Tăng cường huy động vốn tại Công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

Tài liệu Tăng cường huy động vốn tại Công ty cổ phần Viglacera Hà Nội: ... Ebook Tăng cường huy động vốn tại Công ty cổ phần Viglacera Hà Nội

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1484 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tăng cường huy động vốn tại Công ty cổ phần Viglacera Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài: Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi theo hướng kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập kinh tế khu vực cũng như toàn cầu. Hệ thống doanh nghiệp không ngừng được đổi mới và phát triển theo hướng đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp, loại hình công ty và hình thức sở hữu. Với trên 30 năm xây dựng, phát triển và trưởng thành, đến nay Viglacera đã trở thành một Tổng công ty hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng và đầu tư kinh doanh hạ tầng công nghiệp và dân dụng. Các sản phẩm của Viglacera không những nổi tiếng ở trong nước mà đã đi đến nhiều Quốc gia trên thế giới. Viglacera còn được biết đến là một Tổng công ty mạnh trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp và khu đô thị. Công ty cổ phần Viglacera Hà Nội là một trong 31 đơn vị thành viên của Tổng công ty Viglacera, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng, gạch trang trí. Đặc trưng của ngành vật liệu xây dựng là một ngành kinh tế thâm hụt vốn, các tài sản của nó là những tài sản nặng vốn và chi phí cố định của ngành khá cao. Để đảm bảo cho sự ra đời, tồn tại và phát triển, doanh nghiệp phải có các yếu tố cơ bản cho việc thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Các yếu tố chính của các hoạt động sản xuất kinh doanh đó là: Vốn, lao động và tài nguyên. Trong đó: Vốn là yếu tố quan trọng nhất của quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp. Khi một doanh nghiệp hạn chế về vốn sẽ dẫn đến hạn chế về khả năng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, tăng cường năng lực công nghệ…và sẽ dẫn đến hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc gia nhập nền kinh tế thị trường đã và đang đặt ra nhiều thách thức cho doanh nghiệp. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Tăng cường huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội” làm nội dung nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của mình. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu cơ sở lý luận vốn, nguồn vốn và phương thức huy động vốn kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Phân tích đánh giá thực trạng huy động vốn của Công ty những năm qua, làm rõ những thành công và hạn chế hoạt động huy động vốn của Công ty cổ phần Viglacera Hà Nội. Từ đó đề xuất giải pháp tăng cường huy động vốn của Công ty cổ phần Viglacera Hà Nội. Đối tượng phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn về vốn, nguồn vốn, phương thức huy động và thực trạng huy động vốn của công ty cổ phần Viglacera Hà Nội. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Hoạt động huy động vốn tại Công ty cổ phần Viglacera. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp nghiên cứu thống kê, so sánh, điều tra, phân tích đánh giá tổng hợp, hệ thống hóa để đánh giá thực trạng huy động vốn tại Công ty cổ phần Viglacera Hà Nội. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo; luận văn được kết cấu theo 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn trong doanh nghiệp Chương 2: Thực trạng huy động vốn của công ty cổ phần Viglacera Hà Nội. Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn cho công ty cổ phần Viglacera Hà Nội. Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn trong doanh nghiệp Vốn trong doanh nghiệp Khái niệm vốn Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường được hiểu là một tổ chức kinh tế, có đủ tư cách pháp nhân được tổ chức ra để thực hiện kinh doanh trên một lĩnh vực nhất định với mục đích công ích hoặc thu lợi nhuận. Để đảm bảo cho sự ra đời, tồn tại và phát triển, doanh nghiệp phải có các yếu tố cơ bản cho việc thực hiện các hoạt động kinh doanh. Các yếu tố chính của các hoạt động kinh doanh đó là: Vốn, lao động và tài nguyên. Trong đó, vốn là yếu tố quan trọng nhất của quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp. Vốn luôn là yếu tố cơ bản, cần thiết, không thể thiếu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp luôn phải đối mặt với các câu hỏi về nguồn tài trợ lấy từ đâu, cách thức huy động như thế nào, chi phí phải trả bao nhiêu…Vốn được coi là nhân tố đầu tiên khởi động toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất – kinh doanh. Vốn trong doanh nghiệp có thể được hiểu chính là biểu hiện bằng giá trị của các tài sản trong doanh nghiệp và các tài sản đó phải được sử dụng nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận. Đặc trưng nguồn vốn trong doanh nghiệp Một là, vốn phải đại diện cho một lượng tài sản (nguyên liệu, máy móc thiết bị, chất xám, thông tin…). Tài sản ở tạng thái tĩnh chỉ là vốn tiềm năng, tài sản hoạt động mới là vốn kinh doanh, điều này có nghĩa là: Vốn là một bộ phận của tài sản, nhưng không phải toàn bộ tài sản là vốn. Nói cách khác vốn chính là biểu hiện về mặt giá trị của những tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Hai là, vốn phải được tích tụ, tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy tác dụng được. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải cần vốn nhưng vốn phải được tích tụ, huy động đủ đảm bảo cho yêu cầu sản xuất kinh doanh, đặc biệt vốn lớn sẽ thực hiện được các chiến lược phát triển sâu rộng nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Ba là, vốn phải được gắn với chủ sở hữu nhất định. Nghĩa là vốn phải có chủ mới đảm bảo quản lý và chi tiêu hợp lý, có hiệu quả. Việc phân định rõ chủ sở hữu thực sự về vốn đang là vấn đề quan tâm nhằm tăng cường thu hút vốn nhàn rỗi từ dân cư, các tổ chức trong và ngoài nước vào các hoạt động đầu tư. Bốn là, vốn được quan niệm là hàng hóa đặc biệt, tức là có giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của hàng hóa vốn chính là giá trị của bản thân nó, còn giá trị sử dụng của nó là thông qua mua bán trên thị trường mà thực chất là mua quyền sử dụng vốn, sau quá trình sử dụng hàng hóa vốn sẽ tạo ra một giá trị sử dụng lớn hơn. Năm là, vốn phải được vận động sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền, nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn, để tiền biến thành vốn thì đồng tiền đó phải được vận động sinh lời. Đồng tiền sau quá trình chuyển hóa vận động trở về nơi xuất phát sẽ mang lại giá trị lớn hơn. Đó là nguyên lý của đầu tư, sử dụng và bảo toàn vốn. Vì vậy, đồng tiền bị ứ đọng, tài nguyên, sức lao động, tài sản cất giữ…không được sử dụng thì chỉ là những đồng vốn “chết”. Nhận thức được vấn đề này các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để cho đồng vốn sinh lời và tránh ứ đọng. Sáu là, vốn có giá trị về mặt thời gian. Trong nền kinh tế thị trường vốn gắn với những thời gian nhất định, sức mua của đồng tiền ở những thời điểm khác nhau cũng sẽ khác nhau. Tóm lại, việc hiểu đúng vấn đề về vốn trong nền kinh tế thị trường thông qua một số đặc trưng cơ bản về vốn giúp cho các doanh nghiệp khai thác triệt để, quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn huy động cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó bảo toàn và phát triển vốn, nâng cao lợi ích tối đa hóa lợi nhuận. Phân loại nguồn vốn trong doanh nghiệp Dựa vào những tiêu thức phân loại khác nhau, nguồn vốn trong doanh nghiệp được phân chia thành các bộ phận khác nhau, một số cách phân loại phổ biến hiện nay gồm: Căn cứ vào thời gian sử dụng: nguồn vốn được chia thành nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. Vốn ngắn hạn: là vốn có thòi hạn dưới 1 năm. Bao gồm tín dụng thương mại, các khoản chiếm dụng về tiền lương, tiến thuế, tín dụng ngắn hạn ngân hàng và các khoản phải trả khác,... Vốn dài hạn: là vốn có thời hạn trên 1 năm. Bao gồm tín dụng ngân hàng dài hạn, phát hành trái phiếu, huy động vốn góp cổ phần, liên doanh, bổ sung từ lợi nhuận không chia,... Căn cứ theo tính chất luân chuyển vốn: Vốn cố định, vốn lưu động. Vốn cố định: là phần vốn dùng để đầu tư vào tài sản cố định của doanh nghiệp. Đây là các tài sản có thời gian sử dụng dài, tham gia vào nhiều chu kỳ sản suất kinh doanh, thường có giá trị lớn. Vốn lưu động: là phần vốn dùng để đầu tư vào tài sản lưu động của doanh nghiệp. Tài sản lưu động là các tài sản có thời gian sử dụng ngắn, thường tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh và có giá trị nhỏ. Căn cứ vào quyền sở hữu đối với khoản vốn sử dụng: nguồn vốn được chia thành vốn chủ sở hữu và nợ. Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc về các chủ sở hữu của doanh nghiệp. Gồm: vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, vốn do phát hành cổ phiếu mới,... Nợ phải trả là thể hiện bằng tiền những nghĩa vụ mà doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán cho các tác nhân trong nền kinh tế trong quá trình kinh doanh bao gồm các khoản chiếm dụng và nợ vay. Các phương thức huy động vốn cho doanh nghiệp Cách phân loại phổ biến hiện nay là chia nguồn vốn thành vốn chủ sở hữu và nợ. Vì nó cho phép doanh nghiệp xác định được cơ cấu vốn của mình đồng thời thuận lợi hơn trong xây dựng và lựa chọn phương thức huy động vốn và sử dụng vốn hiệu quả, đáp ứng được mục tiêu đề ra. Các phương thức huy động vốn cho doanh nghiệp: Phương thức huy động nguồn vốn chủ sở hữu Tăng vốn góp Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ cũng có một số vốn nhất định. Tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp mà có những hình thức khai thác làm tăng nguồn vốn góp ban đầu. Đối với DNNN, vốn góp ban đầu là vốn đầu tư của Nhà nước. Đối với công ty cổ phần, vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị số cở phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên, có nhiều dạng công ty cổ phần nên cách thức huy động vốn cũng khác nhau. Trong loại hình các doanh nghiệp khác như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài các nguồn vốn góp cũng bao gồm: vốn có thể do chủ đầu tư bỏ ra, vốn do các bên tham gia, các đối tác góp…Tỷ lệ và quy mô góp vốn của các bên tham gia công ty phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như đặc điểm ngành nghề kinh doanh, cơ cấu liên doanh giữa các bên… Tăng nguồn vốn từ lợi nhuận không chia Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng nguồn vốn hoạt động. Nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia - nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm được sự phụ thuộc bên ngoài. Để có nguồn vốn này thì các doanh nghiệp phải đặt ra mục tiêu có một khối lượng lợi nhuận đủ lớn để bù đắp chi phí đã bỏ ra, từ đó mới tự đáp ứng được nhu cầu vốn tự bổ sung của doanh nghiệp. Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã, đang hoạt động có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư. Với các doanh nghiệp Nhà nước, việc tái đầu tư phụ thuộc vào khả năng sinh lời của doanh nghiệp và chính sách khuyến khích tái đầu tư của Nhà nước. Đối với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi doanh nghiệp quyết định để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, có nghĩa doanh nghiệp không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không được nhận tiền lãi cổ phần (cổ tức) nhưng thay vào đó, họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty. Như vậy, giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài, nhưng về trước mắt dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp, hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể bị giảm. Tăng vốn góp bằng phát hành cổ phiếu mới Trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh thì doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Cổ phiếu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với vốn của tổ chức phát hành. Việc phát hành cổ phiếu được thực hiện ở các công ty cổ phần. Phát hành cổ phiếu là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp, bao gồm có phát hành cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. Doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong hai công cụ trên hoặc phối hợp cả hai để đem lại hiệu quả tốt nhất cho doanh nghiệp. Phương thức huy động vốn từ bên ngoài doanh nghiệp Ngoài việc tăng vốn từ nguồn vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ các nguồn: tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại, phát hành trái phiếu, huy động vốn từ thị trường tài chính,... Thị trường tài chính bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Để huy động được vốn từ các thị trường này, doanh nghiệp cần thông qua các trung gian tài chính. Phương thức huy động vốn từ các trung gian tài chính Trung gian tài chính đảm nhiệm chức năng trung chuyển tư bản giữa các chủ thể tiết kiệm và những người sử dụng vốn. Các trung gian tài chính không chỉ phục vụ như những người hỗ trợ giữa các chủ thể tiết kiệm và những người sử dụng vốn mà còn tập trung những khoản tiết kiệm của nhiều người, nhiều doanh nghiệp và nhiều tổ chức trong nền kinh tế, tạo thành những nguồn tài chính có quy mô lớn. Đây là một trong những nguồn huy động vốn cơ bản của doanh nghiệp. Các trung gian tài chính có thể được phân chia thành một số loại như sau: Ngân hàng thương mại: Ngân hàng thương mại là loại định chế tài chính lớn nhất trong các trung gian tài chính. Các ngân hàng thương mại là nơi nhận tiền gửi thông qua việc mở các tài khoản tiết kiệm và tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, thực hiện các nghiệp vụ tài trợ, bảo lãnh, thanh toán phục vụ các doanh nghiệp và cá nhân. Ngân hàng sử dụng phần lớn lượng tiền huy động được để đầu tư vào các loại chứng khoán có tính thanh khoản cao như công trái quốc gia, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công ty,…Duy trì một lượng tiền mặt ở mức đủ để bảo đảm thanh khoản, thực hiện các giao dịch cho các doanh nghiệp và cá nhân vay. Có một thực tế là để huy động vốn từ việc vay ngân hàng, doanh nghiệp cần phải có tài sản hoặc các loại giấy tờ có giá trị khác để thế chấp. Điều này sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thêm vào đó, việc huy động vốn từ ngân hàng cũng không linh hoạt bằng một số định chế tài chính khác như các công ty đầu tư mạo hiểm, hoặc các công ty cho thuê tài chính. Hiệp hội tiết kiệm và cho vay: Là loại trung gian tài chính chuyên thu hút tiền gửi tiết kiệm của các cá nhân để cho vay dài hạn nhằm tài trợ mua nhà ở, bất động sản hoặc các loại hàng hóa tiêu dùng lâu bền. Tuy nhiên, các hoạt động tài trợ của hiệp hội này thường được cho vay dưới hình thức cầm cố. Chính hình thức cho vay này sẽ gây ra một số khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì các doanh nghiệp này thường không có nhiều tài sản để thế chấp. Ngân hàng tiết kiệm tương hỗ: Là loại trung gian tài chính có rất nhiều đặc điểm tương đồng với các hiệp hội tiết kiệm và cho vay. Ngân hàng thu hút tiền gửi của công chúng và chủ yếu cho các doanh nghiệp, các cá nhân vay để mua nhà và các loại bất động sản. Hiệp hội tín dụng: Là một tổ chức hợp tác xã tín dụng, tổ chức liên kết các thành viên là những người trong cùng tổ chức nghề nghiệp hay tín ngưỡng. Nguồn ngân quỹ chủ yếu là tiền gửi của các thành viên, nguồn ngân quỹ này được sử dụng để cho vay trong nội bộ nhằm tài trợ mua xe, nhà ở và nhiều loại tài sản khác. Do đặc điểm của hiệp hội là chỉ cho vay trong nội bộ nên các doanh nghiệp ngoài hiệp hội sẽ khó có cơ hội tiếp cận với nguồn vay này. Quỹ trợ cấp và hưu bổng: Được thành lập để tạo nguồn thu nhập cho những người về hưu và không còn khả năng làm việc. Các quỹ này nhận tiền đóng góp của công nhân, của chủ doanh nghiệp và sử dụng nguồn ngân quỹ này đầu tư vào các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu kho bạc hay trái phiếu đô thị, đầu tư vào cổ phần, trái phiếu của các doanh nghiệp. Như vậy, doanh nghiệp có thể huy động vốn từ quỹ này bằng việc phát hành trái phiếu. Công ty tài chính: Công ty tài chính phát hành các loại trái phiếu, cổ phiếu và vay tiền của các ngân hàng thương mại để tài trợ cho các doanh nghiệp và cá nhân vay. Những khoản cho vay của các công ty tài chính thường chủ yếu dành cho những khách hàng có mức độ rủi ro tín dụng cao, mà các ngân hàng thương mại thường từ chối cho vay. Để bù đắp cho mức độ rủi ro cao, lãi suất tài trợ của công ty tài chính thường cao hơn các định chế khác. Ưu điểm của công ty tài chính là các doanh nghiệp có phương án kinh doanh với mức độ rủi ro cao vẫn có khả năng tiếp cận với nguồn vốn này trong khi các ngân hàng thương mại đã từ chối cho vay. Chính ở đặc điểm này đã khiến cho mức lãi suất khi huy động từ công ty tài chính cao hơn các định chế tài chính khác. Quỹ hỗ tương: Là loại định chế tài chính chuyên tập hợp nguồn tài chính của những người tiết kiệm nhỏ và đầu tư vào các loại chứng khoán tùy theo mục tiêu và chính sách do quỹ đặt ra. Một số quỹ có chính sách đầu tư vào những loại cổ phần của những công ty có mức tăng trưởng cao, song mức chia lợi tức hàng năm thấp nhưng đổi lại các chủ đầu tư hy vọng giá trị cổ phần của họ sẽ tăng nhanh chóng. Ngược lại, một số quỹ đầu tư vào những cổ phần được chia lợi tức cao, nhưng có mức lợi nhuận tiềm năng từ giá cổ phần tăng lên thấp. Nhiều quỹ đầu tư vào những cổ phần nước ngoài và nhiều quỹ phân tán danh mục đầu tư của họ vào các loại trái phiếu công ty, cổ phần công ty và công trái quốc gia. Một đặc điểm của các quỹ hỗ tương là các quỹ này thường nắm giữ một phần giá trị của danh mục đầu tư dưới dạng tiền mặt. Có hai lý do cho sự tồn tại tiền mặt ở các quỹ này: Thứ nhất, quỹ luôn cần tiền mặt để bảo đảm khả năng thanh toán cho các chứng khoán do những người chủ quỹ bán lại cho quỹ. Thứ hai, là tiền thu được từ hoạt động kinh doanh chứng khoán của quỹ có thể chưa được đầu tư kịp thời. Đây cũng là một trong những lợi thế của các quỹ này khi các doanh nghiệp quyết định vay vốn từ loại hình này. Công ty bảo hiểm: Có thể chia các công ty bảo hiểm thành hai loại: Bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm trách nhiệm và tài sản. - Các công ty bảo hiểm nhân thọ thu phí bảo hiểm hàng năm của những người được bảo hiểm và đầu tư vào những khoản tiền này vào các loại trái phiếu, cổ phiếu công ty, cho vay thế chấp tài sản hay tài sản hay tài trợ tín dụng tiêu dùng và thực hiện nhiều nhiệm vụ tài chính khác. - Các công ty bảo hiểm trách nhiệm và tài sản thu phí bảo hiểm của những người được bảo hiểm và những chủ sở hữu các loại tài sản được bảo hiểm. Một phần phí bảo hiểm được công ty đầu tư vào các loại chứng khoán công ty và trái phiếu do Chính phủ phát hành. Một khó khăn của doanh nghiệp khi tiếp cận nguồn vốn này là cũng cần phải có tài sản hoặc các giấy tờ có giá trị để thế chấp. Công ty thuê mua: Là loại định chế tài chính chuyên huy động các nguồn ngân quỹ trung – dài hạn từ công chúng đầu tư, từ các chủ thể tiết kiệm khác và từ các ngân hàng để tài trợ cho các hợp đồng thuê mua máy móc thiết bị của các doanh nghiệp. Nguyên nhân chính thúc đẩy doanh nghiệp tiếp cận với hoạt động cho thuê tài chính là do nó có tính chất an toàn cao, tiện lợi và hiệu quả cho các bên giao dịch. Thêm vào đó, việc cấp tín dụng dưới hình thức cho thuê tài chính không đòi hỏi sự bảo đảm tài sản có trước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận hình thức cấp tín dụng mới, giải tỏa được áp lực về tài sản bảo đảm nếu phải vay ở ngân hàng, hoặc các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về thủ tục thế chấp tài sản để vay vốn ngân hàng. Phương thức huy động vốn từ thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán là thị trường sử dụng các thông tin dữ liệu có liên quan đến mức sinh lời tiềm năng và coi đó như một chuẩn mực đầu tư, là cơ chế chuyên giao dịch các loại chứng khoán. Trên thị trường chứng khoán, để huy động vốn doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu và cổ phiếu. Phát hành trái phiếu Trái phiếu của các doanh nghiệp khác nhau có những đặc điểm khác nhau và những đặc điểm này chi phối giá trị của trái phiếu. Ở Việt Nam, ngày 19/5/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định 52/2006/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Nghị định này ra đời đã mở ra một kênh mới để huy động vốn cho doanh nghiệp. Nghị định này có ưu điểm là tất cả các doanh nghiệp chỉ cần có thời gian hoạt động tối thiểu là 1 năm kể từ ngày doanh nghiệp chính thức đi vào hoạt động, có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh phải có lãi đều có quyền phát hành trái phiếu. Chính vì vậy, việc ban hành Nghị định đã khuyến khích các doanh nghiệp trực tiếp tham gia huy động vốn trên thị trường để phục vụ mục tiêu đầu tư phát triển của doanh nghiệp, kể cả mục tiêu tăng quy mô vốn tự có. Nghị định này cũng quy định, riêng đối với các trái phiếu bổ sung vốn tự có do các tổ chức tín dụng thuộc sở hữu nhà nước và trái phiếu của các DNNN, phương án phát hành phải được Bộ Tài chính chấp nhận, còn lại chỉ cần các tổ chức và cá nhân có thẩm quyền thông qua và công bố công khai cho các nhà đầu tư biết. Doanh nghiệp phát hành trái phiếu theo nguyên tắc tự vay, tự trả và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn vay. Số tiền thu được từ phát hành trái phiếu được sử dụng để thực hiện các dự án đầu tư; cơ cấu lại các khoản vay trung và dài hạn. Để tăng sức hấp dẫn của đợt phát hành hoặc để giảm bớt gánh nặng trả nợ hàng năm của doanh nghiệp phát hành, doanh nghiệp phát hành cũng có thể ấn định mức lãi suất cuống phiếu cao hơn hoặc thấp hơn mức lãi suất mà thị trường đòi hỏi. Phát hành cổ phiếu Phát hành cổ phiếu là một phương thức huy động vốn dài hạn của doanh nghiệp. Để phát hành cổ phiếu mới, doanh nghiệp cần phải tính đến các chí phí như: Chi phí in ấn, chi phí quảng cáo, hoa hồng… Các chi phí này nhiều khi chiếm tới 10% tổng giá trị phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp. Khi quyết định phát hành cổ phiếu ra công chúng, các doanh nghiệp cũng cần tính đến nhu cầu trên thị trường chứng khoán, nếu không sẽ dễ rơi vào tình trạng tăng cung nhưng cầu về cổ phiếu không tăng sẽ dễ dẫn đến giá cổ phiếu giảm. Ngoài ra, vấn đề chống thôn tính, bảo vệ công ty trước sự xâm thực bằng cổ phiếu của các công ty khác cũng là một khía cạnh đặc biệt. Huy động vốn qua phát hành cổ phiếu phải xét đến nguy cơ bị thôn tính. Do đó, phải tính đến tỷ lệ cổ phần tối thiểu cần duy trì để giữ vững quyền kiểm soát của công ty. Phương thức huy động vốn thông qua thị trường bất động sản Một nguồn huy động vốn khác mà doanh nghiệp doanh nghiệp có thể khai thác để huy động vốn là thông qua thị trường bất động sản. Các doanh nghiệp có thể thực hiện các giao dịch mua bán, cho thuê, thế chấp góp vốn bằng thế chấp giá trị quyền sử dụng đất vào các dự án liên doanh để huy động vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, hiện nay, trên thị trường bất động sản Việt Nam có đến 70% các giao dịch không đăng ký với các cơ quan quản lý Nhà nước, nên tác động của việc huy động vốn bằng hình thức này vẫn còn nhiều hạn chế. Phương thức huy động vốn thông qua các tổ chức tài chính quốc tế Trên thế giới có rất nhiều tổ chức tài chính chuyên về hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân, trong đó được biết đến nhiều nhất là Công ty Tài chính Quốc tế (IFC). Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) là bộ phận phụ trách khu vực tư nhân thuộc nhóm Ngân hàng Thế giới. Nhiệm vụ của IFC là thúc đẩy đầu tư vào khu vực tư nhân tại các nước đang phát triển nhằm xoá đói giảm nghèo và cải thiện đời sống nhân dân. IFC cấp vốn cho các dự án đầu tư bằng tiền của mình và qua huy động vốn trên thị trường tài chính quốc tế. IFC cũng cung cấp trợ giúp kỹ thuật và tư vấn cho chính phủ và doanh nghiệp. Điểm đặc biệt trong hoạt động của IFC là bản thân tổ chức này không tạo ra các dự án mới, mà IFC chỉ đầu tư vào hoặc hỗ trợ cho các dự án, công ty hiện có trên thị trường. Để thực hiện chương trình tài trợ vốn, IFC sẽ xem xét, tìm kiếm các công ty hoạt động tốt trong lĩnh vực công nghệ thông tin, tài chính, tư vấn...,sau đó hỗ trợ tài chính dưới hai hình thức: Một là sử dụng các ngân hàng như là khâu trung gian trong việc cung cấp tín dụng cho khu vực kinh tế tư nhân; hai là hỗ trợ kỹ thuật cho các công ty trên các mặt quản lý hoạt động tài chính, quản lý rủi ro, tăng cường vốn...IFC hiện cũng đang xem xét việc thành lập một quỹ đầu tư hoặc trực tiếp cấp vốn cho các dự án do các công ty tư nhân thực hiện hoặc có thể đứng ra làm trung gian kêu gọi các tổ chức tài chính khác. Ở Việt Nam, Công ty Tài chính Quốc tế IFC trợ giúp phát triển khu vực tư nhân thông qua tài chính của dự án, bằng việc huy động vốn trên các thị trường tài chính quốc tế, và thông qua các hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp và Chính phủ. Một số nhân tố chủ yếu tác động tới việc huy động vốn của doanh nghiệp Nhân tố khách quan Ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế Bất cứ một quốc gia nào nếu chính trị không ổn định sẽ có tác động trực tiếp hay gián tiếp tới mọi hoạt động của quốc gia đó. Nếu chính trị ổn định, ít có xung đột xảy ra thì các đường lối chính sách của Nhà nước đề ra nhất là chính sách mở cửa, kêu gọi đầu tư nước ngoài sẽ có tác động tích cực, tạo sự hấp dẫn, yên tâm cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước khi đầu tư vào các lĩnh vực, đặc biệt là các dự án chung và dài hạn, từ đó tạo cơ hội để các doanh nghiệp trong nước thu hút được nhiều nguồn vốn qua nhiều kênh huy động, đáp ứng kịp thời cho các nhu cầu kinh doanh. Bên cạnh những yếu tố ổn định chính trị thì tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc tăng thu nhập quốc dân, mở rộng các quan hệ kinh tế, ngân sách Nhà nước tăng. Từ đó, Nhà nước có thể đầu tư vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, các dịch vụ công cộng…nhằm hỗ trợ, tạo thuận lợi để các doanh nghiệp phát triển. Đồng thời tăng trưởng kinh tế phản ánh thu nhập bình quân tính trên đầu người tăng tạo ra nguồn tích lũy, tiết kiệm từ các doanh nghiệp và dân cư. Cùng với chính sách tiết kiệm chi tiêu, tiêu dùng hợp lý để có và tăng tiết kiệm, từ đó mà các doanh nghiệp có thể huy động vốn thuận lợi từ các doanh nghiệp, tổ chức tài chính tín dụng, dân cư, Nhà nước…được thuận lợi. Nhân tố lạm phát Với chính sách kiềm chế lạm phát ở mức “vừa phải” sẽ tác động tới ổn định và kích thích tăng trưởng kinh tế. Nếu lạm phát cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (tốc độ tăng GDP) sẽ làm cho đồng tiền mất giá, điều này không tạo ra sự tin tưởng của các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, các doanh nghiệp không có một thước đo ổn định bằng đồng tiền, nên các dự án đầu tư khi thực thi sẽ phản ánh không chính xác từ đó hiệu quả kinh tế thấp, các nguồn đầu tư sẽ bị hạn chế. Chính sách thuế, lãi suất, tỷ giá của Nhà nước Chính sách thuế Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, đồng thời thuế góp phần thực hiện công bằng và bình đẳng xã hội, điều tiết và kích thích phát triển sản xuất kinh doanh. Hiện nay Nhà nước ta thực hiện chính sách thuế để khuyến khích đầu tư, điều chỉnh lại cơ cấu kinh doanh của các ngành nghề với chính sách ưu đãi, đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện thu hút được nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, mạnh dạn đầu tư vào các lĩnh vực mới, dài hạn và có điểm tựa để đảm bảo sự công bằng giúp cho việc cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Chính sách lãi suất Bất kỳ một tổ chức nào từ doanh nghiệp, ngân hàng, tổ chức tài chính khác, dân chúng…đều rất coi trọng và quan tâm đến vấn đề lãi suất. Lãi suất là mục tiêu kinh doanh cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác, là cơ sở cho việc giảm các chi phí cho các tổ chức này. Chính sách lãi suất hợp lý sẽ tạo điều kiện trước hết là thu hút được nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, sẵn sàng cung cấp cho nhu cầu đầu tư kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp vốn cho kinh daonh chủ yếu là huy động từ vốn vay. Chính vì thế mà lãi suất quyết định tới chi phí vốn huy động, tác động trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và có thể làm thay đổi cơ cấu nguồn vốn trong doanh nghiệp. Đồng thời lãi suất (lãi suất tái chiết khấu) nếu thay đổi đến một mức độ nào đó sẽ tác động đến tỷ giá ngoại tệ, từ đó mà có thể làm tăng hoặc giảm các nguồn tiền từ nước ngoài chảy vào trong nước hoặc chảy ra nước ngoài làm ảnh hưởng đến ổn định và phát triển kinh tế, tác động đến đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là Nhà nước xây dựng chính sách lãi suất như thế nào vận dụng cho mỗi giai đoạn để tạo sự cạnh tranh lành mạnh trong các tổ chức tài chính tín dụng, thu hút được nhiều tiền nhàn rỗi trong dân và các doanh nghiệp có thể vay chịu đựng được lãi suất để kinh doanh có hiệu quả, tránh tình trạng các ngân hàng, các tổ chức tài chính tín dụng thì thừa vốn mà các doanh nghiệp thì thiếu vốn nhưng không dám đi vay hoặc không vay được gây mất cân đối giữa cung và cầu về vốn, đẩy các doanh nghiệp các tổ chức tài chính tín dụng ắch tắc trong huy động vốn cho kinh danh. Chính sách tỷ giá Tỷ giá thay đổi ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị đồng nội tệ, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, ảnh hưởng đến lạm phát, ổn định hay tăng trưởng kinh tế, Tuy nhiên, ổn định về kinh tế thì tất yếu sẽ ổn định về tỷ giá, ngược lại ổn định tỷ giá chưa hẳn làm ổn định được kinh tế hoặc biến động về tỷ giá chưa chắc kinh tế mất ổn định. Tuy vậy, về cơ bản lâu dài quan hệ này tác động hữa cơ lẫn nhau. Hiện nay ở Việt Nam cũng như các nước đều có 3 luồng quan điểm về tỷ giá đó là: Thả nổi – Cấm tuyệt đối – Hạn chế tự do lưu thông. Tỷ giá hiện nay chúng ta áp dụng theo quan điểm hạn chế lưu thông: Các cửa hàng, siêu thị, sân bay…Nhà nước có quy định một số hàng được lưu thông thu ngoại tệ và Nhà nước có quy định một số hàng hóa bán cho người nước ngoài được thanh toán bằng ngoại tệ, còn lại ngăn cấm. Các doanh nghiệp huy động vốn đầu tư từ ngoại tệ ngoài việc phải chịu lãi suất (đi vay) còn chịu sự trượt giá của đồng ngoại tệ. Đặc biệt trong giai đoạn vừa qua chủ yếu là trượt giá tăng làm cho chi phí vốn tăng, đây là yếu tố rủi ro mang tính khách quan mà doanh nghiệp phải gánh chịu; yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh và các dự án đầu tư nếu không lường hết được yếu tố trượt giá, không có dự phòng về biến động tỷ giá khi huy động bằng ngoại tệ sẽ mang lại hậu quả thua lỗ khó lường. Môi trường pháp lý Nền kinh tế của chúng ta mới phát triển ở giai đoạn đầu của nền kinh tế thị trường chịu sự quản lý điều tiết của Nhà nước. Do vậy, nếu môi trường pháp lý (các bộ luật, đường lối chính sách…) chưa toàn diện đồng bộ, chưa phù hợp với kinh tế thị trường thì sẽ không tạo được môi trường kinh doanh công bằng, hấp đẫn. Nếu không ._.có một hệ thống pháp luật hữu hiệu bảo vệ các nhà đầu tư thì cũng rất khó kêu gọi đầu tư, vì các nhà đầu tư sẽ không ưu tiên khi bỏ vốn mà chủ yếu đầu tư trung hạn, dài hạn thiếu sự bảo đảm lâu dài của luật pháp. Như vậy có thể nói môi trường pháp lý là điều kiện hết sức cần thiết để tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, bảo đảm các điều kiện về lâu dài cho các nhà đầu tư từ đó tạo điều kiện để các doanh nghiệp mở rộng đầu tư thu hút nhiều nguồn vốn đáp ứng cho các chiến lược kinh doanh đề ra. Ở Việt Nam, khi luật chứng khoán ra đời là một điều kiện rất thuận lợi để bảo vệ các nhà đầu tư, nhà phát hành chứng khoán, tạo môi trường lành mạnh cho doanh nghiệp thu hút vốn trên thị trường này. Nhân tố chủ quan Chiến lược kinh doanh Ngay từ khi mới ra đời cũng như trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp bao giờ cũng phải xây dựng cho mình kế hoạch về sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đánh giá những mặt hoạt động của giai đoạn đã qua, xây dựng một chiến lược kinh doanh trước mắt là hàng năm và dài hạn có thể là 10 năm trong tương lai. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp thực tế là việc đề ra các mục tiêu về quản lý kinh doanh, đầu tư kinh doanh, mở rộng và lựa chọn thị trường, tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực…và những phương hướng cơ bản để doanh nghiệp có thể tiếp cận được các mục tiêu đó. Các chính sách cụ thể của chiến lược kinh doanh: Chính sách về khai thác thị trường kinh doanh Đây là mục tiêu nhằm tìm kiếm thị trường, xâm nhập và khai thác công việc kinh doanh cho doanh nghiệp, đây là nhiệm vụ rất cần của doanh nghiệp bởi vì: doanh nghiệp muốn tồn tại phải có các hoạt động sản xuất kinh doanh, muốn hoạt động sản xuất kinh doanh phải tìm kiếm được công việc để kinh doanh và muốn có công việc để kinh doanh thì phải khai thác tìm kiếm thị trường có thể tạo ra việc làm. Đồng thời thông qua chính sách về thị trường doanh nghiệp có thể khuyếch trương và tôn tạo uy tín rộng khắp. Việc khai thác thị trường cũng phải xác định được đâu là thị trường tiềm năng phù hợp với đặc thù kinh doanh của mình và đâu là thị trường mới để có chính sách đầu tư hợp lý nhằm đa dạng hóa loại hình kinh doanh nhưng phải đảm bảo có hiệu quả. Chính sách về đầu tư Đầu tư có thể mang tính chuyên sâu, mở rộng hay thay thế những năng lực sản xuất hiện có. Chính sách đầu tư là mục tiêu thường xuyên nhằm khai thác triệt để năng lực hiện có, đổi mới thiết bị, công nghệ, sản phẩm; mở rộng quy mô đầu tư phù hợp với việc khai thác thị trường kinh doanh. Gắn với chính sách đầu tư bao giờ cũng phải xác định được chính sách tài chính mà cụ thể là nguồn vốn hình thành đáp ứng mục tiêu đầu tư. Chính sách về tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực Nhằm phù hợp với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật; phù hợp với yêu cầu phát triển kinh doanh của doanh nghiệp, trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay các doanh nghiệp phải lựa chọn và đào tạo nâng cao trình độ nguồn nhân lực. Đi đôi với việc tuyển chọn, đào tạo thì việc quản lý sử dụng con người và trả công người lao động cũng phải phù hợp nếu không dẫn tới tình trạng “chảy máu chất xám” trong doanh nghiệp. Chính sách về tài chính và quản lý kinh doanh Trên cơ sở các mục tiêu kinh doanh đề ra phải có chính sách tài chính phù hợp. Mặt khác quản lý kinh doanh cũng phải thường xuyên đổi mới đáp ứng và phù hợp với nhiệm vụ kinh doanh, có như vậy các mục tiêu của chiến lược kinh doanh mới có tính khả thi. Tóm lại: Với mỗi giai đoạn phát triển doanh nghiệp đều có một chiến lược kinh doanh phù hợp. Xuất phát từ chiến lược kinh doanh mà doanh nghiệp xác định nhu cầu về vốn cũng phải tương ứng, các giai đoạn kinh doanh khác nhau thì nhu cầu về vốn cũng khác nhau và phương thức để huy động vốn cũng khác nhau. Khi mà doanh nghiệp chưa có điều kiện để phát triển hay cơ hội kinh doanh chưa tới thì vốn kinh doanh cũng không cần nhiều, ngược lại khi kinh doanh phát triển cơ hội đến đòi hỏi doanh nghiệp phải có lượng vốn lớn cho kinh doanh. Trên cơ sở nhu cầu vốn, nó là cơ sở để doanh nghiệp lựa chọn và khai thác triệt để các phương thức huy động vốn hay nói cách khác chiến lược kinh doanh là điểm xuất phát để doanh nghiệp vạch ra chính sách huy động vốn. Tình hình tài chính của doanh nghiệp Tình hình tài chính của doanh nghiệp có lành mạnh hay không nó phản ánh “sức khỏe” của doanh nghiệp. Xem xét tình hình tài chính của một doanh nghiệp có thể xem xét ở một số chỉ tiêu sau: Tỷ suất lợi nhuận - Tỷ suất lợi nhuận/vốn (doanh lợi vốn): là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận đạt được so với vốn sử dụng bình quân trong kỳ. Tỷ suất này cho biết hiệu quả của việc đầu tư phát triển kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn (tài sản, vật tư) trong doanh nghiệp. - Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu: là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận tiêu thụ so với doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ. Đây là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả kinh doanh, xem xét mức độ lợi nhuận đạt được so với khối lượng sản phẩm hoàn thành đã tiêu thụ. Bố trí về cơ cấu vốn - Tài sản cố định / Tổng số tài sản (%) - Tài sản lưu động / Tổng tài sản (%) Các chỉ tiêu này phản ánh tính chất kinh doanh của doanh nghiệp nặng về các năng lực thiết bị thi công, nhà xưởng hay kinh doanh mang tính thương mại chủ yếu là vốn lưu động. Đánh giá về khả năng thanh toán - Tỷ lệ nợ / tổng tài sản: tính bằng cách chia tổng số nợ cho tổng tài sản. tỷ lệ này phản ánh nghĩa vụ cũng như khả năng của doanh nghiệp đối với việc thanh toán cho các chủ nợ, nếu tỷ lệ này mà quá cao tức là doanh nghiệp dể bị rơi vào tình trang mất khả năng thanh toán từ đó phản ánh xấu về tình hình tài chính của doanh nghiệp. - Tài sản lưu động / Nợ ngắn hạn: Chỉ tiêu này phản ánh khả năng có thể thanh toán các khoản nợ ngắn hạn hay dài hạn đến hạn trả. - Xem xét mức độ thanh toán nhanh: Tiền hiện có/Nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng mà doanh nghiệp có thể thanh toán nhanh nhất các khoản nợ ngắn hạn cũng như dài hạn đến hạn phải trả, nếu chỉ tiêu này thấp thì doanh nghiệp có thể sẽ không thanh toán kịp thời các khoản nợ đến hạn. - Xem xét khả năng thanh toán lãi vay: Được tính bằng cách chia lợi nhuận trước thuế và lãi vay cho lãi vay. Chỉ tiêu này cho biết khả năng lợi nhuận đảm bảo chi trả lãi vay hàng năm, xem xét chỉ tiêu này để thấy được khả năng kinh doanh của doanh nghiệp khi huy động các nguồn vốn phải trả lãi vay có đảm bảo hay không. Từ đó doanh nghiệp có thể vay tiếp hoặc hạn chế nhằm sử dụng triệt để nguồn vốn chủ sở hữu. Như vậy, thông qua việc xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp từ đó có các phương hướng kinh doanh mở rộng, liên doanh liên kết hay thu hẹp…cho phù hợp với điều kiện hiện tại. Mặt khác, tình hình tài chính của doanh nghiệp được công bố công khai là cơ sở để các nhà đầu tư xem xét lựa chọn có đầu tư, cho vay vốn đối với doanh nghiệp hay không. Cơ cấu vốn của doanh nghiệp Nguồn vốn trong doanh nghiệp thể hiện bằng bảng cân đối kế toán bao gồm: Các khoản nợ như nợ ngắn hạn, nợ dài hạn, trái phiếu phát hành (nếu có), các khoản nợ khác. Vốn chủ sở hữu có thể bao gồm cả cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi và lợi nhuận không chia. Tỷ trọng các nguồn đó trong tổng nguồn vốn tạo nên cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh đòi hỏi phải có một cơ cấu vốn hợp lý trong mối quan hệ giữa các khoản nợ và vốn chủ sở hữu. Cơ cấu vốn của doanh nghiệp có thể thay đổi theo những điều kiện tác động từ bên ngoài, nhưng tuỳ theo mục đích kinh doanh và yêu cầu của nhà quản lý doanh nghiệp mà tại những thời điểm nhất định doanh nghiệp phải lựa chọn cho mình một cơ cấu vốn phù hợp. Việc thay đổi cơ cấu vốn có thể làm cho doanh nghiệp lựa chọn các hình thức huy động vốn khác nhau, chẳng hạn: khi tỷ lệ vốn vay cao hơn tỷ lệ nợ trong cơ cấu vốn tối ưu mà doanh nghiệp đã dự tính thì lúc này doanh nghiệp có thể mở rộng vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu mới; ngược lại khi tỷ lệ vốn vay thấp hơn tỷ lệ nợ tối ưu dự tính thì doanh nghiệp có thể chuyển hướng mở rộng vốn bằng cách vay thêm nợ hoặc phát hành trái phiếu. Khi doanh nghiệp sử dụng các khoản nợ phải dự tính được mức lợi tức của vốn huy động và mức thay đổi lợi tức khi tỷ lệ huy động thay đổi bởi vì: Nếu doanh nghiệp sử dụng nợ nhiều tất nhiên có thể sẽ làm tăng rủi ro đối với tài chính (trường hợp này thường xảy ra với các nhà quản lý doanh nghiệp thích ưa mạo hiểm, chấp nhận rủi ro để có thể đem lại lợi nhuận cao hơn cho doanh nghiệp). Tuy nhiên, tỷ lệ nợ cao cũng có thể đem lại mức độ lợi nhuận cao hơn cho vốn chủ sở hữu. Chính vì thế mà doanh nghiệp phải tính toán làm sao để hướng tới sự cân bằng giữa khả năng rủi ro và mức lợi tức dự tính để từ đó có được cơ cấu vốn hợp lý. Hiện nay các doanh nghiệp Nhà nước không ngừng tăng cường mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, trong khi đó Nhà nước gần như đã không còn bao cấp về vốn cho các doanh nghiệp, do đó nguồn vốn kinh doanh của các doanh nghiệp có thể nói là chủ yếu là vốn huy động và nguồn huy động nhiều nhất là vay thông qua hoạt động vay tín dụng. Phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước trong những năm qua nằm trong tình trạng mất cân đối lớn về kết cấu vốn. Do vậy, muốn có tình hình tài chính lành mạnh thì về lâu dài phải hướng đến cơ cấu vốn hợp lý và mọi quyết định huy động vốn phải phù hợp với những mục tiêu của cơ cấu vốn để xác định. Hiệu quả sử dụng vốn Sử dụng vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể đem lại hiệu quả (lợi nhuận đạt được), hoặc rủi ro (thua lỗ), về cơ bản thuộc nhân tố chủ quan của các nhà quản lý doanh nghiệp. Nhân tố này xuất phát ngay từ việc tìm kiếm thị trường, lựa chọn đối tác kinh doanh, tính toán một cách chặt chẽ (có dự phòng các khoản rủi ro do yếu tố bên ngoài) lên phương án, xác định nguồn vốn từ đó có biện pháp để huy động vốn cho kinh doanh. Trong quá trình kinh doanh khi đã huy động được vốn, vấn đề còn lại mang tính quyết định đó là việc quản lý và sử dụng vốn như thế nào cho đúng mục đích, phù hợp với phương án kinh doanh đã đè ra, đồng thời phải tăng cường quay vòng vốn nhanh để tiết kiệm chi phí sử dụng vốn nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh, hiệu quả thiết thực của việc huy động vốn. Vốn cho kinh doanh của doanh nghiệp là rất cần thiết. Tuy vậy, không phải bất cứ lúc nào việc huy động được nhiều nguồn vốn (đặc biệt là vốn vay) cũng là tốt, đôi khi nó là gánh nặng đè lên tình hình tài chính mất cân đối của doanh nghiệp. Huy động vốn phải đảm bảo sử dụng triệt để và có hiệu quả các nguồn vốn huy đông, việc sử dụng tốt các nguồn vốn sẵn có cũng là một biện pháp huy động vốn tích cực. Như vậy, có thể nói sử dụng vốn có hiệu quả hay không phản ánh quá trình huy động vốn có mang lại lợi ích thiết thực hay là nhân tố gây nên sự bất lợi cho doanh nghiệp. Kết luận: Qua việc xem xét, đánh giá những vấn đề cơ bản có tính chất lý luận về vốn, nguồn vốn kinh doanh và một số phương thức huy động vốn cho các doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường cho thấy: vốn là yếu tố cơ bản nhất cho việc ra đời, hoạt động và phát triển của một doanh nghiệp; trong nền kinh tế thị trường hiện nay nguồn vốn cũng như các phương thức huy động vốn rất đa dạng phong phú mà một doanh nghiệp có thể khai thác lựa chọn thu hút vốn đáp ứng các yêu cầu kinh doanh của mình. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện của mỗi doanh nghiệp, trong mỗi thời kỳ nhất định, để có thể sử dụng các phương thức huy động vốn thích hợp, khai thác có hiệu quả nhất các nguồn vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh luôn là vấn đề quan tâm bức xúc của doanh nghiệp. Những vấn đề lý luận được đề cập ở trên sẽ là cơ sở để tiến hành xem xét, đánh giá thực trạng huy động vốn cho sản xuất kinh doanh tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội cũng như một số giải pháp tăng cường huy động vốn, các kiến nghị thực hiện giải pháp của tổng công ty sẽ được trình bày ở chương 2 và 3 ở luận văn. Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại công ty cổ phần Viglacera Hà Nội 2.1. Khái quát chung về quá trình hình thành và phát triển của công ty 2.1.1. Khái quát chung về Tổng công ty Viglacera Tổng công ty Viglacera được thành lập năm 1974, với 35 năm xây dựng, phát triển và trưởng thành, đến nay Viglacera đã trở thành một Tổng công ty hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng và đầu tư kinh doanh hạ tầng công nghiệp và dân dụng. Cơ sở ban đầu là các nhà máy sản xuất gạch công nghệ lạc hậu, giờ đây Viglacera đã đi tiên phong trong lĩnh vực sản xuất gạch ceramic, granite, sứ vệ sinh, kính xây dựng, vật liệu chịu lửa, gạch ngói cao cấp…Hiện nay Viglacera được biết đến là một Tổng công ty mạnh trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp và khu đô thị. Một số khu công nghiệp lớn như khu công nghiệp Tiên Sơn, khu công nghiệp Yên Phong tỉnh Bắc Ninh, khu Hải Yên – Móng Cái – Quảng Ninh; khu đô thị lớn như khu Đặng Xá – Gia Lâm – Hà Nội…Trong những năm qua, Viglacera liên tục đầu tư mở rộng quy mô, từ chỗ chỉ có vài nhà máy sản xuất, đến nay Tổng công ty đã có 36 đơn vị thành viên hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Tổng công ty đã và đang mở rộng hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước, là đối tác tin cậy của nhiều nhà đầu tư, là môi trường làm việc tốt cho những người có trình độ chuyên môn và lòng nhiệt tình. Những lĩnh vực hoạt động chính của Tổng công ty Viglacera hiện nay là: Sản xuất, kinh doanh Kính xây dựng và các sản phẩm sau kính, các sản phẩm bông sợi thủy tinh. Thi công lắp đặt kết cấu kính. Sản xuất, kinh doanh Sứ vệ sinh và phụ kiện. Sản xuất, kinh doanh Gạch ốp lát Granite và Ceramic. Sản xuất, kinh doanh Vật liệu chịu lửa. Sản xuất, kinh doanh Gạch ngói đất sét nung cao cấp. Khai thác, chế biến Nguyên liệu cho công nghiệp thủy tinh và gốm xây dựng. Xây dựng, kinh doanh kinh doanh bất động sản, siêu thị, hạ tầng đô thị và hạ tầng khu công nghiệp. Nhập khẩu thiết bị, phụ tùng, nguyên vật liệu và kinh doanh các sản phẩm vật liệu xây dựng ở thị trường trong nước và xuất khẩu. Thi công xây dựng công trình dân dụng và công nghiệp. Đầu tư và chuyển giao công nghệ sản xuất các loại vật liệu xây dựng. Đào tạo công nhân kỹ thuật và bồi dưỡng cán bộ quản lý trong lĩnh vực công nghiệp vật liệu xây dựng. Xuất khẩu chuyên gia và lao động Trong quá trình phát triển, Viglacera luôn chú trọng đến công tác nghiên cứu và phát triển để ứng dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, phát triển các loại sản phẩm vật liệu xây dựng chất lượng cao. Chính chiến lược nghiên cứu - phát triển đúng đắn đã giúp Viglacera không ngừng tăng trưởng ổn định và đang trở thành một tập đoàn kinh tế đa ngành ở Việt Nam và trong khu vực. 2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần Viglacera Hà Nội Tên công ty: Công ty cổ phần Viglacera Hà Nội Tên giao dịch: Viglacera Hanoi Joint stock company Tên viết tắt: VIH Với bề dày 15 năm hình thành và phát triển Viglacera Hà Nội đang trở thành thương hiệu lớn trong sản phẩm gạch ốp lát ceramic. Để có được vị thế hiện nay, Công ty đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài với nhiều biến đổi cả về tên gọi, quy mô và hình thức hoạt động. Công ty cổ phần Viglacera Hà Nội tiền thân là Xí nghiệp gạch ngói Hữu Hưng, trực thuộc Liên hiệp các xí nghiệp Thủy tinh và Gốm xây dựng – Bộ Xây dựng được thành lập theo quyết địng số 094A/BXD-TCLĐ ngày 24 tháng 3 năm 1993 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng. Ngày 30 tháng 7 năm 1994, Xí nghiệp Gạch ngói Hữu Hưng được đổi tên thành Công ty gốm xây dựng Hữu Hưng thuộc Tổng Công ty Thủy tinh và Gốm xây dựng theo Quyết định số 483/BXD-TCLĐ của Bộ trưởng Bộ Xây dựng. Ngày 19 tháng 5 năm 1998, Bộ trưởng Bộ Xây dựng có Quyết định số 280/QĐ-BXD đổi tên Công ty gốm xây dựng Hữu Hưng thành Công ty gạch ốp lát Hà Nội thuộc Tổng Công ty Thủy tinh và Gốm xây dựng. Tháng 9 năm 2002 Công ty tiếp nhận Nhà máy Gạch Hải Dương theo quyết định số 3790/QĐ - UB của Uỷ ban Nhân dân tỉnh Hải Dương. Đến thời điểm này, Công ty gạch ốp lát Hà Nội có hai Nhà máy: Nhà máy gạch ốp lát Hà Nội, Nhà máy gạch ốp lát Hải Dương và đầu tư nâng công xuất lên 5.500.000 m2/năm. Theo sự chỉ đạo của Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội về quy hoạch Đô thị, tháng 2 năm 2006 Công ty di chuyển Nhà máy gạch ốp lát Hà Nội đến khu Công nghiệp Huyện Yên Phong – Tỉnh Bắc Ninh. Thực hiện chủ trương của Nhà nước về sắp xếp đổi mới doanh nghiệp, ngày 18 tháng 4 năm 2008 Bộ Xây dựng có Quyết định số 588/QĐ-BXD chuyển đổi Công ty gạch ốp lát Viglacera Hà Nội thành Công ty cổ phần Viglacera Hà Nội với vốn điều lệ là 28 tỷ đồng, trong đó vốn nhà nước chiếm 51%. 2.1.3. Tình hình tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý của Công ty cổ phần Viglacera Hà Nội Ngành nghề kinh doanh + Sản xuất kinh doanh các sản phẩm gạch ốp lát ceramic và các loại vật liệu xây dựng khác; + Hoàn thiện và trang trí các công trình công nghiệp và dân dụng; + Tư vấn thiết kế, chuyển giao công nghệ sản xuất vật liệu xây dựng; + Khai thác và chế biến khoáng sản; + Kinh doanh máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất và tiêu dùng; + Kinh doanh dịch vụ vận chuyển hàng hóa; + Kinh doanh xuất nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu xây dựng; + Đầu tư liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước; + Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, chứng khoán và bất động sản. Tổ chức nhân sự và bộ máy quản lý Tổ chức nhân sự: Công ty cổ phần Viglacera Hà Nội là một công ty lớn trong lĩnh vực sản xuất gạch ốp lát với nhiều nhà máy hoạt động nên số lượng cán bộ công nhân viên của công ty tương đối lớn. Sơ đồ: Mô hình bộ máy quản lý của công ty cổ phần Viglacera Hà Nội §¹i héi cæ ®«ng Héi ®ång qu¶n trÞ Ban kiÓm so¸t Gi¸m §èc Phã gi¸m ®èc phô tr¸ch kü thuËt – s¶n xuÊt Phã gi¸m ®èc phô tr¸ch kinh doanh Nhµ m¸y g¹ch èp l¸t HN Nhµ m¸y g¹ch èp l¸t H¶i D­¬ng Phßng kÕ ho¹ch Phßng tæ chøc hµnh chÝnh Phßng kÕ to¸n tµi vô Phßng s¶n xuÊt Phßng kinh doanh Đến cuối năm 2008, tổng số lượng lao động bình quân của Công ty là 669 người, trong đó, số lượng công nhân sản xuất là khoảng 500 người, còn lại là cán bộ quản lý. Số lượng công nhân đều có trình độ trung học phổ thông hoặc đã qua các trường lớp đào tạo nghề, một số còn được cử đi đào tạo chuyên sâu về máy móc thiết bị nên rất lành nghề và có kinh nghiệm. Các cán bộ quản lý hầu hết đều có trình độ cao đẳng và đại học trở lên nên khả năng quản lý tương đối tốt, là điều kiện tương đối tốt để tổ chức hoạt động sản xuất cho Công ty ngày càng hiệu quả. Bộ máy quản lý: + Đại hội đồng cổ đông: Bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của Công ty. Đại hội cổ đông thông qua các quyết định thuộc thẩm quyền bằng hình thức biểu quyết tại cuộc họp hoặc lấy ý kiến bằng văn bản. + Hội đồng quản trị: Là cơ quan điều hành cao nhất của Công ty, có toàn quyền nhân danh Công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của Công ty. Hội đồng quản trị có nhiệm vụ quyết định chiến lược phát triển của Công ty, quyết định giải pháp phát triển thị trường, quyết định nội dung tài liệu phục vụ họp đại hội cổ đông, triệu tập Đại hội đồng cổ đông, cơ cấu tổ chức, lập quy chế quản lý nội bộ của Công ty. Hội đồng quản trị thông qua quyết định bằng biểu quyết tại cuộc họp, lấy ý kiến bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác. Mỗi thành viên Hội đồng quản trị có một phiếu biểu quyết. + Ban Giám đốc: Bao gồm Giám đốc và các phó Giám đốc do Hội đồng quản trị Công ty bổ nhiệm. Giám đốc điều hành là người đại diện theo pháp luật của Công ty, có nhiệm vụ tổ chức thực hiện các nghị quyết của Hội đồng quản trị, các kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của Công ty. + Ban Kiểm soát: Do đại hội đồng cổ đông bầu ra có nhiệm vụ kiểm tra tính trung thực, hợp pháp, hợp lý trong quản lý điều hành của Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc. + Các phòng chức năng: Có trách nhiệm thực hiện các công việc do Ban giám đốc Công ty giao theo từng lĩnh vực, công việc riêng góp phần điều hành hoạt động hàng ngày cuả Công ty. Các phòng ban chức năng gồm: Phòng Tổ chức hành chính Phòng Tài chính kế toán Phòng Kế hoạch đầu tư Phòng Kinh doanh Phòng Xuất khẩu Các bộ phận trực tiếp sản xuất, kinh doanh: Nhà máy gạch ốp lát Hà Nội Nhà máy gạch ốp lát Hải Dương Chi nhánh Miền Trung Chi nhánh Miền Nam Tổ chức sản xuất Với mô hình tổ chức quản lý sản xuất và kinh doanh hiện nay của Công ty là có hiệu quả và cơ bản đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi của thị trường. Phương hướng tổ chức sản xuất kinh doanh của Công ty trong những năm tới là bám sát yêu cầu của thị trường, không ngừng nâng cao năng lực quản lý của cán bộ nhằm tối đa hóa lợi nhuận, nâng cao quyền lợi của các cổ đông, không ngừng nâng cao thu nhập và điều kiện làm việc cho cán bộ công nhân viên. Các hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty được chỉ đạo thống nhất từ trên xuống dưới. Quan hệ chỉ đạo của Giám đốc điều hành xuống các phòng ban, đơn vị theo nguyên tắc trực tuyến – chức năng. Các chi nhánh và nhà máy sản xuất Công ty cổ phần Viglacera Hà Nội là một doanh nghiệp lớn và hoạt động lâu năm trong lĩnh vực sản xuất gạch ốp lát nên có chi nhánh ở cả 3 miền, trong đó trụ sở chính tại tầng 15, tòa nhà Viglacera, Mỹ Đình, Từ Liêm, Hà Nội. Ngoài ra Công ty còn có hệ thống các showroom giới thiệu và bán sản phẩm tren khắp các tỉnh thành trên cả nước và một số showroom tại nước ngoài như Thái Lan, Campuchia,… Bên cạnh đó, Công ty còn có hai nhà máy sản xuất là nhà máy Yên Phong – Bắc Ninh và nhà máy Hải Dương với diện tích và công suất tương đối lớn. Đặc điểm sản xuất kinh doanh Đặc điểm quy trình công nghệ: Công ty chủ yếu sản xuất gạch Ceramic và theo quy trình chế biến liên tục, qua nhiều công đoạn khác nhau: Quy trình sản xuất gạch Ceramic: Nguyên liệu – Phân tích, lập đơn – Cân phối liệu – Nạp nguyên liệu – Xả hồ - Lưu chứa, khuấy đảo hồ - Sấy hồ - Lưu chứa, ủ bột – Ép tạo hình – Tráng men – In trang trí – Xếp tải goòng – Dỡ tải – Nung – Phân loại ngoại quan – Phân tích kích thước và độ phẳng – Đóng hộp – Xếp kiện – Nhập kho. Yếu tố đầu vào và thị trường các yếu tố đầu vào: Công ty cổ phần Viglacera chuyên cung cấp chủ yếu là các sản phẩm gạch ốp lát với các chủng loại và kích thước khác nhau, các sản phẩm gạch ngói và vật liệu xây dựng. Do đó, các yếu tố đầu vào của Công ty cũng bao gồm vốn, nguyên vật liệu, khoa học công nghệ và con người. Vốn của Công ty bao gồm vốn đầu tư của chủ sở hữu và vốn vay của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Vốn đầu tư của chủ sở hữu tính đến cuối năm 2008 là trên 28 tỷ đồng, vốn vay là trên 261 tỷ đồng, trong đó Công ty vay ngắn hạn để đầu tư sản xuất kinh doanh, còn vay trung và dài hạn để đầu tư xây dựng cơ bản và mua sắm thiết bị. Quy trình công nghệ sản xuất của Công ty được đầu tư hiện đại mà ít doanh nghiệp trong nước nào có được, nhập khẩu từ các nước Italia, Tây Ban Nha, Trung Quốc. Lực lượng lao động của Công ty chủ yếu là lao động tại chỗ với hơn 600 cán bộ công nhân viên. Đội ngũ lao động phần lớn đều được qua đào tạo có trình độ tay nghề cao thích ứng được với quy trình công nghệ cao. Nguyên vật liệu đầu vào của Công ty chủ yếu bao gồm: Đất, feldspar, men màu được chia thành 2 loại là nguyên liệu xương và nguyên liệu men trong đó 70% - 80% là mua trong nước, còn lại phải nhập khẩu từ nước ngoài. Nhìn chung yếu tố đầu vào và thị trường các yếu tố đầu vào của Công ty tương đối thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh giúp Công ty đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục và luôn đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Thị trường đầu ra và vị thế cạnh tranh của Công ty cổ phần Viglacera Hà Nội Công ty đã xây dựng được mạng lưới phân phối sản phẩm rộng khắp cả nước và đã có thị trường nhất định ở nước ngoài như: Thái Lan, Hàn Quốc, Campuchia,…Bên cạnh đó, Công ty vẫn tiếp tục duy trì, khơi dậy tiềm năng ở thị trường hiện tại đồng thời tìm kiếm khách hàng mới góp phần đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm và củng cố thương hiệu. Các sản phẩm của Công ty luôn được cải tiến mẫu mã, kích thước và giá cả cho phù hợp với thị hiếu ngày càng cao của người tiêu dùng, do đó luôn duy trì được thị trường tiêu thụ của mình và củng cố lòng tin đối với khách hàng và các nhà cung cấp, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, góp phần đẩy mạnh doanh số tiêu thụ. Tuy nhiên trước sụ phát triển của thị trường vật liệu xây dựng nói chung và thị trường gạch ốp lát nói riêng Công ty luôn gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp cùng ngành như Prime Group, Thạch Bàn, Đồng Tâm,…Thực tế này đòi hỏi Công ty phải luôn có sự tìm tòi, sáng tạo, đi sâu vào nghiên cứu thị trường, nắm bắt được thị hiếu người tiêu dùng, giá cả sản phẩm hợp lý,…để có được vị thế nhất định trên thị trường. Nhìn chung, với uy tín sẵn có, những sản phẩm chất lượng ngày càng cao, chủng loại phong phú,mẫu mã sáng tạo, giá cả hợp lý,…là điều kiện rất thuận lợi để Công ty ngày càng phát triển hơn nữa trong tương lai. Tình hình hoạt động sản xuất của công ty cổ phần Viglacera Hà Nội 2.1.3.1. Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh đối với Công ty cổ phần Viglacera Hà Nội Trong sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường, cũng như các doanh nghiệp ở mọi loại hình kinh tế, Viglacera Hà Nội cũng phải vận động không ngừng để tồn tại và phát triển. Sau một năm thực hiện cổ phần hóa, Viglacera Hà Nội đã có sự phát triển nhanh chóng, tạo dựng và củng cố thương hiệu trên thị trường Ceramics Việt Nam. Tuy vậy, trong bối cảnh hiện nay, công ty đang phải đối mặt với không ít khó khăn cũng như có được những thuận lợi nhất định. Thuận lợi Công ty cổ phần Viglacera là một trong những doanh nghiệp sản xuất gạch ceramic đầu tiên ở Việt Nam, uy tín, thương hiệu của Công ty đã được khẳng định. Đội ngũ cán bộ công nhân viên có kinh nghiệm, tận tâm với công việc, làm chủ các thiết bị công nghệ. Khó khăn Cơ chế thị trường ngoài những tác động tích cực thì cũng nảy sinh hàng loạt các khó khăn khi hệ thống chưa đồng bộ: Cạnh tranh không lành mạnh, gian lận thương mại, vi phạm quyền sở hữu công nghiệp…phần nào tác động xấu đến hoạt động sản xuất của Công ty. Giá cả nguyên liệu biến động khôn lường, tình hình kinh tế toàn cầu khủng hoảng, đầu tư xây dựng cơ bản giảm sút đáng kể ảnh hưởng rất lớn đến tiêu thụ sản phẩm của Công ty. 2.1.3.2. Kết quả kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây: Tại Công ty cổ phần Viglacera Hà Nội, tình hình kinh doanh được thể hiện cụ thể qua bảng sau: Bảng 2.1: Báo cáo kết quả kinh doanh 3 năm gần nhất (Đvt: nghìn đồng) Stt Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Chênh lệch Năm 2008 Chênh lệnh Số tiền % Số tiền % 1 DTBH và CCDV 181,514,031 225,080,160 43,566,129 24.00 299,156,458 74,076,298 32.91 2 Các khoản giảm trừ DT 1,568,527 4,808,811 3,240,284 206.58 5,012,352 203,541 4.23 3 DTT BH và CCDV 179,945,503 220,271,349 40,325,846 22.41 294,144,106 73,872,757 33.54 4 Giá vốn bán hàng 132,836,689 195,348,187 62,511,498 47.06 232,975,823 37,627,636 19.26 5 LN gộp về BH và CCDV 47,108,814 24,923,161 -22,185,653 -47.09 61,168,282 36,245,121 145.43 6 DT tài chính 33,747,432 444,684,185 410,936,753 1217.68 200,145,123 -244,539,062 -54.99 7 CP tài chính 19,296,428 21,531,115 2,234,687 11.58 25,014,552 3,483,437 16.18 8 CP bán hàng 17,445,957 26,496,537 9,050,580 51.88 23,932,516 -2,564,021 -9.68 9 CP quản lý DN 11,537,220 7,036,045 -4,501,175 -39.01 8,065,145 1,029,100 14.63 10 Lợi nhuận thuần từ HĐKD -1,137,044 -29,695,852 -28,558,808 2511.67 4,356,212 34,052,064 -114.67 11 Thu nhập khác 8,166,985 77,437,779 69,270,794 848.18 -77,437,779 -100.00 12 Chi phí khác 20,000,866 25,323,383 5,322,517 26.61 -25,323,383 -100.00 13 Lợi nhuận khác 8,166,985 52,114,396 43,947,411 538.11 -52,114,396 -100.00 14 Tổng LN kế toán trước thuế 7,027,941 22,418,543 15,390,602 218.9 4,356,212 -18,062,331 -80.57 15 Chi phí thuế TNDN hiện hành 16 Chi phí thuế TNDN hoãn lại 17 LN sau thuế TNDN 7,027,941 22,418,543 15,390,602 218.9 4,356,212 -18,062,331 -80.57 Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh Công ty năm 2007 – 2008 Qua báo cáo kết quả kinh doanh 3 năm gần nhất và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, ta thấy: Doanh thu thuần từ hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ của Công ty tăng lên đáng kể. Năm 2007 tăng 22,41% so với năm 2006, nhưng tới năm 2008 thì tăng lên 73.872 triệu đồng tương ứng với 33,54%. Giá vốn của Công ty năm 2008 tăng 37.627 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ 19,26%. Tuy giá vốn tăng lên nhưng tỷ lệ tăng đã giảm hơn so với năm 2007. Như vậy doanh thu thuần từ bán hàng và cung cấp dịch vụ có tốc độ tăng cao hơn so với giá vốn hàng bán. Điều này làm cho lợi nhuận gộp về bán hàng năm 2008 tăng mạnh so với năm 2007. Năm 2008 lợi nhuận gộp về bán hàng tăng 145,43% tương ứng 36.245 triệu đồng. Đây là một tín hiệu đáng mừng và kết quả khả quan khi Công ty thực hiện chuyển đổi hình thức sở hữu sự, sự cố gắng của Công ty trong việc tăng doanh thu với chính sách đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Chi phí bán hàng năm 2008 là 23.932 triệu đồng, giảm so với năm 2007 là 2.564 triệu tương ứng với tỷ lệ 9,68%. Trong khi năm 2007 tăng so với năm 2006 là 9.050 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng là 51,88%. Điều này cho thấy nỗ lực của Công ty trong việc tiết kiệm chi phí bán hàng để nâng cao lợi nhuận. Bảng 2.2: Một số chỉ tiêu phản ánh mức độ chi phí Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Chênh lệch Tỷ suất giá vốn hàng bán trên doanh thu thuần 88,7% 79,5% -9,2% Tỷ suất chi phí bán hàng trên doanh thu thuần 12% 8,3% -3,7% Tỷ suất chi phí quản lý trên doanh thu thuần 3,2% 2,96% -0,24% Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh Công ty năm 2007 – 2008 Bảng 2.3: Phân tích các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả kinh doanh (Đvt: triệu đồng) STT Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Chênh lệch Số tiền % 1 Doanh thu thuần 220.271 291.581 71.31 32.37 2 Giá vốn hàng bán 195.348 231.831 36.483 18.68 3 Chi phí tài chính 21.087 23.163 2.076 9.84 4 Chi phí bán hàng 26.496 24.347 -2.149 -8.11 5 Chi phí quản lý 7.036 6.909 -0.127 -1.81 6 Lợi nhuận thuần -29.695 3.809 33.504 -112.83 Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh Công ty năm 2007 – 2008 Qua biểu phân tích trên có t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21375.doc