dụng cụ, phụ tùng nội địa phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu. Mặt khác, tăng tỷ lệ vật liệu nội địa trong sản phẩm còn là điều kiện bắt buộc để được hưởng Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập GSP, cho nên để được hưởng chế độ này của Hoa Kỳ ngành giày dép Việt Nam không còn hướng đi nào khác. Cụ thể ngành giày dép cần phải kết hợp những ngành công nghiệp có liên quan hoặc thiết lập các xưởng công nghiệp nhỏ để đáp ứng đủ nguyên liệu, phụ tùng đa dạng cho sản xuất như ngành hoá chất dẻo, dệt may, hoá dầu để đáp ứng nguyên liệu cho mũi giày hay lập các xưởng cơ khí nhỏ để sản xuất khuôn mẫu, phụ tùng và phụ liệu bằng kim loại. Cần phải xây dựng chương trình và thiết lập thị trường nguyên, phụ liệu tại chỗ phong phú và đa dạng, có chất lượng cao để cung cấp đồng bộ và ổn định cho sản xuất. Kết luận Trong thế giới ngày nay, không một quốc gia nào có thể tách rời khỏi quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ. Trong chính sách thương mại của Hoa Kỳ, một siêu cường kinh tế, khái niệm Quy chế Tối huệ quốc(MFN) trước đây đã được chuyển sang gọi là Quy chế Thương mại bình thường( NTR), điều này cho thấy nếu một quốc gia nào đó chưa được hưởng Quy chế Tối huệ quốc của Hoa Kỳ tức là quốc gia đó vẫn chưa có quan hệ thương mại bình thường với Hoa Kỳ và cũng có nghĩa là chưa thực sự tham gia vào tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Do đó có thể thấy được ý nghĩa cũng như tầm quan trọng to lớn của việc Việt Nam ký kết Hiệp định Thương mại song phương với Hoa Kỳ. Sự kiện này đã có những tác động to lớn đến quan hệ song phương giữa hai nước nói chung và quan hệ thương mại-kinh tế nói riêng, đồng thời mở đường cho Việt Nam tiếp tục tham gia sâu rộng vào quá trình toàn cầu hoá. Mặc dù mang tên là Hiệp định thương mại, song những nội dung trong đó bao trùm nhiều lĩnh vực, không chỉ về thương mại hàng hoá, dịch vụ mà còn cả về đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ cùng nhiều lĩnh vực khác. Vì thế việc Hiệp định đi vào thực thi sẽ có tác động to lớn đến đời sống mọi mặt của Việt Nam, đặc biệt là tình hình kinh tế . Chúng ta một lần nữa khẳng định rằng Hiệp định có hiệu lực đang và sẽ tạo cơ hội tốt giúp cho Việt Nam đẩy mạnh thưong mại hàng hoá sang Hoa Kỳ- một thị trường lớn và đầy tiềm năng, do hàng hoá của chúng ta được hưởng mức thuế ngang bằng với các đối tác thương mại khác của Hoa Kỳ. Kết quả này đã được khẳng định dựa trên các tổng kết nghiên cứu thực tế cũng như tính toán kinh tế lượng trong thời gian qua. Trong các lĩnh vực tiềm năng khác như đầu tư, dịch vụ, Hiệp định này cũng hứa hẹn mang đến những thay đổi lớn lao. Thị trường VIệt Nam sẽ ngày càng hoàn thiện, tạo động lực thúc đẩy những nhà cung cấp hàng hoá hay dịch vụ nâng cao khả năng cạnh tranh và đạt được những tiêu chuẩn quốc tế chung trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ không chỉ đem đến những thuận lợi mà ngược lại, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình triển khai thực thi Hiệp định bởi đa số các doanh nghiệp Việt Nam chưa có sự chuẩn bị thực sự kỹ càng cho thị trường Mỹ, vì vậy khả năng đáp ứng cho các đơn hàng lớn còn rất hạn chế. Khả năng cung cấp nguyên liệu trong nước chưa cao và chưa phong phú nên còn phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu ngoại nhập. Ngoài ra các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với những rào cản của thị trường Hoa Kỳ đối với hàng nhập khẩu, đặc biệt là những thách thức lớn đối với quốc gia, chẳng hạn nguy cơ mất chủ quyền... Tuy nhiên, ở một khía cạnh nào đó thì chính những thách thức lại là động lực thúc đẩy sự phát triển. Cuối cùng, phải nhận thấy là Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ là một thành công lớn của Việt Nam trong nỗ lực mở rộng quan hệ kinh tế, hội nhập quốc tế. Việc hiệp định đi vào thực thi đã khẳng định tính đúng đắn của chủ trương hội nhập quốc tế mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Nhiệm vụ của Việt Nam trong giai đoạn tới là phải tiếp tục vận dụng chính sách, đường lối đúng đắn đó để phát huy hơn nữa những thuận lợi và tiếp tục vượt qua những thử thách mà Hiệp định thương mại đã đặt ra. Danh mục tài liệu tham khảo Sách , tài liệu tham khảo Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 2001. Bộ thương mại. Báo cáo công tác của các tham tán thương mại Việt Nam ở nước ngoài thời gian qua và phương hướng nhiệm vụ sắp tới (2001) ấn phẩm của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam (Tái bản lần 2 năm 2002). Xuất khẩu sang thị trường Mỹ. ấn phẩm của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2002). Kinh doanh với Hoa Kỳ Vụ Âu Mỹ, Bộ thương mại. Báo cáo Quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ và triển vọng hợp tác (12-2000) Dự án VIE/99/002. Báo cáo về hội nhập kinh tế và chiến lược phát triển của Việt Nam (5-2000) Đề tài: “Bàn về tăng cường hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ”. PGS.TS. Nguyễn Duy Bột Đề tài 97-98-060, Bộ thương mại. Phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (8-1997) Báo, tạp chí Hiệp định thươngmại Việt Nam- Hoa Kỳ ngày 13/7/2000 Trần Lệ Thuỷ “Hiệp định giúp tăng đôi kim nghạch xuất khẩu”. Thời báo kinh tế Sài Gòn số 50 (5-12-2002) Ngô Phong “Một năm thực hiện hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ”. Báo Thương mại số 109 (10/12/2002). Phương Dung “ Kinh tế 11 tháng: Đà tăng trưởng cao dần lên”. Thời báo tài chính Việt Nam số 144 (2/12/2002). Mai Phương-Bá Sửu “ Dệt May Việt Nam- Những thành tựu”. Báo Hà Nội mới số 1108 ( 21/11/2002). Trần Văn Dũng “Thị trường Mỹ- Cơ hội cho hàng dệt may Việt Nam”. Báo thị trường tài chính (12/2002). Đỗ Lộc Điệp. “Bước tiến mới quan trọng trong quan hệ Việt-Mỹ”. Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 2(1998) Đỗ Đức Thịnh. “ Quan hệ kinh tế Việt Nam-Hoa Kỳ từ khi bình thường hoá đến nay”. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 4 (2000) Vũ Khoan. “Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ”. Tạp chí Cộng sản, số 15 (8-2000) Hoàng Lan Hoa. “ Quan hệ thương mại, đầu tư Việt Nam-Mỹ: Quá khứ và triển vọng”. Tạp chí Kinh tế Châu á, số 4 (12-1999) Hội Đồng thương mại Mỹ-Việt. “ Bình thường hoá quan hệ kinh tế Mỹ-Việt Nam. Lịch trình các bước tiếp theo”. Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 6 (1999) Nguyễn Tuấn Minh. “ Hiệp định thương mại Việt Nam và Hoa Kỳ. Cơ hội và thách thức”. Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 4 (2000) Ngô Duy Ngọ. “ Những biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại trong khuôn khổ WTO”. Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 20 (10-1997) Nguyễn Đình Lương “ Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ dưới tác động của Hiệp định thương mại song phương”. Tạp chí quốc tế, số 11/2000 Douglas Peterson, đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam. “ Về triển vọng quan hệ Mỹ-Việt Nam”. Tạp chí Châu âu ngày nay, số 6 (1999) Bùi Đường Nghiêu. “ Hiệp định thương mại Việt-Mỹ: Cơ hội và thách thức”. Tạp chí Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương, số 3 (9-2000) Nguyễn Trường Sơn. “ Chính sách thươngmại của Mỹ và việc Việt Nam gia nhập WTO”. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 263, 264 (2000) Nguyễn Xuân Thắng. “ Triển vọng quan hệ kinh tế thương mại Việt-Mỹ”. Tạp chí Ngoại thương, số 12 (1997) Nguyễn Thu Thuỷ. “ Những biến chuyển về chính sách thương mại Việt Nam trong giai đoạn đổi mới”. Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới, số 2 (2000) Từ Thanh Thuỷ. “ Mười năm quan hệ thương mại Việt Nam-EU”. Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới, số 2 (2000) Sách, tài liệu tham khảo nước ngoài Emiko Fukase and Will Martin. The effect of The United States granting MFN status to VietNam. World Bank, Washington, DC, USA. August 11,1999 Van Grasstek Communications. Status and polices relevant to the normalization of trade relations between the United States and Viet Nam. A report for the UN Conference on Trade and Development. Charlene Barshefsky. Speech on U.S trade priorities. Octorber 7, 1998 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docntt-lv.doc
  • docmucluc.doc
Tài liệu liên quan