Tăng cường hiệu quả cho vay đối với khách hàng Doanh nghiệp lớn tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) khu vực Hai Bà Trưng

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp tham gia vào thị trường với đủ loại ngành nghề,tạo nên sự sôi động cho nền kinh tế thị trường.Tuy nhiên phải nói rằng, chỉ có các doanh nghiệp lớn mới có thể khẳng định được tên tuổi của mình, giành được ưu thế trong cạnh tranh hơn so với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp lớn cũng đóng vai trò to lớn đối với một quốc gia, ảnh hưởng đến sự lớn mạnh, ổn định về kinh tế không chỉ đối với quốc gia đó,

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1228 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tăng cường hiệu quả cho vay đối với khách hàng Doanh nghiệp lớn tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) khu vực Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mà còn đối với các doanh nghiệp khác cũng như các quốc gia khác trên toàn thế giới. Thậm chí, một số doanh nghiệp lớn còn có thể đại diện cho nền kinh tế của một quốc gia. Bất cứ một doanh nghiệp nào khi bắt đầu sản xuất kinh doanh cũng như trong quá trình sản xuất kinh doanh, cũng cần có nguồn vốn nhất định. Ngoài phần vốn tự có ra, một phần rất quan trọng và hầu như chiếm toàn bộ nguồn vốn sử dụng của doanh nghiệp đó là nguồn vốn vay từ các ngân hàng. Đây là nguồn vốn ổn định và quan trọng nhất cho quá trình hình thành cũng như phát triển của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn. Với quy mô của mình, các doanh nghiệp lớn không thể chỉ dựa vào vốn tự có hay vay từ các tổ chức khác, mà tỷ trọng lớn nguồn vốn là từ vay ngân hàng. Nguồn vốn này mang lại lợi ích to lớn cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tuy nhiên cũng nhiều khi mang đến rủi ro nếu như hiệu quả cho vay không được đảm bảo. Trong hệ thống ngân hàng Công Thương Việt Nam, Chi nhánh ngân hàng Công thương khu vực Hai Bà Trưng là một trong những chi nhánh lâu đời, có nhiều thành tựu trong huy động vốn và cho vay vốn đối với các khách hàng. Trong đó, việc cho vay với các khách hàng lớn chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động của Chi nhánh, với một mức số dư tín dụng lớn, giúp đỡ cho nhiều doanh nghiệp lớn về việc huy động vốn và sử dụng vốn hiệu quả. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động của Chi nhánh ngân hàng Công Thương khu vực Hai Bà Trưng trong những năm gần đây, có thể thấy hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp lớn của Chi nhánh có nhiều thành tích , nhưng bên cạnh đó cũng vẫn còn những tồn tại. Từ đó, với đề tài “Tăng cường hiệu quả cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp lớn tại Chi nhánh ngân hàng Công Thương khu vực Hai Bà Trưng", em muốn đưa ra những kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả cho vay tại chi nhánh trên cơ sỏ đánh giá một cách chân thực về hiệu quả cho vay của chi nhánh. Chương 1 : Những vấn đề cơ bản về hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp tại Ngân hàng thương mại. 1.1. Khái quát chung về ngân hàng thương mại : Ngân hàng là một trong những trung gian tài chính có vị trí quan trọng bậc nhất đối với nền kinh tế. Hiện nay, thông thường, hệ thống ngân hàng của một quốc gia là hệ thống ngân hàng hai cấp, bao gồm ngân hàng Trung ương và ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, trong đó, ngân hàng thương mại thường có số lượng lớn, và chiếm ưu thế cả về quy mô tài sản, thị phần khách hàng cũng như mạng lưới hoạt động. Ngân hàng làm việc nhận tiền gửi và cho vay đối với nền kinh tế. So với các trung gian tài chính khác, ngân hàng là tổ chức thu hút được lượng tiền tiết kiệm lớn nhất trong dân cư. Các cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội đều gửi tiền vào ngân hàng. Trong quá trình gửi tiền, họ nhận được một khoản lãi suất, coi như lợi nhuận từ việc cho ngân hàng vay. Do đó, lợi ích của người gửi tiền gắn bó chặt chẽ với hiệu quả hoạt động của ngân hàng, hay nói cách khác là thu nhập của ngân hàng. Xét về hoạt động cho vay của ngân hàng, ngân hàng thường xuyên cho vay đối với các doanh nghiệp, nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh như mua sắm nguyên vật liệu, trang thiết bị, vật tư, xây dựng cơ sở hạ tầng ....Ngoài ra, ngân hàng cũng cho vay đối với các cá nhân trong việc đầu tư kinh doanh cũng như mua sắm các đồ dùng có giá trị lớn....Bên cạnh đó, ngân hàng còn cung cấp những phương tiện thanh toán hiện đại cho nền kinh tế, có tác dụng làm giảm lượng tiền tệ trong lưu thông như séc, uỷ nhiệm chi, thẻ thanh toán, tài khoản điện tử...Ngân hàng không chỉ cho các tổ chức cá nhân thông thường vay, mà nhiều lúc còn là người cung cấp tín dụng cho Chính phủ trong các dự án đầu tư phát triển cho cả nước. Bởi thế , ngân hàng sử dụng các chính sách kinh tế, mà trong đó quan trong nhất lề chính sách tiền tệ đã góp phần quan trọng trong việc giúp Chính phủ phát triển và ổn định nền kinh tế. Có thể nói, ngân hàng thương mại cung cấp rất nhiều dịch vụ tài chính cho nền kinh tế, đông thời thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với các tổ chức trung gian tài chính khác. Nhưng có thể thấy ba chức năng cơ bản củâ ngân hàng là : trung gian tài chính, tạo phương tiện thanh toán và là trung gian thanh toán. Ngoài ra, một số dịch vụ cơ bản của ngân hàng là : mua bán ngoại tệ, nhânj tiền gửi, cho vay, cung cấp các phương tiện giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, bảo lãnh, cho thuê thiết bị, dịch vụ uỷ thác, tư vấn, bảo hiểm, cung cấp các dịch vụ đại lý ... 1.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại : 1.2.1 Khái niệm : Ngân hàng thương mại có hai hoạt động cơ bản và đặc trưng, đó là huy động tiền gửi và cung cấp tín dụng. Huy động tiền gửi là việc thu hút nguồn vốn từ quần chúng, những nguồn vốn nhàn rỗi chưa sử dụng đến, được gửi vào ngân hàng, và ngân hàng phải trả lãi suất để có được nguồn vốn đó. Cung cấp tín dụng là việc ngân hàng với danh nghĩa là người cho vay, sẽ cho vay đối với khách hàng của mình. Đây là hoạt động mang lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng thương mại. Những khách hàng của ngân hàng trong hoạt động cấp tín dụng thường là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sản xuất kinh doanh, do đó mà có nhu cầu sử dụng vốn, nhưng lại không có sẵn nguồn vốn. Lúc này, ngân hàng làm nhiệm vụ là trung gian tài chính, với nhiều lợi nhuận nhưng cũng không kém phần nhiều rủi ro cho bản thân ngân hàng. Cho vay là một hoạt động điển hình của hoat động tín dụng. Trong “ Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng - Quyết định 1627-2001-QĐ-NHNN “ có định nghĩa về hoạt động cho vay như sau : Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. 1.2.2 Các loại hình cho vay : Các loại hình cho vay rất đa dạng, có thể dựa theo nhiều tiêu thức để phân loại như : theo thời hạn khoản vay, theo loại tiền,theo đối tượng, theo mục đích, theo hình thức đảm bảo, theo quy mô hay theo độ an toàn của khoản vay.... Theo thời hạn của khoản vay, ta có các khoản vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Theo hình thức đảm bảo, ta có các khoản cho vay có đảm bảo và các khoản cho vay không có đảm bảo. Theo độ an toàn của khoản vay , có độ an toàn cao, khác , trung bình và thấp. Theo loại tiền, ta có vay bằng VNĐ, vay bằng ngoại tệ... Tuy nhiên, một cách phân loại thường gặp nhất và hay được sử dụng nhất, đó là phân loại theo hình thức cho vay. Với cách phân loại này, ta có các loại hình cho vay như sau : 1.2.2.1 Cho vay thấu chi : Đây là hình thức cho vay cho phép người vay được chi vượt quá số tiền gửi thanh toán đến một mức nào đó trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn này là hạn mức thấu chi. Để được thấu chi, khách hàng phải làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi. Từ đó, khách hàng có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ ... vượt quá số tiền gửi để chi trả. Khi khách hàng có tiền nhập vào tài khoản tiền gửi , ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Nếu khách hàng chi tiêu quá hạn mức thấu chi thì sẽ phải chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. Hình thức thấu chi dựa trên cơ sở các khoản thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian va quy mô. Đây là hình thức tín dụng ngắn hạn, khá linh hoạt và không phức tạp, thường không có tài sản đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp cũng như cá nhân. Thấu chi chủ yếu sử dụng với những khách hàng có uy tín, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn. 1.2.2.2 Cho vay từng lần : Đây là hình thức cho vay khá phổ biến. Cho vay từng lần thường được áp dụng đối với những doanh nghiệp không có nhu cầu vay vốn thường xuyên của ngân hàng, và không có điều kiện để thoả mãn hạn mức thấu chi. Mỗi lần vay, khách hàng phải làm đơn trình ngân hàng về phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ thẩm định phương án đó, nếu thấy thoả mã thì sẽ kí kết hợp đồng cho vay, lãi suất, yêu cầu bảo đảm nếu cần thiết. Các khoản vay trong từng lần sẽ được lập thành các hồ sơ riêng biệt. 1.2.2.3 Cho vay theo hạn mức : Cho vay theo hạn mức là hình thức ngân hàng cung cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng nhất định, đảm bảo mức dư nợ cho vay của khách hàng tại ngân hàng theo như đã cam kết trong hợp đồn tín dụng . Hạn mức này được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, chu kì kinh doanh và nhu cầu vốn của khách hàng. Trong kì , khách hàng có thể vay trả nhiều lần, nhưng dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Trước khi vay, khách hàng phải trình bày kế hoạch sử dụng tiền vay, phải nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoá dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Ngân hàng, sau khi kiểm tra tính hợp lệ của chứng từ, sẽ thực hiện giải ngân cho khách hàng. Hình thức cho vay này phù hợp với những khách hàng cần vay mượn thường xuyên, ví dụ như các ngành nghề mà vốn vay tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng có quyền ấn định hạn trả nợ , dựa trên chu kì sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi nào khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ đến thu nợ, tạo sự chủ động trong quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Song, bên cạnh đó, do những lần vay không tách biệt thành những kì hạn nợ cụ thể nên gây khó khăn cho ngân hàng trong việc kiểm soát hiệu quả của từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện ra vấn đề khi khách hàng đến nộp báo cáo tài chính, hoặc dư nợ lâu không giảm sút. 1.2.2.4 Cho vay luân chuyển: Đây là hình thức cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng hoá. Khi mua hàng , doanh nghiệp có thể thiếu vốn, ngân hàng sẽ cho doanh nghiệp vay và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán được hàng. Đầu năm hoặc đầu quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng sẽ thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể trong một hoặc nhiều năm theo thoả thuận. Thời hạn ở đây không phải là thời hạn hoàn trả , mà là thời hạn để ngân hàng xem xét xem có nên cho khách hàng của mình vay tiếp không, dựa trên cơ sở hiểu biết về uy tín và tình hình kinh doanh của khách hàng. Hình thức cho vay này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu về kế hoạch luân chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới. Ngoài ra, cho vay luân chuyển cũng rất thuận lợi đối với khách hàng. Về mặt thủ tục, một hợp đồng có thể áp dụng cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, do đó việc thanh toán cho nhà cung cấp cũng trở nên nhanh gọn, đơn giản hơn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiêu thụ hàng hoá thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong thu hồi vốn do thời hạn cuả khoản vay không được quy định rõ ràng. 1.2.2.5 Cho vay trả góp : Cho vay trả góp là hình thức cho vay mà ngân hàng cho phép khách hàng được trả gốc vay làm nhiều lần trong kì hạn tín dụng đã thoả thuận. Hình thức này thường được áp dụng cho các khoản vay trung và dài hạn, các khoản tài trợ cho tài sản cố định hay hàng hoá lâu bền. Số tiền mỗi lần trả được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng. Ngân hàng cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho cửa hàng bán lẻ số hàng hoá mà khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận tiền từ ngân hàng, làm đại lí thu tiền cho ngân hàng, hoặc khách hàng trả tiền trực tiếp cho ngân hàng. Hình thức tài trợ này có tác dụng kích thích tiêu thụ hàng hoá. Cho vay trả góp có rủi ro cao, do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu người vay mất việc, ốm đau, bệnh tật, thu nhập giảm sút , thì khả năng thu nợ của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì có rủi ro cao cho nên lãi suất cho vay trả góp thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi suất của ngân hàng. 1.2.2.6 Cho vay gián tiếp : Hầu hết các khoản cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Tuy nhiên, ngân hàng cũng đồng thời phát triển các hình thức cho vay gián tiếp, cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng cho vay với các tổ chức xã hội như: các tổ đội hội, nhóm sản xuất, Hội nông dan, Hội chiến binh, hội phụ nữ....Các tổ chức này được lập ra với mục đích hỗ trợ, liên kết các thành viên, bảo vệ quyền lợi của mỗi thành viên. Vì vậy, những mục tiêu chung của xã hội như xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế luôn được các tổ chức này quan tâm. Ngân hàng cho các tổ chức này vay, các tổ chức này lại đứng ra đảm bảo cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm đứng ra bảo lãnh cho một thành viên vay. Điều này rất có lợi khi người vay không có hoặc không đủ tài sản đảm bảo thế chấp. Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đàu vào của quá trình sản xuất. Cho vay cách này giúp hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích. Cho vay gián tiếp thường được áp dụng cho thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng, như vậy sẽ tiết kiệm chi phí vay, nhằm giảm bớt rủi ro. Tuy nhiên, nó cũng có thể gặp rủi ro khi mà các trung gian lợi dụng vi thế của mình để tăng lãi suất cho vay lại, hoặc giữ lấy tiền của các thành viên cho riêng mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng bán những sản phẩm kém chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn. 1.2.3 Quy trình cho vay : Quy trình cho vay là tập hợp các bước tiêu chuẩn, được lập ra ngằm hướng dẫn các cán bộ tín dụng thực hiện khi cấp tín dụng cho khách hàng. Một quy trình cho vay hợp lý có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả cho vay của ngân hàng đó. Quy trình cho vay thông thường bao gồm các bước như sau : 1.2.3.1 Phân tích doanh nghiệp trước khi cho vay : Nội dung chủ yếu của phân tích trước khi vay bao gồm thu thập và xử lý thông tin liên quan đến khách hàng, như năng lực sử dụng vốn vay, uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận, các điều kiện về kinh tế của người đi vay... - Các cách thức thông thường để thu thập và xử lý thông tin : + Phỏng vấn trực tiếp : cách này rất quan trọng và hiệu quả, giúp cho cán bộ tín dụng loại bỏ được những thông tin sai lệch từ các báo cáo “ ma “ + Thu thập thông tin qua các trung gian : các trung gian ở đây có thể là các cơ quan quản lý, bạn hàng, chủ nợ khác,....Qua phân tích mối quan hệ giữa các trung gian với người vay, có thể biết được về uy tín cũng như khả năng tài chính của họ. + Nghiên cứu các thông tin trong các báo cáo tài chính với một khoảng thời gian đủ lớn của khách hàng, các thông tin về đội ngũ ban lãnh đạo , nhân sự,....từ đó ngân hàng có thể ước tính được nhu cầu về vốn, khả năng sinh lời của khách hàng ... - Nội dung phân tích : + Đánh giá tài sản của khách hàng : Tài sản của khách hàng được coi như tài sản đảm bảo cho khoản tiền vay,tạo khả năng thu hồi nợ khi khách hàng không còn khả năng thanh toán. Tài sản của khách hàng – doanh nghiệp được thể hiện trong bảng cân đối kế toán, bao gồm : Ngân quỹ, các giấy tờ có giá, hàng hoá trong kho, tài sản cố định.... + Đánh giá các khoản nợ : Ngân hàng quan tâm tới tất cả các khoản nợ của khách hàng, xét theo hầu hết các tiêu thức, và quan tâm đến cả những chủ nợ của khách hàng. + Phân tích luồng tiền : Việc trả nợ ngân hàng liên quan chặt chẽ đến ngân quỹ của người vay. Trong khi đó, bảng cân đối tài sản không phản ánh được hết các khoản mục liên quan tới dòng tiền. Để hỗ trợ cho ngân hàng cũng như khách hàng,cần dự kiến các luồng tiền cũng như kế hoạch chi tiêu. Kế hoạch này ghi lại vận động hàng tháng của các khoản tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các khoản thanh toán hàng tháng. + Sử dụng các chỉ số tỷ lệ : Đó là các tỷ lệ có khả năng phản ánh năng lực tài chính và khả năng trả nợ của người vay mà ngân hàng xây dựng và sử dụng. Các tỷ lệ này sẽ được áp dụng trong phân tích đối với từng khoản vay, từng người vay với một số điều kiện cụ thể. Các nhóm tỷ lệ đó là : nhóm tỷ lệ thanh khoản, nhóm tỷ lệ sinh lời , nhóm tỷ lệ rủi ro, nhóm tỷ lệ đo khả năng tài trợ bằng vốn tự có. + Các điều kiện kinh tế : Đây là các điều kiện bên ngoài, có tác động đến những tính toán ban đầu về khả năng thu hồi vốn trong tương lai của khách hàng. Những yếu tố này bao gồm, thiên tai, thay đổi chín trị, khủng hoảng kinh tế,.... Những yếu tố đó có thể tác động trực tiếp đến khách hàng và có thể gây tổn thất cho ngân hàng. 1.2.3.2 Xây dựng và kí kết hợp đồng tín dụng : Hợp đồng tín dụng ghi lại thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng, nội dung chủ yếu là việc ngân hàng cung cấp một khoản tín dụng nhất định trong một thời gian và lãi suất cố định cho khách hàng. Một số mục cơ bản trong hợp đồng là thông tin khách hàng, mục đích sử dụng vốn vay, hạn mức tín dụng, lãi suất khoản vay, các loại đảm bảo, giải ngân, điều kiện thanh toán, các điều kiện khác. 1.2.3.3 Giải ngân và kiểm soát trong khi cho vay : Sau khi kí kết hợp đồng tín dụng, ngân hàng có trách nhiệm cấp tiền cho khách hàng như đã thoả thuận. Cùng với việc cung cấp vốn, ngân hàng còn thực hiện việc kiểm soát khách hàng : sử dụng tiền vay có đúng mục đích , đúng tiến độ hay không, quá trình sản xuất kinh doanh có thay đổi gì không, có dấu hiệu thua lỗ hay lừa đảo gì không ? Qua đó, ngân hàng có thể thu thập thêm thông tin về khách hàng, từ đó cho biết chất lượng khoản vay có được đảm bảo không, nếu không thì có thể đưa ra các biện pháp xử lý kịp thời. Khi đó, ngân hàng có thể thu hồi nợ trước thời hạn, ngừng giải ngân, có thể yêu cầu khách hàng bổ sung thêm tài sản thế chấp, giảm số tiền vay....khi cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng. Đối với ngân hàng, đây là bước đi nguy hiểm, tuy nhiên rất cần thiết, nhằm ngăn chặn việc sử dụng tiền vay không đúng mục đích của khách hàng. 1.2.3.4 Thu nợ hoặc ra các quyết định cho vay mới : Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng đã thu được cả gốc và lãi. Các khoản vay đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản vay an toàn. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những trường hợp do các biến động bất ổn trong hoạt động của khách hàng mà các khoản tín dụng không được thanh toán hoặc thanh toán không đúng hạn. Lúc này, ngân hàng phải xem xét và tìm nguyên nhân để đưa ra những quyết định mới liên quan đến tính an toàn của khoản tín dụng. Nếu khách hàng có dấu hiệu lừa đảo, cố tính không trả đúng hạn, ngân hàng sẽ lập tức áp dụng phương pháp thanh lí, thu hồi khoản nợ bằng cách phong toả, thế chấp các tài sản đảm bảo, tước đoạt các khoản tiền gửi...Nếu khách hàng có khó khăn về tài chính, nhưng vẫn tích cực tìm cách khắc phục trả nợ thi ngân hàng có thể áp dụng các biện pháp như gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm. 1.2.4 Vai trò của hoạt động cho vay : Như trên đã phân tích, cho vay là một hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, đồng thời là một trong những hoạt động tín dụng cơ bản của ngân hàng. Do đó, cho vay có vai trò rất quan trọng đối với ngân hàng, với các doanh nghiệp là khách hàng của ngân hàng, thậm chí là đối với cả nền kinh tế. Đối với ngân hàng : Ban đầu, hoạt động cho vay chưa là một trong những nghiệp vụ của ngân hàng thương mại, nhưng khi kinh tế ngày một phát triển, nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp ngày càng cao, cùng với đặc điểm của ngân hàng là có nhiều nguồn vốn huy động được mà không sử dụng trong cùng một thời điểm nên hoạt động cho vay đã ra đời và ngày càng phát triển, trở thành hoạt động chính và mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng. Tỷ trọng cho vay trong tổng tài sản của ngân hàng ngày càng cao. Cùng với hoạt động này, ngân hàng thực hiện đầy đủ chức năng của một trung gian tài chính trong nền kinh tế. Tóm lại, hoạt động cho vay của ngân hàng đóng vai trò quan trọng không thể thiếu trong sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại. Đối với khách hàng : Hình thành cơ cấu vốn : Trong nền kinh tế thị trường, hầu như các doanh nghiệp đều sử dụng hai nhóm nguồn vốn chủ yếu là vốn tự có và vốn đi vay để sản xuất kinh doanh. Điều này giúp cho doanh nghiệp giảm gánh nặng trong việc phải tự bỏ ra một số vốn lớn ban đầu, có thể làm chậm quá trình đầu tư sản xuất kinh doanh, mà trong thương trường, thì ra quyết định đúng thời điểm là điều rất quan trọng. Nguồn vốn đi vay có thể giải quyết được điều đó. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp muốn vay bao nhiêu cũng được, mà còn tuỳ thuộc vào các quy định của ngân hàng cho vay cũng như quy định của nhà nước, đồng thời tuỳ thuộc vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Bởi vậy, doanh nghiệp phải xây dựng một cơ cấu vốn tối ưu, kết hợp một cách hợp lý các nguồn vốn nhằm tối đa hoá giá trị thị trường của doanh nghiệp tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất. Mở rộng sản xuất : Một doanh nghiệp muốn ngày càng lớn mạnh thì cần phải mở rộng sản xuất, cũng như mở rộng thị trường kinh doanh cho mình. Thị trường ở đây không chỉ có thị trường nội địa mà còn phải tính đến thị trường nước ngoài. Muốn mở rộng sản xuất, đôi khi các doanh nghiệp phải nhập khẩu những tư liệu sản xuất hay các sản phẩm đầu vào từ nước ngoài. Khi đó ngân hàng sẽ sử dụng nghiệp vụ bảo lãnh, mở thư tín dụng tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Còn khi doanh nghiệp là người xuất khẩu, ngân hàng sẽ đóng vai trò là ngân hàng thông báo thu hồi vốn cho họ. Như vậy, ngân hàng với các hình thức tín dụng phù hợp đã thực sự trở thành người bạn đồng hành đối với các doanh nghiệp trong quá trình mở rộng sản xuất kinh doanh cũng như mở rộng thị trường tiêu thụ. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh : Tín dụng ngân hàng không phải chỉ đơn thuần là hoạt động cấp phát vốn mà là sự hoàn trả gốc và lãi theo thời gian quy định. Trước khi cho doanh nghiệp vay, ngân hàng đã có sự kiểm tra kĩ lưỡng về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó mới ra quyết định cho vay, đồng thời trong quá trình vay cũng như sau khi cho vay, ngân hàng luôn theo dõi sự tiến triển trong hoạt động kinh doanh của khách hàng, đưa ra các biện pháp làm ăn hiệu quả cho khách hàng của mình, đảm bảo là doanh nghiệp hoạt động có lãi, có đủ khả năng trả nợ cho ngân hàng. Vì vậy, doanh nghiệp luôn trong trạng thái phải duy trì việc hoat động kinh doanh hiệu quả để có thể thu hồi lại vốn, trả nợ lãi và giữ lại được lợi nhuận. Đồng thời, ngân hàng luôn cùng doanh nghiệp tháo gỡ những khó khăn trong phạm vi cho phép, tư vấn cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. 1.3. Hiệu quả cho vay đối với các doanh nghiệp lớn của ngân hàng thương mại : 1.3.1. Khái niệm hiệu quả cho vay đối với các doanh nghiệp lớn : Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu về khái niệm doanh nghiệp lớn. Việc phân chia các doanh nghiệp có thể thực hiện theo nhiều tiêu chí khác nhau. Nếu nói đến doanh nghiệp lớn, có nghĩa là ta đang phân loại doanh nghiệp theo quy mô, độ lớn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia, thì việc phân chia lại cũng khác nhau, và ở từng thơi kì cũng khác nhau. Do đó khái niệm doanh nghiệp lớn chỉ mang tính chất tương đối. Ở Việt Nam, doanh nghiệp lớn là doanh nghiệp có số vốn đăng kí trên 10 tỷ đồng, số lao động trung bình hàng năm trên 300 người. Các doanh nghiệp lớn ở nước ta đều là những doanh nghiệp có uy tín, khẳng định được thế mạnh của mình và đóng vai trò tích cực trong công cuộc phát triển đất nước. Hoạt động cho vay của ngân hàng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng, nhưng đồng thời cũng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro nhất. Hiệu quả của hoạt động cho vay ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động tín dụng và kinh doanh của ngân hàng. Do đó, đối với mỗi đối tượng khách hàng khác nhau, ngân hàng phải đánh giá hiệu quả cho vay, để từ đó có định hướng, giải pháp khắc phục các hạn chế cũng như đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cho vay của ngân hàng. Hiệu quả của hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp lớn được thể hiện trên hai góc độ kinh tế và xã hội. Xét trên góc độ kinh tế: có thể coi hiệu quả cho vay là lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay. Đối với ngân hàng, đó là chênh lệch giữa lãi vay với lãi huy động và các khoản chi phí khác. Còn đối với doanh nghiệp , đây là khoản thu nhập hợp lí so với dự kiến ban đầu, khoản thu này giúp cho doanh nghiệp tái sản xuất giản đơn và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Xét trên góc độ xã hội : Các doanh nghiệp lớn ở Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, do đó hoạt động cho vay của ngân hàng đối với các doanh nghiệp này nếu đạt được hiệu quả sẽ góp phần thực hiện các mục tiêu của Nhà nước như : cân bằng kinh tế giữa các thành phần, các vùng miền, tạo công ăn việc làm cho người dân, đưa đất nước đi lên và có thể hội nhập, sánh vai với các nền kinh tế lớn mạnh khác trên thế giới. Nói tóm lại, có thể hiểu là hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp lớn là sự đáp ứng nhu cầu vay hợp lý của các doanh nghiệp và nhu cầu đó phải phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội và phải đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. 1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay : Hiệu quả cho vay đạt được khi ngân hàng đạt được những mục tiêu đề ra, đó là an toàn, sinh lợi, thoả mãn tối đa nhu cầu vốn của khách hàng. Để đo lường mức độ đạt được những mục tiêu đó, ngân hàng đã đề ra các chỉ tiêu định tính cũng như định lượng, đánh giá chất lượng của hoạt động tín dụng. Nhóm các chỉ tiêu định lượng được tính toán dựa trên các thông số về hoạt động cho vay để đánh giá chất lượng cho vay. Nhóm các chỉ tiêu định tính thể hiện cho vay phải đảm bảo các quy chế,thể lệ tín dụng và đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội. 1.3.2.1. Các chỉ tiêu định lượng : a. Chỉ tiêu định lượng đo lường mức an toàn : Ÿ Nhóm chỉ tiêu về dư nợ : Trước hết, ta cần biết đến một số quy định như sau : - Tỷ trọng tổng dư nợ của ngân hàng đối với một khách hàng không được vượt quá 15 % vốn tự có của ngân hàng so với tỉ lệ quy định. Nếu ngân hàng có thể đảm bảo cho vay dưới tỷ lệ này thì tính an toàn sẽ cao hơn, còn khi số dư nợ tăng hơn 15% vốn tự có của ngân hàng thì rủi ro đối với ngân hàng sẽ tăng lên, khi đó khách hàng sẽ không thể thanh toán đủ và kịp thời hạn của khoản nợ, do đó làm giảm chất lượng tín dụng, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. - Tỷ lệ tổng dư nợ cho vay của ngân hàng đối với một nhóm khách hàng không được vượt quá 50% vốn tự có của ngân hàng. Ngân hàng có thể giảm thiểu rủi ro bằng cách cho vay đối với nhiều khách hàng, một nhóm khách hàng thay vì chỉ cho vay đối với một khách hàng. Tuy nhiên, phải đảm bảo là đối với mỗi nhóm khách hàng thì dư nợ cho vay không vượt quá tỉ lệ đã quy định. - Tỷ trọng dư nợ cho vay đối với một khách hàng, ví dụ như đối với một doanh nghiệp lớn ( DNL ) : Dư nợ cho vay DNL Tỷ trọng dư nợ cho vay DNL = ______________________________ x 100 Tổng dư nợ - Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay : phản ánh khả năng mở rộng tín dụng trong một thời kì. Chỉ số này > 1 thì quy mô cho vay tăng lên. Dư nợ cho vay kì này Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay = _______________________________ Dư nợ cho vay kì sau Ÿ Nhóm chỉ tiêu về nợ quá hạn : Nợ quá hạn là những khoản nợ vẫn chưa được thanh toán khi đã hết thời hạn trả nợ theo như hợp đồng giữa ngân hàng và khách hàng, và có thể tính thêm thời gian gia hạn nếu có. Chỉ tiêu nợ quá hạn được tính như sau : Tổng dư nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = ___________________________________ Tổng dư nợ Tỷ lệ nợ quá hạn thấp cho thấy hiệu quả cho vay của ngân hàng cao, tính an toàn cao. Tỷ lệ nợ quá hạn cao thì cho kết quả ngược lại, cho thấy ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong phân phối luồng tiền, hoặc mất khả năng thanh toán. Ÿ Nhóm chỉ tiêu về tỷ lệ nợ được xếp theo nhóm (từ nhóm 1 đến nhóm 5): Theo quyết định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Quyết định 18-2007-QĐ-NHNN, các món nợ của tổ chức tín dụng có thể phân thành 5 nhóm như sau : Nợ nhóm 1 : nợ đủ tiêu chuẩn Nợ nhóm 2 : Nợ cần chú ý Nợ nhóm 3 : nợ dưới tiêu chuẩn Nợ nhóm 4 : nợ nghi ngờ Nợ nhóm 5 : nợ có khả năng mất vốn Sau khi phân loại nợ thành các nhóm từ 1 đến 5 , ta xác định tổng dư nợ từng nhóm, rồi so sánh với tổng dư nợ để biết được chất lượng cho vay của ngân hàng một cách cụ thể. Tỷ lệ sau được sử dụng nhằm xem xét tình hình các nhóm nợ cần chú ý và có khả năng gây tổn thất cho ngân hàng ( các nhóm từ 2 đến 5 ). Tổng dư nợ theo nhóm ( từ 2-5 ) Tỷ lệ nợ nhóm 2-5 = ____________________________________________ Tổng dư nợ b. Các chỉ tiêu định lượng đo lường mức sinh lời : Đó là các chỉ tiêu phản ánh hoạt động thu lãi : Lãi từ hoạt động cho vay thực thu Tỷ lệ thu lãi thực tế = ___________________________________________________ Lãi dự thu từ hoạt động cho vay Lãi treo Tỷ lệ thu lãi treo = _____________________ Lãi dự thu 1.3.2.2. Các chỉ tiêu định tính : Các chỉ tiêu này để đánh giá những yếu tố tác động đến hiệu quả cho vay, nhưng là những yếu tố trừu tượng. Ÿ Việc thực hiện luật và các văn bản, chế độ hiện hành của ngành về hoạt động tín dụng. Nếu ngân hàng thực hiện đúng những yêu cầu , hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước thì có thể giảm được rủi ro cho ngân hàng. Ÿ Mức đáp ứng nhu cầu vốn cho khách hàng : điều này thể hiện thông qua việc ngân hàng có đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng đủ và kip thời hay không. Bên cạnh đó còn là mức độ đầy đủ, nhanh chóng, thuận tiện, chi phí giao dịch và thời gian khách hàng phải bỏ ra để có khoản vay. Ÿ Hiệu quả từ việc sử dụng vốn vay của khách hàng : khách hàng khi sử dụng vốn vay vào hoạt động sản xuất kinh doanh phải đạt được mục tiêu đề ra, hoàn trả đủ gốc và lãi cho ngân hàng, và đảm bảo vẫn có lợi nhuận giữ lại. Ÿ Sự đóng góp của hoạt động cho vay đến phát triển kinh tế xã hội : hoạt động cho vay sẽ góp phần làm cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn, tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật, tăng khối lượng hàng hoá lưu thông, tạo việc làm ổn định cho người lao động. 1.3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của ngân hàng : Hoạt động cho vay của ngân hàng là một hoạt động có tính rủi ro cao. Hiệu quả cho vay phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có thể chia ra thành 4 nhóm nhân tố chính, đó là : các nhân tố thuộc về ngân hàng, các nhân tố thuộc về khách hàng, các nhân tố thuộc về môi trường vĩ mô, các nhân tố bất khả kháng. 1.3.3.1. Các nhân tố thuộc về ngân hàng : Ÿ Chính sách tín dụng : là những hướng dẫn chung nhất cho việc thực hiện các hoạt động tín dụng đối với các cán bộ và nhân viên ngân hàng, giúp cho hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động c._.ho vay nói riêng được thực hiện một cách thống nhất và hiệu quả. Mỗi thời kì khác nhau ngân hàng lại có những chính sách tín dụng khác nhau đề phù hợp với hoàn cảnh, tình hình hiện tại. Các chính sách này có tác động trực tiếp đến hoạt động cho vay của ngân hàng, nếu chính sách hợp lý sẽ làm cho hoạt động tín dụng được hạn chế những rủi ro và nâng cao lợi nhuận có thể đạt được. Ÿ Phân tích tín dụng : Đây là lúc ngân hàng thu thập thông tin về khách hàng để ra quyết định có nên cho khách hàng vay hay không. Những thông tin mà ngân hàng cần thu thập là xem xét mức độ đáng tin cậy của khách hàng, việc đảm bảo sử dụng nguồn vốn vay hiệu quả, cũng như các tài sản đảm bảo cho khoản vay... Nếu trong giai đoạn này, ngân hàng có những phân tích tốt, thì sẽ đưa ra quyết định cho vay và đem lại hiệu quả của khoản vay đó. Ÿ Quy trình tín dụng : Nếu ngân hàng trong quá trình cho vay, thực hiện các bước trong quy trình tín dụng một cách nhịp nhàng và hiệu quả, có thể sẽ tìm ra những sai sót trong quá trình thực hiện việc cho vay của nhân viên ngân hàng cũng như phát hiện ra những điểm khiếm khuyết từ người đi vay , từ đó có biện pháp ngăn ngừa một cách có hiệu quả, giảm thiểu tối đa rủi ro có thể gặp phải. Bên cạnh đó, một quy trình tín dụng rõ ràng, dề hiểu sẽ khiến cho khách hàng cảm thấy an toàn và tin tưởng khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Ÿ Thông tin tín dụng: Thông tin tín dụng chính là những thông tin mà ngân hàng thu thập được về khách hàng cũng như các đối tượng liên quan trước khi quyết định cho vay. Thông tin càng đầy đủ, chính xác, kịp thời thì rủi ro trong cho vay càng được hạn chế, ngân hàng có thể hoạt động một cách an toàn và sinh lời. Ÿ Chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng : Trong suốt quá trình cho vay, hầu như toàn bộ sự tiếp xúc của khách hàng với ngân hàng là thông qua đội ngũ cán bộ tín dụng. Bởi thế, đạo đức nghề nghiệp và chuyên môn là hai yếu tố rất quan trọng cần có ở một cán bộ tín dụng. Bên cạnh đó, họ cũng phải là người nắm bắt được một cách nhanh nhất những tiến bộ về khoa học công nghệ để áp dụng vào quá trình phục vụ khách hàng ngày một hiệu quả hơn. Ÿ Trình độ công nghệ : việc ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào quá trình phân tích quản lý các khoản vay của ngân hàng có tác động rất lớn đến hiệu quả cho vay. Nếu công nghệ càng hiện đại, thì các bước trong quy trình cho vay có thể được giảm bớt, khiến cho việc đánh giá khoản vay dễ dàng hơn, tạo tâm lí thoải mái cho khách hàng , thu hút thêm khách hàng đến với ngân hàng. Ngoài ra, nó còn giúp tiết kiệm chi phí quản lí, chi phí giao dịch..., nâng cao khả năng cạnh tranh cho ngân hàng. Ÿ Công tác tổ chức quản lý của ngân hàng : Nếu công tác tổ chức quản lý được thực hiện một cách chuyên nghiệp, ngân hàng sẽ đưa ra những quyết định cho vay đúng đắn, kịp thời phát hiện những sai sót trong quá trình cho vay, do đó cũng góp phần làm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. 1.3.3.2. Các nhân tố thuộc về khách hàng : Khách hàng là người đi vay, là một trong hai chủ thể trong hoạt động cho vay. Do đó, khách hàng cũng có một tầm quan trọng to lớn liên quan đến hiệu quả của món vay. Ảnh hưởng của khách hàng có thể xét trên hai góc độ, đó là khả năng và ý chí trả nợ của khách hàng. Ÿ Khả năng trả nợ : Trước hết , khi nói về khả năng trả nợ, phải nói về tiềm lực tài chính của khách hàng, thể hiện qua nguồn vốn tự có. Nếu tỉ lệ vốn tự có trên tổng nguồn vốn càng cao thì khả năng tự chủ của doanh nghiệp càng lớn, doanh nghiệp có mức độ an toàn tín dụng cao hơn. Có nghĩa là có khả năng trả nợ cao hơn so với các doanh nghiệp khác có tỉ lệ này thấp. Ngoài ra, còn phải kể đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, trong một thời kì đủ dài để có thể đưa ra một quyết định về việc cho vay. Kết quả kinh doanh sẽ cho thấy thực lực, khả năng tạo ra lợi nhuận của khách hàng, từ đó cũng phản ánh khả năng trả nợ của khách hàng. Bên cạnh đó, uy tín của khách hàng cũng là điều cần phải xem xét. Nếu khách hàng là người có uy tín, thì sẽ làm cho ngân hàng tin cậy và ra quyết định cho vay, từ đó cũng đảm bảo khoản vay được sử dụng hiệu quả hơn. Ÿ Ý chí trả nợ và đạo đức của khách hàng : điều này thể hiện sự trung thực của khách hàng trong việc tuân thủ các cam kết với ngân hàng trong quá trình vay và trả nợ. Ý chí trả nợ là tinh thần tích cực, thể hiện tinh thần quyết tâm trả nợ cho ngân hàng . 1.3.3.3. Các nhân tố thuộc về môi trường vĩ mô : Ÿ Môi trường pháp lý : bao gồm các chính sách pháp luật được ban hành nhằm quản lý hoạt động của các tổ chức. Các ngân hàng luôn phải tuân theo các chính sách do Ngân hàng Nhà nước đế ra, ví dụ như các chính sách về các quy định về tỉ lệ đảm bảo an toàn, quy mô khoản vay, giới hạn cho vay ... Ÿ Môi trường kinh tế : Do đặc tính hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, cho nên hoạt động của ngân hàng rất nhạy cảm với những diễn biến của nền kinh tế. Môi trường này không những tác động đến khả năng cho vay của ngân hàng, đến các chính sách cho vay của ngân hàng, mà còn có tác động đến người đi vay, một chủ thể trong quan hệ tín dụng, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. 1.3.3.4. Các nhân tố bất khả kháng : Các nhân tố này là những nhân tố không thể biết trước được như thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh. ... Khi những nhân tố này xuất hiện, thường có tác động sâu rộng, nặng nề với cả nên kinh tế nói chung và các chủ thể trong quan hệ tín dụng nói riêng. Một số khoản vay trong những thời điểm này rất khó thậm chí không thể thu hồi lại được. Chương 2 : Thực trạng chất lượng cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp lớn tại Chi nhánh ngân hàng Công thương khu vực Hai Bà Trưng ( từ năm 2006 đến năm 2008 ) 2.1 Khái quát về Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Hai Bà Trưng : 2.1.1 Quá trình hình thành phát triển : Trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia sự hình thành và phát triển của các tổ chức tài chính, tín dụng như Ngân hàng là hết sức quan trọng. Cũng theo xu hướng chung đó Việt Nam hiện nay sự phát triển và đóng góp của các Ngân hàng cho nền kinh tế cũng rất lớn, hệ thống các Ngân hàng cũng ngày càng nhiều hơn như các Ngân hàng tư nhân, cổ phần… và cũng không thể không kể đến vai trò của hệ thống Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng là một Chi nhánh của Ngân hàng công thương Việt Nam (NHCT). Năm 1998 Hội đồng Bộ Truởng ban hành Nghị Định số : 53/HĐBT ngày 26/03/1998 về tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam chuyển sang cơ chế Ngân hàng hai cấp. Sau khi thực hiện Nghị định trên từ một Chi nhánh Ngân hàng Nhà Nước cấp Quận và một Chi nhánh Ngân hàng kinh tế cấp Quận thuộc địa bàn Quận Hai Bà Trưng, trực thuộc Ngân hàng Nhà Nước Thành phố Hà Nội chuyển thành Ngân hàng Công Thương Thành phố Hà Nội thuộc Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Sau quyết định số : 93/NHCT-TCCB ngày 01/04/1993 của Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam sắp xếp lại bộ máy tổ chức NHCT trên địa bàn Hà Nội theo mô hình quản lý hai cấp của NHCT Việt Nam, bỏ cấp thành phố, hai Chi nhánh NHCT khu vực I và II Hai Bà Trưng là những Chi nhánh trực thuộc NHCT Việt Nam được tổ chức hạch toán kinh tế và hoạt động như các Chi nhánh NHCT cấp Tỉnh, Thành phố. Kể từ ngày 01/09/1993, theo Quyết định của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam, sáp nhập chi nhánh NHCT khu vực I và Chi nhánh NHCT khu vực II Hai Bà Trưng. Và từ đó trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng Hà Nội chỉ còn duy nhất một Chi nhánh NHCT. Tại Quyết định số : 107/QĐ- HĐQT- NHCT1 của Hội đồng quản trị NHCT1, Chi nhánh NHCT- khu vực Hai Bà Trưng được đổi tên thành Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng. Cho đến nay, NHCT- Hai Bà Trưng đã vượt qua những khó khăn ban đầu và ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong nền Kinh tế thị trường, đứng vững và phát triển trong cơ chế mới, chủ động mở rộng mạng lưới giao dịch, đa dạng hoá các dịch vụ Kinh doanh tiền tệ. Ngoài ra, NHCT Hai Bà Trưng còn thường xuyên tăng cường việc huy động vốn và sử dụng vốn, thay đổi cơ cấu đầu tư phục vụ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng phát triển kinh tế của đất nước là đến năm 2020 nước ta cơ bản là một nước Công nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực hiện chiến lược đa dạng hoá các phương thức, hình thức, giải pháp huy động vốn trong và ngoài nước, đa dạng hoá các hình thức kinh doanh và đầu tư, từ năm 1993 trở lại đây NHCT- Hai Bà Trưng đã thu được nhiều kết quả trong hoạt động kinh doanh, từng bước khẳng định mình trong môi trường kinh doanh mới mang đầy tính cạnh tranh. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức : 2.1.2.1 Mô hình tổ chức tại Chi nhánh NHCT – HBT Theo quyết định số : 36/ QĐ- TCHC ngày 15/05/2006 có hiệu lực kể từ ngàt 01/06/2007. Trong đó Ban Giám đốc gồm 1 Giám đốc và 3 Phó Giám đốc. Phòng tín dụng được chia thành phòng khách hàng Doanh nghiệp lớn, khách hàng DN vừa và nhỏ, khách hàng cá nhân. Phòng Quản lý rủi ro, Phòng thanh toán xuất nhập khẩu, Phòng Kế toán giao dịch, Phòng thông tin điện toán, Phòng tổng hợp, Phòng tiền tệ kho quỹ, Phòng tổ chức hành chính. Ngoài ra còn các Chi nhánh giao dịch. Ban giám đốc Phòng KH cá nhân Phòng KHDN vừa &nhỏ Phòng KH DN lớn Phòng Tiền tệ kho quỹ Các phòng giao dịch Phòng Kế toán giao dịch Phòng Tổng hợp Phòng quản lý rủi ro Phòng Tổ chức Hành Chính Phòng Thanh toán XNK Phòng Thông tin điện toán 2.1.2.2 Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban tại NHCT- HBT Phòng Khách hàng doanh nghiệp lớn ( KH số1) Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh nghiệp lớn về khai thác vốn bằng VND và ngoại tệ ; Thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của NHCT VN. Trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng cho các doanh nghiệp lớn. Phòng Khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ ( KH số 2) Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N), để khai thácvốn bằng VND và ngoại tệ ; Thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của NHCTVN. Trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng cho các DNV&N. Phòng Khách hàng cá nhân Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các cá nhân, để khai thác vốn bằng VND và ngoại tệ ; Thực hiện các nghiệp vụ với khách hàng là các cá nhân, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của NHCTVN. Trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng cho khách hàng cá nhân. Phòng quản lý rủi ro (Bao gồm cả quản lý nợ có vấn đề) Phòng quản lý rủi ro có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc Chi nhánh về công tác quản lý rủi ro của Chi nhánh ; Quản lý giám sát thực hiện danh mục cho vay, đầu tư đảm bảo tuân thủ các giới hạn tín dụng cho từng khách hàng. Thẩm định hoặc tái thẩm định khách hàng, dự án, phương án đề nghị cấp tín dụng. Thu cj hiện các chức năng đánh giá, quản lý rủi ro trong toàn bộ các hoạt động ngân hàng theo chỉ đạo của NHCTVN. Chịu trách nhiệm về quản lý và đề xuất xử lý các khoản nợ có vấn đề (bao gồm các khoản nợ : cơ cấu lại thời hạn trả nợ, nợ quá hạn, nợ xấu tại các phòng có cho vay) quản lý, khai thác và xử lý tài sản đảm bảo nợ vay theo quy định của Nhà nước nhằm thu hồi các khoản nợ gốc và lãi tiền vay đối với các khoản nợ xấu theo chỉ đạo của Giám đốc Chi nhánh.Quản lý, theo dõi, đề xuất các biện pháp và phối hợp với các Phòng có liên quan thu hồi các khoản nợ đã được xử lý rủi ro. Phòng kế toán giao dịch Là phòng nghiệp vụ thực hiện các giao dịch trực tiếp với khách hàng : Các nghiệp vụ và công việc liên quan đến công tác quản lý tài chính, chi tiêu nội bộ tại Chi nhánh ; Cung cấp các dịch vụ Ngân hàng liên quan đến nghiệp vụ thanh toán, xử lý hạch toán các giao dịch. Quản lý và chịu trách nhiệm đối với giao dịch trên máy, quản lý quỹ tiền mặt đến từng giao dịch viên theo đúng quy định của Nhà nước và NHCTVN. Thực hiện nhiệm vụ tư vấn cho khách hàng về sử dụng các sản phẩm Ngân hàng. Phòng thanh toán xuất nhập khẩu Là phòng nghiệp vụ tổ chức thực hiện nghiệp vụ về thanh toán xuất nhập khẩu và kinh doanh ngoại tệ tại Chi nhánh theo quy định của NHCTVN Phòng tiền tệ kho quỹ Phòng tiền tệ kho quỹ là phòng nghiệp vụ quản lý an toàn kho quỹ, quản lý quỹ tiền mặt theo qui định của Ngân hàng Nhà nước và NHCTVN. Ứng và thu tiền cho các quỹ tiết kiệm, các điểm giao dịch trong và ngoài quầy, thu chi tiền mặt cho các doanh nghiệp có thu, chi tiền mặt lớn. Phòng tổ chức hành chính Phòng Tổ chức Hành chính là phòng nghiệp vụ thực hiện công tác tổ chức cán bộ và đào tạo tại Chi nhánh theo đúng chủ trương chính sách của Nhà nước và quy định của NHCTVN, thực hiện công tác bảo vệ, an ninh an toàn Chi nhánh. Phòng thông tin điện toán Thực hiện công tác quản lý, duy trì hệ thống thông tin điện toán tại Chi nhánh, bảo trì bảo dưỡng máy tính đảm bảo thông suốt hoạt động của hệ thống mạng, máy tính của Chi nhánh. Phòng Tổng hợp Phòng tổng hợp là phòng nghiệp vụ tham mưu cho Giám đốc Chi nhánh dự kiến kế hoạch kinh doanh, tổng hợp, phân tích đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh, thực hiện báo cao hoạt động hàng năm của Chi nhánh. Các Phòng giao dịch Huy động tiền gửi của dân cư và các tổ chức kinh tế trên địa bàn, cho vay đối với các thành phần kinh tế theo đúng chế độ. 2.1.3 Tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Hai Bà Trưng từ năm 2006 đến năm 2008 : 2.1. 3.1 Công tác huy động vốn Trong những năm gần đây hoạt động kinh tế chung của cả nước có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động Ngân hàng nói chung và công tác huy động vốn nói riêng. Vốn kinh doanh chủ yếu dựa vào các Ngân hàng nên cũng làm cho việc huy động vốn gặp rất nhiều khó khăn.Nhìn chung Công tác huy động vốn của NHCT- HBT đạt chỉ tiêu được được giao, tính cho đến năm 2008 tổng nguồn vốn huy động vốn đạt 107,6% kế hoạch của NHCTVN giao. Về tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của Chi nhánh Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động năm 2006 là 11,7% (năm 2005 tăng 5,5%), so với tốc độ tăng trưởng của các Ngân hàng trên địa bàn Hà Nội nói chung thì Chi nhánh tăng trưởng vẫn ở mức rất thấp (Tổng nguồn vốn các NH trên địa bàn Hà Nội đạt 232.000 tỷ tăng 32,3%, trong đó tiền gửi dân cư tăng 31,6% ; Tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng 32,8% ). Nếu so với các Chi nhánh NHCT trên địa bàn Hà Nội thì Chi nhánh có mức tăng trưởng tương đối ( các chi nhánh NHCT tăng 13.5%). Năm 2006 xét về thị phần huy động vốn trên địa bàn Hà Nội thì các NHTM nhà nước vẫn thể hiện được ưu thế chủ đạo (chiếm 72,7% tuy nhiên thị phần chỉ còn 72,7% giảm 3,4%) Về lãi suất huy động vốn NHCTVN chỉ đạo đã ổn định hơn so với năm 2005 (L/S VND ổn định, chỉ có L/s huy động ngoại tệ có thay đổi tăng tích cực theo thị trường), tuy nhiên mặt bằng chung thì lái suất hệ thống NHCT là thấp nhất. Năm 2007 là 16%, so với tốc độ tăng trưởng của các Chi nhánh NHCT trên địa bàn Hà Nội nói chung thì Chi nhánh có tốc độ tăng trưởng cao hơn (các chi nhánh NHCT tăng 8,4%) tuy nhiên so với các Chi nhánh : Ba Đình, Đống Đa, Cầu Giấy, Cầu Diễn, Đông Anh, Yên Viên, Bắc Hà Nội, Hoàng Mai thì tỷ lệ tăng trưởng nguồn vốn của Chi nhánh còn rất thấp, nhất là tiền gửi dân cư chúng ta có tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn mức bình quân và xếp thứ 10 trong 12 đơn vị. Năm 2008 là 80,1% , so với tốc độ tăng trưởng của các chi nhánh NHCT trên địa bàn Hà Nội thì có tốc độ tăng trưởng rất cao, chủ yếu tăng nguồn của các tổ chức kinh tế.Năm 2008 đầy những khó khăn cho công tác huy động vốn : lạm phát vẫn diễn biến phức tạp, vấn đề lãi suất huy động vốn luôn nóng bỏng bắt đầu tăng từ những tháng đầu năm, việc NHNN nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM đã làm cho tình hình cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng quyết liệt hơn...Với những khó khăn của thị trường đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới công tác huy động vốn của chi nhánh , tuy chi nhánh đạt vượt kế hoạch 7,6 % về tổng nguồn vốn huy động và tăng trưởng rất cao so với năm 2007, nhưng tiền gửi VND giảm, tiền gửi từ dân cư giảm. Cơ cấu nguồn vốn Nếu phân theo loại tiền Trong ba năm trở lại đây do tỷ giá ngoại tệ luôn có sự thay đổi nên làm ảnh hưởng lớn đến sự cơ cấu nguồn vốn.Nguồn vốn huy động bằng VND năm 2006 chiếm tỷ trọng 79,8%, năm 2007 chiếm tỷ trọng 84,3% trong tổng nguồn vốn huy động, năm 2008 chiếm 44,7 % . Nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ chiếm tỉ trọng 55,3% trong tổng nguồn vốn huy động ( năm 2007 là 15,7% ). Năm 2008 là năm có sự chuyển dịch tỷ lệ cơ cấu nguồn VND và ngoại tệ thay đổi lớn nhất, tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm tỉ trọng cao hơn TG bằng VND,trong khi nguồn VND giảm so với năm 2007. Nếu phân theo tính chất tiền gửi Năm 2006 tiền gửi dân cư chiếm tỷ trọng 61,6% trong tổng nguồn vốn huy động. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng 11,3% so với năm 2005 và thường xuyên biến động do nguồn vốn này là tiền gửi thanh toán. Năm 2007, tiền gửi dân cư chiếm tỷ trọng 51,1% trong tổng nguồn vốn huy động, tỷ trọng giảm 7% so với năm 2006. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế chiếm tỷ trọng 38,7% trong tổng nguồn vốn, trong năm xu hướng nguồn vốn này giảm lớn thời gian đầu năm và tăng trưởng nhanh vào tháng cuối năm. Bảng 1 : Số liệu về tình hình huy động vốn của NHCT-HBT từ năm 2005-2008 Chỉ tiêu TH 31/12/2005 (Tr. đ) TH 31/12/2006 (Tr. đ) %So sánh TH 31/12/2007 (Tr. đ) %So Sánh TH 31/12/2008 ( Tr.đ) % so sánh Tổng Nguồn Vốn huy động 2.416.939 2.700.815 111,7 3.132.945 116 5.166.911 180,1% Theo t/c tiền gửi - Tiền gửi TCKT 931.621 1.036.902 111,3 1.405.002 135,5 3.895.156 277,8% - Tiền gửi dân cư 1.485.318 1.663.913 112 1.727.943 103,8 1.271.755 86,7% Theo loại tiền - Tiền gửi bằng VND 1983.642 2.156.719 108,7 2.652.764 123 2.307.689 95,3% - Tiền gửi bằng ngoại tệ (quy VND) 433.297 544.096 125,5 480.181 88,3 2.859.222 636,9% 2.1.3.2 Công tác tín dụng Hoạt động tín dụng của NHCT- HBT gần đây có đạt được những kết quả khả quan đáng ghi nhận, do đã quan tâm hơn nhiều đến công tác tiếp thị và chăm sóc khách hàng, giải quyết những khó khăn vướng mắc để phát triển công tác tín dụng đặc biệt là chất lượng tín dụng được đảm bảo. Bảng 2: Số liệu về công tác Tín dụng của NHCT-HBT từ năm 2005-2008 Chỉ tiêu TH 31/12/2005(Tr. đ) TH 31/12/2006(Tr. đ) % So sánh TH 31/12/2007 (Tr. đ) % So sánh TH 31/12/2008 ( Tr.đ) % so sánh Tổng dư nợ cho vay 740.111 686.481 92,75 684.930 102,5 847.544 123,7 Phân theo kỳ hạn nợ - Dư nợ CVNH 512.635 474.570 92,57 477.034 100,8 500.561 104,9 - Dư nợ CVTH 61.486 70.151 114,1 63.230 117,8 33.116 52,3 - Dư nợ CVDH 147.222 122.738 83,3 144.665 102,4 313.687 216,8 Phân theo loại tiền - Dư nợ bằng VND 547.016 405.508 74,1 401.213 103,6 503.392 125,4 - Dư nợ ngoại tệ(quy VND) 193.095 280.973 145,5 283.717 101 344.152 121,3 Về tổng dư nợ cho vay nền kinh tế của Chi nhánh NHCT- HBT : Năm 2006 tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế chỉ đạt 85,8% so với kế hoạch NHCTVN giao, so với năm 2005 giảm 7,25% trong khi dư nợ cho vay của NHTM trên địa bàn Hà Nội tăng 26,4%(trong đó NHTM nhà nước tăng 9,8% thị phần còn59.2% giảm 5,1%), khối NHCP tăng 43.4%, NH liên doanh tăng 26,4% thì khối NHCT trên địa bàn giảm 10% tỷ lệ sử dụng vốn huy động để cho vay trực tiếp thấp chiếm chưa đầy 30% điều này làm giảm hiệu quả kinh doanh rất lớn của NH. Trong năm 2007 dư nợ cho vay có khả quan hơn nhiều khi đạt được 91,3% so kế hoạch NHCTVN giao cho, tăng so với năm 2006 là 2,5% và còn thấp hơn so với NHCT trên địa bàn Hà Nội(dư nợ của các NHCT tăng 14,8%). Tuy tỷ lệ tăng trưởng còn thấp nhưng hoạt động tín dụng của Chi nhánh được coi là an toàn và ít rủi ro có chất lượng. Năm 2008 tổng dư nợ cho vay nền kinh tế của chính phủ đạt 89,2% so với kế hoạch NHCTVN giao, so với năm 2007 tăng 23,7% cao hơn so với tốc độ tăng của các chi nhánh NHCT trên địa bàn Hà nội. Trong điều kiện chi nhánh phải thắt chặt tiền tệ, kiềm chế tăng trưởng dư nợ trong 6 tháng đầu năm, những tháng cuối năm chỉ tiêu kế hoạch có nới rộng nhưng lãi suất tăng cao, tình hình kinh doanh ở hầu hết các doanh nghiệp hết sức khó khăn nên đã giảm nhu cầu vay vốn nên dư nợ không đạt được kế hoạch giao. Kể từ năm 2006, khi bắt đầu thực hiện các QĐ 070; 071 ;072/QĐ-HĐQT ngày 3/4/2006 của HĐQT- NHCTVN ban hành nhằm tăng cường hoạt động tín dụng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của NH nhằm sàng lọc khách hàng. Do vậy khi áp dụng các doanh nghiệp đã gặp nhiều khó khăn vướng mắc vì trên thực tế nhiều khách hàng có vốn chủ sở hữu thấp, tình hình tài chính không lành mạnh, tài sản bảo đảm tiền vay không đủ điều kiện chặt chẽ mà NH đưa ra đối với khách hàng vay. Trong hoàn cảnh hiện nay khi nền kinh tế đã chịu tác động lớn của nền kinh tế thế giới, việc kinh doanh ngày càng trở nên khắt khe hơn nhưng nguồn vốn kinh doanh của các doanh nghiệp chủ yếu vẫn dựa vào các tổ chức tín dụng như NH thì điều kiện vay vốn tại các NH đã trở nên chặt chez hơn rất nhiều. Điều này đối với các NH cũng là điểm khó khăn chung và điều này đã tác động trực tiếp tới nguồn vốn huy động cũng như tới tổng dư nợ cho vay. Đối với các khoản vay có cầm cố tài sản, hay khoản vay được bảo đảm bằng đất đai, bất động sản cũng đang gặp rất nhiều khó khăn không chỉ đối với Chi nhánh mà là khó khăn chung đối với khách hàng vay vốn. Bởi lẽ có rất nhiều đất đai bất động sản của các doanh nghiệp, và khách hàng khác gặp rắc rối về giấy tờ quyền sử dụng đất. Việc tiến hành cho vay đối với những khách hàng có cầm cố tài sản đặt ra rất nhiều vấn đề đối với công tác tín dụng và tăng trưởng tín dụng tại Chi nhánh. Chẳng hạn như căn cứ định giá tài sản thế chấp chưa đầy đủ và việc thẩm định giá tài sản chưa thực sự mềm dẻo các Ngân hàng trên địa bàn định giá nhà đất còn chênh lệch nhau nhiều điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tín dụng. Cùng với xu thế phát triển chung, trong những năm tới thị trường bất động sản sẽ ngày càng phát triển hơn vì thế Chi nhánh sẽ đẩy mạnh công tác huy động vốn từ nguồn thị trường này và có sự quan tâm hơn tới công tác tín dụng với những khoản vay có cầm cố bằng tài sản và bất động sản. Những chính sách, quy định về cho vay có thế chấp bằng đất đai, bất động sản đang được quan tâm và hoàn thiện hơn nhằm thực hiện tốt công tác tín dụng cũng như góp phần phát triển thị trường bất động sản trong những năm tới. Đó là bước chuyển hướng chiến lược quan trọng thúc đẩy phát triển công tác tín dụng cũng như trong sự phát triển của Chi nhánh. 2.1.3.3 Công tác tài trợ Thương mại Trong năm 2006 công tác thanh toán xuất nhập khẩu và tài trợ thương mại đã có mức tăng trưởng cao so với năm 2005, tuy nhiên nếu xét về doanh số hoạt động cũng chưa phải là lớn, nguyên nhân chính đó là Chi nhánh chưa tăng trưởng được tín dụng đối với các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu. Đến năm 2007 công tác thanh toán xuất nhập khẩu của Chi nhánh có nhiều thuận lợi hơn so với các năm trước do hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của cá khách hàng truyền thống có mức tăng trưởng khá và Chi nhánh đã chủ động tích cực có những chính sách ưu đãi vì thế các chỉ tiêu đều tăng trưởng cao so với năm 2006, góp phần vào hiệu quả kinh doanh của Chi nhánh. Năm 2008 công tác thanh toán xuất nhập khẩu của Chi nhánh không thuận lợi do 6 tháng cuối năm tình hình kinh tế thế giới suy thoái nên hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp khó khăn và giảm sút, dẫn đến doanh số thanh toán xuất nhập khẩu của chi nhánh bị ảnh hưởng. 2.1.3.4 Hoạt động dịch vụ Dich vụ hệ thống Ngân hàng cung cấp cho khách hàng vẫn chủ yếu là các dịch vụ truyền thống ( Tiền gửi, tiền vay, thanh toán và ngân quỹ ), việc ứng dụng công nghệ hiện đại, dịch vụ Ngân hàng hiện đại còn hạn chế, thiếu sản phẩm phục vụ nhu cầu đa dạng của các tổ chức và cá nhân. Do đó ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng thu phí dịch vụ và tỷ lệ chiếm trong tổng thu nhập còn thấp. Về hoạt động thanh toán Công tác kế toán thanh toán là một trong những hoạt động quan trọng của Ngân hàng Thương mại. Chi nhánh đã không ngừng hoàn thiện phong cách lề lối làm việc, triển khai kịp thời các chương trình ứng dụng công nghệ Ngân hàng hiện đại đảm bảo thanh toán kịp thời chính xác và an toàn cho khách hàng. Với khối lượng vốn luân chuyển lớn trong giao dịch thanh toán của các doanh nghiệp, công tác thanh toán ngày càng phức tạp và đòi hỏi khẩn trương hơn, tuy nhiên Chi nhánh đã tổ chức tốt việc giao dịch một cửa ngày càng ổn định và thuận lợi hơn nên đã giữ vững được uy tín đối với khách hàng. Dịch vụ thẻ Số lượng phát hành thẻ năm 2006 đạt 47,5% so với kế hoạch, đưa số lượng phát hành thẻ đến 31/12/2006 là 10399 thẻ tăng 49,5% so với năm 2005. Số dư bình quân tại tài khoản tiền gửi là 8 tỷ đồng tăng 5 tỷ, bằng 150% so với năm 2005, Điều đó chứng tỏ chất lượng thẻ Chi nhánh phát hành tốt hơn năm 2005. Cũng về vấn đề này tại năm 2007, số lượng thẻ ATM phát hành là 7442 thẻ so kế hoạch đạt 93% đưa số lượng thẻ phát hành đến 31/12/2007 là 17781 thẻ tăng 71,9% so với năm 2006. Năm 2008 là 12.862 thẻ, so với năm 2007 tăng 72,8%. Ngoài ra trong 3 năm gần đây Chi nhánh cũng đã đưa dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế vào triển khai, các bộ phận liên quan cũng nhanh chóng nắm bắt triển khai quy trình nghiệp vụ để thực hiện nhanh chóng và tốt hơn. Tuy nhiên kết quả về phát hành thẻ tín dụng quốc tế và phát triển các cơ sở chấp nhận thẻ tín dụng của Chi nhánh còn hạn chế ( thẻ tín dụng quốc tế đạt 15,8% kế hoạch, không thực hiện được phát triển cơ sở chấp nhận thẻ) đòi hỏi sự quan tâm hơn nữa từ các phòng ban nghiệp vụ có liên quan. 2.1.4 Tồng quan về Phòng Khách hàng doanh nghiệp lớn tại Chi nhánh ngân hàng Công thương khu vực Hai Bà Trưng : 2.1.4.1 Nhiệm vụ, chức năng Theo quyết định của Ngân hàng Công thương Việt Nam, Phòng Khách hàng Doanh nghiệp lớn được tổ chức với các chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là phòng xem xét và đưa ra các quyết định tín dụng đối với khách hàng doanh nghiệp lớn. Phòng có các nhiệm vụ và chức năng cơ bản sau: Chức năng: là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh nghiệp lớn, để khai thác vốn bằng VND & ngoại tệ; thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến tín dụng, quản lý các sản phẩm tín dụng phù hợp với các chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của Ngân hàng Công thương Việt Nam, trực tiếp quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu và bán các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho các doanh nghiệp lớn. Nhiệm vụ: -Khai thác nguồn vón bằng VND và ngoại tệ từ khách hàng doanh nghiệp lớn. -Thực hiện tiếp thị, hỗ trợ, chăm sóc khách hàng, tư vấn cho khách hàng về các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng Công thương Việt Nam: Tín dụng, đầu tư, chuyển tiền, mua bán ngoại tệ, thanh tóan xuất nhậo khẩu, thẻ, dịch vụ ngân hàng điện tử….; Làm đầu mối bán các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng Công thương VN đến các khách hàng là doanh nghiệp lớn. Nghiên cứu đưa ra các đề xuất về cải tiến sản phẩm dịch vụ hiện có, cung cấp những sản phẩm dịch vụ mới phục vụ cho khách hàng là doanh nghiệp lớn. -Thẩm định, xác định, quản lý các giới hạn tín dụng cho các khách hàng có nhu cầu giao dịch về tín dụng và tài trợ thương mại, trình cấp có thẩm quyền quyết định theo qui định của Ngân hàng Công thương Việt Nam. -Thực hiện các nghiệp vụ tín dụng và xử lý giao dịch: Nhận và xử lý đề nghị vay vốn, bảo lãnh và các hình thức cấp tín dụng khác; thẩm dịnh khách hàng, dự án, phương án vay vốn, bảo lãnh và các hình thức cấp tín dụng khác theo thẩm quyền và quy định của Ngân hàng Công thương VN; Đưa ra các đề xuất chấp thuận,từ chối đề nghị cấp tín dụng, cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khách hàng trên cơ sở hồ sơ và kết quả thẩm định; Kiểm tra giám sát chặt chẽ trong và sau khi cấp các khỏan tín dụng. Phối hợp với các phòng liên quan thực hiện thu gốc, thu lãi, thu phí đầy đủ, kịp thời đúng hạn, đúng hợp đồng đã kí; Theo dõi quản lý các khoản cho vay bắt buộc. Tìm biện pháp thu hồi khoản vay này. -Quản lý các khoản tín dụng đã được cấp; quản lý tài sản đảm bảo theo quy định của Ngân hàng Công thương VN. -Thực hiện nhiệm vụ thành viên Hội đồng tín dụng, Hội đồng miễn giảm lãi, Hội đồng xử lý rủi ro. -Cung cấp hồ sơ, tài liệu, thông tin khách hàng cho Phòng tổ quản lý rủi ro để thẩm định độc lập và tái thẩm định theo qui định của chi nhánh và Ngân hàng Công thương VN. -Cập nhật, phân tích thường xuyên hoạt động kinh tế, khả năng tài chính của khách hàng đáp ứng yêu cầu quản lý hoạt động tín dụng. -Thực hiện chấm điểm xếp hạng tín dụng đối với khách hàng có nhu cầu giao dịch và đang có quan hệ giao dịch tín dụng với chi nhánh. -Phản ứng kịp thời những vấn đề vướng mắc về cơ chế, chính sách, quy trình nghiệp vụ và những ván đề mới nảy sinh, đề xuất biện pháp trình Giám đốc chi nhánh xem xét, giải quyết. -Lưu trữ hồ sơ số liệu, làm báo cáo theo quy định hiện hành. -Tổ chức học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ phòng. -Làm công tác khác khi được Giám đốc giao. 2.1.4.2.Vai trò của Phòng khách hàng Doanh nghiệp lớn trong Chi nhánh : Phòng khách hàng Doanh nghiệp lớn tại chị nhánh là phòng có số dư cho vay chủ yếu trong cả Chi nhánh, đồng thời cũng tạo ra doanh thu chủ yếu. Tình hình sử dụng vốn của phòng quyết định lợi nhuận và rủi ro của Chi nhánh. Có thể đưa ra 1 vài dẫn chứng cụ thể như sau: dư nợ cho vay nền kinh tế chiếm lần lượt 53,79%; 47,67%, 60,49% trong các năm 2006, 2007 và 2008. Như vậy, doanh thu và lợi nhuận của Chi nhánh cũng như tính an toàn của các khoản vay được quyết định tới hơn 50% là tại Phòng khách hàng doanh nghiệp lớn. Thêm vào đó, đối tác trong các hợp đồng tín dụng của Phòng Khách hàng doanh nghiệp lớn là những đối tác doanh nghiệp lớn, sử dụng nhiều dịch vụ Ngân hàng tại Chi nhánh, từ đó sẽ tăng doanh thu từ các hoạt động dịch vụ, đồng thời tăng thêm nguồn vốn huy động tiền gửi từ các doanh nghiệp lớn này. Như vậy, hoạt động của Phòng khách hàng doanh nghiệp lớn là hoạt động khá quan trọng, chiếm hơn một nửa doanh thu của cả Chi nhánh. 2.1.4.3.Quy trình cho vay tại Phòng khách hàng doanh nghiệp lớn : Theo các quy định trong “Sổ tay tín dụng năm 2004 Ngân hàng Công thương”, quy trình cho vay tại phòng Khách hàng doanh nghiệp lớn gồm các bước như sau : Tiếp nhận và hứng dẫn khách hàng lập._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22342.doc
Tài liệu liên quan