Tác động của thuế Giá trị gia tăng tới hoạt động kinh doanh của các Doanh nghiệp Việt Nam

Lời nói đầu Thuế GTGT áp dụng ở Việt nam từ năm 1999 thay cho thuế doanh thu là một loại thuế mới có sự thay đổi căn bản về cách tính thuế, biện pháp hành thu. Việc ban hành thuế GTGT là một bước cải cách quan trọng trong hệ thống chính sách thuế của Việt nam. Về mặt lý thuyết, thuế GTGT mang tính khoa học rất cao, có khả năng tạo được công bằng trong việc thu thuế, thúc đẩy các doanh nghiệp cải tiến quản lý, tăng năng suất lao động, hạ giá thành để cạnh tranh thuận lợi ở trong và ngoài nước.

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1180 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tác động của thuế Giá trị gia tăng tới hoạt động kinh doanh của các Doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Điểm nổi bật của thuế GTGT là khắc phục được nhược điểm thu trùng lắp, chồng chéo qua nhiều khâu của thuế doanh thu. Từ lâu sự chồng chéo này của thuế doanh thu đã gây nhiều kêu ca, phàn nàn của hầu hết cơ sở kinh doanh và người tiêu dùng vì nó ảnh hưởng tiêu cực đến giá cả hàng hoá. Thuế doanh thu tính trên toàn bộ giá bán qua từng khâu có nghĩa là trong trường hợp mua cao, bán hạ, doanh nghiệp vẫn phải nộp thuế doanh thu. Ngược lại thuế GTGT chỉ thu trên giá trị tăng thêm mà doanh nghiệp tạo ra, thậm chí doanh nghiệp còn được hoàn thuế đầu vào cao hơn thuế đầu ra. Hơn nữa thuế GTGT còn có tác dụng góp phần thúc đẩy xuất khẩu, khuyến khích phát triển sản xuất, chống thất thu có hiệu quả, bảo đảm nguồn thu cho NSNN. Sau hơn 2 năm thực hiện luật thuế GTGT, chúng ta đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên do thuế GTGT là một phương pháp đánh thuế tiên tiến nhưng còn rất mới đối với Việt Nam nên không tránh khỏi những vướng mắc trong quá trình thực hiện. Hơn lúc nào hết, nghiên cứu kinh nghiệm thế giới, phân tích thực tế ở Việt Nam để nhanh chóng phát hiện những vấn đề nảy sinh, tìm ra được những giải pháp thích hợp là điều kiện cực kỳ quan trọng đảm bảo sự thành công toàn diện và vững chắc của việc triển khai thuế GTGT ở Việt Nam. Qua một thời gian nghiên cứu, kết hợp với những hiểu biết của bản thân em chọn đề tài “Tác động của thuế GTGT tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt nam” để nghiên cứu. Đề tài bao gồm 3 chương: Chương I: Thuế và thuế GTGT đối với hoạt động của các doanh nghiệp Chương II: Tác động của thuế GTGT đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của thuế GTGT đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam Tuy nhiên do còn hạn chế về mặt thời gian và kiến thức nên đề tài chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong ý kiến đóng góp của thầy, cô, các bạn và những người quan tâm đến vấn đề này để đề tài của em được hoàn chỉnh hơn Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn cô giáo Phan Tố Uyên – người đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG i THUế Và THUế GTGT Đối với hoạt động của các doanh nghiệp i. KHáI QUáT Về THUế. 1. Sự ra đời của và bản chất của thuế. 1.1 Nguồn gốc xuất hiện của thuế. Nhà nước là bộ máy quyền lực dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác. Theo quan điểm của Ăng ghen, Nhà nước có hai đặc trưng chủ yếu : - Một là : phân chia dân cư theo khu vực để quản lý. - Hai là : thiết lập những quyền lực công cộng và để duy trì những quyền lực công cộng đó cần phải có sự đóng góp của công dân, đó là thuế. Trước xã hội nô lệ, khi điều kiện làm việc còn mông muội, năng suất lao động còn thấp, con người rất khó nhọc mới tìm ra tư liệu cần thiết cho đời sống, lúc đó xã hội chưa biết đến thuế, càng đến xã hội văn minh thuế càng phát triển. Như vậy khái niệm về thuế xuất hiện và phát triển cùng với sự xuất hiện và phát triển của Nhà nước. Hai khái niệm Nhà nước và thuế đi với nhau rất mật thiết, gắn bó như hình và bóng - không thể thiếu được. Nhà nước sử dụng thuế để phục vụ cho mục đích của mình: Nhà nước giai cấp bóc lột thu thuế để phục vụ cuộc sống xa hoa, đài các của bọn thống trị áp bức, còn đối với Nhà nước nào thực sự của dân, do dân và vì dân, Nhà nước đó thu thuế của dân để trở lại phục vụ cuộc sống của người dân cho công bằng và hợp lý hơn, đảm bảo quyền sống của con người đầy đủ và tốt đẹp hơn . Lịch sử phát triển của thuế cũng đã chứng minh đó là quá trình phát triển ngày càng hoàn thiện và hợp lý trong thực hiện nhiệm vụ phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, nhờ đó để đi dần tới chỗ động viên thu nhập của người dân một cách công bằngvà ngày càng hợp lý hơn, từ đó yêu cầu các luật thuế phải được xây dựng hợp lý, đầy đủ và ngày càng hoàn thiện. Để cho chính sách thuế góp phần động viên công bằng hợp lý thu nhập quốc dân được tạo ra trong toàn xã hội và nhất là khi nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh mẽ, mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế, giữa các cá nhân với nhau và với xã hội ngày càng mật thiết, chặt chẽ hơn thì sự phân phối thu nhập quốc dân trở nên phức tạp hơn, đòi hỏi phải có một hệ thống chính sách thuế mà ở đó có sự liên kết trong một tổng thể thống nhất cùng tham gia trong quá trình phân phối đó. 1.2 Bản chất của thuế . Có thể hiểu thuế là khoản đóng góp mang tính bắt buộc được Nhà nước quy định thành luật để mọi người dân và các tổ chức kinh tế phải thực hiện nộp vào NSNN theo từng thời kỳ nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của bộ máy Nhà nước. Cũng có thể hiểu: thuế là hình thức động viên, phân phối và phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân do các tổ chức kinh tế và người dân tạo ra để hình thành quỹ tiền tệ tập trung nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. 2. Vai trò của thuế. Trong nền kinh tế thị trường, thuế có các vai trò chủ yếu sau: 2.1. Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN. ở nước ta trong thời kỳ bao cấp thuế thường mới chỉ đảm bảo được khoảng 50%- 60% tổng số thu của NSNN. Một phần thu quan trọng của NSNN lúc đó còn phải dựa vào viện trợ, vay nợ. Đến nay nguồn thu từ nước ngoài, nhất là các khoản viện trợ cho không đã giảm nhiều, quan hệ kinh tế đối ngoại đang chuyển sang cơ chế có vay, có trả, có đi, có lại hai bên cùng có lợi. Hệ thống thuế phải bảo đảm đến 80%- 90% tổng số thu của NSNN, có phần tích luỹ cho nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng và trả nợ. 2.2 Thuế góp phần quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Chính sách thuế được áp dụng thống nhất sẽ từng bước bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, góp phần phục vụ có hiệu quả chủ trương giải phóng mọi tiềm năng để phát triển sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các ngành nghề, các địa phương, các vùng, giữa thị trường trong và ngoài nước. Tuỳ tình hình cụ thể, Nhà nước sử dụng công cụ thuế để góp phần điều tiết nền kinh tế, bao gồm cả sản xuất, lưu thông, dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm, điều chỉnh các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng phát triển của Nhà nước, điều chỉnh các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc dân (giữa tích luỹ và tiêu dùng, tiền và hàng, giữa cung và cầu, nhập và xuất). Thuế còn có vai trò quan trọng trong việc kiểm kê, kiểm soát, thúc đẩy hạch toán kinh doanh, sắp xếp lại tổ chức lao động, tăng năng suất, hạ giá thành tăng hiệu quả kinh tế. 2.3 Thuế góp phần thực hiện sự bình đẳng, điều hoà thu nhập, bảo đảm công bằng xã hội. Vai trò điều hoà thu nhập của thuế thể hiện ở sự kết hợp hài hoà giữa việc động viên phù hợp với khả năng và tính chất của hoạt động sản xuất, kinh doanh với việc tăng cường hiệu lực của hệ thống thuế bằng các chế độ, biện pháp thuế. Yêu cầu bình đẳng về động viên đóng góp được thể hiện qua việc áp dụng chính sách thuế thống nhất giữa các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư, sự cân bằng về thuế, trước hết phải xuất phát từ nhận thức đầy đủ và xác định đúng đắn quyền lợi, nghĩa vụ của mỗi công dân, mỗi tổ chức kinh tế đối với Nhà nước, người đại diện cho quyền lực và lợi ích của toàn xã hội. II. thuế giá trị gia tăng. 1. Khái niệm. Theo điều 1 của luật thuế GTGT: “Thuế GTGT là thuế gián thu tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”. Trong đó giá trị tăng thêm là khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và khoản giá trị tăng thêm này do người tiêu dùng chịu. 2. Mục đích. Mục đích của thuế GTGT là nhằm khuyến khích chuyên môn hoá cao, khuyến khích các nhà doanh nghiệp đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm, tạo tích luỹ cao cho doanh nghiệp, tăng tỷ lệ huy động cho NSNN. Thuế GTGT góp phần khuyến khích mạnh mẽ sản xuất hàng hoá xuất khẩu vì mức thuế hàng xuất khẩu 0%, ngoài ra còn được thoái trả lại toàn bộ số thuế GTGT đã nộp ở khâu trước, tạo điều kiện cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới. Thuế GTGT hàng nhập khẩu có tác dụng thiết thực bảo vệ sản xuất kinh doanh hàng nội địa, đẩy mạnh sản xuất hàng hoá theo hướng xuất khẩu. 3. Nội dung của thuế GTGT. 3.1 Đối tượng áp dụng. 3.1.1 Phạm vi áp dụng. Xét về góc độ kinh tế, thuế GTGT đánh trên phần giá trị tăng thêm phát sinh qua các khâu trong quá trình luân chuyển sản phẩm hàng hoá, do đó mọi hoạt động kinh doanh thuộc phạm vi hoạt động của quá trình sản xuất kinh doanh thuộc phạm vi hoạt động của quá trình sản xuất kinh doanh nêu trên đều thuộc đối tượng nộp thuế. Như vậy phạm vi áp dụng của thuế GTGT có thể bao gồm : - Hoạt động kinh doanh nhập khẩu. - Hoạt động sản xuất mặt hàng thuộc diện đánh thuế TTĐB. - Hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nói chung bao gồm cả sản xuất nông nghiệp đang thuộc diện chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp. 1.1.2. Đối tượng nộp thuế . Tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT ở Việt Nam không phân biệt ngành nghề, hình thức tổ chức kinh doanh (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác có nhập khẩu hàng hoá chịu thuế GTGT (gọi chung là người nhập khẩu) đều là đối tượng nộp thuế GTGT. Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ bao gồm : - Các tổ chức kinh doanh được thành lập và đăng ký kinh doanh theo luật doanh nghiệp, luật DNNN và luật hợp tác xã. - Các tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và các tổ chức, đơn vị sự nghiệp khác. - Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp tác kinh doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các công ty nước ngoài và tổ chức nước ngoài hoạt động kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. - Cá nhân, hộ gia đình sản xuất, kinh doanh, nhóm người kinh doanh độc lập và các đối tượng kinh doanh khác. 3.2. Căn cứ và phương pháp tính thuế 3.2.1. Căn cứ tính thuế Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất. * Giá tính thuế : Theo quy định tại điều 7 luật thuế GTGT và điều 6 của Nghị định số 79/2000/NĐ-CP, giá tính thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ được xác định như sau: - Đối với hàng hoá, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra hoặc cung ứng cho đối tượng khác là giá bán chưa có thuế GTGT. - Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng (+) với thuế nhập khẩu, giá nhập khẩu tại cửa khẩu làm căn cứ tính thuế GTGT được xác định theo các quy định về giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu. Trường hợp hàng hoá nhập khẩu được miễn, giảm thuế nhập khẩu thì giá tính thuế GTGT là giá hàng hoá nhập khẩu cộng với (+) thuế nhập khẩu xác định theo mức thuế phải nộp sau khi đã được miễn giảm. - Đối với sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cơ sở kinh doanh xuất để tiêu dùng không phục vụ cho sản xuất, kinh doanh hoặc cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT thì phải tính thuế GTGT đầu ra. Giá tính thuế tính theo giá bán của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cùng loại. - Đối với dịch vụ do phía nước ngoài cung ứng cho các đối tượng tiêu dùng ở Việt nam, giá tính thuế GTGT là giá dịch vụ phải thanh toán cho phía nước ngoài. Dịch vụ cho thuê tài sản bao gồm cho thuê nhà, xưởng, kho tàng, bến bãi, phương tiện vận chuyển, máy móc thiết bị. Giá để tính thuế GTGT là giá cho thuê chưa có thuế. Trường hợp cho thuê theo hình thức thu tiền từng kỳ hoặc thu trước tiền thuê cho một thời hạn thuê thì thuế GTGT tính trên số tiền thu từng kỳ hoặc thu trước, bao gồm cả các khoản thu dưới hình thức khác như thu tiền để hoàn thiện, sửa chữa, nâng cấp nhà cho thuê theo yêu cầu của bên thuê. - Đối với các hàng hoá, dịch vụ khác là giá do Chính phủ quy định. * Thuế suất: Luật thuế GTGT hiện nay quy định 4 mức thuế suất : 0%, 5%, 10%, 20% trong đó : - Thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu. - Thuế suất 5%, 10%, 20% đối với hàng hoá, dịch vụ. 3.2.2. Phương pháp tính Thuế GTGT cơ sở kinh doanh phải nộp được tính theo một trong hai phương pháp: Phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên thuế GTGT. Trường hợp cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế có hoạt động kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ thì cơ sở phải hạch toán riêng hoạt động kinh doanh này để tính thuế trực tiếp trên GTGT. Đối tượng áp dụng và việc xác định thuế phải nộp theo từng phương pháp sau : Phương pháp khấu trừ thuế * Đối tượng áp dụng: Là các đơn vị, tổ chức kinh doanh bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần, hợp tác xã và các đơn vị, tổ chức kinh doanh khác, trừ các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương pháp trực tiếp trên GTGT. Xác định số thuế GTGT phải nộp Số thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào Trong đó: Thuế GTGT đầu ra = Giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế bán ra x Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó. Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế khi bán hàng hoá, dịch vụ phải tính thuế và thu thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra. Khi lập hoá đơn bán hàng hóa, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán chưa có thuế, thuế GTGT và tổng số tiền người mua phải thanh toán. Trường hợp hoá đơn chỉ ghi giá thanh toán, không ghi giá chưa có thuế và thuế GTGT thì thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ bán ra phải tính trên giá thanh toán ghi trên hoá đơn chứng từ. Doanh thu chưa có thuế = Giá bán - Thuế tính trên giá bán Ví dụ : Doanh nghiệp bán sắt, thép Giá bán chưa có thuế GTGT đối với sắt f6 là 4.600.000 đ/tấn Thuế GTGT 5% 230.000 đ/tấn Khi bán, có một số hoá đơn doanh nghiệp chỉ ghi giá bán 4.800.000 đ/tấn Thuế GTGT tính trên doanh số bán được xác định: 4.800.000 đ/tấn x 5% = 240.000 đ/tấn Doanh thu được xác định lại bằng: 4.660.000 đ (= 4.800.000đ - 240.000đ) Doanh nghiệp mua thép cũng không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hoá đơn mua không ghi thuế GTGT này. Thuế GTGT đầu vào = Tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ Đối với hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế, được khấu trừ thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào phát sinh kể từ tháng được áp dụng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế; Đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào tháng trước được áp dụng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế thì không được tính khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên GTGT ã Đối tượng áp dụng - Cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt nam. - Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế. - Cơ sở kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ. Xác định thuế GTGT phải nộp: Số thuế GTGT phải nộp = GTGT của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế x Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó GTGT của hàng hoá, dịch vụ = Doanh số của hàng hoá, dịch vụ bán ra - Giá vốn của hàng hoá, dịch vụ bán ra Giá trị gia tăng xác định đối với một số ngành nghề kinh doanh như sau: - Đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh bán hàng là số chênh lệch giữa doanh số bán với doanh số vật tư, hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh. Trường hợp cơ sở kinh doanh không hạch toán được doanh số vật tư, hàng hoá, dịchvụ mua vào tương ứng với doanh số hàng bán ra thì được xác định như sau: Giá vốn hàng bán ra = Doanh số tồn đầu kỳ + Doanh số mua trong kỳ - Doanh số tồn cuối kỳ Ví dụ : Một cơ sở A sản xuất đồ gỗ, trong tháng bán được 150 sản phẩm tổng doanh số bán là 25 triệu đồng. Giá trị vật tư, nguyên liệu mua ngoài để sản xuất 150 sản phẩm là 19 triệu đồng, trong đó : Nguyên liệu chính (gỗ) 14 triệu Vật liệu và dịch vụ mua ngoài khác 5 triệu Thuế suất thuế GTGT là 10% , thuế GTGT cơ sở A phải nộp được tính như sau: GTGT của sản phẩm bán ra 25 triệu đồng – 19 triệu đồng = 6 triệu đ Thuế GTGT phải nộp 6 triệu đồng x 10% = 0,6 triệu đồng - Đối với xây dựng, lắp đặt là số chênh lệch giữa tiền thu về xây dựng, lắp đặt công trình, hạng mục công trình trừ (-) chi phí vật tư nguyên liệu, chi phí động lực, vận tải, dịch vụ và chi phí khác mua ngoài để phục vụ cho hoạt động xây dựng, lắp đặt công trình, hạng mục công trình. - Đối với hoạt động vận tải là số chênh lệch giữa tiền thu cước vận tải, bốc xếp trừ (-) chi phí xăng dầu, phụ tùng thay thế và chi phí khác mua ngoài dùng cho hoạt động vận tải. - Đối với hoạt động kinh doanh vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ, GTGT là số chênh lệch giữa doanh số bán ra, vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ trừ (-) giá vốn của vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ bán ra. 3.3. Các quy định khác Hoá đơn chứng từ mua bán hàng hoá, dịch vụ. Từ hai phương pháp tính thuế có hai loại hoá đơn phù hợp với từng phương pháp tính thuế và phù hợp với trình độ quản lý, kế toán của đối tượng nộp thuế. Đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ sử dụng hoá đơn thuế GTGT được khấu trừ, đối tượng nộp thuế theo phương pháp tính thuế GTGT được sử dụng hoá đơn thông thường. Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế sử dụng hoá đơn GTGT. Khi lập hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố quy định trên hoá đơn và ghi rõ: Giá bán chưa có thuế, phụ thu và phí tính ngoài giá bán (nếu có), thuế GTGT, tổng giá thanh toán đã có thuế. Nếu cơ sở kinh doanh bán hàng hoá, dịch vụ không ghi tách riêng số bán và thuế GTGT, chỉ ghi chung giá thanh toán thì thuế GTGT đầu ra phải tính trên giá thanh toán. Cơ sở kinh doanh không được tính khấu trừ thuế GTGT (trừ trường hợp hàng hóa, dịch vụ đặc thù được dùng chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT). Các cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng và các cơ sở kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT, sử dụng hoá đơn thông thường. Giá bán hàng hoá, dịch vụ ghi trên hoá đơn là giá thực thanh toán đã có thuế GTGT (đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT). Cơ sở kinh doanh muốn sử dụng hoá đơn, chứng từ khác với quy định chung, phải đăng ký với Bộ Tài Chính (Tổng cục thuế) và chỉ được sử dụng khi đã được thông báo bằng văn bản cho sử dụng. Mọi trường hợp doanh nghiệp đăng ký sử dụng hoá đơn theo mẫu quy định. Các cơ sở kinh doanh phải thực hiện việc quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ theo quy định về chế độ hoá đơn, chứng từ do Bộ Tài Chính ban hành. Các cơ sở kinh doanh phải thực hiện đầy đủ việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ có hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật. Mã số thuế Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý đối tượng nộp thuế, thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 75/1998/QĐ-Ttg ngày 4/4/1998 quy định về mã số đối tượng nộp thuế. Các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế là đối tượng nộp thuế theo pháp luật Việt Nam đều phải thực hiện kê khai, đăng ký thuế với cơ quan thuế để cấp mã số xác định đối tượng được nộp thuế (gọi tắt là mã số thuế). Mã số thuế được sử dụng để nhận diện đối tượng nộp thuế. Mỗi một đối tượng nộp thuế chỉ được cấp một mã số thuế duy nhất trong suốt quá trình hoạt động từ khi thành lập đến khi chấm dứt hoạt động. Mã số thuế đã được cấp sẽ không được sử dụng lại để cấp cho đối tượng nộp thuế khác. Các đối tượng nộp thuế phải ghi mã số của mình trên mọi giấy tờ giao dịch, chứng từ hoá đơn mua, bán, trao đổi kinh doanh, trên các sổ sách kế toán, trên các giấy tờ kê khai thuế, chứng từ nộp thuế và các biểu mẫu kê khai với các cơ quan quản lý Nhà nước theo quy định của pháp luật. Các đơn vị được sử dụng hoá đơn tự in phải in sẵn mã số thuế của mình ở góc trên bên phải của từng tờ hoá đơn. Hoàn thuế GTGT Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được xét hoàn thuế trong các trường hợp sau: - Cơ sở kinh doanh trong 3 tháng liên tục trở nên có luỹ kế số thuế đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế đầu ra được hoàn thuế. Số thuế được hoàn là số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết của thời gian xin hoàn thuế. - Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hoá xuất khẩu nếu có số thuế đầu vào chưa được khấu trừ từ 200 triệu đồng trở nên thì được xét hoàn thuế theo tháng, hoặc chuyến hàng (nếu xác định được thuế GTGT đầu vào riêng của chuyến hàng). Đối với hàng hoá uỷ thác xuất khẩu, gia công xuất khẩu qua một cơ sở khác ký hợp đồng gia công xuất khẩu, đối tượng hoàn thuế là cơ sở có hàng hoá đi uỷ thác xuất khẩu, cơ sở trực tiếp gia công hàng hoá xuất khẩu. - Đối với cơ sở mới thành lập, đầu tư tài sản mới đã đăng ký theo phương pháp khấu trừ nhưng chưa có phát sinh doanh thu bán hàng để tính thuế GTGT đầu ra, nếu thời gian đầu tư từ một năm trở nên được xét hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Số thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư được hoàn có giá trị lớn từ 200 triệu đồng trở nên thì được xét hoàn thuế từng quý. - Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản có thuế GTGT nộp thừa, cơ sở có quyền đề nghị cơ quan thuế hoàn lại số thuế GTGT nộp thừa. - Cơ sở kinh doanh được hoàn thuế theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Cơ quan thuế có trách nhiệm hướng dẫn đối tượng được hoàn thuế lập đúng, đủ các hồ sơ đề nghị hoàn thuế theo đúng quy định. Chịu trách nhiệm kiểm tra, xem xét hồ sơ và giải quyết hoàn thuế trong thời gian 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hoàn thuế của đơn vị gửi đến. Trường hợp phải kiểm tra, xác minh, bổ sung hồ sơ… thì thời gian tối đa là 30 ngày. Nếu không đủ thủ tục và điều kiện hoàn thuế phải trả lời cho đơn vị biết trong khoảng thời gian 7 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ. Sau khi hoàn thuế, trường hợp nghi vấn hoặc cần tổ chức, kiểm tra, thanh tra lại cơ sở để xác định đúng số hoàn thuế thì cơ quan thuế quyết định kiểm tra hoặc thanh tra. Khấu trừ thuế Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế được tính khấu trừ thuế GTGT đầu vào như sau: - Thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT thì được khấu trừ toàn bộ. - Thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ mua vào đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì chỉ được khấu trừ số thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịchvụ chịu thuế GTGT. - Thuế đầu vào được khấu trừ phát sinh trong tháng nào được kê khai, khấu trừ khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó. - Các cơ sở sản xuất, kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế được tính khấu trừ thuế GTGT đầuvào theo tỷ lệ (%) tính trên giá hàng hoá, dịch vụ mua vào không có hoá đơn GTGT theo quy định như sau: Tỷ lệ 2% đối với hàng hoá là nông sản lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến, đất đá cát sỏi và các loại phế liệu mua vào không có hoá đơn. Tỷ lệ 3% đối với hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT mua của cơ sở sản xuất, kinh doanh nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT có hoá đơn bán hàng. 3.4. Cơ chế vận hành 3.4.1 Để hiểu được cơ chế vận hành của thuế GTGT trước tiên cần phải nhận rõ được bản chất của thuế GTGT. Thuế GTGT là một loại thuế đánh trên diện rộng, tính trên giá và đánh trên nhiều giai đoạn khác nhau. Thực vậy: - Thuế GTGT là loại thuế đánh trên diện rộng, bởi lẽ qua loại thuế này về mặt lý thuyết mọi hàng hoá và dịch vụ đều có thể đưa vào diện đánh thuế. - Thuế GTGT là một loại thuế tính trên giá thể hiện ở chỗ tiền thuế phải được tính trên một tỷ lệ % nhất định trên giá cả mà không phải là số tiền cố định trên hàng hoá và dịch vụ. - Thuế GTGT đánh trên nhiều giai đoạn khác nhau từ sản xuất, phân phối đến tiêu thụ các loại hàng hoá và dịch vụ. 3.4.2 Tác động của thuế GTGT đối với các doanh nghiệp và đối với người tiêu dùng có sự khác nhau: Đối với các doanh nghiệp: Thuế GTGT gắn liền với 2 yếu tố riêng biệt độc lập với nhau. - Yếu tố có liên quan đến chế độ khấu trừ thuế, tức là liên quan đến bộ phận thuế GTGT đánh trên các nghiệp vụ mua hàng hoá và dịch vụ đầu vào, kể cả nghiệp vụ mua tài sản cố định .ở đâydoanh nghiệp cần thiết phải chia ra làm 2 khoản: Thuế GTGT có thể khấu trừ . Thuế GTGT không thể khấu trừ. - Yếu tố liên quan đến chế độ tính thuế, tức là gắn liền với bộ phận thuế GTGT thu được (thuế GTGT đánh trên các nghiệp vụ bán hàng hoá và dịch vụ đầu ra kể cả nghiệp vụ bán tài sản cố định). Chênh lệch giữa thuế GTGT thu được và thuế GTGT có thể khấu trừ rơi vào một trong hai trường hợp: Nếu là số dương (sau một thời kỳ tính thuế) thì đây là số thuế doanh nghiệp phải nộp. Nếu là số âm (sau một thời kỳ tính thuế) thì đây là số thuế doanh nghiệp được Nhà nước thoái trả. Cơ chế vận hành của thuế GTGT đối với các doanh nghiệp được thể hiện qua mô hình sau: doanh thu tính thuế nhân (x) thuế suất bằng (=) thuế tính trên doanh thu trừ (-) thuế tính trên doanh số mua hàng ( VAT được khấu trừ ) bằng (=) Thuế GTGT phải nộp (nếu kết quả là số dương) Thuế GTGT được thoái trả (nếu kết quả là số âm) Ví dụ : Giả định thuế suất 10% Doanh thu bán hàng 200.000; thuế GTGT 20.000 Doanh số mua hàng 150.000; thuế GTGT 15.000 Thuế GTGT phải nộp 5.000 Doanh số bán hàng 180.000; thuế GTGT 18.000 Doanh số mua hàng 200.000; thuế GTGT 20.000 Thuế GTGT được thoái trả 2.000 Đối với người tiêu dùng cuối cùng. Nếu như thuế GTGT có ảnh hưởng trung tính đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh (từ khâu sản xuất đến khâu bán lẻ) thì nó lại là một loại thuế đánh vào người tiêu dùng cuối cùng (toàn bộ gánh nặng về thuế GTGT, nói cách khác, do người tiêu dùng cuối cùng chịu) bởi lẽ đối với họ chỉ phát sinh hành vi mua sau đó không phát sinh hành vi bán. 4. Điều kiện áp dụng ã Công tác kế toán và hoá đơn chứng từ ở doanh nghiệp. Hoá đơn chứng từ là căn cứ pháp lý để thực hiện việc tính thuế, kê khai thuế GTGT. Cơ sở tính thuế là giá trị tăng thêm vì vậy muốn xác định được giá trị tăng thêm thì doanh nghiệp phải thực hiện ghi chép đầy đủ để xác định được đầu vào, đầu ra. Mặt khác đối với doanh nghiệp thực hiện theo phương pháp khấu trừ, không có hoá đơn thuế GTGT của bên bán thì sẽ không được khấu trừ phần thuế GTGT đã nộp ở khâu trước. ã Công tác quản lý của cơ quan thuế: Thực hiện luật thuế mới không những tác động đến công tác quản lý của các doanh nghiệp mà cả cơ quan thuế cũng phải cải tiến phương pháp quản lý như: Cấp mã số thuế, áp dụng tin học vào công tác thuế, phát hành và quản lý hoá đơn chứng từ, phát huy tinh thần tự giác của doanh nghiệp trong việc tự tính thuế, tự kê khai thuế và nộp thuế theo thông báo vào kho bạc Nhà nước. Qua đó quản lý được đối tượng nộp thuế, hạn chế được thất thu ngân sách và tiêu cực trong lĩnh vực thuế. 5. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện thuế GTGT ã Quan điểm tư tưởng: Nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới việc thực hiện thành công thuế GTGT ở nước ta là quan điểm và sự quyết tâm của chúng ta đối với việc thực hiện loại thuế mới này bởi nó định hướng cho tư tưởng, nhận thức của chúng ta và ảnh hưởng trực tiếp tới tư tưởng, nhận thức của các doanh nghiệp và mọi tổ chức cá nhân trong xã hội, những người nộp thuế GTGT. ã Công tác tuyên truyền thực hiện: Khi áp dụng thuế doanh thu, các doanh nghiệp đã quen với việc mua bán thanh toán theo giá đã có thuế. Khi chuyển sang thực hiện thuế GTGT, việc mua bán được căn cứ trên giá chưa có thuế, do đó khó có thể tránh khỏi tình trạng lúng túng trong việc xác định giá bán chưa có thuế nếu không được tuyên truyền, hướng dẫn cụ thể. Mặt khác sẽ có một số doanh nghiệp do không hiểu hoặc cố tình coi thuế GTGT là một loại thuế mới sẽ cộng thêm vào giá hiện hành làm tăng giá, gây tâm lý tiêu cực của người tiêu dùng đối với thuế GTGT. ã Tổ chức thực hiện: - Bộ máy quản lý, đội ngũ cán bộ: Hiện nay bộ máy quản lý thuế của nước ta được tổ chức theo ngành dọc từ TW đến cấp huyện. Hệ thống này được phân chia vừa theo sắc thuế vừa theo đối tượng nộp thuế, tức là có bộ phận quản lý lĩnh vực thuế doanh thu, thuế lợi tức và có bộ phận quản lý doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu vực kinh tế tư nhân. Một cán bộ thuế phải đảm nhận nhiều chức năng từ thông báo thuế, thu thuế, kiểm tra thuế do đó không có điều kiện chuyên sâu vào một nghiệp vụ nhất định. Khi chuyển sang áp dụng thuế GTGT, quy trình quản lý thuế phải thay đổi, cơ quan thuế phải tổ chức thu thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế, trình độ của một số cán bộ thuế còn thấp sẽ không đủ đáp ứng yêu cầu. Hơn nữa do chế độ “chuyên quản “ được chuyển sang chế độ tự kê khai của doanh nghiệp cho nên nếu như không có những biện pháp kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ hơn hiện nay thì tình trạng thất thu thuế khó có thể hạn chế được. - Công tác quản lý hành chính thuế: Hiện nay còn thô sơ, thủ công là chính cho nên việc xử lý dữ liệu còn chậm chạp, có nhiều khả năng xảy ra sai sót cả do nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan của cán bộ thu thuế. Trong khi đó đối với việc quản lý thuế GTGT, thông tin cần lưu trữ lớn, đòi hỏi phải xử lý nhanh, chính xác. Hiện nay ngành thuế vẫn chưa có một chương trình hoàn chỉnh về xử lý thông tin thống nhất và nối kết trong một hệ thống máy tính trên phạm vi toàn quốc để truy cập đầu ra và đầu vào của doanh nghiệp, làm cơ sở cho việc thu nộp thuế được thuận lợi. - Phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan: Hiện nay việc thu thuế doanh thu và thuế xuất nhập khẩu được tách rời nhau: Thuế xuất nhập khẩu do cơ quan hải quan thu, thuế doanh thu do cơ quan thuế trong nước thu mà không có sự phối hợp thường xuyên trao đổi thông tin giữa các cơ quan này. Khi áp dụng thuế GTGT thì hàng nhập khẩu khi nhập khẩu vào Việt nam ngoài thuế nhập khẩu phải nộp thuế GTGT, hàng xuất khẩu thì được hoàn thuế GTGT. Do đó để xác định đúng số thuế phải thu cần phải có sự liên hệ chặt chẽ hơn nữa giữa ngành thuế nội địa và cơ quan hải quan trong việc quản lý hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện chịu thuế GTGT. Tương tự như vậy, đối với hàng xuất khẩu được hoàn thuế GTGT đã nộp cũng cần phải có sự phối hợp đồng bộ để việc hoàn thuế được thực hiện đúng, đủ và kịp thời, tránh tình trạng ứ đọng vốn của doanh nghiệp. ã Tình hình sản xuất, kinh doanh:._. Luật thuế GTGT được thông qua giữa tháng 5/1997 trong hoàn cảnh kinh tế - xã hội nước ta đang trên đà phát triển vững chắc mạnh mẽ. Có quan điểm cho rằng mặc dù thuế GTGT sẽ phải nộp cao hơn thuế doanh thu đối với một số ngành nghề nhưng trong hoàn cảnh kinh tế đang lên, quá trình hội nhập được đẩy nhanh, doanh nghiệp có thể đạt được lợi nhuận cao để bù đắp được rủi ro thiệt thòi trong việc phải nộp thuế mới. Tuy nhiên chỉ 2 tháng sau khi luật thuế GTGT được ban hành thì cuộc khủng hoảng kinh tế - tiền tệ khu vực đã ập đến, gây nhiều thách thức, khó khăn đối với doanh nghiệp Việt nam. Đây là một thách thức lớn đối với nước ta trong quá trình thực thi luật thuế GTGT vào thời điểm này. III. Thay thế thuế doanh thu bằng thuế GTGT. Sự cần thiết áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam 1. Thuế doanh thu 1.1. Những nội dung cơ bản của thuế doanh thu Thuế doanh thu là một loại thuế gián thu đánh vào phần doanh thu của các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong xã hội. Mọi tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế có hoạt động sản xuất, xây dựng, vận tải, thương nghiệp, ăn uống, dịch vụ và các hoạt động kinh doanh khác (gọi chung là cơ sở kinh doanh) có doanh thu đều phải nộp thuế doanh thu. Căn cứ tính thuế là doanh thu và thuế suất. Doanh thu là toàn bộ tiền hàng, tiền gia công, tiền dịch vụ sau khi thực hiện việc bán hàng, trả hàng gia công hoặc cung ứng dịch vụ chưa trừ một khoản phí tổn nào và đã hạch toán vào kết quả tiêu thụ trong kỳ, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền. Doanh thu tính thuế là doanh thu được quy định phù hợp với đặc điểm của từng hoạt động. Cụ thể: Doanh thu đối với hoạt động sản xuất, thương mại, ăn uống là tiền bán hàng. Doanh thu đối với hoạt động gia công là số tiền gia công bao gồm tiền công, tiền nhiên liệu, động lực, vật liệu phụ và các chi phí khác. Doanh thu đối với hoạt động đại lý bán hàng hoặc uỷ thác mua hàng là tiền hoa hồng được hưởng. Doanh thu đối với hoạt động dịch vụ là số tiền dịch vụ bao gồm mọi khoản chi phí cho hoạt động dịch vụ. Doanh thu đối với hoạt động tín dụng là khoản chênh lệch giữa thu lãi và tiền vay, tiền lãi gửi với trả lãi tiền vay, trả lãi tiền gửi. Doanh thu đối với hoạt động dịch vụ khác thuộc lĩnh vực ngân hàng là tiền thu được hoặc tiền hoa hồng được hưởng đối với dịch vụ đó. Doanh thu đối với hoạt động bảo hiểm là tiền thu về phí bảo hiểm nhận của khách hàng. Cơ sở kinh doanh có doanh thu bằng ngoại tệ được nộp thuế bằng ngoại tệ hoặc đồng Việt Nam, quy đổi theo tỷ giá mua vào và do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm nộp thuế. Trong trường hợp trao đổi hàng hoá, dịch vụ hoặc tự cung ứng hàng hoá, tự cung ứng dịch vụ thì hàng hoá dịch vụ trao đổi hoặc tự cung ứng phải được tính thành tiền tại thời điểm phát sinh theo giá thị trường để làm căn cứ tính thuế. Thuế suất doanh thu được quy dịnh cụ thể cho 6 ngành nghề sản xuất, xây dựng, vận tải, thương nghiệp, ăn uống và dịch vụ. Đối với các ngành nghề, danh mục sản phẩm sản xuất kinh doanh đã được quy định chi tiết trong biểu thuế thì áp dụng đúng theo thuế suất đã quy định. Cơ sở kinh doanh nhiều ngành nghề thì phải hạch toán riêng doanh thu của từng ngành nghề, sản phẩm. Nếu không hạch toán riêng được phải áp dụng thuế suất cao nhất trong số những ngành nghề đó để tính thuế trên tổng doanh thu của các ngành nghề sản phẩm đã tiêu thụ. Hộ kinh doanh nhỏ được tính và nộp thuế theo chế độ khoán doanh thu từng thời kỳ 3 tháng hoặc 6 tháng. Mức doanh thu khoán được cơ quan thuế ấn định căn cứ theo tài liệu kê khai của hộ kinh doanh, tài liệu điều tra của cán bộ thuế được thảo luận công khai trong các tổ kinh doanh và công bố trước khi áp dụng. Hộ kinh doanh nhỏ là hộ có doanh thu tính thuế bình quân tháng đối với từng ngành nghề: Ngành sản xuất, thương mại: Đến 6 triệu đồng. Ngành ăn uống: Đến 3 triệu đồng. Ngành sản xuất, gia công, xây dựng, vận tải, dịch vụ: Đến 2 triệu đồng. Ngoài ra, chương IV luật thuế doanh thu còn quy định việc giảm thuế, miễn thuế doanh thu trong các trường hợp: Người già yếu, tàn tật hoặc kinh doanh lặt vặt chỉ đủ bảo đảm mức sống tối thiểu cho bản thân. Cơ sở kinh doanh gặp khó khăn lớn do thiên tai, địch hoạ, tai nạn bất ngờ. Cơ sở kinh doanh hoạt động ở miền núi, hải đảo, khai thác thuỷ sản vùng biển xa bờ, cơ sở nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới, cơ sở sản xuất mới đi vào hoạt động, chạy thử dây chuyền sản xuất mới, cơ sở sản xuất mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu nếu gặp khó khăn được xét giảm thuế không quá 2 năm. Riêng cơ sở kinh doanh hoạt động ở miền núi, hải đảo, thời gian được hoàn thuế không quá 3 năm. Luật thuế doanh thu cũng quy định cụ thể trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ sở kinh doanh và quyền hạn, trách nhiệm cơ quan thuế, việc đăng ký, kê khai nộp thuế, việc xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại về thuế. 1.2. ưu điểm của thuế doanh thu - Tính toán đơn giản: Hàng tháng các cơ sở sản xuất kinh doanh tính số thuế doanh thu phải nộp bằng doanh thu nhân thuế suất thuế doanh thu. - Thuế doanh thu được thu dứt điểm từng lần bán hàng không phải theo dõi thuế đã nộp ở khâu trước. - Nguồn thu ngân sách giữa các địa phương tương đối ổn định. 1.3. Nhược điểm của thuế doanh thu - Thuế doanh thu có quá nhiều mức thuế suất (11 mức thuế suất) gồm 0%, 0,5%,1%, 2%, 4%, 6%, 8%, 10%, 15%, 20%, 30% nên việc tính thuế không chính xác và áp dụng nhiều mức thuế suất vào từng loại hoạt động rất phức tạp. Việc áp dụng nhiều mức thuế suất dẫn đến tình trạng những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhiều mặt hàng với các mức thuế suất khác nhau tìm cách dồn doanh thu vào mặt hàng có mức thuế suất thấp. Vì vậy thuế doanh thu của từng cơ sở khó chính xác tuyệt đối và gây ra tình trạng thất thu thuế cho Nhà nước. - Thuế doanh thu đánh trùng nhiều lần trên một giá trị và thuế đánh trên thuế. Một hàng hoá, dịch vụ qua càng nhiều lần luân chuyển thì chịu thuế doanh thu càng nhiều, thuế ở khâu sau tính trên cả phần thuế đã nộp ở khâu trước. - Thuế doanh thu không có sự thống nhất, ràng buộc lẫn nhau do thuế được thu độc lập với nhau từ sản xuất đến lưu thông và tiêu dùng. Vì vậy không kiểm tra thuế đã nộp ở các khâu trước. - Không khuyến khích các cơ sở sử dụng tốt chế độ hoá đơn chứng từ và thực hiện chế độ hạch toán kế toán do nộp thuế ở khâu sau không được khấu trừ thuế khâu trước. - Thuế doanh thu quy định nhiều trường hợp miễn giảm không đúng tính chất của thuế gián thu. Loại thuế này do người tiêu dùng chịu nhưng người sản xuất hoặc người bán hàng lại được hưởng chế độ miễn giảm. Đó là sự mất công bằng giữa đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế. 2. Sự cần thiết áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay Việc áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam vì những lý do cơ bản sau: 2.1. Thuế doanh thu đã bộc lộ những nhược điểm không còn phù hợp Với những tồn tại của thuế doanh thu, việc áp dụng luật thuế doanh thu không còn phù hợp. Mặt khác, thuế doanh thu không còn phù hợp với đường lối đổi mới nền kinh tế, đẩy mạnh CNH-HĐH đòi hỏi phải thay thế thuế doanh thu bằng thuế GTGT nhằm khắc phục những nhược điểm của thuế doanh thu. Việt Nam đang chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền KTTT theo định hướng XHCN. Trong cơ chế thị trường, giá cả hàng hoá do cung-cầu quyết định, nếu duy trì cơ chế nhiều thuế suất thì chỉ làm tăng thêm khó khăn, phức tạp trong quản lý và tạo kẽ hở cho trốn lậu thuế. Thuế doanh thu nhiều mức thuế suất bảo hộ đến từng ngành hàng, mặt khác chỉ phù hợp với thời kỳ kế hoạch hoá, giá cả hàng hoá dịch vụ đều do Nhà nước thống nhất quản lý. 2.2. Do yêu cầu hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực Thời đại ngày nay, mỗi quốc gia không thể tồn tại biệt lập để có thể phát triển nền kinh tế- xã hội mà cần có sự hợp tác song phương, đa phương. Đó là xu hướng hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng phát triển. Tất yếu dẫn đến yêu cầu đối với mỗi nước là phải cải cách cơ chế chính sách của mình. Trong đó cải cách thuế được xem là một nội dung có tầm quan trọng hàng đầu nhằm có thể phát huy tác dụng công cụ thuế điều tiết vĩ mô nền kinh tế phù hợp thông lệ trong khu vực và quốc tế. Đặc biệt, trong tình hình Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN và từng bước hội nhập AFTA, APEC. Biện pháp hữu hiệu là phải cải cách thuế theo xu hướng chung: Hạ thuế suất đi đôi với mở rộng diện tính thu thuế, hạn chế đối tượng miễn giảm thuế, vừa khuyến khích sản xuất phát triển, vừa tạo điều kiện động viên được sự đóng góp đại đa số tầng lớp nhân dân. Trong quá trình hội nhập của Việt Nam vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và thế giới, thuế cũ không còn phù hợp mà cần thiết phải thay đổi. Nhiều nước trong khu vực và thế giới đã áp dụng thuế GTGT để khắc phục sự trùng lắp của thuế doanh thu và tăng doanh thu cho NSNN như: Thuỵ Điển áp dụng từ 1/1/1989, Inđônêxia áp dụng tháng 4/1985, Đài Loan áp dụng tháng 4/1996, Philippin áp dụng tháng 1/1998, Nhật Bản áp dụng tháng 4/1989, Thái Lan áp dụng tháng 1/1995… Để có hệ thống chính sách phù hợp, đồng bộ, hoàn thiện và luôn theo kịp sự vận động, phát triển với thực tế của nền kinh tế là điều cần thiết và cấp bách. Quán triệt tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta trong quá trình cải cách, đổi mới nền kinh tế đã chú trọng đến đổi mới hệ thống thuế bao gồm cả chính sách và bộ máy hành thu để bảo đảm hệ thống pháp luật thuế luôn phù hợp và thực thi có hiệu quả. Tiếp theo cải cách thuế bước I (1990-1996) Quốc hội, Chính phủ đã tiến hành ngay cải cách thuế bước II nhằm khắc phục những bất cập, đưa hệ thống thuế bắt kịp với thực tế phát triển của nền kinh tế nước ta. Khâu đột phá có tính chất quyết định của công cuộc cải cách thuế bước II là việc Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 11 (từ 2/4-10/5/1997) đã thông qua hai luật thuế cơ bản đại diện cho hai loại thuế, đó là luật thuế GTGT (đại diện cho loại thuế gián thu), thuế thu nhập doanh nghiệp (đại diện cho loại thuế trực thu). Hai luật thuế này được áp dụng từ ngày 1/1/1999 thay thế luật thuế doanh thu và thuế lợi tức. Thuế GTGT triển khai thực hiện ở trên 120 nước trên thế giới và đã được đánh giá là tiên tiến, khoa học và công bằng, có nhiều ưu điểm và khắc phục được những tồn tại của thuế doanh thu. IV. Kinh nghiệm thực hiện thuế GTGT ở một số nước 1. Thuế GTGT áp dụng ở một số nước trên thế giới 1.1. Trung quốc - Thuế GTGT của Trung Quốc được bắt đầu áp dụng từ năm 1984. Tuy nhiên do những quy định về thuế GTGT năm 1984 được coi là phức tạp, không công bằng và rất khó áp dụng vì nó chủ yếu chỉ được áp dụng ở cơ sở sản xuất nên đến năm 1994, luật thuế GTGT mới được ban hành thay cho thuế GTGT năm 1984. - Về cơ bản thuế GTGT năm 1994 của Trung Quốc là một loại thuế đánh trên diện rộng từ khâu sản xuất đến khâu bán lẻ. - Thuế GTGT của Trung Quốc có 2 điểm khác biệt quan trọng so với thuế GTGT ở các nước Châu á khác: Thứ nhất, tài sản cố định bị đánh thuế GTGT song lại không được khấu trừ thuế đầu vào. Thứ hai, hầu hết các dịch vụ đều không chịu thuế GTGT (thay vào đó các dịch vụ này chịu thuế kinh doanh). Một số nhận xét và bài học về việc thực hiện thuế GTGT của Trung Quốc - Về đối tượng nộp thuế: Có 2 loại đối tượng nộp thuế : Đối tượng nộp thuế thông thường (chiếm 20) và đối tượng nộp thuế nhỏ (chiếm 80%) căn cứ vào doanh số bán hàng và điều kiện hạch toán của từng đối tượng. Tiêu chí để trở thành đối tượng nhỏ như sau: Đối với các đối tượng kinh doanh dịch vụ: Các cơ sở có doanh số chịu thuế GTGT hàng năm dưới 1 triệu NDT. Đối với đối tượng kinh doanh hàng hoá có doanh số chịu thuế hàng năm dưới 1,8 triệu NDT. Những cá nhân, đơn vị sản xuất, doanh nghiệp không thường xuyên tiến hành các hoạt động chịu thuế, không kể có doanh số là bao nhiêu cũng được coi là đối tượng nộp thuế nhỏ. Trong số các đối tượng nộp thuế thì có tới 80% là đối tượng nộp thuế nhỏ và 20% là đối tượng nộp thuế thông thường. Khi đối tượng nộp thuế nhỏ có chế độ hạch toán lành mạnh và khả năng hạch toán chính xác thuế đầu ra, thuế đầu vào, số thuế phải nộp hoàn toàn tuân thủ theo các chế độ kế toán và những yêu câù của cơ quan thuế thì có thể trở thành đối tượng nộp thuế thông thường nếu được cơ quan thuế có thẩm quyền chấp thuận. - Căn cứ và phương pháp tính thuế. Tương ứng với hai nhóm đối tượng nộp thuế, có hai phương pháp tính thuế khác nhau: Các đối tượng nộp thuế nhỏ được áp dụng thuế doanh thu với một mức thuế suất thống nhất là 6% trên doanh thu, không được phép miễn giảm và khấu trừ thuế. Từ năm 1998, mức thuế này giảm xuống còn 4%. Các đối tượng nộp thuế thông thường được áp dụng phương pháp khấu trừ thuế. Số thuế phải nộp sẽ là số chênh lệch giữa số thuế đầu ra sau khi đã khấu trừ thuế đầu vào cho giai đoạn đó. Nếu như số thuế đầu ra ít hơn hay không đủ để bù đắp thuế đầu vào thì số thuế đầu vào vượt trội đó được chuyển sang các giai đoạn tiếp theo để bù đắp. Đối tượng nộp thuế thông thường mua nông sản miễn thuế, phế liệu và dịch vụ vận chuyển, không được cung cấp hoá đơn GTGT đặc biệt sẽ được khâú trừ theo tỷ lệ là 10% theo giá thực mua. Với việc chỉ quy định một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ, còn những đối tượng có doanh số chưa đạt tới ngưỡng tối thiểu chịu thuế GTGT thì áp dụng thuế doanh thu đơn giản đã tạo thuận lợi cho công tác quản lý thuế. Thuế GTGT của Trung Quốc được áp dụng cả đối với hàng chịu thuế TTĐB, do đó rất dễ dàng trong quản lý. Đối với hàng nhập khẩu, thuế GTGT đánh trên cả thuế hải quan và thuế tiêu dùng (nếu có). - Đối với hàng xuất khẩu. Theo quy định thuế GTGT năm 1994, những hàng hoá xuất khẩu chịu thuế suất 0% và được hoàn lại số thuế GTGT đã nộp ở khâu đầu vào. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng, việc hoàn thuế đã phát sinh một số vấn đề phức tạp như: Số lượng thuế phải hoàn trả tăng lên nhanh chóng, tốc độ hoàn thuế tăng nhanh hơn cả tốc độ thu thuế và lượng xuất khẩu, tình trạng gian lận trong việc nhận các khoản hoàn thuế dẫn đến thất thu nghiêm trọng cho Ngân sách, gây cản trở cho công tác hoàn thuế kịp thời đối với những doanh nghiệp làm ăn hợp pháp. Để giải quyết những khó khăn nêu trên, Hội đồng Nhà nước đã quyết định giảm tỷ lệ hoàn thuế từ 1/7/1995 căn cứ vào gánh nặng thực tế mà các doanh nghiệp xuất khẩu phải gánh chịu, đồng thời củng cố công tác hành chính về việc hoàn thuế khi xuất khẩu. Các tỷ lệ hoàn thuế cụ thể được quy định như sau: 3% đối với nông sản và than. 10% cho các sản phẩm công nghiệp được sản xuất hay chế biến từ nguyên vật liệu nông nghiệp và các sản phẩm khác chịu thuế suất thuế GTGT 13%. 14% cho các hàng hóa chịu thuế suất thuế GTGT 17%. Đến 1/1/1996, mức hoàn thuế này được giảm xuống còn 9%. Việc giảm tỷ lệ hoàn thuế đối với hàng xuất khẩu đã có tác dụng giảm bớt sự căng thẳng đối với NSNN.Đồng thời do chú trọng tới việc đảm bảo tốc độ cũng như độ chính xác trong quá trình hoàn thuế cho nên quyền lợi của các doanh nghiệp xuất khẩu vẫn được đảm bảo, hoạt động xuất khẩu được đẩy mạnh. 1.2. Inđônêxia Luật thuế GTGT của inđônêxia được ban hành tháng 4/1985 và được áp dụng thành 3 giai đoạn: Giai đoạn I (từ năm 1985-1989): Trong giai đoạn này thuế GTGT chỉ được áp dụng cho những hàng hoá sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu với 1 mức thuế suất là 10%. Khác với luật thuế GTGT của Việt nam, theo luật thuế GTGT của Inđônêxia, những mặt hàng đã chiụ thuế TTĐB vẫn phải chịu thuế GTGT. Giai đoạn II (từ năm 1989-1994): Từ 1/4/1989, thuế GTGT được mở rộng tới người bán buôn và áp dụng đối với 21 loại dịch vụ. Về nguyên tắc, tất cả dịch vụ đều là đối tượng chịu thuế, song Inđônêxia cũng quy định một số trường hợp được miễn: dịch vụ y tế, ngân hàng, giáo dục và khách sạn (vì đã có một loại thuế địa phương đánh vào khách sạn). Giai đoạn III: Bắt đầu từ tháng 1/1995 thuế GTGT tiếp tục mở rộng đối tượng nộp thuế tới người bán lẻ. Tuy nhiên, những người bán lẻ có doanh thu dưới một ngưỡng nhất định không thuộc diện chịu thuế GTGT. Theo đánh giá của Bộ Tài Chính Inđônêxia, việc áp dụng thuế GTGT theo từng giai đoạn như trên là một trong những yếu tố dẫn đến thành công của thuế GTGT ở nước này. Một số kinh nghiệm cụ thể được rút ra từ thực tế Inđônêxia: - Về ảnh hưởng của thuế GTGT tới số thu ngân sách và giá cả: Khi áp dụng thuế GTGT, giá cả ở Inđônêxia vẫn ở mức ổn định, không tăng; Trong khi đó số thu ngân sách lại tăng lên. Năm 1989, sau 5 năm áp dụng thuế GTGT, số thu từ thuế GTGT đã tăng từ 1% lên 3,5% GDP. - Thuế GTGT của Inđônêxia chỉ có 2 mức thuế suất là 0% và 10%, điều này làm cho luật thuế GTGT của Inđônêxia rất đơn giản, thuận lợi cho công tác quản lý thuế. - Theo đánh giá của Bộ Tài Chính Inđônêxia, việc áp dụng thuế GTGT thành từng giai đoạn là một yếu tố đảm bảo sự thành công của thuế GTGT ở nước này. - Do quy định mặt hàng chịu thuế TTĐB vẫn phải chịu thuế GTGT nên Inđônêxia hầu như không gặp phải khó khăn gì trong việc xử lý đối với các loại hàng hoá này. - Quy trình hoàn thuế của Inđônêxia rất rõ ràng và có những chỉ dẫn cụ thể nên cán bộ thuế hầu như không có cơ hội để trì hoãn hoặc cản trở quá trình hoàn thuế. - Công tác tuyên truyền cho đối tượng nộp thuế cần hết sức coi trọng. Ban đầu, Inđônêxia gặp phải rất nhiều phản ứng từ những đối tượng nộp thuế do họ không biết phải làm gì để được nộp thu. Chỉ khi cơ quan thuế cung cấp những hướng dẫn cụ thể, rõ ràng đối với từng trường hợp cụ thể thì những phản ứng này mới lắng xuống. - Tình trạng gian lận GTGT được thực hiện dưới nhiều hình thức, phổ biến nhất là việc sử dụng hoá đơn giả ở khâu đầu vào nhằm tăng số thuế được khấu trừ. Cũng có một số trường hợp gian lận được đưa ra toà án, song vẫn không ngăn chặn được hiện tượng này. 1.3. Singapore Với nhận thức là việc đánh thuế đối với hàng nhập khẩu không mang tính chất là một loại thuế đánh trên GTGT nên ở Singapore không dùng tên thuế GTGT như ở các nước mà gọi là thuế hàng hoá và dịch vụ. Thuế hàng hoá và dịch vụ (GST) ở Singapore được áp dụng vào ngày 1/4/1994. Sự ban hành GST là một phần trong kế hoạch đổi mới toàn bộ hệ thống thuế của chính phủ Singapore. Điều này cho thấy sự thay đổi quan trọng trong chính sách quản lý tài chính từ việc chú trọng các loại thuế trực tiếp đánh trên thu nhập tới các loại thuế gián tiếp đánh vào tiêu dùng. Song song với việc ban hành GST, thuế suất thuế thu nhập công ty, thuế thu nhập cá nhân và thuế tài sản được giảm xuống, từ đó duy trì được tính cạnh tranh quốc tê của hệ thống thuế của Singapore . Để giảm tối đa chi phí tuân thủ và chi phí hành chính liên quan tới việc áp dụng GST cho cả đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế, đảm bảo cho hệ thống GST hoạt động có hiệu quả, GST của Singapore được xây dựng rất đơn giản: - Thuế đánh vào tiêu dùng trong nước, sử dụng phương pháp khấu trừ trên cơ sở hoá đơn và áp dụng một mức thuế suất thống nhất là 3%. - Giảm tối đa các loại hàng hoá và dịch vụ được hưởng thuế suất 0%, chỉ có xuất khẩu và một số ít dịch vụ quốc tế đặc biệt mới được hưởng thuế suất 0%. - Giảm tối đa việc miễn giảm thuế cho các loại hàng hoá và dịch vụ. - Singapore cũng quy định ngưỡng đăng ký thuế: Các doanh nghiệp có cung cấp chịu thuế hàng năm lớn hơn 1 triệu đôla Singapore đều phải đăng ký GST. Theo quy định này, chỉ có khoảng 20% tổng số doanh nghiệp (35.000 doanh nghiệp) phải thực hiện nghĩa vụ đăng ký thuế . - Khác với một số nước thực hiện miễn thuế GTGT hoặc áp dụng thuế suất 0% đối với lương thực, thực phẩm, y tế và các nhu yếu phẩm khác nhằm giúp đỡ các hộ có thu nhập thấp, Singapore cho rằng những ưu đãi như vậy có lợi cho các hộ có thu nhập cao hơn các hộ có thu nhập thấp. Chính vì vậy, hệ thống GST của singapore bao phủ hầu hết các loại hàng hoá và dịch vụ. Về giá cả: Theo kinh nghiệm của các nước, khi áp dụng GST thường chỉ gây tăng giá một lần. Lường trước sự tăng giá đó và để hạn chế đến mức thấp nhất sự lợi dụng của các nhà buôn có thể dẫn đến lạm phát, Chính phủ Singapore đã tiến hành: - Làm việc với các nhóm tiêu dùng và người bán lẻ để phổ biến với các nhà buôn và dân chúng về GST và ảnh hưởng của nó tới giá cả hàng hoá và dịch vụ. - Theo dõi chặt chẽ mọi sự tăng giá và tiến hành điều tra mọi khiếu nại về các hiện tượng gian lận của các nhà buôn. - Khuyến khích các nhà buôn không tăng giá bằng toàn bộ mức thuế GST, mà rút bớt một phần vào giá thành bù đắp bằng sự tiết kiệm tăng lên từ việc giảm thuế thu nhập công ty khi GST được thực thi. 2. Vận dụng kinh nghiệm vào Việt Nam - Để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc áp dụng thuế GTGT phải có một thời gian áp dụng thử thuế GTGT sau đó mới áp dụng rộng rãi cho mọi ngành nghề. - Không áp dụng một mức thuế suất duy nhất cho tất cả các ngành nghề để khuyến khích một số ngành nghề sản xuất phát triển cũng như hạn chế những ngành nghề không cần thiết cho nền kinh tế quốc dân. - Dần dần đưa việc thực hiện chế độ hoá đơn chứng từ, sổ sách kế toán đi vào nề nếp, đi đến việc chấm dứt không có hóa đơn. - Cần chú trọng đến công tác tuyên truyền về ý nghĩa, mục tiêu, yêu cầu của chính sách thuế mới cũng như yêu cầu về mặt nghiệp vụ để tranh thủ ý kiến của nhiều nhà khoa học, nhiều nhà quản lý cũng như nhà kinh doanh, người tiêu dùng. Đặc biệt là có sự quan tâm giải đáp thắc mắc cụ thể để tranh thủ ý kiến của nhiều nhà khoa học, nhiều nhà quản lý cũng như nhà kinh doanh, người tiêu dùng. Đặc biệt là có sự quan tâm giải đáp thắc mắc cụ thể để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp dân cư, thúc đẩy tinh thần tự nguyện, tự giác chấp hành nghĩa vụ kê khai, nộp thuế theo đúng quy định của pháp luật. - Hoà nhập chính sách thuế với các nước trong khu vực và trên thế giới. chương II tác động của thuế GTGT tới hoạt động của các doanh nghiệp I. Khái quát về viện Nghiên cứu tài chính. 1. Khái quát về Viện Nghiên cứu Tài chính. Viện nghiên cứu tài chính là cơ quan nghiên cứu trực thuộc Bộ Tài Chính, thành lập ngày 1/11/1961 với tên gọi là Viện khoa học tài chính. Từ năm 1961 đến năm 1995, Viện chỉ có một phòng nghiên cứu và một số bộ phận chức năng với số cán bộ nghiên cứu dưới 30 người hoạt động chủ yếu trong phạm vi nội bộ Bộ Tài Chính. Năm 1996, Viện đảm nhận thêm việc xuất bản “Tạp chí tài chính”, một trong những cơ quan ngôn luận của Bộ và do yêu cầu thực hiện nhiệm vụ mới nên cần phải xắp xếp lại cơ cấu tổ chức của Viện, hình thành các phòng nghiên cứu với những chức năng rõ ràng hơn Viện đã đổi tên thành Viện Nghiên cứu Tài chính (NCTC), tên giao dịch tiếng Anh là “ institute of finance reseach “ viết tắt là IFR. Viện NCTC là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Tài Chính, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại KBNN. Viện nctc có nhiệm vụ nghiên cứu, phân tích, dự báo và thông tin các vấn đề về kinh tế tài chính, tiền tệ trong nước và quốc tế, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học trong nghành tài chính và tổ chức đào tạo sau đại học và trên đại học cho các đối tượng thuộc chuyên ngành tài chính – tiền tệ. Viện nctc chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tài Chính, các hoạt động về chuyên môn thực hiện theo quy chế của Bộ Tài Chính, Bộ Khoa học công nghệ và môi trường, và Bộ giáo dục và đào tạo. 2. Cơ cấu tổ chức của Viện NCTC Tổ chức bộ máy của Viện NCTC gồm: - Ban lãnh đạo gồm có: 1 viện trưởng và 4 phó viện trưởng. - Các phòng nghiên cứu: Phòng nghiên cứu tổng hợp. Phòng nghiên cứu tài chính công. Phòng nghiên cứu thị trường tài chính. Phòng nghiên cứu tài chính thế giớivà các quan hệ tài chính quốc tế. Phòng phân tích và dự báo tài chính. - Các phòng chức năng: Phòng quản lý khoa học và đào tạo. Trung tâm thông tin và dịch vụ tài chính . Phòng hành chính, tài vụ và quản trị. Viện nctc có phân viện nctc tại thành phố Hồ chí minh. 3. Viện nctc có một số chức năng, nhiệm vụ chính như sau: - Nghiên cứu lý luận cơ bản về tài chính, tiền tệ, chính sách tài chính tiền tệ, thị trường tài chính - tiền tệ trong nước và quốc tế. - Tham mưu cho lãnh đạo bộ tài chính trong việc hoạch định các chính sách tài chính và cơ chế quản lý tài chính ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Ngoài ra viện nctc còn có những hoạt động nghiên cứu thực hiện nghiên cứu cơ bản những vấn đề tài chính - tiền tệ trong nước và quốc tế, làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách, chiến lược kinh tế- tài chính của Nhà nước, cụ thể như: ã Nghiên cứu thực trạng, xu hướng phát triển và các chính sách về tài chính, tiền tệ của Việt nam, mối quan hệ qua lại với các chính sách kinh tế khác, xây dựng cơ sở lý luận cho việc hoạch định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia. ã Nghiên cứu thị trường tài chính quốc tế, thực trạng và chính sách tài chính - tiền tệ của các nước, các tổ chức tài chính quốc tế và các mối quan hệ tài chính quốc tế, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam và làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam. ã Tổ chức công tác điều tra thống kê về tình hình tài chính tiền tệ và thực hiện phân tích đánh giá, dự báo phục vụ cho yêu cầu hoạch định chiến lược và chính sách tài chính - tiền tệ. II. Vài nét về quá trình cải cách hệ thống thuế và tiến trình áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam. 1. Cuộc cải cách thuế bước I trong các doanh nghiệp. 1.1. Sự cần thiết tiến hành cuộc cải cách thuế bước I. Đại hội Đảng VI đã vạch ra con đường đổi mới toàn diện đất nước. Đó là phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội, từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, phát triển quan hệ giao lưu với các nước trên thế giới. Những nội dung đổi mới có tác động sâu sắc tới toàn bộ hoạt động kinh tế- xã hội của đất nước, làm cho mọi cơ chế chính sách quản lý được hình thành trong thời bao cấp bộc lộ những hạn chế, không phù hợp với đường lối Đại hội VI của Đảng. Hệ thống thuế trước năm 1990 là hệ thống thuế ban hành năm 1991, đã qua nhiều lần bổ sung sửa đổi cũng bộc lộ nhiều hạn chế và không còn phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế xã hội trong giai đoạn mới. Cụ thể: - Hệ thống thuế áp dụng thời kỳ này là thuế nông nghiệp và thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh, đối với kinh tế quốc doanh áp dụng chế độ thu quốc doanh. Do vậy hệ thống thu nói chung và thuế nói riêng chưa thể hiện bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, chưa khuyến khích các thành phần kinh tế đặc biệt là thành phần kinh tế cá thể và tư nhân phát triển. - Tính hệ thống giữa các chính sách thuế chưa chặt chẽ, không bao quát hết các nguồn thu, thiếu cơ sở pháp lý, mạng tính tuỳ tiện trong vận dụng thực hiện. Với những hạn chế trên, hệ thống thuế không thích hợp với công cuộc đổi mới, cần thiết phải tiến hành công cuộc cải cách thuế. 1.2. Mục đích và nội dung của cải cách thuế bước I. Mục tiêu của cải cách thuế bước I là: Xây dựng một hệ thống thuế phù hợp với sự chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường. Thuế phải thực sự trở thành công cụ của Nhà nước trong quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Việc điều tiết của chính sách thuế thể hiện: - Khuyến khích các thành phần kinh tế hăng hái bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, làm ra nhiều sản phẩm phục vụ nhu cầu xã hội. - Khơi thông việc giao lưu hàng hoá, hình thành các loại thị trường, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. - Nâng cao tỷ lệ tiết kiệm trong sản xuất, trong tiêu dùng, giành vốn đầu tư cho phát triển sản xuất. - Mặt khác cải cách thuế 1990 còn hạn chế việc sản xuất kinh doanh những sản phẩm có hại đến lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh quốc gia. Việc đổi mới hệ thống thuế đảm bảo cho thuế thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu của NSNN. Đảm bảo thực hiện tốt yêu cầu bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Đảm bảo hệ thống thuế có tính pháp luật cao, để đạt được mục tiêu này, nội dung chủ yếu của cải cách thuế bước I tập trung: + Ban hành một hệ thống các luật, pháp lệnh thuế áp dụng thống nhất cho mọi thành phần kinh tế. Các luật, pháp lệnh thuế ra đời trong thời kỳ này bao gồm: Thuế sử dụng đất nông nghiệp (áp dụng ngày 1/1/1994) Thuế doanh thu (áp dụng tháng 10/1990) Thuế Tiêu thụ đặc biệt (áp dụng từ tháng 10/1990) Thuế lợi tức (áp dụng ngày 1/1/1991) Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (áp dụng ngày 1/3/1992) Thuế tài nguyên (áp dụng ngày 30/3/1990) Thuế thu nhập đối với người thu nhập cao (áp dụng tháng 4/1991) Thuế nhà đất (áp dụng ngày 15/7/1991) Thuế sử dụng vốn ngân sách Nhà nước (áp dụng ngày 24/1/1991) + Cải tiến hoạt động bộ máy quản lý thuế. Công tác quản lý được tập trung về cho ngành thuế với việc sát nhập cục thuế quốc doanh và cục thuế công thương nghiệp thành cục thuế, thành lập Tổng cục thuế trực thuộc Bộ tài chính. 2. Cuộc cải cách thuế bước II trong các doanh nghiệp. 2.1. Sự cần thiết tiến hành cuộc cải cách thuế bước II. Sau 5 năm thực hiện cải cách thuế bước I, hệ thống thuế nước ta đã có những chuyển biến cơ bản, thuế đã trở thành nguồn thu chủ yếu của NSNN và trở thành công cụ điều tiết nền kinh tế tầm vĩ mô. Hệ thống thuế kỳ này đã thực sự phù hợp với tình hình kinh tế nước ta trong bước đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường. Khi kinh tế thị trường ở nước ta ngày càng phát triển, quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới và khu vực ngày càng mở rộng, Việtnam đã trở thành thành viên của ASEAN, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN… thì hệ thống thuế cũ đã bắt đầu bộc lộ những yếu điểm, hạn chế không còn phù hợp với tình hình mới. Cụ thể : - Thất thu thuế còn lớn, nguyên nhân của tình trạng thất thu do việc tổ chức, quản lý chưa tốt, bản thân các chính sách thuế còn chứa đựng nhiều yếu tố chính sách xã hội nên diện miễn giảm thuế còn nhiều, chính sách thuế chưa bao quát hết diện và đối tượng nộp trong tình hình mới. - Chính sách thuế còn phân biệt đối xử quá lớn giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa thể hiện quan điểm coi trọng đầu tư trong nước. - Chính sách thuế chưa thể hiện rõ nét, cụ thể việc khuyến khích doanh nghiệp tự tích luỹ vốn để tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng nguổn thu cho Ngân sách. - Chính sách thuế, lệ phí còn nhiều chỗ bất hợp lý, chưa quản lý một cách chặt chẽ, còn gây nhiều phiền hà gây trở ngại lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. - Hệ thống thuế phức tạp, chồng chéo, trùng lắp nhất là thuế doanh thu nên hiệu quả chưa cao, chi phí hành chính (gồm chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp) cho công tác thuế quá._.đó khi bộ máy quản lý đã đạt được trình độ nhất định, theo kịp mức độ tiên tiến của thuế GTGT thì sẽ chú trọng hơn tới tính hiệu quả của loại thuế này (tức là loại bỏ tình trạng đánh thuế trùng của thuế doanh thu ). ã Về triển khai luật thuế GTGT phải bảo đảm những mục tiêu cơ bản đề ra trong chỉ thị số 44- CT/TW ngày 4/11/1998 của Bộ Chính Trị là: - Bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các cơ sở kinh doanh trong nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp ổn định được hoạt động, nâng cao năng lực quản lý, tạo thêm khả năng cạnh tranh trong và ngoài nước. - Bảo đảm không ảnh hưởng lớn đến kế hoạch thu của Ngân sách trung ương trong những năm đầu thực hiện. - Bảo đảm ổn định thị trường trong nước, tránh gây ra những biến động mạnh về giá cả, đặc biệt là giá cả vật tư, hàng hoá quan trọng cho sản xuất và tiêu dùng thiết yếu để ổn định sản xuất, không ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân. 2. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy. 2.1 Thuế suất: Chuyển từ 11 mức thuế suất thuế doanh thu xuống còn 3 mức thuế suất thuế GTGT (không kể mức thuế suất 0%) được xác định là giai đoạn đầu để dần tiến tới còn một mức thuế suất theo mục tiêu, yêu cầu đơn giản, bình đẳng, công bằng mà cải cách thuế bước II đã đặt ra. Tuy nhiên để thực hiện mục tiêu đơn giản, công bằng và bình đẳng thì về lâu dài cần thống nhất một mức thuế suất thuế GTGT khoảng 10% như một số nước xung quanh Việt Nam (Inđônêxia 10%, Hàn Quốc 10%, Trung Quốc 13% và 17%, Philippin 10%, Thái Lan 10%). Nhưng về lộ trình có thể chọn một trong hai phương án: Phương án 1: Đến năm 2005 vẫn còn hai mức thuế suất là 5%, 10% (không kể thuế suất 0% đối với xuất khẩu). Mức 5% chỉ áp dụng đối với một số mặt hàng thiết yếu, còn đại bộ phận các loại hàng hoá, dịch vụ đều áp dụng thuế suất 10%. Đến năm 2010 thì thống nhất một mức thuế suất 10% cho tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ. Phương án 2: Đến năm 2005 áp dụng thống nhất một mức thuế suất 10% cho tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ. Thực hiện phương án này bảo đảm được mức động viên theo yêu cầu của cải cách thuế bước II đề ra và bảo hộ được sản xuất trong nước do phải giảm thuế xuất khẩu xuống còn 0% - 5% vào năm 2006 theo hiệp định AFTA. Trước mắt vẫn duy trì 3 mức thuế suất 5%, 10%, 20% (không kể thuế suất 0% đối với xuất khẩu) và cần phải xử lý giảm mức thuế suất cho một số hàng hoá, dịch vụ nhưng phải đảm bảo các nguyên tắc: - Giảm mức thuế suất nhưng không làm tăng số lượng thuế suất đã quy định trong luật mà phải nhằm tới đơn giản mức thuế. - Hàng hoá, dịch vụ nào cần tạm thời phải hạ mức thuế suất, phải xem xét kỹ trong mối quan hệ sản xuất trong nước với nhập khẩu, giữa các cơ sở kinh doanh và phải áp dụng thống nhất cho cả hàng hoá nhập khẩu cũng như sản xuất ở trong nước. - Không vì những loại hàng hóa, dịch vụ này được giảm mức thuế suất mà lan rộng ra những hàng hoá, dịch vụ khác gây đảo lộn biểu thuế. - Không áp dụng mức thuế suất 0% đối với hàng hoá, dịch vụ không làm ảnh hưởng lớn đến nguồn thu của NSNN. - Việc giảm mức thuế suất phải được đặt trong mối quan hệ tương đồng với chính sách thuế của các nước và chính sách hội nhập kinh tế của Đảng và Nhà nước. - Đối với những hàng hóa, dịch vụ xử lý cho giảm thuế tạm thời phải công bố rõ thời gian áp dụng trong vòng 3 năm, hết thời hạn sẽ trở về mức thuế quy định để các doanh nghiệp có phương án phấn đấu thực hiện. 2.1 Phương pháp tính thuế: Hầu hết các nước đã áp dụng thuế GTGT đều có quy định mức doanh thu để phân biệt đối tượng nộp thuế. Ví dụ: Inđônêxia 60.000 USD/năm, Thuỵ Điển 200.000 SEK/năm, Trung Quốc 1,8 triệu NDT/năm… Đối với hộ kinh doanh có doanh số trên mức quy định phải nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ; đối với hộ kinh doanh có doanh số dưới mức quy định hoặc không phải nộp thuế GTGT mà chỉ phải nộp thuế thu nhập hoặc có nước đánh thuế GTGT nhưng lại theo một tỷ lệ ấn định trên doanh thu. áp dụng kinh nghiệm của các nước khi xây dựng luật thuế GTGT dự kiến đưa ra mức doanh thu là 600 triệu đồng/ năm, những hộ kinh doanh nhỏ có doanh thu dưới mức quy định không áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ mà áp dụng cách thu đơn giản (tính trên doanh số) như thuế doanh thu. Nhưng do đặc điểm của nước ta số hộ kinh doanh cá thể nhiều (trên 1 triệu hộ) đóng góp vào nguồn thu ngân sách đáng kể, nếu áp dụng cách thu đơn giản sợ không bình đẳng với những doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ. Vì vậy, Bộ tài chính đã có chỉ đạo tại thông báo số 41 TB/TW ngày 12/2/1997 là “ những người kinh doanh có nơi sản xuất, có cửa hàng, cửa hiệu cố định đều là đối tượng áp dụng thuế GTGT (không phân biệt hộ kinh doanh lớn, hộ kinh doanh nhỏ); những người kinh doanh không có nơi cố định thì áp dụng chế độ khoán.” Căn cứ vào thực tiễn của nước ta, căn cứ vào sự chỉ đạo của Bộ tài chính, luật thuế GTGT đã đưa ra hai phương pháp tính thuế là: Phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT. Phương pháp khấu trừ thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp được thành lập hoạt động theo luật Doanh nghiệp Nhà nước, luật Đầu tư nước ngoài, luật Công ty, luật Hợp tác xã và những hộ kinh doanh lớn chấp hành tốt chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ. Phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT áp dụng chủ yếu đối với những hộ kinh doanh cá thể chưa thực hiện tốt chế độ hoá đơn chứng từ. ứng với hai phương pháp tính thuế có hai loại hoá đơn tương ứng đó là hoá đơn giá trị gia tăng (dùng cho đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ ) và hoá đơn bán hàng (dùng cho đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp). Để dần dần tiến tới một phương pháp tính thuế cần phải từng bước triển khai công tác kế toán hoá đơn chứng từ đối với khu vực ngoài quốc doanh. Để chuyển dần họ sang nộp thuế theo phương pháp khấu trừ, trước mắt: Củng cố công tác kế toán, hoá đơn chứng từ đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để 100% hộ nộp thuế theo phương pháp kê khai, khấu trừ thuế và triển khai công tác kế toán, hoá đơn chứng từ đối với 100% số hộ cá thể kinh doanh lớn để chuyển từ khoán thuế sang nộp thuế theo phương pháp kê khai. Còn những hộ kinh doanh quá nhỏ thì miễn thuế. 2.3 Thực hiện khấu trừ thuế GTGT đối với các trường hợp sai sót. Việc khấu trừ thuế GTGT được giải quyết trên các căn cứ được xác minh thông qua: - Phản ánh đầy đủ trên hoá đơn, tuỳ mức độ mà người bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ được phép ghi trên hoá đơn. - Việc xác định đối với hàng nhập. - Việc xác định là đơn vị kinh doanh đã trả do tự cung ứng. Trong thực tế xảy ra trường hợp cơ sở cấp hoá đơn hàng bán ra sai thuế suất, ví dụ cơ sở kinh doanh máy điều hoà nhiệt độ bán máy điều hoà cho công ty điện lực dùng sản xuất kinh doanh. Khi bán, do sơ xuất của cán bộ viết hoá đơn đã ghi mức thuế suất trên hoá đơn bán hàng là 10%, thực tế mặt hàng này đã được giảm thuế suất 50% tức là chỉ còn 5%. Tháng sau, cơ sở mới phát hiện ra. Theo chế độ khoản chênh lệch do cơ sở nộp sai thuế suất không được khấu trừ. Tương tự như vậy, trường hợp hàng bán bị trả lại, hàng giảm giá không thu đủ tiền hàng theo hoá đơn bán hàng cũng không được hoàn thuế. Qua thực tế hoạt động kinh doanh, do nhiều lý do khác nhau, các cơ sở có thể bị bỏ sót thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Để đảm bảo tính chính xác của thuế GTGT cũng như đảm bảo các cơ sở không bị thiệt thòi, đề nghị chế độ thuế GTGT nên quy định: - Cho phép các cơ sở viết hoá đơn sai thuế suất được làm các thủ tục hợp thức hoá để điều chỉnh lại hoá đơn đã cấp cho đúng thuế suất quy định. - Cho phép khấu trừ hoặc hoàn lại thuế GTGT trong trường hợp hoạt động giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ thực tế bị huỷ bỏ, giảm giá không thu được đủ tiền hàng hoặc tiền dịch vụ đã ghi trên hoá đơn. - Số thuế GTGT đã nộp chưa được khấu trừ đúng thời hạn quy định do bị bỏ sót có thể vẫn được tiếp tục giải quyết thông qua các tờ khai bổ sung, nhưng tờ khai phải được gửi trước ngày 31/12 của năm tiếp liền năm bỏ sót với nội dung đúng chế độ quy định . Ngoài ra trong quá trình kiểm tra mà người nộp thuế làm đầy đủ các thủ tục điều chỉnh số liệu bỏ sót cũng được giải quyết khấu trừ theo quy định. Người bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ có sai sót trong việc ghi hoá đơn có thể làm đầy đủ các thủ tục về điều chỉnh và cấp lại cho khách hàng hóa đơn điều chỉnh về số thuế GTGT đã nộp. Từ đó khách hàng được phép làm tờ khai xin điều chỉnh và làm thủ tục khấu trừ bổ sung về thuế GTGT đã nộp và phải khai nộp trước ngày 31/12 của năm tiếp theo sau năm có hoá đơn điều chỉnh. 3. Giải pháp về công tác tổ chức thực hiện luật thuế GTGT. Đối với Việt Nam, luật thuế GTGT còn rất mới lạ đối với cán bộ thuế, các cơ sở sản xuất kinh doanh cũng như từng người dân, vì vậy để thực hiện tốt luật thuế này cần thực hiện tốt một số giải pháp sau: 3.1. Về vấn đề quản lý chứng từ hoá đơn. Hiện nay việc sử dụng hoá đơn của các cơ sở còn rất tùy tiện, hiện tượng hoá đơn bất hợp pháp lưu hành trên thị trường còn phổ biến. Vì vậy việc xây dựng chế độ quản lý hoá đơn chứng từ là điều cần thiết. Một số biện pháp cụ thể xin được đề cập để thực hiện tốt chế độ hoá đơn chứng từ như sau: ã Cần xây dựng những quy định rõ ràng, cụ thể và chặt chẽ hơn nhằm khắc phục tình trạng sủ dụng hoá đơn bất hợp pháp. Cụ thể: Quy trình số lượng chuyển hoá đơn tối đa mỗi lần mua tại các cục thuế hoặc tự in cho từng loại hình doanh nghiệp. Từ đó tránh tình trạng sau khi mua hoặc tự in một số lượng lớn hoá đơn thì giải thể. Số lượng hóa đơn này được tung ra bán trên thị trường như một hàng hoá. Không một cơ quan nào có thể quản lý được số hoá đơn này. Theo quy định hàng tháng các doanh nghiệp phải báo cáo tình hình sử dụng hoá đơn cho cục thuế. Tuy nhiên, nhiều cơ sở không thực hiện nghiêm túc việc này và cũng không bị sử phạt. Vì vậy, xin đề nghị quy định rõ mức xử lý đối với các cơ sở hàng tháng không báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn trong tháng cũng như các trường hợp làm mất hoá đơn thuế GTGT. ã Xử phạt nghiêm minh các trường hợp sử dụng hoá đơn bất hợp pháp: Các doanh nghiệp khi mua vật tư hàng hoá, dịch vụ phải sử dụng hoá đơn hợp pháp để thanh toán tiền mua hàng. Nếu cố tình sử dụng hoá đơn bất hợp pháp để thanh toán đề nghị cần được xử phạt theo các mức sau: ã Đối với người mua: Nếu là doanh nghiệp thì không cho phép vào chi phí hợp lý để tính thu nhập doanh nghiệp, trường hợp nghiêm trọng ngoài xử lý hành chính còn có thể bị truy tố hình sự trước pháp luật. - Đối với người bán: Phạt giá trị vật chất bằng số tiền ghi trên hoá đơn bất hợp pháp. Nếu nhiều lần vi phạm phải truy cứu trách nhiệm hình sự. ã Một số giải pháp khác: - Tuyên truyền phổ biến trên phương tiện thông tin đại chúng các loại hoá đơn hợp pháp trên thị trường, cách nhận biết hoá đơn bất hợp pháp. áp dụng công nghệ tin học trong hệ thống thông tin quản lý thuế trên phạm vi cả nước để có thể kiểm tra theo yêu cầu của doanh nghiệp, phát hiện nhanh nhất hoá đơn bất hợp pháp, giúp doanh nghiệp không sử dụng hoá đơn bất hợp pháp. 3.2. Hình thành và phát triển tư vấn thuế ở Việt Nam. Phát triển tư vấn thuế là một nhu cầu cần thiết không thể thiếu của các đối tượng nộp thuế trong nước và các nhàđầu tư nước ngoài tại Việt Nam.Tư vấn thuế không chỉ là một nhiệm vụ, chức năng của cơ quan thuế mà còn là biện pháp để cơ quan thuế hoàn thành tốt công tác thu nộp thuế. Để phát triển hơn nữa tư vấn thuế phục vụ cho công tác thu nộp thuế vàđáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của đối tượng nộp thuế trong nền kinh tế thị trường. Sau đây là một số giải pháp: - Thành lập một bộ phận chuyên trách làm công tác tư vấn thuế nằm trong cơ cấu tổ chức bộ máy ngành thuế có hệ thống từ trung ương đến cơ sở. Đây là một dạng dịch vụ mà cơ quan thuế cung cấp và phục vụ mọi tầng lớp nhân dân, không thu bất cứ một khoản lệ phí nào. Các trung tâm tư vấn thuế cũng cần có những công chức nghiệp vụ giỏi, tinh thần phục vụ tận tuỵ, tư cách đạo đức tốt. Các trung tâm này cũng cần được trang bị đầy đủ phương tiện, tài liệu để có thể đáp ứng được đầy đủ nhất, nhanh chóng nhất nhu cầu tìm hiểu, giải đáp thắc mắc của đối tượng nộp thuế và của nhân dân. - Đề nghị chính phủ cho phép thành lập dịch vụ tư vấn thuế như một nghề, hoạt động độc lập với cơ quan thuế. Trên thế giới hiện nay, tư vấn nói chung và tư vấn thuế nói riêng đã được coi là một nghề. Nhiều nước coi tư vấn là một ngành kinh doanh , đây là một hoạt động dịch vụ trí tuệ, cung cấp các kiến thức kinh nghiệm, hiểu biết về một lĩnh vực nào đó cho một tập thể hoặc một cá nhân có nhu cầu và hưởng dịch vụ phí. Song song với hoạt động thuế mang tính chất tư vấn dịch vụcông của cơ quan thuế, cần phải tăng cường và mở rộng hoạt động tư vấn thuế với tính chất là một dịch vụ tư. Các trung tâm tư vấn thuế tư hoạt động theo phương thức kinh doanh, tự hạch toán và tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật Nhà nước. Để khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng tư vấn thuế, đề nghị Bộ tài chính có quy định chấp nhận chi phí tư vấn thuế là chi phí hợp lý để tính thu nhập doanh nghiệp . 3.3. Cải cách hành chính thuế. Mục đích của cải cách hành chính thuế phải đảm bảo yêu cầu đơn giản hoá thủ tục nhưng bảo đảm sự kiểm soát của cơ quan thuế. Sau khi nghiên cứu quy trình quản lý thu mới và qua gần một năm thực hiện, xin đề nghị với tổng cục thuế nghiên cứu bổ sung, sửa đổi những vấn đề sau: - Một biểu khai thuế cần thống nhất với chế độ kế toán, giúp cho doanh nghiệp có thể sử dụng ngay số liệu kế toán và báo cáo tài chính để kê khai mà không cần xử lý, lại tất nhiên, báo cáo thuế có thể có những số liệu chi tiết hơn báo cáo tài chính nhưng những số liệu bổ sung này cũng chỉ là số liệu kế toán sẵn có. - Để đảm bảo thu đúng, thu đủ thuế, cơ quan thuế có quyền kiểm tra sổ sách chứng từ doanh nghiệp. Song kiểm tra không đồng nghĩa với cung cấp chứng từ, báo cáo. - Thu kịp thời là một yêu cầu quan trọng để đảm bảo nguồn thu cho ngân sách song kịp thời không có nghĩa là thu trước. Thuế GTGT chỉ thu trên phần gia tăng gía trị , nếu chưa có gia tăng giá trị không nên thu thuế GTGT, gây thêm khó khăn cho đơn vị vì phải dùng vốn kinh doanh để nộp thuế làm ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh của các đơn vị. Thuế là vấn đề ngân sách quốc gia, thị trường cũng là thị trường quốc gia, nhưng việc thu thuế lại mang tính địa phương như việc quy định công trình xây dựng ở địa phương nào nộp thuế GTGT thuế ở địa phương đó. Một công ty xây dựng có thể hành nghề ở nhiều địa phương và thường hạch toán tập trung. Như vậylà công ty không chỉ làm việc với cơ quan thuế ở địa phương có công trình phải làm nhiều bản kê khai thuế, tốn phí công đi lại, lo chứng minh đã nộp thuế ở nơi khác trình cơ quan thuế quản lý Công ty. Nếu chỉ tính thuế đầu ra còn đỡ vất vả, việc tính thuế đầu vào phải khấu trừ rất phức tạp, vật tư công ty cung cấp có thể được làm ở nhiều công trình. Vì vậy nên thu thuế tập trung ở nơi công ty đóng trụ sở là hợp lý nhất, thủ tục đơn giản việc kiểm soát cũng hiệu quả hơn. Ngoài ra phải tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục về thuế GTGT. Do thực hiện quy trình quản lý thu thuế mới , đối tượng nộp thuế tự tính thuế , kê khai, tự nộp nên công tác tuyên truyền hiểu biết về thuế là rất quan trọng. Công tác tuyên truyền thuế cần nhằm vào mục tiêu cơ bản: + Phổ cập kiến thức về thuế GTGT và các chính sách thuế khác. + Xây dựng ý thức tự giác, thực hiện nghĩa vụ công dân trong việc nộp thuế, người dân cần phải hiểu và thấy được sự cần thiết của việc mua bán lẻ phải có hoá đơn chứng từ. - Tạo lập lòng tin giữa đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế. Để đạt được mục tiêu trên cần phải đưa ra các hình thức tuyên truyền như sau: + Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng tổ chức tuyên truyền, giải thích giáo dục về thuế thường xuyên liên tục về nội dung và mục đích ý nghĩa, tác dụng của thuế GTGT. Qua đó giúp mọi người hiểu, ủng hộ, tự giác chấp hành luật thuế, giúp cơ quan thuế phát hiện sai phạm trong quá trình thực hiện thuế GTGT. + Tổ chức hội diễn văn nghệ kết hợp nội dung về thuế GTGT để tăng cường thu hút sự tìm hiểu về thuế đối với người dân. Tổ chức thi tìm hiểu về thuế GTGT trong cả nước. In áp phích tuyên truyền về thuế phát không cho các đối tượng nộp thuế và mọi người dân có quan tâm về thuế GTGT. + Phản ánh kịp thời những vướng mắc cần giải quyết của các cơ sở sản xuất kinh doanh cũng như giải quyết của các cơ quan có thẩm quyền hay giải thích cho đối tượng hiểu. Công tác kiểm tra và thanh tra thuế GTGT. - Mục tiêu kiểm tra, thanh tra thuế để xem việc tuân thủ của đối tượng nộp thuế và của cơ quan thuế có đúng quy định cuả pháp luật hay không là biện pháp có tính ngăn ngừa, phải cân đối giữa kiểm tra thuế với việc cung cấp dịch vụ thuế cho đối tượng nộp thuế. Việc kiểm tra, thanh tra phải quan tâm đến nguồn nhân lực, do đó phải chọn lọc phân loại doanh nghiệp. Cần chia thành hai bộ phận kiểm tra, thanh tra thuế đối với thể nhân và pháp nhân. - Kiểm tra, thanh tra thuế GTGT đối với thể nhân. Cơ quan thuế có thể căn cứ vào số liệu tính thuế TNDN để tính được doanh thu, hoặc dựa vào số thuế phải nộp năm trước để dự tính số thuế phải nộp. Để xác định đối tượng thuộc diện chịu thuế GTGT hay không, cơ quan thuế gửi tờ khai mẫu hướng dẫn cho từng đối tượng nộp thuế kê khai, từ đó tính được số mặt hàng, ngành hàng kinh doanh để xác định đối tượng có thuộc diện chịu thuế GTGT hay không. Công tác điều tra lựa chọn các điểm nghi ngờ hoặc chọn mẫu trọng điểm, tập trung điều tra thu thuế TNDN và thuế GTGT. Đối với thuế GTGT cần tập trung vào các đối tượng có nghi vấn, đối tượng xin hoàn thuế. - Kiểm tra thanh tra thuế GTGT đối với pháp nhân. Tổ chức điều tra tổng quát và đồng thời kết hợp điều tra trọng điểm, khi có dấu hiệu gian dối cần chú trọng về thuế GTGT của pháp nhân như: Đối tượng không đăng ký nộp thuế có đơn xin hoàn thuế, lãi gộp thấp, thực hiện các loại thuế khoá không tốt, hoạt động kinh doanh áp dụng nhiều loại thuế suất thuế GTGT. Các doanh nghiệp có hàng hoá dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT. Tiến hành điều tra thực nghiệm như sự tồn tại của doanh nghiệp, đối chiếu hồ sơ bằng cách gửi thư, công văn trao đổi, về sự thiếu sót chứng từ, hoá đơn giao dịch có thực hay không và gửi chứng từ chứng minh. Nếu phát hiện thấy sai sót thì kiểm tra trực tiếp. Nghiên cứu xây dựng hệ thống chương trình máy tính xử lý đồng bộ quy trình quản lý thuế GTGT: Dùng máy quang học để tăng tốc độ kiểm tra mã số thuế quy định cho từng đối tượng nộp thuế. Tờ khai thuế được đưa qua máy đọc quang học và xác định đối tượng nộp thuế, số thuế phải nộp, số thuế đã nộp, số thuế còn phải nộp. Nhờ vậy mới tránh khỏi những đối tượng nộp thuế và khai man thuế. Đào tạo cán bộ thuế : Cần huấn luyện bồi dưỡng cán bộ thuế trở thành những người tinh thông, nắm chắc được mục đích, ý nghĩa và cả nội dung cụ thể của thuế GTGT, đủ sức làm tuyên truyền viên giỏi và một cán bộ đủ năng lực tổ chức quản lý, thu thuế GTGT tốt. Các cuộc tập huấn không chỉ tổ chức theo lôi truyền đạt văn bản mà phải trau dồi sâu, kỹ, cụ thể. Không những thế, cán bộ thuế còn phải nắm chắc cả chế độ kế toán, kiểm toán kiểm tra, lập và xử dụng các chương trình của mạng lưới vi tính, đáp ứng được những yêu cầu của quy trình quản lý thuế mới. 3.4. Cải tiến quy chế, quy trình quản lý thu thuế : Nhằm đảm bảo việc thu thuế GTGT được triển khai thuận lợi, đạt hiệu quả cao, quy trình quản lý thu thuế được cải tiến với nội dung chủ yếu như sau: - Tất cả đơn vị kinh doanh phải kê khai đăng ký thuế và được cấp một mã số thuế để có điều kiện thuận lợi cho việc xử lý các thông tin về tình hình hoạt động, khai báo, tính thuế, thông báo thuế, đảm bảo việc tra cứu, xác định tài liệu được nhanh chóng, chính xác. Cần có sự quản lý, kiểm tra thường xuyên để phát hiện những cơ sở kinh doanh thực tế có hoạt động nhưng không chịu kê khai để được cấp mã số. - Đề cao ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế qua việc tự kiểm tra, tự tính thuế, tự kê khai, tự nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế và hoàn toàn chịu trách nhiệm về tài liệu kê khai. Tờ khai được thực hiện căn cứ trên hoá đơn, kế toán được chấp hành nghiêm chỉnh. Cán bộ thuế tập trung thời gian tăng cường kiểm tra, thanh tra, xử lý nghiêm khắc, đúng luật với các vụ vi phạm. - Ranh giới xác định phạm vi chịu thuế GTGT đối với hoạt động dịch vụ. Hiện tại các hoạt động dịch vụ tại các Công ty thương mại, công ty môi giới dịch vụ, dịch vụ thương mại, dịch vụ kiểm định hàng hoá xuất nhập khẩu, dịch vụ quảng cáo… đặc biệt là các hoạt động dịch vụ xuyên quốc gia, giao dịch thương mại thông qua quảng cáo trên Internet không thể kiểm tra đơn thuần trên sổ sách, hoá đơn thông thường được nên rất khó xác định phạm vi chịu thuế. Đây là vấn đề rất phức tạp và khó xác định, nhiều nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới cũng chưa có cách giải quyết hữu hiệu nào. Theo thông lệ quốc tế thì nguyên tắc xác định phạm vi chịu thuế đối với hoạt động dịch vụ là căn cứ vào nơi cung cấp dịch vụ và nơi được cung cấp dịch vụ. - ứng dụng mạnh mẽ công nghệ tin học trong công tác quản lý thuế, bảo đảm tính khoa học, hiện đại, phục vụ công tác đạt hiệu qủa cao…Nối kết mạng thông tin giữa hệ thống cơ quan thuế với Kho bạc Nhà nước, phục vụ việc theo dõi, đối chiếu số liệu thu thuế theo định kỳ, nối mạng giữa cơ quan thuế với các cơ quan chức năng, kịp thời theo dõi, nắm chắc cơ sở đăng ký kinh doanh, bảo đảm 100% số cơ sở thực tế kinh doanh lọt vào “ống kính quản lý” của cơ quan thuế. - Đẩy mạnh việc thu thuế qua hệ thống kho bạc, hạn chế thấp nhất các trường hợp thu thuế bằng tiền mặt, hạn chế tiêu cực có thể xảy ra. - Xác định trách nhiệm cụ thể của từng bộ phận,quy định chặt chẽ về thời gian và các thủ tục giao nhận tài liệu, cung cấp thông tin trong nội bộ các bộ phận đảm bảo nguyên tắc kiểm tra, giám sát lẫn nhau. - Để đảm bảo tính thống nhất và công bằng trong việc áp dụng thuế GTGT, trước hết cần hạn chế đối tượng nộp thuế GTGT theo hình thức khoán, hướng số đối tượng này mở sổ sách kế toán để tính thuế. Muốn vậy, Nhà nước cần ban hành những chính sách ưu đãi về thuế cùng với những chính sách hỗ trợ khác để khuyến khích họ mở sổ sách kế toán. II. Về phía doanh nghiệp. Khi thực hiện thuế GTGT từ 1/1/1999 sẽ có tác động đến các cơ sở kinh doanh cụ thể là tính thuế, hạch toán thuế GTGT khối lượng công việc nhiều hơn. Về mặt lý thuyết, thuế GTGT không ảnh hưởng đến giá thành chi phí của doanh nghiệp nhưng trong thực tế rất nhiều doanh nghiệp đã ảnh hưởng tới chi phí và giá thành: Doanh nghiệp nhập khẩu phải nộp thêm thuế GTGT hàng nhập khẩu, một số doanh nghiệp có lượng hàng tồn kho lớn không được khấu trừ và việc hoàn thuế không kịp thời cho các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp trước đây nộp thuế doanh thu ở mức thuế suất thấp nay phải nộp thuế GTGT thuế suất 10%. Điều đó dẫn đến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh và dẫn đến làm ăn thua lỗ. Vì vậy các doanh nghiệp cần có các giải pháp thích hợp nhằm chủ động tính toán phương án sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. 1. Cách lập hoá đơn chứng từ. Muốn công việc kinh doanh có hiệu quả, các doanh nghiệp cần thực hiện tốt chế độ hoá đơn chứng từ, các quy định hiện hành về thuế GTGT, đảm bảo làm ăn có lãi và thực hiện nghĩa vụ tốt với NSNN. Các doanh nghiệp có thể tăng cường chế độ hoá đơn chứng từ sổ sách kế toán như sau: ã Hoá đơn bán hàng: Việc kê khai thuế GTGT chủ yếu là dựa vào sổ sách kế toán, hoá đơn mua, bán hàng hoá, dịch vụ… Hoá đơn có thể do cơ quan thuế phát hành hoặc do đơn vị tự phát hành để tiện cho việc thanh toán, nhưng phải đăng ký mẫu hoá đơn với cơ quan thuế. Hoá đơn có nội dung thể hiện được các chỉ tiêu: Số tiền bán hàng chưa có thuế, số thuế GTGT, tổng số tiền thanh toán, số hoá đơn, tên, địa chỉ, mã số thuế của người mua, người bán. ã Sổ sách kế toán Cách ghi sổ kế toán: - Mọi đối tượng nộp thuế GTGT đều phải lập sổ kế toán ghi rõ các căn cứ xác minh hoạt động thực tế của đơn vị thuộc hoặc không thuộc diện chịu thuế GTGT. - Trên sổ sách kế toán phải được ghi chép sạch sẽ, rõ ràng, chính xác, cập nhật hàng ngày, không để chừa khoảng trống, không gạch xoá. Sổ kế toán phải được đánh số trang liên tục và phải xuất trình cho cơ quan thuế khi có yêu cầu của cơ quan thuế. - Sổ kế toán phải phản ánh được: Hoạt động chịu thuế GTGT chia ra từng loại thuế suất, hoạt động không chịu thuế GTGT, tên và địa chỉ, mã số thuế người mua. Ngoài ra còn phải thể hiện giá trị hàng hoá mua vào, thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, tên, địa chỉ, mã số thuế người bán. - Riêng đối với các hộ kinh doanh nộp thuế gtgt theo chế độ khoán được thực hiện chế độ kế toán đơn giản theo hướng dẫn của cơ quan thuế. ã Tài khoản sử dụng: Theo chế độ sử dụng tài khoản 3331- thuế GTGT phải nộp và tài khoản 133- thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ các doanh nghiệpphải thực hiện mở tài khoản theo quy định và theo dõi chi tiết hàng hoá mua vào, bán ra cũng như thuế GTGT đầu vào đầu ra. 2. Thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu. Trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi phải có nguồn hàng hoá cung ứng kịp thời. Nhiều doanh nghiệp nguồn hàng hoá trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu cả về chất lượng, chủng loại, số lượng. Do đó các doanh nghiệp phải nhập hàng hoá để đảm bảoyêu cầu kinh doanh của mình. Theo luật thuế doanh thu thì không thu thuế đối với hàng hoá nhập khẩu, nhưng theo quy định luật thuế GTGT thì doanh nghiệp nhập khẩu vật tư hàng hoá trong danh mục chịu thuế GTGT phải tiến hành nộp thuế GTGT khi nhập khẩu hàng hoá. Việc thu thuế GTGT hàng nhập khẩu là cần thiết. Tuy nhiên do các doanh nghiệp vừa phải nộp thuế nhập khẩu, vừa phải nộp thuế GTGT hàng nhập khẩu, do vậy để giảm bớt khó khăn các doanh nghiệp có đề nghị như sau: - Mức thuế suất: Đề nghị mức thuế suất thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu là 5%. Với mức thuế suất này, số thu Ngân sách có thể bị ảnh hưởng nhưng tạo điều kiện cho các mặt hàng trong nước được mở rộng, đa dạng về chủng loại và chất lượng. - Thời gian nộp thuế GTGT hàng nhập khẩunhững: Cho phép thời gian nộp thuê GTGT là 60 ngày kể từ ngày nhận được thông báo chính thức của của cơ quan hải quan về số thuế GTGT hàng nhập khẩu. 3. Vấn đề hoàn thuế. Theo quy định của luật thuế GTGT và các văn bản dưới luật đối với thuế GTGT đầu vào của TSCĐ được khấu trừ như đối với vật tư hàng hoá khác. Nếu số thuế đầu vào của TSCĐ lớn được khấu trừ dần trong 3 tháng mà số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết thì doanh nghiệp lập thủ tục yêu cầu cơ quan thuế hoàn thuế. Giải pháp xử lý này đảm bảo tính trung lập của thuế GTGT đối với hoạt động đầu tư, tiết kiệm chi phí quản lý, không phải theo dõi khấu trừ thuế, đồng thời giảm gánh nặng cho NSNN không phải hoàn thuế này. Nếu doanh nghiệp đầu tư TSCĐ với giá trị lớn sẽ gặp khó khăn rất lớn vì phải đi vay để nộp thuế GTGT đầu vào và trả lãi vay. Như vậy chi phí của doanh nghiệp tăng, hiệu quả kinh doanh giảm. Để giảm bớt khó khăn doanh nghiệp xin đề nghị: - Xét hoàn thuế theo từng tháng đối với số thuế GTGT được hoàn lớn (từ 200 triệu đồng trở lên) và xét hoàn thuế hàng quý có số thuế GTGT được hoàn nhỏ (dưới 200 triệu đồng) - Để đơn giản trong thủ tục hoàn thuế, tạo điều kiện cho các cơ sở xin hoàn thuế giảm bớt khó khăn về vốn, đề nghị cơ quan thuế làm thủ tục hoàn thuế theo số liệu của cơ sở xin hoàn thuế. Các cơ quan thuế chỉ kiểm tra định kỳ hoặc khi thấy nghi vấn. Khi kiểm tra, nếu phát hiện số liệu hoàn thuế không chính xác, cơ quan thuế xử phạt nặng hoặc đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ doanh nghiệp. Kết luận Thuế GTGT áp dụng ở Việt nam ngày 1/1/1999 thay thế cho thuế doanh thu là một loại thuế mới có sự thay đổi căn bản về cách tính thuế, biện pháp thu thuế. Việc ban hành thuế GTGT là một bước cải cách quan trọng trong hệ thống chính sách thuế của Việt nam. Sau hơn 2 năm thực hiện, thuế GTGT đã có những tác động tích cực đối với hoạt động của các doanh nghiệp như: khuyến khích đâù tư, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh; khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, sắp xếp lại cơ cấu nền kinh tế; không gây biến động về giá cả và không ảnh hưởng đến kế hoạch thu ngân sách của Nhà nước; góp phần hoàn thiện công tác quản lý hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp. Cần phải khẳng định việc ban hành và đưa vào áp dụng thuế GTGT ở nước ta là một cố gắng lớn của Đảng, Chính phủ, đặc biệt nó thể hiện sự tiến bộ đáng kể trong công tác tài chính nói chung và trong ngành thuế nói riêng. Song do đây là một vấn đề còn mới mẻ đối với cả cơ quan thuế cũng như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh - những đối tượng nộp thuế nên việc nảy sinh những vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện là điều không tránh khỏi. Do đó cần có sự xem xét, nghiên cứu những hạn chế, vướng mắc đồng thời đưa ra các biện pháp cho việc xử lý, giải quyết những vướng mắc nhằm nâng cao hiệu quả từ đó phát huy tối đa ưu thế của loại thuế này. Tài liệu tham khảo Luật thuế GTGT – Bộ tài chính 1998. Luật thuế GTGT (sửa đổi bổ sung) – Bộ tài chính 2001. Thuế GTGT và mô hình áp dụng tại Việt nam.- NXB tài chính Hà Nội 1997. Thuế và cải cách thuế ở nước ta – Bộ tài chính- Hà Nội 1990. Thông tư số 89/1998/TT-BTC hướng dẫn thi hành luật thuế GTGT. Nghị định số 28/1998/NĐ-BTC quy định chi tiết thi hành luật thuế GTGT. Nghị định số 79/2000/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành luật thuế GTGT (sửa đổi bổ sung) Báo cáo thủ tướng chính phủ về việc triển khai thực hiện các luật thuế mới. Giới thiệu về thuế GTGT của Trung Quốc 6/1997 – Wung Gengseng, cơ quan Nhà nước về thuế, CHDCND Trung Hoa. Hệ thống thuế Thuỵ điển, Inđônêxia, Hungary – Tổng cục thuế 1992. Các số báo: Tạp chí thương mại. Diễn đàn doanh nghiệp. Thời báo tài chính, thị trường tài chính, thông tin tài chính, tài chính. Thị trường giá cả. Thời báo kinh tế … trong các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, 2001. Mục lục Trung tâm thông tin và dịch vụ tài chính Thư viện Phòng nghiên cứu thị trường tài chính Phòng phân Tích dự báo Phòng nghiên cứu tài chính công Phòng nghiên cứu Tổng hợp Phòng nghiên cứu tài chính quốc tế Phòng quản lý khoa học và đào tạo Phòng tài vụ quản trị Tạp chí tài chính Viện trưởng Các phòng chức năng Các phó viện trưởng Hội đồng khoa học Hệ thống thông tin và dịch vụ tài chính Phân viện NCTC TP.HCM Các phòng nghiên cứu ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0034.doc
Tài liệu liên quan