Tăng cường huy động vốn tại ngân hàng NHPT Nhà Đồng bằng sông Cửu Long (MHB) - Chi nhánh Hà Nội

MỞ ĐẦU 1/ Tính cấp thiết của luận văn: Hiện nay, vấn đề vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hóa và đầu tư phát triển kinh tế nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng cao, bền vững được Nhà nước đặc biệt quan tâm, trong đó huy động vốn từ nội lực là một nội dung quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, hệ thống Ngân hàng thương mại vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về vốn cho nền kinh tế giai đoạn hiện nay. Nhiều ngân hàng thương mại còn trong tình trạng thiếu vốn trung và dài hạn, vẫn đang tìm kiếm những nguồn

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1207 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Tăng cường huy động vốn tại ngân hàng NHPT Nhà Đồng bằng sông Cửu Long (MHB) - Chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vốn ổn định với chi phí hợp lý, phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn. Do đó, yêu cầu về tăng cường huy động vốn với quy mô và chất lượng cao là rất cần thiết đối với các ngân hàng thương mại. Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long (MHB) là ngân hàng thương mại quốc doanh đa năng, được thành lập muộn nhất trong hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh (năm 1997) với chức năng chủ yếu là huy động và tiếp nhận các nguồn vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước bằng các hình thức thích hợp để đầu tư cho các chương trình phát triển nhà ở, phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long, hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ và tín dụng ngân hàng, có trụ sở đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội được thành lập tháng 7/2003 và chính thức đi vào hoạt động tháng 10/2003 – là một bước tiến quan trọng của MHB khi thâm nhập vào thị trường tài chính tiền tệ trên địa bàn Thủ đô Hà Nội. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt với các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, các tổ chức tài chính phi ngân hàng…trên địa bàn Hà Nội đòi hỏi MHB Chi nhánh Hà Nội phải tìm ra những giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn kinh doanh để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế đất nước nói chung và nhu cầu sử dụng vốn của hệ thống MHB nói riêng. Vì những lý do trên, đề tài: “Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long - Chi nhánh Hà Nội” được lựa chọn nghiên cứu. 2/ Mục đích nghiên cứu: - Nghiên cứu những cơ sở lý luận về hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại. - Phân tích thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội, từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể tăng cường huy động vốn cho Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội thời gian tới để đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế đất nước. 3/ Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại nói chung và của Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội nói riêng. 4/ Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng huy động vốn của Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội giai đoạn 2003-2006. Luận văn nghiên cứu hoạt động huy động vốn của chi nhánh một ngân hàng thương mại nên tác giả nghiên cứu hoạt động này dưới góc độ huy động vốn nợ và huy động vốn từ các nguồn khác. 5/ Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, kết hợp giữa lý luận và các tài liệu, số liệu trên thực tế để so sánh, phân tích, đưa ra các kết luận, chỉ ra hạn chế và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội. 6/ Kết cấu của luận văn: Tên đề tài: “Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long - Chi nhánh Hà Nội” Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng huy động vốn của Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội. Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn cho Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội. CHƯƠNG 1: HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CÁC HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.1 Huy động vốn Huy động vốn là hoạt động tạo vốn quan trọng của NHTM. Bằng các biện pháp nghiệp vụ, các NHTM thu hút, tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp vào ngân hàng để tạo lập nguồn vốn cho Ngân hàng và quản lý nguồn vốn đó. Cho vay luôn được coi là hoạt động sinh lời cao, vì vậy các NHTM phải tìm mọi cách để huy động được tiền. NHTM huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu trên thị trường vốn hoặc đi vay Ngân hàng Nhà nước, các Ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác để giải quyết những nhu cầu cấp bách trong thanh toán với khách hàng; NHTM còn huy động tiền gửi, tiền tiết kiệm trên thị trường các tổ chức kinh tế & dân cư; thị trường Ngân hàng & các tổ chức tín dụng … Theo Luật các Tổ chức tín dụng sửa đổi, bổ sung được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15/6/2004 thì nguồn vốn huy động của NHTM là nguồn vốn do nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, vay vốn giữa các tổ chức tín dụng và vay vốn của Ngân hàng Nhà nước. Sử dụng vốn Ngân hàng là một tổ chức tài chính “đi vay để cho vay”. Do vậy mối quan tâm hàng đầu của ngân hàng sau khi đã huy động được một lượng vốn là làm sao sử dụng nguồn vốn để đạt được hiệu quả cao nhất. Vì thế ngân hàng phải nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của mình, bằng các hoạt động sau: + Dự trữ: Với mục đích đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng, NHTM phải duy trì một lượng vốn bằng tiền mặt thực hiện nghĩa vụ dự trữ, mức dự trữ này tuỳ thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc (do Nhà nước quy định) và tỷ lệ dự trữ vượt quá mà ngân hàng giữ lại để đảm bảo khả năng chi trả cũng như thực hiện hoạt động khác của mình. + Tiền gửi ở các ngân hàng khác: Ngân hàng được coi như là thủ quỹ của nền kinh tế và có trách nhiệm chi trả kịp thời mọi nhu cầu của người gửi tiền bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản. Vì vậy, ngân hàng phải gửi tiền tại các ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác để đảm bảo luôn đáp ứng được yêu cầu rút tiền gửi, yêu cầu vay vốn…của khách hàng. + Cho vay: Theo quy định “Cho vay là hình thức tín dụng mà trong đó ngân hàng ký hợp đồng với người đi vay, cam kết cho người đó vay một khoản tiền trong một khoảng thời gian nhất định, khách hàng có nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi tại thời điểm đáo hạn của khoản cho vay”. Đây là một hoạt động chính và chiếm một tỷ trọng lớn trong hoạt động sử dụng vốn của NHTM, khoản mục này thường chiếm từ 1/2 đến 3/4 giá trị tổng tài sản của ngân hàng. Hoạt động cho vay bao gồm ba nội dung chính, đó là: Cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng và tài trợ dự án. - Cho vay thương mại: Từ buổi sơ khai, các ngân hàng đã thực hiện chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán, người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước. Sau đó, các ngân hàng chuyển từ nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng là người mua, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. - Cho vay tiêu dùng: Đó là các khoản cho vay của ngân hàng nhằm tài trợ cho nhu cầu sinh hoạt của người tiêu dùng. Trong giai đoạn đầu, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình vì họ cho rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Dần dần, sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là khách hàng tiềm năng. Vì thế, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. - Tài trợ dự án: Bên cạnh hình thức cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các NHTM tiếp tục mở rộng thêm hình thức cho vay để tài trợ cho các dự án xây dựng các nhà máy mới, đặc biệt là các nhà máy trong ngành công nghệ cao hoặc tham gia tài trợ vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản… + Đầu tư: Có hai hình thức đầu tư chủ yếu của ngân hàng là: Đầu tư chứng khoán: Ngân hàng mua chứng khoán với mục đích đem lại thu nhập, nâng cao tính thanh khoản, tăng cường mức độ đa dạng hoá hoạt động, hạn chế rủi ro và ít nhất một phần thu nhập của ngân hàng sẽ không phải chịu thuế... Nghiệp vụ này mang lại lợi nhuận khá lớn cho ngân hàng sau nghiệp vụ cho vay nhưng cũng hàm chứa rất nhiều rủi ro. Tuỳ luật pháp mỗi quốc gia mà việc tham gia vào thị trường chứng khoán của các ngân hàng ở mức khác nhau, song ngân hàng phải luôn xem xét kỹ lưỡng trước khi lựa chọn danh mục và cơ cấu chứng khoán để đầu tư. Thường ngân hàng hay chú ý vào trái phiếu Chính phủ và trái phiếu công ty là những chứng khoán có độ rủi ro thấp. Đầu tư khác: Bên cạnh đầu tư vào chứng khoán, nguồn vốn của ngân hàng còn được sử dụng để đầu tư vào các mục đích sinh lời khác như: góp vốn liên doanh, hùn vốn, ký thác… + Các tài sản khác: Đó là vốn hiện vật như các tòa nhà ngân hàng, các trang thiết bị do ngân hàng sở hữu…gọi là tài sản cố định (tài sản vật chất). Các tài sản cố định này tạo ra chi phí hoạt động cố định dưới dạng chi phí khấu hao, thuế tài sản… hình thành nên đòn bẩy hoạt động cho phép ngân hàng đẩy mạnh thu nhập từ hoạt động nếu nó làm gia tăng khối lượng dịch vụ lớn, tạo nhiều thu nhập hơn từ việc sử dụng các tài sản cố định so với chi phí cho các tài sản đó. 1.1.3 Các dịch vụ khác - Mua bán ngoại tệ: Đây là một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện - đó là việc ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính ngày nay, chỉ có các ngân hàng lớn mới thực hiện dịch vụ mua bán ngoại tệ vì dịch vụ này có mức độ rủi ro cao, đòi hỏi trình độ chuyên môn cao và trên cơ sở công nghệ hiện đại (như thông qua hệ thống online toàn cầu…) - Bảo quản vật có giá: Đó là việc các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản và thu phí bảo quản. Các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng (ghi nhận về các tài sản đang được lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền - đó là hình thức đầu tiên của thẻ tín dụng. Nghiệp vụ bảo quản vật có giá cho khách hàng ngày nay thường do phòng Bảo quản của ngân hàng thực hiện. - Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: Ngân hàng cung cấp các tài khoản giao dịch cho khách hàng để bảo quản tiền gửi của khách hàng và quan trọng hơn là thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng là hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, tạo sự an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí cho khách hàng nên đã khuyến khích và thu hút được các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng nhờ thanh toán hộ. Các thể thức thanh toán hiện nay rất đa dạng và tiện ích như séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ… - Quản lý ngân quỹ: Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền cho khách hàng, đồng thời tiến hành việc quản lý thu chi cho khách hàng, tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Ngày nay, trong khi các ngân hàng có khuynh hướng chuyên môn hoá vào dịch vụ quản lý tiền mặt cho các tổ chức thì có một xu hướng đang gia tăng về việc cung cấp các dịch vụ cho người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng này lan rộng là do các công ty môi giới chứng khoán, các tập đoàn tài chính khác cung cấp cho người tiêu dùng tài khoản môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan, chẳng hạn tài khoản quản lý tiền mặt cho phép khách hàng mua và bán chứng khoán, di chuyển vốn trong nhiều quỹ tương hỗ, viết séc và sử dụng thẻ tín dụng cho khoản vay tức thời. - Tài trợ các hoạt động của Chính phủ: Chính phủ các nước thường tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng khi nhu cầu chi tiêu lớn, cấp bách trong khi thu không đủ. Các Chính phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng buộc các ngân hàng mới thành lập phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ, các ngân hàng phải mua Trái phiếu chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được; hoặc phải cho vay với các điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của Chính phủ. - Bảo lãnh: Do khả năng thanh toán của ngân hàng rất lớn nên ngân hàng được tin tưởng để thực hiện bảo lãnh cho khách hàng trong trường hợp mua chịu hàng hóa và thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của các tổ chức tín dụng khác… - Cho thuê thiết bị trung và dài hạn: Các ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê, thường thì khách hàng phải trả tới 2/3 giá trị của tài sản cho thuê và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn. - Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn: Các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ, các ngân hàng thực hiện các dịch vụ uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư, tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp…Ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy mô vốn họ quản lý. Các ngân hàng thường cung cấp dịch vụ ủy thác thông thường cho cá nhân, hộ gia đình và dịch vụ uỷ thác thương mại cho các tổ chức, doanh nghiệp. Thông qua phòng Uỷ thác cá nhân, khách hàng có thể tiết kiệm các khoản tiền, ngân hàng sẽ quản lý và đầu tư khoản tiền đó đến khi khách hàng cần, hoặc ngân hàng thường đóng vai trò là người được ủy thác trong di chúc, công bố tài sản, bảo quản tài sản thừa kế…Thông qua phòng Uỷ thác thương mại, ngân hàng thường đóng vai trò quản lý danh mục đầu tư chứng khoán, kế hoạch tiền lương, đại lý cho các công ty trong hoạt động phát hành cổ phiếu, trái phiếu. - Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: ngân hàng cung cấp các dịch vụ, đem đến cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Ngày nay, hầu hết các ngân hàng lớn đều đã thành lập các Công ty chứng khoán hoặc Công ty môi giới chứng khoán của riêng mình. - Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm: Các ngân hàng bán bảo hiểm cho khách hàng, đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng chết, tàn phế, gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngày nay, hoạt động ngân hàng và hoạt động bảo hiểm đã thâm nhập vào nhau, tạo ra rất nhiều dịch vụ đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. - Cung cấp các dịch vụ đại lý: Các ngân hàng lớn thường cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng không có mạng lưới rộng khắp bằng các hình thức chủ yếu như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ… - Cung cấp các kế hoạch hưu trí: Phòng uỷ thác của ngân hàng quản lý kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao động, đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế, ngân hàng cũng bán các kế hoạch tiền gửi hưu trí cho các cá nhân và giữ nguồn tiền gửi cho đến khi người sở hữu các kế hoạch này cần đến. - Cung cấp dịch vụ tương hỗ và trợ cấp: Do ngân hàng cung cấp các tài khoản tiền gửi truyền thống với lãi suất quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng tới việc sử dụng sản phẩm đầu tư, đặc biệt là các tài khoản của quỹ tương hỗ và hợp đồng trợ cấp, những loại hình cung cấp triển vọng thu nhập cao hơn tài khoản tiền gửi nhưng cũng kèm theo nhiều rủi ro hơn. Hợp đồng trợ cấp bao gồm các kế hoạch tiết kiệm dài hạn cam kết thanh toán một khoản tiền mặt hàng năm cho khách hàng bắt đầu từ một ngày nhất định trong tương lai; ngược lại quỹ tương hỗ bao gồm các chương trình đầu tư được quản lý một cách chuyên nghiệp nhằm vào việc mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phù hợp với mục tiêu của quỹ. - Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn: những dịch vụ này bao gồm xác định mục tiêu hợp nhất, tài trợ mua lại công ty, mua bán chứng khoán cho khách hàng, cung cấp công cụ marketing chiến lược, các dịch vụ hạn chế rủi ro để bảo vệ khách hàng. Các ngân hàng cũng dấn sâu vào thị trường bảo đảm, hỗ trợ các khoản nợ do Chính phủ và công ty phát hành để những khách hàng này có thể vay vốn với chi phí thấp nhất từ thị trường tự do hay từ các tổ chức cho vay khác. Có thể nói, không phải tất cả các ngân hàng đều cung cấp toàn bộ các dịch vụ như đã trình bày, nhưng trên thực tế các danh mục dịch vụ ngân hàng đang tăng lên nhanh chóng. Các sản phẩm tín dụng, tài khoản tiền gửi mới, giao dịch qua mạng internet, các loại thẻ thông minh…được các ngân hàng tích cực triển khai và cung cấp đã tạo ra một sự thuận lợi lớn hơn cho khách hàng, khách hàng có thể hoàn toàn thỏa mãn tất cả các nhu cầu dịch vụ tài chính của mình chỉ thông qua một ngân hàng, tại một địa điểm. Thực sự ngân hàng ngày nay đã trở thành bách hóa tài chính ở kỷ nguyên hiện đại. HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI: 1.2.1 Cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng thương mại 1.2.1.1 Vốn chủ sở hữu: Trong bảng cân đối tài sản của ngân hàng, nguồn vốn của ngân hàng bao gồm các khoản nợ (các khoản phải trả cho người khác) và vốn chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng là vốn ban đầu khi bắt đầu hoạt động ngân hàng, là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng, đó là toàn bộ giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập và sở hữu. - Nguồn hình thành ban đầu của vốn chủ sở hữu của các ngân hàng là khác nhau. Đối với các ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước thì vốn chủ sở hữu của ngân hàng do ngân sách Nhà nước cấp; đối với các ngân hàng cổ phần thì vốn chủ sở hữu lại do các cổ đông đóng góp; đối với các ngân hàng liên doanh thì vốn chủ sở hữu là do các bên liên doanh đóng góp; đối với các ngân hàng tư nhân thì đó là vốn thuộc sở hữu tư nhân. - Trong quá trình hoạt động của mình, ngân hàng bổ sung vốn chủ sở hữu theo nhiều phương thức và điều kiện cụ thể như các nguồn từ lợi nhuận, nguồn từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… - Vốn chủ sở hữu của ngân hàng bao gồm các quỹ như Quỹ dự phòng tổn thất để bù đắp những tổn thất xảy ra và được trích lập hàng năm; Quỹ bảo toàn vốn để bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát; Quỹ thặng dư là phần thặng dư vốn của ngân hàng khi phát hành thêm cổ phiếu mới; Quỹ phúc lợi; Quỹ khen thưởng… Vốn chủ sở hữu của một NHTM đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và đảm bảo cho ngân hàng khả năng phát triển lâu dài. Thứ nhất, vốn chủ sở hữu là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản vì vốn giúp trang trải những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho đến khi các vấn đề của ngân hàng được giải quyết và ngân hàng trở lại trạng thái hoạt động sinh lời. Thứ hai, vốn chủ sở hữu là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép tổ chức và hoạt động. Thứ ba, vốn chủ sở hữu tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với khách hàng về sức mạnh tài chính của ngân hàng. Ngoài ra, vốn chủ sở hữu cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ mới, những chương trình và trang thiết bị mới. Cuối cùng, vốn chủ sở hữu được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, đảm bảo tăng trưởng duy trì ổn định, lâu dài. 1.2.1.2 Vốn nợ * Nguồn tiền gửi: Tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng, đây là khoản mục duy nhất trên bảng cân đối kế toán giúp phân biệt ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác. Tiền gửi là đầu vào sống còn trong hoạt động của ngân hàng, đây là nguồn vốn tài chính cơ bản dùng để tại trợ cho các khoản vay, đầu tư tạo lợi nhuận để đảm bảo sự phát triển vững mạnh của ngân hàng. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Khi bắt đầu hoạt động, ngân hàng mở các tài khoản tiền gửi để giữ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó, ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, tổ chức và dân cư. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Trong môi trường cạnh tranh, để gia tăng được lượng tiền gửi có chất lượng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau. Các ngân hàng cung cấp nhiều loại hình tiền gửi khác nhau cho khách hàng, mỗi công cụ huy động tiền gửi mà ngân hàng đưa ra đều có những đặc điểm riêng, phù hợp với nhu cầu của khách hàng trong việc tiết kiệm và thực hiện thanh toán: - Tiền gửi giao dịch: Với xu hướng thanh toán không dùng tiền mặt, các ngân hàng mở tài khoản tiền gửi giao dịch để giữ tiền và thanh toán hộ cho khách hàng trong phạm vi số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch theo lệnh của chủ tài khoản. Tiền gửi giao dịch rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán nhưng lãi suất thường là rất thấp, ngân hàng có được nguồn vốn luân chuyển với chi phí thấp nhưng không ổn định vì khách hàng có thể gửi hoặc rút tiền bất kỳ lúc nào mà không cần thông báo trước. Trong một số trường hợp nhất định, ngân hàng có thể cho khách hàng được hưởng hình thức cho vay - thấu chi trên tài khoản tiền gửi giao dịch này. - Tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội: Ngân hàng áp dụng hình thức tiền gửi có kỳ hạn trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng về thời hạn gửi và rút tiền. Khách hàng chỉ được rút tiền với lãi suất đã được ấn định từ trước (mức lãi suất này cao hơn lãi suất tiền gửi giao dịch và càng cao theo độ dài của kỳ hạn) khi khoản tiền đó đến hạn, nếu rút sớm hơn khách hàng chỉ được hưởng lãi suất tương đương như lãi suất tiền gửi giao dịch. Loại tiền gửi này được khách hàng sử dụng với mục đích hưởng lãi chứ không phải để thanh toán. Với loại tiền gửi này, ngân hàng có được nguồn vốn ổn định, do đó đạt được hiệu quả sử dụng vốn cao, tuy nhiên chi phí để huy động cũng rất lớn. - Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng - đó là các khoản tiền tiết kiệm, họ có thể gửi khoản tiền này vào ngân hàng với mục đích bảo toàn và sinh lời cho khoản tiền. Ngân hàng mở sổ tiết kiệm để nhận số tiền này của dân cư theo từng kỳ hạn và số tiền mỗi lần gửi khác nhau. Thu hút loại tiền gửi này cũng góp phần đáng kể cho việc tăng nguồn vốn của ngân hàng, vì vậy các ngân hàng cũng tìm mọi cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra nhiều hình thức huy động đa dạng với lãi suất cạnh tranh hấp dẫn để thu hút nguồn vốn này. - Tiền gửi của các ngân hàng khác: NHTM này có thể gửi tiền ở các NHTM khác với mục đích nhờ thanh toán hộ, cung cấp các tiện ích ngân hàng hoàn hảo hơn… tuy nhiên quy mô của loại tiền gửi này thường không lớn. Đối với nhiều ngân hàng, một nguồn tiền gửi không kém phần quan trọng là tiền gửi từ hoạt động tín thác. Thông qua việc cung cấp các dịch vụ tín thác (bao gồm bảo quản và quản lý tài sản của khách hàng) ngân hàng đã tạo ra một nguồn thu nhập không nhỏ từ các tài sản được các khách hàng ủy thác. Rất nhiều tài sản được ủy thác là tiền gửi hưởng lãi và ngân hàng phải bảo quản chúng đầy đủ trên cơ sở sự kết hợp giữa bảo hiểm tiền gửi và việc nắm giữ các chứng khoán cam kết chất lượng cao. * Nguồn đi vay: Nguồn đi vay là nguồn vốn mà ngân hàng chủ động đi vay trên thị trường để bổ sung vào vốn hoạt động của mình, để cho vay hoặc đầu tư, để đảm bảo khả năng thanh toán hoặc bù đắp thiếu hụt dự trữ…Nguồn đi vay được hình thành từ các khoản vay Ngân hàng TW, vay các tổ chức tín dụng khác và vay trên thị trường vốn: - Vay Ngân hàng TW: Ngân hàng TW cho vay đối với các NHTM dưới hình thức chủ yếu là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn) để giải quyết những nhu cầu cấp bách của NHTM như thiết hụt dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán…Ngân hàng TW thực hiện việc tái chiết khấu các giấy tờ có giá đã được các NHTM chiết khấu trở thành tài sản của Ngân hàng TW, thông thường những giấy tờ có giá này là những thương phiếu có chất lượng (thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của Ngân hàng TW trong từng thời kỳ. Trong những trường hợp cần thiết khác, Ngân hàng TW cho vay đối với NHTM dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. - Vay các tổ chức tín dụng: Các NHTM và các tổ chức tín dụng vay mượn lẫn nhau qua thị trường liên ngân hàng để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách, bù đắp những thiếu hụt trong cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn. Lãi suất đi vay các tổ chức tín dụng thường cao nên các ngân hàng chỉ vay khi thật cần thiết. - Vay trên thị trường vốn: Để đáp ứng nhu cầu về vốn trung và dài hạn, các NHTM phát hành các giấy nợ như kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu trên thị trường vốn. Thông thường lãi suất của các công cụ nợ này cao nên những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay được nhiều hơn, các ngân hàng nhỏ thường khó vay bằng cách này nên thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lý hoặc nhờ ngân hàng khác bảo lãnh. Tuy nhiên, để các ngân hàng có thể thực hiện vay trên thị trường vốn đòi hỏi mỗi nước phải có thị trường tài chính phát triển, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng, các ngân hàng cũng cần nghiên cứu kỹ thị trường để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất, thời hạn vay thích hợp. 1.2.1.3 Các nguồn khác Trong cơ cấu nguồn vốn của NHTM, ngoài các nguồn trên còn có nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các khoản nợ như thuế chưa nộp, lương chưa trả… Huy động vốn của Ngân hàng thương mại Các NHTM phải tiến hành huy động vốn từ nhiều nguồn nhàn rỗi khác nhau trong nền kinh tế. Huy động vốn là một hoạt động tạo vốn quan trọng của NHTM. Các NHTM sử dụng các biện pháp nghiệp vụ cần thiết như quảng bá, tiếp thị , đưa ra các hình thức huy động vốn hấp dẫn… để thu hút, tập trung các nguồn tiền tệ của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp vào ngân hàng, trên cơ sở đó, ngân hàng tiến hành sử dụng vốn như đầu tư, tài trợ, cho vay… phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh của nền kinh tế.. Cần khẳng định rằng, nguồn vốn của NHTM nếu xét theo hình thức sở hữu sẽ được phân chia thành nguồn vốn của chủ ngân hàng và vốn nợ, tuy nhiên, tỷ trọng nguồn vốn của chủ ngân hàng trong tổng nguồn vốn là không lớn. Vì vậy, đề tài tập trung nghiên cứu phần vốn nợ. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại - NHTM huy động vốn thông qua tài khoản tiền gửi của khách hàng: Đây là nguồn vốn rất quan trọng và chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của NHTM. Ngân hàng huy động vốn bằng việc mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng, gồm tài khoản tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi giao dịch) và tài khoản tiền gửi có kỳ hạn. + Tiền gửi không kỳ hạn: Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, khách hàng thường mở tài khoản tiền gửi không kỳ hạn tại NHTM để thực hiện việc thanh toán, chi trả, ngoài ra có thể nhận được một khoản lãi suất nhất định. Khách hàng có thể gửi tiền, rút tiền hoặc thanh toán bằng cách phát hành séc hay lệnh thanh toán bất cứ lúc nào. Vì vậy, tính ổn định của loại tiền gửi này rất thấp và phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Với loại tiền gửi này, ngân hàng chỉ phải trả lãi suất thấp nên chi phí huy động thấp, các ngân hàng chú trọng khai thác nguồn vốn này để thu hút được lượng khách hàng lớn, đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ. Tuy nhiên, trong quá trình huy động nguồn vốn này, các ngân hàng luôn phải đặc biệt chú trọng đến việc tính toán, dự báo nhu cầu thanh toán của khách hàng để đáp ứng yêu cầu thanh toán của khách hàng, tránh rủi ro trong thanh toán sẽ ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của ngân hàng. + Tiền gửi có kỳ hạn:Thông thường loại tiền gửi này không được dùng để thanh toán, khách hàng gửi tiền có kỳ hạn nhằm mục đích bảo toàn vốn và hưởng lãi suất. Loại tiền gửi có kỳ hạn được xác định cụ thể thời gian đến hạn thanh toán nên lãi suất thường cao hơn tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn càng dài thì lãi suất sẽ càng lớn. Loại tiền này về nguyên tắc không được rút ra trước hạn, song trên thực tế, để tăng khả năng cạnh tranh, các ngân hàng vẫn cho phép khách hàng rút trước hạn và được hưởng mức lãi suất phù hợp, tuy không cao bằng lãi suất của kỳ hạn gửi nhưng vẫn cao hơn lãi suất không kỳ hạn. Với loại tiền gửi này, ngân hàng hoàn toàn có thể chủ động sử dụng nguồn vốn để đầu tư vào các lĩnh vực khác nhưng chi phí huy động vốn lớn vì lãi suất huy động cao. Tuy nhiên, đây là một nguồn vốn tín dụng mang tính ổn định nên các ngân hàng đặc biệt chú trọng đến các biện pháp thu hút loại tiền gửi này.  - NHTM huy động vốn thông qua hình thức tiền gửi tiết kiệm: Cũng tương tự như hình thức huy động vốn thông qua tài khoản tiền gửi, các NHTM huy động vốn bằng việc phát hành các loại sổ tiết kiệm bao gồm tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Đối tượng khách hàng ở đây là các tầng lớp dân cư gửi tiết kiệm với mục đích an toàn và được hưởng lãi suất, họ muốn dành riêng khoản tiền của mình cho những mục tiêu hay nhu cầu tài chính nào đó trong tương lai. Lãi suất áp dụng cho loại hình tiền gửi tiết kiệm cao hơn so với tiền gửi giao dịch, ngân hàng thông qua hình thức huy động này có được nguồn vốn ổn định, vững chắc. Về cơ bản, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn giống như tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi giao dịch) thuần túy, ngân hàng trả lãi theo số dư bình quân hàng tháng nhân với lãi suất và hàng tháng lãi được nhập vào gốc. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn cũng giống như tiền gửi có kỳ hạn nhưng khác ở đối tượng gửi. Khách hàng gửi tiết kiệm có kỳ hạn được rút cả gốc và lãi khi đến hạn, nếu vì lý do nào đó mà chưa rút thì ngân hàng sẽ chủ động nhập cả gốc và lãi để tiếp tục quay vòng với kỳ hạn và lãi suất tương ứng tại thời điểm chuyển. Giống như tiền gửi có kỳ hạn, khách hàng gửi tiết kiệm có kỳ hạn nếu rút trước hạn chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn tại thời điểm rút. Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng nguồn vốn của các NHTM. Ngân hàng nắm bắt được mục đích gửi tiền tiết kiệm của khách hàng là hưởng lãi suất, vì vậy, lãi suất là yếu tố quan trọng nhất mà người gửi tiền quan tâm. Để huy động được nguồn này, các NHTM phải đặc biệt chú ý đến các yếu tố như thu nhập của dân cư, nhu cầu và xu hướng tiết kiệm, tình hình về dân số, tình hình kinh tế xã hội…để đưa ra các loại hình tiết kiệm hấp dẫn, thu hút được khách hàng, khẳng định thương hiệu ngân hàng và đảm bảo được nguồn vốn ổn định. - NHTM huy động vốn thông qua hình thức phát hành các giấy tờ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi…Các NHTM đa dạng hóa các hình thức huy động vốn bằng việc phát hành giấy tờ có giá - giấy tờ có giá chính là chứng nhận của các tổ chức tín dụng phát hành trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, xác nhận điều kiện trả lãi và các cam kết khác giữa tổ chức tín dụng và người mua. Tuỳ theo nhu cầu về vốn từng thời kỳ, ngân hàng phát hành giấy tờ có giá với các kỳ hạn và lãi suất khác nhau, bao giờ mức lãi suất này cũng lớ._.n hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn. + Kỳ phiếu ngân hàng: Đây là giấy nhận nợ ngắn hạn do ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn từ các tổ chức và dân cư để phục vụ cho các dự án kinh doanh, chương trình kinh tế… của ngân hàng. Kỳ phiếu ngân hàng là một hình thức huy động vốn rất linh hoạt do có tính lỏng cao. Mệnh giá, loại tiền sử dụng và các phương thức trả lãi của kỳ phiếu rất đa dạng và linh hoạt đáp ứng các nhu cầu khác nhau của khách hàng. Ngân hàng thường ấn định một mức lãi suất kỳ phiếu hấp dẫn tuỳ thuộc vào nhu cầu cần thiết về vốn của ngân hàng. + Trái phiếu ngân hàng: Đây là giấy nhận nợ dài hạn ngân hàng phát hành với cam kết thanh toán tiền gốc vào ngày đáo hạn và thanh toán tiền lãi vào những thời gian xác định với một mức lãi suất xác định tương ứng. Trái phiếu được phát hành nhằm mục đích huy động vốn trung và dài hạn phục vụ cho những kế hoạch phát triển, đầu tư sản xuất kinh doanh có thời gian dài và quy mô lớn. Có nhiều loại trái phiếu khác nhau như Trái phiếu Coupon, Trái phiếu chiết khấu, Trái phiếu niên kim cố định, Trái phiếu Consol...Mỗi loại trái phiếu đều chỉ rõ mệnh giá, ngày đáo hạn, lãi suất, phương thức trả lãi. Lãi suất trái phiếu luôn luôn hấp dẫn hơn lãi suất của bất kỳ một công cụ nợ nào khác do thời hạn dài. Đây là nguồn huy động tạo vốn trung dài hạn ổn định cho ngân hàng, tuy nhiên chi phí huy động nguồn vốn này lớn do lãi suất phải trả cao và một số chi phí khác như chi phí phát hành, quảng cáo… Phát hành giấy tờ có giá để huy động vốn không chỉ giúp các ngân hàng đưa nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế vào phục vụ sản xuất kinh doanh mà còn tạo thêm hàng hóa cho thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán phát triển sẽ tạo ra một kênh huy động vốn trung dài hạn cho phát triển kinh tế của đất nước. - NHTM huy động vốn thông qua thuê tài sản (thuê văn phòng….): Các ngân hàng thường đi thuê trụ sở văn phòng làm việc trong một thời hạn nhất định. Trong thời gian đó, các tài sản thuê ngoài này được xem như là vốn của ngân hàng, các khoản tiền phải trả cho việc đi thuê tài sản được xem như chi phí vốn của ngân hàng. Chất lượng hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại Nguồn vốn huy động của ngân hàng gồm nhiều bộ phận như: tiền gửi, tiền vay…mỗi nguồn này đều có đặc tính khác nhau về quy mô, cơ cấu, tính ổn định, chi phí, tính thanh khoản. Nguồn vốn có vai trò quyết định quy mô kinh doanh, khả năng sinh lời, các rủi ro có thể xảy ra đối với ngân hàng. Vì vậy, để phân tích về chất lượng hoạt động động vốn của NHTM, chúng ta cần tập trung nghiên cứu các chỉ tiêu: Quy mô và cơ cấu nguồn vốn huy động. Cơ cấu nguồn vốn phù hợp với cơ cầu sử dụng vốn. Chi phí huy động vốn. * Quy mô và cơ cấu nguồn vốn huy động: Gia tăng các khoản tiền gửi và đi vay là chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động của ngân hàng, là điều kiện để ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao tính thanh khoản và tính ổn định của nguồn vốn. Cơ cấu nguồn ảnh hưởng đến cơ cấu tài sản và quyết định chi phí của ngân hàng. Như chúng ta đã biết, tài sản của các ngân hàng được hình thành bằng cách chuyển hóa nguồn vốn thành các loại tài sản như ngân quỹ, chứng khoán, tín dụng và các tài sản khác (tài sản ủy thác, hùn vốn, tài sản ngoại bảng…). Quy mô của các tài sản này phụ thuộc vào quy mô và cơ cấu nguồn vốn, nếu ngân hàng có nguồn vốn đủ lớn và dài hạn thì hoàn toàn có thể tham gia đầu tư tài trợ cho những dự án lớn và mang lại lợi nhuận. Các ngân hàng phải quản lý tốt quy mô và cơ cấu nguồn vốn bằng cách thống kê đầy đủ, kịp thời các thay đổi về các loại nguồn vốn, tốc độ quay vòng của mỗi nguồn rồi phân tích kỹ lưỡng các nhân tố gắn liền với các thay đổi đó, từ đó thấy được mối liên hệ giữa số lượng, cấu trúc nguồn với các nhân tố ảnh hưởng cũng như thấy được đặc tính của thị trường nguồn của ngân hàng. Việc tiến hành phân đoạn thị trường, phân nhóm đối với khách hàng…góp phần không nhỏ vào việc tăng trưởng nguồn vốn cũng như tăng khả năng cạnh tranh cho một ngân hàng. Trên thực tế, nhiều ngân hàng lớn có thể có tốc độ tăng trưởng nguồn vốn không cao bằng các ngân hàng nhỏ. Ngoài ra các nhân tố ảnh hưởng tới quy mô nguồn vốn cũng thay đổi thường xuyên theo mùa vụ, xu hướng, tập quán của dân cư hay đặc điểm của từng ngành sản xuất kinh doanh. Các ngân hàng cần dự báo và đưa ra các quyết định phù hợp để thay đổi quy mô và kết cấu nguồn tiền. Bên cạnh đó, việc lập kế hoạch nguồn cho từng giai đoạn phù hợp với yêu cầu sử dụng vốn là yêu cầu tối quan trọng cho một ngân hàng để đảm bảo có được nguồn vốn ổn định. Tuỳ theo nhu cầu cho vay, đầu tư hoặc chi trả cho các doanh nghiệp và dân chúng, các ngân hàng phải lập kế hoạch gia tăng quy mô, thay đổi cơ cấu hoặc tìm kiếm các nguồn huy động mới. * Cơ cấu nguồn vốn phải phù hợp với cơ cấu sử dụng vốn về kỳ hạn, loại tiền, mức lãi suất…Cơ cấu nguồn vốn huy động không phù hợp, không đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn sẽ không tối đa được dư nợ tín dụng và đầu tư, ngược lại nếu nguồn vốn huy động không được sử dụng hết thì hoạt động của ngân hàng không hiệu quả, ngân hàng mất đi phần chi phí để trả lãi cho phần vốn không được sử dụng. Các ngân hàng sử dụng mô hình cấu trúc kỳ hạn của nguồn vốn để xác định kỳ hạn của nguồn vốn phù hợp với yêu cầu về kỳ hạn của sử dụng vốn, đồng thời tạo nên tính ổn định cho nguồn vốn. Các nguồn huy động của ngân hàng bao giờ cũng gắn liền với những kỳ hạn nhất định được ngân hàng công bố như kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng… được gọi là kỳ hạn danh nghĩa. Các kỳ hạn danh nghĩa này thường được gắn với một mức lãi suất nhất định tương ứng là nguồn có kỳ hạn danh nghĩa càng dài thì lãi suất càng cao. Tính ổn định của nguồn vốn được phản ánh qua kỳ hạn danh nghĩa này, do đó việc xác định kỳ hạn danh nghĩa có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng. Kỳ hạn liên quan đến tính ổn định nên liên quan tới kỳ hạn của sử dụng vốn, cụ thể là ngân hàng phải có khả năng duy trì tính ổn định của nguồn tiền mới đảm bảo được hoạt động cho vay và đầu tư dài hạn. Trên thực tế, có những khoản tiền gửi của khách hàng đến hạn nhưng vẫn được tiếp tục duy trì với kỳ hạn đó nên vẫn có thể coi đó là những khoản tiền gửi trung dài hạn. Đó là kỳ hạn thực tế của nguồn tiền – thời gian mà khoản tiền tồn tại liên tục tại một đơn vị ngân hàng.. Các nhu cầu chi tiêu đột xuất, lãi suất cạnh tranh của các ngân hàng khác, lãi suất giữa các nguồn tiền khác nhau, tỷ giá hối đoái…là nguyên nhân ảnh hưởng tới kỳ hạn thực tế, gây ra sự dịch chuyển nguồn tiền từ ngân hàng này sang ngân hàng khác, từ kỳ hạn này sang kỳ hạn khác, và thay đổi cơ cấu tiền tệ trong ngân hàng. Các nhà quản lý ngân hàng cần dựa trên số liệu thống kê để thấy sự biến động số dư của mỗi nguồn vốn, của nhóm nguồn, tìm số dư thấp nhất trong quý, trong năm, trong nhiều năm và các nhân tố ảnh hưởng đến sự thay đổi, từ đó đo được kỳ hạn thực gắn liền với các số dư. Đây là cơ sở để ngân hàng quản lý thanh khoản, chuyển hoán kỳ hạn của nguồn, sử dụng các nguồn có kỳ hạn ngắn để cho vay với kỳ hạn dài hơn. Với mô hình cấu trúc kỳ hạn, các ngân hàng sẽ tiến hành điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn và danh mục tài sản để nâng cao hiệu suất sử dụng vốn. Thực tế cho thấy các ngân hàng có thể sử dụng một phần nguồn vốn có kỳ hạn ngắn để đầu tư vào các tài sản dài hơn, nhưng chỉ ở một tỷ lệ nhất định do phải chịu sức ép về khả năng thanh toán, nếu sử dụng vốn dài hạn để cho vay ngắn hạn thì lãi thu được không đủ bù đắp chi phí huy động vốn nên cần tính đến việc đầu tư thêm vào các tài sản sinh lời. * Chi phí huy động vốn: Chi phí huy động vốn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi của các ngân hàng bao gồm các khoản chi phải trả lãi (trả lãi tiền gửi, tiền vay…) và các khoản chi phi lãi (chi phí khuyến mại, quảng cáo, chi phí quản lý phân bổ cho bộ phận huy động…) trong đó khoản chi quyết định là lãi suất. Những nguồn vốn có thời hạn ngắn thường có chi phí thấp và tính ổn định thấp, ngược lại, những nguồn có thời hạn càng dài thì chi phí càng cao và ổn định hơn. Để hoạch định chiến lược kinh doanh cho mỗi giai đoạn, các ngân hàng phải tính toán, phân tích chi phí phải trả cho mỗi nguồn huy động để từ đó có sách lược huy động vốn phù hợp nhằm mục tiêu mở rộng kinh doanh, tăng dư nợ cho vay, mở rộng đầu tư, đồng thời đảm bảo lãi suất được định giá bù đắp được chi phí nguồn vốn và không ảnh hưởng đến khả năng thanh toán. Việc tính toán chi phí huy động vốn của ngân hàng sao cho có hiệu quả cao phụ thuộc vào việc ngân hàng có tìm kiếm được nguồn có chi phí thấp để đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trong khi vẫn thỏa mãn các yêu cầu huy động vốn và sử dụng vốn phải phù hợp về quy mô, thời hạn và có tính ổn định. Ngoài ra, các ngân hàng phải quản lý chi phí huy động vốn một cách thường xuyên, chặt chẽ vì bất kỳ một sự thay đổi về lãi suất đều làm thay đổi chi phí và ảnh hưởng ngay tới thu nhập của ngân hàng. Tính chi phí cho từng loại nguồn vốn huy động cụ thể cho phép các nhà quản lý tìm ra nguồn nào là rẻ hơn, nên vận dụng lãi suất như thế nào và thu nhập từ lãi suất tăng thêm có bù đắp được chi phí cho nguồn tăng thêm hay không. Từ đó, ngân hàng quyết định lựa chọn cơ cấu nguồn vốn của mình và có giải pháp huy động vốn thích hợp. Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn Tại các NHTM, quy mô tiền gửi so với các nguồn khác thường rất lớn, chiếm tỷ trọng trên 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của mỗi ngân hàng. Ngoài ra, nguồn đi vay của ngân hàng cũng chiếm một phần đáng kể đóng góp vào sự gia tăng nguồn vốn, đặc biệt là ở các nước phát triển. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn của NHTM, các ngân hàng cần nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng để có những biện pháp huy động cho phù hợp với mục tiêu tăng trưởng nguồn vốn trong từng giai đoạn. Các nhân tố khách quan - Môi trường kinh tế và sự ổn định về chính trị: Ngân hàng là loại hình doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động của ngân hàng chịu ảnh hưởng sâu sắc của môi trường kinh tế và chính trị. Các chỉ tiêu về kinh tế như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập quốc dân, tình trạng thất nghiệp, tốc độ chu chuyển vốn, chỉ số lạm phát…ảnh hưởng trực tiếp đến huy động vốn của ngân hàng. Nếu tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế cao thì nguồn vốn nhàn rỗi sẽ chuyển sang những dạng đầu tư khác ổn định, bền vững hơn như: vàng, bất động sản…Nền kinh tế phát triển, có tốc độ tăng trưởng cao, thu nhập của dân cư ổn định sẽ làm gia tăng nguồn tiền gửi vào các ngân hàng, vốn huy động dồi dào, đầu tư được mở rộng; nhưng nếu nền kinh tế ở trong giai đoạn suy thoái thì khả năng khai thác đưa vốn vào nền kinh tế bị hạn chế, ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong công tác huy động vốn. Sự ổn định về chính trị mang đến niềm tin cho những người gửi tiền nói riêng và cho toàn bộ các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung. Ở Việt Nam, môi trường chính trị luôn ổn định, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam - Đảng cầm quyền duy nhất, hệ thống NHTM Việt Nam đã luôn giữ được vai trò đầu tầu trong chiến lược phát triển tài chính tiền tệ quốc gia, tạo được niềm tin cho khách hàng đến gửi tiền. Đây cũng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến huy động vốn của các ngân hàng vì chính trị ổn định sẽ tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, làm tăng khả năng khai thác vốn của các NHTM. - Chính sách, pháp luật của Nhà nước và môi trường kinh doanh: Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên chịu tác động của nhiều chính sách, quy định của Chính phủ, hệ thống luật pháp, các quy định của Ngân hàng Nhà nước… Sự thay đổi trong chính sách của Nhà nước và của Ngân hàng Nhà nước về tài chính, tiền tệ, tín dụng, lãi suất sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng thu hút vốn và chất lượng nguồn vốn của NHTM. Theo định hướng và chủ trương của Nhà nước trong từng thời kỳ mà chính sách tiền tệ quốc gia được mở rộng hay thắt chặt, đây là yếu tố tác động và ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động huy động vốn của NHTM. Hoạt động ngân hàng chịu sự điều chỉnh của luật pháp - đó là Luật các tổ chức tín dụng, hệ thống các văn bản quy định cụ thể về lãi suất, các hệ số an toàn, dự trữ, hạn mức... trong từng thời kỳ. Trong sự ràng buộc về luật pháp, các yếu tố của nghiệp vụ huy động vốn thay đổi làm ảnh hưởng tới quy mô, hiệu quả và chính sách huy động vốn của ngân hàng. Môi trường kinh doanh tác động trực tiếp đến hoạt động ngân hàng nói chung và công tác huy động vốn của ngân hàng nói riêng. Bản thân các ngân hàng đã phải cạnh tranh gay gắt với nhau để thu hút tiền gửi của khách hàng. Thêm vào đó, sự xuất hiện của các tổ chức, các trung gian tài chính phi ngân hàng như các Công ty Bảo hiểm, các Công ty tài chính… với nhiều sản phẩm dịch vụ liên quan đến tiền gửi như huy động tiền gửi có kỳ hạn, hoặc cung cấp các tài khoản không kỳ hạn (tiết kiệm bưu điện…), đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng đã gây ra rất nhiều khó khăn, thách thức cho hoạt động huy động vốn của ngân hàng. - Môi trường văn hóa, các yếu tố thuộc về dân cư: Môi trường văn hóa quyết định các tập quán sinh hoạt, tâm lý và thói quen sử dụng tiền, sử dụng các dịch vụ ngân hàng của dân cư. Tâm lý và thói quen sử dụng tiền của dân cư sẽ ảnh hưởng tới quyết định về tiêu dùng và tiết kiệm, hoặc là dân chúng chấp nhận gửi tiền vào ngân hàng, hoặc là chi số tiền nhàn rỗi của mình để đầu tư vào động sản, bất động sản, chứng khoán…Sự hiểu biết của dân cư về ngân hàng và các hoạt động cung cấp dịch vụ của ngân hàng cũng là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của ngân hàng, dân chúng có sự hiểu biết về ngân hàng, thấy được những tiện ích và lợi ích mà ngân hàng mang lại thì họ sẽ gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn và ngược lại. Do đó, tuỳ từng thời kỳ, từng địa điểm, các ngân hàng phải nghiên cứu thị trường, nghiên cứu các yếu tố về dân cư để đưa ra những chiến lược huy động vốn. - Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ ngân hàng: Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, công nghệ ngân hàng và các dịch vụ thanh toán như hệ thống thanh toán điện tử, máy rút tiền tự động ATM, thẻ tín dụng… ngày càng nhanh chóng, an toàn, thuận tiện cho người gửi tiền, làm cho phương thức thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng phổ biến. Hệ thống thanh toán điện tử cho phép việc thanh toán bù trừ, chuyển tiền…giữa các ngân hàng, các chi nhánh ngân hàng ở những địa điểm khác nhau diễn ra nhanh chóng, chính xác, mang lại sự tiện lợi cho hoạt động của chính ngân hàng và nhu cầu đa dạng của khách hàng. Ngày nay, sự ra đời của máy rút tiền tự động ATM tạo thuận tiền cho khách hàng rút và nộp tiền vào tài khoản dễ dàng, giảm thiểu được thời gian giao dịch qua quầy. Sự kết hợp giữa ngân hàng và bưu điện cho phép ra đời dịch vụ Phone Banking – dịch vụ ngân hàng qua điện thoại – cho phép khách hàng có tài khoản tại ngân hàng tiếp cận và sử dụng dịch vụ ngân hàng để thanh toán các hoá đơn dịch vụ sinh hoạt hàng ngày, giao dịch đặt lệnh chứng khoán, tra cứu thông tin về số dư tài khoản, tỷ giá, lãi suất…đây là sản phẩm dịch vụ có tiện ích vượt trội, rút ngắn khoảng cách giữa ngân hàng và khách hàng, thu hút được nhiều đối tượng khách hàng tham gia. Những phân tích trên cho thấy, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ ngân hàng chính là nhân tố ảnh hưởng tích cực, làm tăng khả năng huy động vốn của các ngân hàng nói chung. 1.2.3.2 Các nhân tố chủ quan - Thương hiệu và uy tín của ngân hàng: Đây là tài sản vô hình quan trọng nhất của ngân hàng, nguồn lực này không phải bất cứ ngân hàng nào cũng có được. Uy tín của ngân hàng được tạo dựng qua nhiều năm hoạt động hiệu quả, mỗi ngân hàng sẽ có được hình ảnh riêng trong lòng khách hàng, uy tín giúp ngân hàng luôn giữ được khách hàng truyền thống và thu hút được khách hàng tiềm năng. Một ngân hàng lớn, có thương hiệu và uy tín sẽ có lợi thế trong huy động vốn, sự tin tưởng của khách hàng giúp ngân hàng có khả năng ổn định nguồn vốn và tiết kiệm được chi phí huy động. Trên thực tế, trong điều kiện lãi suất tiền gửi tại một ngân hàng thấp hơn, song những người có tiền vẫn lựa chọn một ngân hàng có uy tín hơn để gửi tiền mà không tìm đến những ngân hàng có lãi suất lớn hơn, vì họ tin rằng ở ngân hàng này đồng vốn của họ sẽ tuyệt đối an toàn. Chẳng hạn, tại Việt Nam hiện nay, thương hiệu và uy tín của Ngân hàng Ngoại thương trong lĩnh vực thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ đã tạo cho ngân hàng Ngoại thương một vị thế độc tôn trong lĩnh vực này, khiến cho các ngân hàng khác không thể cạnh tranh. Vì vậy, mỗi ngân hàng cần phát huy thế mạnh nhất định của mình để gây ấn tượng và khẳng định thương hiệu của chính ngân hàng mình. Trong thời đại ngày nay, có thể nói nguồn nhân lực và công nghệ ngân hàng là những yếu tố quan trọng nhất quyết định vị thế của ngân hàng trên thị trường tài chính tiền tệ – từ vị thế của mình, uy tín của các ngân hàng sẽ tạo dựng nên thương hiệu cho ngân hàng. - Chiến lược kinh doanh của ngân hàng: Mỗi ngân hàng cần hiểu được vị trí của ngân hàng mình trong hệ thống ngân hàng, thấy được những điểm mạnh, điểm yếu của bản thân ngân hàng mình để xác định chiến lược kinh doanh. Tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động của ngân hàng và điều kiện môi trường kinh doanh, công tác huy động vốn có thể được mở rộng hoặc thu hẹp, cơ cấu nguồn vốn có thể thay đổi về tỷ lệ các loại nguồn, chi phí huy động vốn tăng hoặc giảm…Nếu chiến lược kinh doanh của ngân hàng là tập trung mở rộng hoạt động tín dụng thì việc tìm kiếm và huy động các nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn càng phải được đặc biệt chú trọng. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng cũng là yếu tố giới hạn quy mô huy động vốn của ngân hàng, chẳng hạn theo luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam thì các ngân hàng chỉ được phép huy động tối đã 20 lần vốn chủ sở hữu. Do đó, các ngân hàng phải dựa trên quy mô vốn chủ sở hữu của mình để đưa ra chiến lược kinh doanh, chiến lược huy động vốn phù hợp và hiệu quả. - Nguồn lực, công nghệ ngân hàng: Nguồn lực và trình độ công nghệ ngân hàng được thể hiện qua các yếu tố: các loại sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung ứng, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động ngân hàng, trình độ nghiệp vụ cán bộ nhân viên ngân hàng… Một ngân hàng có các sản phẩm huy động vốn phong phú, linh hoạt, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng sẽ tạo ra sức hút đối với khách hàng, duy trì lượng khách hàng hiện có và tăng thêm lượng khách hàng tiềm năng. Một ngân hàng có trụ sở khang trang, mạng lưới giao dịch thuận lợi cùng với hệ thống trang thiết bị vật chất đầy đủ, hệ thống thông tin và công nghệ hiện đại sẽ tạo ra sự tin tưởng của người gửi tiền với ngân hàng. Một ngân hàng có đội ngũ cán bộ nhân viên chuyên môn cao, thân thiện với khách hàng, thái độ phục vụ tận tình chu đáo, có đạo đức nghề nghiệp bao giờ cũng tạo cho khách hàng lòng tin, luôn luôn muốn đến giao dịch với ngân hàng. - Chính sách lãi suất: Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong nền kinh tế vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của dân chúng, nó tác động đến những quyết định cá nhân như chi tiêu hay để dành, mua bất động sản, mua chứng khoán hay gửi tiền vào ngân hàng. Lãi suất cũng tác động đến những quyết định kinh tế của các doanh nghiệp, hộ gia đình như đầu tư mua thiết bị sản xuất kinh doanh hay giử tiền vào ngân hàng…Chính sách lãi suất của NHTM là chính sách quan trọng nhất ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của bất kỳ một NHTM nào. Điều đầu tiên mà các cá nhân và tổ chức kinh tế quan tâm khi gửi tiền vào ngân hàng là lãi suất. Ngân hàng sử dụng chính sách lãi suất như một công cụ để huy động và thay đổi quy mô nguồn vốn, cụ thể là quy mô tiền gửi. Lãi suất danh nghĩa là lãi suất ngân hàng trả cho người gửi tiền theo từng kỳ hạn, còn lãi suất thực tế lại được tính như sau: Lãi suất thực tế = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát Lãi suất thực tế chỉ rõ chi phí thực sự ngân hàng phải bỏ ra để có được nguồn tiền đó. Lãi suất huy động của ngân hàng luôn phải đảm bảo lớn hơn tỷ lệ trượt giá và phải nhỏ hơn lãi suất cho vay. Ngân hàng phải tính toán để đưa ra chính sách lãi suất hợp lý, linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường, đạt được kế hoạch về quy mô, chất lượng nguồn vốn, vừa đảm bảo lợi ích cho người gửi tiền, vừa tối đa hoá lợi nhuận cho ngân hàng. - Các sản phẩm dịch vụ ngân hàng: Ngày càng có nhiều ngân hàng tham gia vào thị trường nên khách hàng có điều kiện để lựa chọn ngân hàng mang lại nhiều lợi ích nhất cho mình. Các sản phẩm dịch vụ ngân hàng là yếu tố thu hút khách hàng hiệu quả. Hiện nay các ngân hàng đưa ra nhiều hình thức huy động vốn như mở tài khoản tiền gửi, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, huy động tiền gửi tiết kiệm với nhiều thời hạn, có các chương trình khuyến mãi, dự thưởng hấp dẫn cho khách hàng. Các ngân hàng cung cấp các dịch vụ có liên quan như giao dịch tại nhà, rút tiền tự động, dịch vụ thu tiền hộ...Với xu hướng đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, phát triển thêm các sản phẩm và dịch vụ mới, không ngừng hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ, các ngân hàng đã tự mình thúc đẩy hoạt động huy động vốn. Có thể nói, huy động vốn là hoạt động cơ bản và thiết yếu của mỗi ngân hàng, huy động vốn là cơ sở để thực hiện tất cả các hoạt động sử dụng vốn và các dịch vụ ngân hàng khác. Vì vậy, tăng cường huy động vốn có quan hệ mật thiết và có ý nghĩa quyết định đến chất lượng của các hoạt động ngân hàng khác. Việc nghiên cứu và tìm ra các giải pháp tăng cường huy động vốn cho ngân hàng sẽ giúp ngân hàng chủ động được nguồn vốn, sử dụng vốn hiệu quả hơn, nâng cao khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác. Huy động vốn với hiệu quả cao và ổn định, kết hợp với chính sách sử dụng vốn hợp lý sẽ đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của hệ thống ngân hàng, tạo vốn, tạo nội lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN NHÀ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG CHI NHÁNH HÀ NỘI 2.1 ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN NHÀ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG- CHI NHÁNH HÀ NỘI CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG. 2.1.1 Đặc điểm quá trình phát triển của Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long- Chi nhánh Hà Nội Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long (MHB) là Ngân hàng thương mại Nhà nước được thành lập theo Quyết định số 769-TTg ngày 18 tháng 9 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ, vốn điều lệ là 800 tỷ đồng. Với mục tiêu là một ngân hàng thương mại hoạt động đa năng, vận hành theo cơ chế thị trường, Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long được huy động mọi nguồn vốn và đầu tư chuyên sâu vào lĩnh vực tín dụng trung, dài hạn, đặc biệt là đầu tư xây dựng, phát triển nhà ở và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội. Bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 4/1998 đến nay, Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long đã có trụ sở chính đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh và một hệ thống mạng lưới bao gồm 01 Sở Giao dịch tại TP Hồ Chí Minh, 01 Văn phòng đại diện tại Hà Nội, 01 Trung tâm Thẻ và hơn 130 chi nhánh, phòng Giao dịch tại các vùng kinh tế trọng điểm trên khắp cả nước. Mục tiêu ban đầu khi thành lập ngân hàng là tạo ra một kênh huy động vốn từ các nguồn khác nhau để đầu tư xây dựng nhà ở của dân cư khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội nói chung. Do vậy, nguồn vốn huy động để phục vụ cho mục tiêu nêu trên của ngân hàng là vô cùng quan trọng, giữ vai trò vị trí hàng đầu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập, thực hiện đề án cơ cấu lại Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và ý kiến chỉ đạo của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tại Hội nghị triển khai kế hoạch năm 2003, Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long đã xây dựng kế hoạch mở rộng mạng lưới hoạt động ra khu vực phía Bắc, trong đó trọng tâm là Thành phố Hà Nội. Là thủ đô của đất nước, Hà Nội là trung tâm kinh tế - văn hóa - chính trị - xã hội quan trọng hàng đầu, nơi tập trung các cơ quan đầu não trung ương, các tổ chức kinh tế- tài chính, chính trị-xã hội trong nước và quốc tế. Trong chiến lược phát triển đến năm 2010, thành phố Hà Nội đã đề ra nhiệm vụ quan trọng là tập trung nỗ lực từng bước phát triển, cải thiện tình trạng nhà ở và cơ sở hạ tầng cho nhân dân, thực hiện mục tiêu xây dựng Hà Nội trở thành một thành phố hiện đại trong khu vực. Theo kế hoạch đến năm 2010, trung bình mỗi năm Hà Nội cần xây dựng và sửa chữa mới khoảng 1.000.000m2 nhà ở. Để góp phần cùng thành phố Hà Nội phát huy tối đa tiềm lực, đẩy mạnh các chương trình xây dựng nhà ở và cơ sở hạ tầng, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội toàn diện tại địa phương, đồng thời có điều kiện áp dụng triệt để những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong kinh doanh, đẩy nhanh phát triển các dịch vụ tài chính - ngân hàng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long đã thành lập Chi nhánh tại Thành phố Hà Nội. MHB Chi nhánh Hà Nội được thành lập ngày 04/7/2003 và chính thức khai trương hoạt động ngày 16/10/2003. Việc thành lập MHB Chi nhánh Hà Nội tạo thêm một kênh huy động vốn để cung ứng các dịch vụ ngân hàng, tài chính cho các doanh nghiệp, các cơ quan, đơn vị và các tầng lớp dân cư thủ đô, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Chính vì vậy, mô hình tổ chức bộ máy hoạt động, chức năng nhiệm vụ của các phòng ban trực thuộc MHB Chi nhánh Hà Nội phải là nền tảng, cơ sở thúc đẩy hoạt động huy động vốn theo như mục tiêu, tôn chỉ mục đích khi thành lập ngân hàng. 2.1.2 Đặc điểm về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long- Chi nhánh Hà Nội MHB Chi nhánh Hà Nội là chi nhánh đầu tiên của Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long tại khu vực phía Bắc. Cũng như các chi nhánh của MHB, MHB Chi nhánh Hà Nội được tổ chức thành các phòng ban trực thuộc như sau: Phòng Nghiệp vụ kinh doanh (Kế hoạch, tín dụng, thanh toán quốc tế) Phòng Kế toán và ngân quỹ Phòng Hành chính – Nhân sự Phòng Kiểm tra nội bộ Mỗi phòng ban có chức năng và nhiệm vụ được quy định cụ thể, rõ ràng trong Quy chế tổ chức và hoạt động của từng Chi nhánh MHB, tuy nhiên nhiệm vụ tổng quát Giám đốc Chi nhánh giao cho các phòng ban chính là việc nghiên cứu, đề xuất và xây dựng chiến lược huy động vốn của ngân hàng trên địa bàn thủ đô. Trong bối cảnh toàn ngành ngân hàng đang vững bước tiến vào hội nhập với các ngân hàng khu vực và thế giới, khác với hầu hết các Chi nhánh NHTM Nhà nước khác, MHB Chi nhánh Hà Nội đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức: là đơn vị mới thành lập lại ở xa Hội sở chính, phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt trong khi năng lực cạnh tranh hạn chế. Khó khăn đặt ra với MHB Chi nhánh Hà Nội là phải đặt chân được vào thị trường tiền tệ – nơi đã có hàng trăm NHTM lớn mạnh đang hoạt động hết sức hiệu quả với bề dày hàng chục năm, với công nghệ hiện đại, dịch vụ tiện ích đa dạng, đội ngũ chuyên nghiệp, khách hàng truyền thống. Bên cạnh đó, thương hiệu MHB còn hoàn toàn mới lạ đối với thị trường khu vực phía Bắc, trong khi đặc thù của hoạt động ngân hàng thì uy tín thương hiệu là một yếu tố vô cùng quan trọng trong công tác huy động vốn tại thị trường 1. Ngoài ra, hệ thống sản phẩm dịch vụ tiện ích của MHB còn chưa đa dạng, phong phú, công nghệ ngân hàng chưa hiện đại so với các hệ thống ngân hàng lớn mạnh khác trên cùng địa bàn… Đứng trước những khó khăn thách thức trên, Ban Lãnh đạo MHB Chi nhánh Hà Nội trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình thị trường Hà Nội chính là địa bàn tiềm năng của hoạt động ngân hàng, đặc biệt là hoạt động huy động vốn; Ban Lãnh đạo đã đề ra mục tiêu nhiệm vụ, chiến lược kinh doanh của MHB Chi nhánh Hà Nội trên địa bàn Thủ đô là đặt công tác huy động vốn làm trọng tâm hàng đầu, lấy đó làm cơ sở cho các hoạt động khác của ngân hàng để từ đó xây dựng và phát triển thương hiệu MHB. Tính đến cuối năm 2006, MHB Chi nhánh Hà Nội đã có một mạng lưới hoạt động trên các quận nội thành như Hoàn Kiếm, Đống Đa, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Long Biên với 04 Phòng Giao dịch và 02 Chi nhánh cấp 2 trực thuộc. 2.1.3 Các hoạt động chính của Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của MHB Chi nhánh Hà Nội Đơn vị: tỷ đồng TT CHỈ TIÊU 2003 2004 2005 2006 1 Tổng nguồn vốn huy động 187,5 2.465,5 3.075,4 3.887,6 Trong đó: - Tiền gửi có kỳ hạn 123 1.916,9 2.412,5 2.999 2 Tổng đầu tư tín dụng 13,5 1.485,3 2.052,5 2.692,3 - Cho vay ngắn hạn - Cho vay trung và dài hạn 7,2 6,3 948,1 537,2 1.263,4 789,1 1.804,2 888,1 3 Dư nợ quá hạn 0 0 0 0 4 Thu từ dịch vụ - 2,458 4,775 5,863 5 Lợi nhuận trước thuế - 7,024 15,5 21,5 (Nguồn: Phòng kế toán và ngân quỹ – MHB Chi nhánh Hà Nội) - Hoạt động huy động vốn: Thủ đô Hà Nội là trung tâm tài chính tiền tệ, là nơi tập trung các cơ quan đầu não của các định chế tài chính, các tổ chức kinh tế lớn, thu nhập và trình độ dân trí cao…nên đây là địa bàn tiềm năng của hoạt động ngân hàng, đặc biệt là hoạt động huy động vốn. MHB Chi nhánh Hà Nội ra đời trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng, huy động vốn lại là chiến lược kinh doanh của nhiều ngân hàng trên địa bàn nên công tác huy động vốn ngay từ đầu đã được Ban Lãnh đạo MHB Chi nhánh Hà Nội đặc biệt quan tâm. Huy động vốn bao gồm toàn bộ các hoạt động tạo ra nguồn vốn cho ngân hàng. Tuy nhiên, MHB Chi nhánh Hà Nội đơn thuần chỉ là chi nhánh của một NHTM, mới đi vào hoạt động nên nguồn vốn huy động của MHB Chi nhánh Hà Nội chỉ bao gồm các nguồn tiền gửi. Chính thức đi vào hoạt động từ ngày 16/10/2003, đến thời điểm 31/12/2003, tổng nguồn vốn của MHB Chi nhánh Hà Nội đạt 187,5 tỷ đồng, đến cuối năm 2004, tổng nguồn vốn đạt 2465 tỷ đồng, thời điểm cuối năm 2005, tổng nguồn vốn đã lên tới 3075 tỷ đồng, cuối năm 2006 tổng nguồn vốn đạt con số kỷ lục 3887 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng vốn bình quân hàng năm đạt trên 400% cho thấy mặc dù gặp nhiều khó khăn từ buổi đầu thành lập, nhưng chỉ sau hơn 3 năm hoạt động, MHB Chi nhánh Hà Nội đã hoàn toàn chủ động được nguồn vốn của mình, đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn tại Chi nhánh và hệ thống, quan t._., làm phong phú thêm sản phẩm của mình. * Đối với Tiền gửi của các tổ chức kinh tế: Mục đích lớn nhất của các tổ chức kinh tế khi gửi tiền vào ngân hàng là hưởng các lợi ích trong thanh toán. Đây là nguồn có chi phí huy động và tính ổn định thấp nhất, nhưng nếu tạo được tính liên tục của nguồn sẽ đem lại một lợi thế không nhỏ cho ngân hàng. Do vậy bên cạnh việc huy động nguồn vốn từ dân cư, MHB Chi nhánh Hà Nội cần phải quan tâm huy động nguồn này, cụ thể: + Phải đa dạng hoá các dịch vụ thanh toán: Ngoài các hình thức thanh toán truyền thống, ngân hàng nên thực hiện việc cung cấp các dịch vụ thanh toán trực tiếp cho các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế như nhận tiền gửi và đảm bảo thanh toán cho khách hàng tại đơn vị hay một nơi bất kỳ theo yêu cầu của khách hàng một cách an toàn và tiện lợi nhất; thực hiện nối mạng thanh toán trực tiếp cho các khách hàng lớn; làm tốt công tác thanh toán chuyển tiền cho các doanh nghiệp nhằm tạo niềm tin cho các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp trên địa bàn, trước hết phục vụ thật chu đáo các đơn vị có lượng tiền gửi lớn như: Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, Công ty bảo hiểm nhân thọ… + Mở rộng diện thu tiền mặt không thu phí đối với các doanh nghiệp, các đại lý bán hàng trên địa bàn, các điểm vui chơi giải trí, các công viên, siêu thị lớn (cán bộ tín dụng nắm bắt từng doanh nghiệp có nguồn thu tiền mặt lớn, phối hợp với phòng ngân quỹ thực hiện). + Mở rộng các dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ đại lý như: Bán bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm, bán vé máy bay cho các hãng hàng không. Tiếp cận và vận động các doanh nghiệp, tổng công ty, trường đại học lớn… để chi trả lương tại chỗ không thu phí; chi trả tiền lương cho một số doanh nghiệp có thu nhập lớn; khẩn trương đưa máy ATM vào hoạt động (chứ không chỉ thử nghiệm phục vụ cho nội bộ ngân hàng như hiện nay). * Huy động tiền gửi của Kho bạc Nhà nước: Đặc điểm của tiền gửi Kho bạc Nhà nước là khối lượng lớn, ít biến động. Vì vậy ngân hàng cần khai thác triệt để nguồn tiền này. Thông thường nguồn tiền của Kho bạc Nhà nước được gửi tại các Kho bạc, vì thế để thu hút được lượng tiền này, ngân hàng cần phải thực sự có uy tín lớn, phải phục vụ kịp thời, đầy đủ, an toàn, chính xác, đáp ứng mọi nhu cầu của Kho bạc. * Huy động tiền gửi của các tổ chức tín dụng: Đối với MHB Chi nhánh Hà Nội, nguồn vốn huy động từ các tổ chức tín dụng chiếm tỷ trọng lớn, tuy chi phí về vốn lớn nhưng lại đáp ứng được nhu cầu về vốn cho hoạt động đầu tư tín dụng và một phần nguồn vốn cho hệ thống. Vì vậy, nếu huy động tốt nguồn này sẽ mang lại hiệu quả kinh doanh rất cao cho ngân hàng. Ngân hàng phải thường xuyên theo dõi biến động lãi suất trên thị trường để kịp thời đưa ra các giải pháp huy động, quản lý và sử dụng nguồn này một cách có hiệu quả nhất trong từng thời kỳ. Bên cạnh các hình thức huy động vốn đã được đề xuất như trên, MHB Chi nhánh Hà Nội cần thực hiện việc tiếp cận các trường đại học, các trường dạy nghề, trường phổ thông, cơ quan Bảo hiểm, công ty xổ số… để tăng nguồn vốn huy động. Ngoài ra, cần vận động một số trường đại học lớn làm các dịch vụ chi trả lương, học bổng tại chỗ không thu phí, nâng cao uy tín cho ngân hàng. Qua đó khách hàng sẽ biết đến ngân hàng và thấy được sự cần thiết của ngân hàng trong hoạt động kinh doanh của mình. Đây là yếu tố góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn của MHB Chi nhánh Hà Nội trên địa bàn Thủ đô. Tuy nhiên phải xem xét, tính toán, xây dựng kế hoạch hợp lý, lựa chọn thời điểm thích hợp để thực hiện, đặc biệt phải chú ý đến các khoản chi phí mà ngân hàng cung cấp miễn phí cho khách hàng. Ngân hàng nên mở rộng dịch vụ uỷ thác, nhận tiền gửi uỷ thác của tất cả các cá nhân cũng như tổ chức, kết hợp với bên tư pháp để thực hiện nhận tiền gửi uỷ thác theo di chúc. Tiếp cận các khu vực giải toả để thực hiện hoạt động giải ngân. * Phát triển các loại hình dịch vụ khác: Trong xu thế cạnh tranh hiện nay, các ngân hàng đặc biệt chú trọng cạnh tranh trên lĩnh vực chất lượng dịch vụ. Dịch vụ chính là sản phẩm mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng, trên cơ sở đó thu phí. Vì vậy hiệu quả kinh doanh khá cao, độ rủi ro lại thấp, nên ngân hàng cần chú trọng quan tâm nhiều hơn đến loại hình dịch vụ này. Thông qua cung cấp dịch vụ, ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động huy động vốn nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung. Căn cứ tình hình thực tế, MHB Chi nhánh Hà Nội có thể tiến hành: Mở rộng và nâng cao hơn nữa dịch vụ tư vấn thông qua phân loại khách hàng. Nếu khách hàng gửi tiền thì ngân hàng nên tư vấn hướng dẫn khách hàng lựa chọn loại hình gửi tiền nào, lãi suất và thời gian là bao nhiêu cho phù hợp với nhu cầu rút tiền của khách hàng và đem lại thu nhập cao nhất cho họ. Nếu khách hàng có nhu cầu đầu tư sản xuất kinh doanh, ngân hàng có thể giúp khách hàng xây dựng dự án, lựa chọn loại hình đầu tư, các phương án kỹ thuật và khai thác nguồn vốn đầu tư ở đâu để có được lượng vốn đầu tư lớn nhất với lãi suất tiền vay có lợi nhất. Triển khai 100% các điểm giao dịch trực thuộc MHB Chi nhánh Hà Nội thực hiện thanh toán quốc tế và cho vay ngoại tệ, mở rộng dịch vụ kiều hối cho tất cả các điểm giao dịch. Triển khai áp dụng hình thức thuê tài sản trong huy động vốn, đây không phải là một hình thức mới mẻ, song nó là đòn bẩy hoạt động tạo thu nhập từ việc sử dụng các tài sản cố định. * Mở rộng thêm các hình thức huy động vốn khác: Như đã trình bày, MHB Chi nhánh Hà Nội là chi nhánh của một NHTM, mới đi vào hoạt động nên vốn huy động chỉ bao gồm nguồn tiền gửi của khách hàng. Để tăng cường huy động vốn cho ngân hàng trong giai đoạn tới, MHB Chi nhánh Hà Nội cần mở rộng thêm các hình thức huy động vốn như: vay các ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác, tạo nguồn trong thanh toán… 3.2.2 Xây dựng chiến lược khách hàng hợp lý, tăng cường việc quảng cáo và tiếp thị khách hàng Việc xây dựng một chiến lược khách hàng hiệu quả sẽ đảm bảo cho việc củng cố khách hàng hiện có và phát triển khách hàng mới, giảm thiểu sự phụ thuộc của ngân hàng vào một số ít khách hàng. Đối với một ngân hàng mới như MHB Chi nhánh Hà Nội, việc đánh giá và phân loại khách hàng để đưa ra chính sách phù hợp cho từng nhóm đối tượng khách hàng là hết sức cần thiết. Những đối tượng khách hàng lớn, có quan hệ lâu dài, có tiềm năng phát triển cần được quan tâm đặc biệt, ngân hàng cần đưa ra các chính sách ưu đãi về lãi suất, giá cả dịch vụ…đối với khách hàng doanh nghiệp, hoặc tăng thêm tiện ích cho tài khoản khách hàng, tặng những món quà nhỏ đầy ý nghĩa cho khách hàng vào các dịp đặc biệt như sinh nhật, lễ, tết…đối với khách hàng cá nhân. Để đánh giá và phân loại khách hàng, một bộ phận nghiên cứu khách hàng cần được thành lập để thăm dò lấy ý kiến khách hàng, trên cơ sở đó phân tích và tổng hợp để phân loại, phân nhóm khách hàng. Thời gian qua, MHB Chi nhánh Hà Nội đã tích cực trong công tác tổ chức Hội nghị, hội thảo với khách hàng. Tuy nhiên, hoạt động này cần phải được đầu tư và tổ chức thường xuyên hơn, một mặt gặp gỡ khách hàng thảo luận trực tiếp những vấn đề vướng mắc để có biện pháp tháo gỡ, cải thiện và thắt chặt mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng; mặt khác giúp ngân hàng thu thập thông tin về khách hàng một cách thường xuyên, đầy đủ và hệ thống. Ngoài ra, các cuộc hội nghị và hội thảo cũng chính là nơi để ngân hàng đưa ra thông tin về các sản phẩm mới của mình, thăm dò thái độ, phản ứng của khách hàng để có những điều chỉnh thích hợp cho những sản phẩm dịch vụ của mình. Để phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn, MHB Chi nhánh Hà Nội phải tiếp tục cải tiến, đổi mới phong cách giao dịch, coi “khách hàng là thượng đế”, cải tiến giấy tờ trong giao dịch, rút tiền, gửi tiền sao cho đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng cho khách hàng. Việc tăng thời gian giao dịch là hết sức cần thiết trong môi trường cạnh tranh hiện nay. Khách hàng gửi tiền bên cạnh yêu cầu về tiền lãi còn mong muốn sự thuận tiện trong giao dịch, vì thế MHB Chi nhánh Hà Nội cần đánh giá hiệu quả của việc giao dịch vào giờ nghỉ trưa hoặc ngày thứ 7 hàng tuần (có hiệu quả và phù hợp với lao động cũng như lịch hoạt động của các quỹ tiết kiệm ngân hàng thương mại khác không) để xem xét việc tiếp tục triển khai thêm một số điểm giao dịch có doanh số lớn làm việc vào giờ nghỉ trưa và ngày thứ 7. Hoạt động thông tin quảng cáo và tiếp thị đã được MHB Chi nhánh Hà Nội thực hiện nhưng vẫn rất đơn giản và chưa thường xuyên. Để có được hình ảnh tốt trong tâm trí khách hàng, trước tiên ngân hàng phải được khách biết đến. Vì thế ngân hàng phải tăng cường công tác quảng cáo, tiếp thị. Thông qua đó khách hàng có thể so sánh để thấy được lợi ích khi giao dịch với ngân hàng và lựa chọn cho mình những dịch vụ có lợi nhất. Ngoài hình thức quảng cáo truyền thống trên các báo chuyên ngành, đôi lúc quảng cáo trên truyền hình, MHB Chi nhánh Hà Nội cần xây dựng kế hoạch quảng cáo, tiếp thị thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng như truyền hình, mạng internet, qua các đài truyền thanh phường, qua panô áp phích, tờ rơi hay thực hiện tuyên truyền vào trường học, nhất là các trường Đại học thông qua giáo viên để truyền đạt đến học sinh, sinh viên. Các dịch vụ và sản phẩm ngân hàng mới hầu như chưa được cung cấp thông tin một cách đầu đủ khiến dân chúng còn e ngại khi đến ngân hàng giao dịch. Do đó, MHB Chi nhánh Hà Nội cần tiếp tục tăng cường quảng cáo sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, đài phát thanh và truyền hình, các panô áp phích quảng cáo…), cho ra đời nhiều sản phẩm tờ rơi về sản phẩm dịch vụ ngân hàng trong đó đưa ra đầy đủ các thông tin về thủ tục, hình thức huy động, kỳ hạn, lãi suất, quyền lợi khách hàng, tiện ích của sản phẩm…MHB Chi nhánh Hà Nội nên đưa ra chính sách khuyến mại hấp dẫn trong từng thời kỳ: thay đổi hình thức quà tặng thường xuyên để thu hút khách hàng, đối với những khoản tiền gửi lớn cùng kỳ hạn thì món tiền có giá trị cao hơn sẽ được hưởng thêm một phần quà, thẻ mua hàng siêu thị hoặc trị giá bằng tiền trả ngay lúc gửi. Việc thường xuyên cung cấp thông tin về khả năng tài chính, kết quả kinh doanh, báo cáo kiểm toán của ngân hàng…trên các phương tiện thông tin đại chúng sẽ tạo cho khách hàng có được cái nhìn tổng quát về ngân hàng, tạo lòng tin cho người gửi tiền. Để xây dựng và thực thi thành công chiến lược khách hàng, chiến lược marketing ngân hàng, toàn thể ban lãnh đạo, toàn thể cán bộ nhân viên ngân hàng cần coi tiếp thị quảng bá sản phẩm dịch vụ ngân hàng là công việc, là trách nhiệm của chính mình. 3.2.3 Xây dựng chính sách lãi suất mềm dẻo, linh hoạt Lãi suất là công cụ quan trọng hàng đầu đối với công tác huy động vốn, nó là yếu tố kinh tế được sử dụng để tăng, giảm quy mô, cơ cấu nguồn vốn. Việc xây dựng lãi suất phải dựa trên nguyên tắc thị trường và quan hệ về vốn, lãi suất ngân hàng đưa ra phải nằm trong mặt bằng lãi suất chung của hệ thống ngân hàng, phải có tính cạnh tranh nhưng cũng hết sức linh hoạt, mềm dẻo mới thu hút được khách hàng. Mức lãi suất đối với đồng Việt Nam hiện tại của MHB Chi nhánh Hà Nội đưa ra có thể nói là cao trong khối các NHTM Nhà nước, mức lãi suất ngoại tệ ở mức trung bình, do hạn chế về thương hiệu nên hiệu quả huy động vốn chưa cao. Vì vậy, trong thời gian tới, MHB Chi nhánh Hà Nội thực thi chính sách lãi suất theo hướng: - Từng thời kỳ Chi nhánh xây dựng kế hoạch phân tích chi phí đầu vào, chi phí đầu ra, sàn lọc và dự báo dựa trên cơ sở các thông tin sẵn có để đưa ra một chính sách lãi suất phù hợp. Trên cơ sở cung cầu về vốn, kết hợp với việc theo dõi lãi suất trên địa bàn, mức lãi suất Chi nhánh đưa ra luôn luôn phải đảm bảo sự chênh lệch nhất định giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay, không ganh đua chạy theo việc tăng lãi suất dẫn đến không đảm bảo an toàn và hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. - Theo dõi sát sao tình hình diễn biến lãi suất trên thị trường để kịp thời có những điều chỉnh về lãi suất, đảm bảo lãi suất thực dương, lãi suất huy động danh nghĩa cao hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến… - Tiếp tục đa dạng hoá các hình thức trả lãi mà ngân hàng đã áp dụng như trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi định kỳ, lãi suất luỹ tiến…đồng thời, với cùng một kỳ hạn, ngân hàng có thể thay đổi mức lãi suất với những khoản tiền gửi lớn để thu hút được những nguồn tiền lớn. - Nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư là rất lớn, còn nhiều tiềm năng để khai thác, vì vậy, MHB Chi nhánh Hà Nội cần xem xét tiến tới giảm lãi suất tiền gửi giao dịch tăng lãi suất tiền gửi trung, dài hạn để khuyến khích và thu hút được nguồn vốn trong dân. 3.2.4 Đổi mới và hiện đại hoá ngân hàng để phát triển các dịch vụ liên quan đến huy động vốn Bên cạnh các giải pháp tăng cường huy động vốn trực tiếp, để đạt được hiệu quả cao trong huy động vốn, ngân hàng phải tập trung phát triển các dịch vụ liên quan. Đến nay, MHB chưa thực hiện chương trình hiện đại hoá ngân hàng, các dịch vụ ngân hàng còn hạn chế, chỉ đơn thuần là các dịch vụ ngân hàng truyền thống. Vì vậy, để tăng cường cho công tác huy động vốn, MHB Chi nhánh Hà Nội cần phát triển các dịch vụ tiện ích theo các hướng sau: - Hệ thống máy ATM đã bắt đầu đi vào hoạt động song mới thử nghiệm trong nội bộ ngân hàng. MHB Chi nhánh Hà Nội cần gấp rút khai thác, tìm kiếm các điểm đặt máy trên địa bàn, tại những điểm thuận tiện như Khu chung cư, siêu thị…Bên cạnh đó, cần đề xuất với Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long đưa thêm các dịch vụ thẻ ATM như nộp tiền trực tiếp vào thẻ, thanh toán tiền điện nước, tạo tiện ích cho người nước ngoài trong việc rút tiền bằng ngoại tệ hoặc sử dụng thẻ Visa, Master Card để giao dịch rút tiền qua máy ATM. Đây là giải pháp hữu ích trong việc đưa thương hiệu MHB đến với dân chúng, việc tăng các dịch vụ tiện ích cho khách hàng sẽ góp phần không nhỏ trong việc phát triển thương hiệu cho ngân hàng, đồng thời tăng cường khả năng huy động vốn của ngân hàng trong tương lai. - Nâng cao chất lượng dịch vụ cho khách hàng, tiếp tục mở rộng và phát triển các ứng dụng ngân hàng tiên tiến, tăng cường khả năng quản lý qua việc cập nhật, cung cấp thông tin trực tuyến về thương mại và tín dụng, quản lý thông tin khách hàng, quản lý hạn mức…một cách hữu hiệu. MHB Chi nhánh Hà Nội cần đề xuất với Hội sở triển khai dịch vụ giao dịch một cửa vì như vậy khách hàng sẽ được cung cấp nhiều loại dịch vụ tại quầy và giảm tối đa thời gian phục vụ, tạo sự thoải mái cho khách hàng đến giao dịch với ngân hàng. - Dịch vụ thanh toán không chỉ đáp ứng nhu cầu khách hàng mà còn giúp ngân hàng có thêm nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để phục vụ hoạt động kinh doanh. Trong thời gian tới, MHB Chi nhánh Hà Nội cần đẩy mạnh các dịch vụ thanh toán cả về chất và lượng để hấp dẫn khách hàng, đảm bảo các lệnh thanh toán được xử lý nhanh chóng và hiệu quả nhằm gia tăng tốc độ thanh toán, thu hút khách hàng chuyển vốn qua ngân hàng. - MHB Chi nhánh Hà Nội cần có kế hoạch tiếp thị hoặc liên hệ với các doanh nghiệp, công ty để cung cấp dịch vụ trả lương hộ. Đây là hình thức tiếp thị đưa sản phẩm dịch vụ ngân hàng đến tận tay khách hàng, nâng cao uy tín cho ngân hàng, ở một góc độ nào đó có thể sử dụng nguồn tiền gửi trên tài khoản của khách hàng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. - MHB Chi nhánh Hà Nội nên đề xuất với Hội sở triển khai phối hợp với Tập đoàn Bưu chính viễn thông cung cấp các dịch vụ Phone- Banking, Internet – Banking, Home – Banking, cung cấp thông tin về tài khoản, giao dịch của khách hàng qua hệ thống gửi tin nhắn… - Triển khai dịch vụ Core Banking trong toàn hệ thống để tạo thêm nhiều tiện ích cho khách hàng như sử dụng chương trình tiết kiệm gửi tiền một nơi rút nhiều nơi, phát triển mạnh hoạt động dịch vụ thanh toán, đảm bảo đáp ứng tốt nhất các nhu cầu về thanh toán với nhiều tiện ích, tốc độ thanh toán nhanh, thủ tục đơn giản, thông tin bảo mật… - Phát triển các dịch vụ bổ trợ như tư vấn cho khách hàng, cung cấp thông tin theo yêu cầu, dịch vụ cho thuê két sắt… Những dịch vụ này mang tính bổ trợ nhằm tăng thêm giá trị sản phẩm dịch vụ cơ bản của ngân hàng và tạo ra sự khác biệt với các ngân hàng khác, tuy không trực tiếp sinh lợi nhưng chính những dịch vụ này lại gây tác động kích thích sự chú ý của khách hàng, tăng giá trị cung ứng thoả mãn nhu cầu và tạo lập quan hệ gắn bó lâu dài với khách hàng. - Tiến tới thực hiện cung cấp các dịch vụ tài chính, dịch vụ quản lý tiền mặt, tài sản, quản lý danh mục đầu tư cho khách hàng… 3.2.5 Mở rộng mạng lưới hoạt động Để từng bước thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường một cách nhanh nhất trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, một trong những giải pháp cần thực hiện trong hoạt động huy động vốn là mở rộng mạng lưới kinh doanh, đi sâu đi sát vào từng khu vực dân cư, đưa ra những biện pháp tối ưu nhằm tập trung tối đa mọi nguồn lực nhàn rỗi vào ngân hàng. Đối với MHB Chi nhánh Hà Nội, giải pháp này phải thực sự được coi là giải pháp trọng tâm, cấp bách. Thực tế khi mở rộng mạng lưới kinh doanh đã tạo điều kiện giúp hoạt động huy động vốn của ngân hàng đạt được kết quả cao. Do đó trong những năm tiếp theo, để giữ được khách hàng cũ và thu hút thêm khách hàng mới ngân hàng cần phải xây dựng ngay kế hoạch mở rộng mạng lưới kinh doanh. Hiện nay, mạng lưới hoạt động của Chi nhánh ngoài trụ sở chính còn có thêm 04 Phòng Giao dịch và 02 Chi nhánh cấp 2 trực thuộc, mạng lưới còn rất nhỏ bé so với tiềm năng phát triển. Thực hiện kế hoạch phát triển mạng lưới, MHB Chi nhánh Hà Nội tập trung khảo sát và phân tích tình hình huy động vốn trên từng khu vực, nên ưu tiên mở rộng các điểm giao dịch tại các khu dân cư có thu nhập cao, các khu vực quần thể ngân hàng, các trung tâm thương mại…Tại mỗi điểm giao dịch cần cung cấp đầy đủ các dịch vụ ngân hàng như huy động vốn, cho vay, chuyển tiền, chi trả kiều hối hoặc thực hiện kéo dài thời gian giao dịch, giao dịch vào giờ nghỉ trưa… để các tiện ích ngân hàng đến với dân chúng dễ dàng và thuận tiện hơn. 3.2.6 Nâng cao hiệu quả cân đối nguồn vốn: Có thể nói, cơ cấu nguồn vốn huy động và sử dụng vốn tại MHB Chi nhánh Hà Nội đã chưa thực sự hợp lý. Trong thời gian tới, MHB Chi nhánh Hà Nội cần chú trọng đặc biệt đến việc cân đối vốn để giảm chênh lệch về loại tiền, kỳ hạn, đối tượng gửi tiền sao cho phù hợp từng thời kỳ. Phát huy tốt lợi thế huy động vốn để góp phần đảm bảo vốn điều hoà trong hệ thống. 3.2.7 Các giải pháp khác * Triển khai tốt hoạt động marketing ngân hàng để tranh thủ khai thác triệt để nguồn tiền qua hình thức mở tài khoản đối với các tổ chức quốc tế, các quỹ nước ngoài vì các tổ chức này thường mở tài khoản với số dư rất lớn. Thông qua đó MHB Chi nhánh Hà Nội sẽ triển khai được các dịch vụ ủy thác, đại lý, tư vấn cho các tổ chức nước ngoài, nguồn vốn ủy thác của các tổ chức, công ty này được đầu tư vào lĩnh vực bất động sản, phát triển nhà ở… * Đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ để nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nâng cao kiến thức về sản phẩm dịch vụ ngân hàng và đạo đức nghề nghiệp cán bộ ngân hàng: MHB Chi nhánh Hà Nội cần đặc biệt chú trọng công tác đào tạo và đào tạo lại về chuyên môn nghiệp vụ; tổ chức tập huấn để truyền đạt kinh nghiệm, trao đổi phương pháp làm việc; phổ biến các thông tin về chính các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mình để mỗi cán bộ nhân viên đều là một cán bộ marketing ngân hàng, có chuyên môn giỏi, phong cách giao dịch và thái độ phục vụ đối với khách hàng tốt nhất để tạo lòng tin nơi khách hàng, tạo hình ảnh tốt cho ngân hàng. * Tạo cơ sở vật chất kỹ thuật tốt phục vụ cho hoạt động ngân hàng: Các điểm giao dịch của ngân hàng phải khang trang, lịch sự, sạch sẽ để gây ấn tượng tốt với khách hàng; hệ thống thông tin, máy móc thiết bị, các chương trình phần mềm phải hiện đại, đồng bộ, phục vụ khách hàng được nhanh chóng, chính xác, an toàn và hiệu quả. * Ngay từ ngày đầu thành lập, MHB Chi nhánh Hà Nội luôn đặt trọng tâm huy động vốn lên hàng đầu. Vì vậy, theo định kỳ, Chi nhánh cần phát động mạnh mẽ các đợt thi đua tăng tốc huy động vốn, thi đua sáng kiến cải tiến kỹ thuật đến cán bộ nhân viên. Những tập thể và cá nhân xuất sắc phải được khen thưởng, động viên kịp thời, chính sách và cơ chế thưởng phạt phải rõ ràng để khuyến khích người lao động tận tâm vì công việc chung. * Xây dựng văn minh giao dịch, văn hóa riêng của MHB để luôn là một “Ngân hàng mới – Phong cách mới”, mang đến cho khách hàng mọi sự hài lòng về chất lượng dịch vụ, thái độ phục vụ, một hình ảnh rất riêng của Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long. 3.3 CÁC KIẾN NGHỊ 3.3.1. Đối với chính phủ. - Tạo môi trường pháp lý đầy đủ và đồng bộ cho hoạt động của ngân hàng (chẳng hạn như hoàn thiện các văn bản pháp quy về quyền lợi và trách nhiệm của chủ tài khoản cá nhân trước pháp luật) - Duy trì ổn định môi trường kinh tế chính trị, tạo niềm tin vững chắc của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Chính phủ và nhà nước, tạo cơ sở ổn định cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Niềm tin của quần chúng sẽ góp phần lớn cho sự ổn định của hoạt động ngân hàng, từ đó thu hút được các nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội. - Chính phủ phải có chính sách phát triển kinh tế gắn với các mục tiêu sau: ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, tăng trưởng bền vững. Việc duy trì lạm phát ở một mức hợp lý, đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền, có chính sách tỷ giá ổn định và linh hoạt tránh các đột biến làm giảm sức mua của nội tệ, nhằm ổn định tiền tệ sẽ giúp người dân táo bạo trong đầu tư và gửi tiền vào ngân hàng. - Chính phủ cần có chính sách ngoại giao, tiết kiệm và đầu tư một cách phù hợp, giảm bớt hệ thống quản lý cồng kềnh, tăng cường tính độc lập của ngân hàng Việt Nam trong thực thi chính sách tiền tệ quốc gia cho phù hợp và gắn liền với thực tiễn. - Không ngừng củng cố lại hệ thống ngân hàng thương mại ngày càng hoàn thiện và mạnh hơn. Thực hiện tái cấp vốn để tăng vốn chủ sở hữu cho các ngân hàng, giúp các ngân hàng có thế mạnh hơn trong cạnh tranh. - Đưa ra các biện pháp cụ thể hạn chế thanh toán bằng tiền mặt, thực hiện chi trả lương, chi trả dịch vụ trước hết của các đơn vị hành chính, sự nghiệp thông qua mở tài khoản. - Đưa ra cơ chế tiền lương mang tính khuyến khích đối với các NHTM Nhà nước, bởi hiện tại so với khối ngân hàng TMCP và ngân hàng liên doanh, nước ngoài thì mặt bằng lương của khối NHTM Nhà nước thấp hơn nhiều. Nhà nước cần có cơ chế tiền lương thông thoáng hơn trong việc giao đơn giá tiền lương, tỷ lệ trích lập quỹ, giao quyền tự chủ. - Sự sôi động ngày càng gia tăng của thị trường chứng khoán hiện nay đã bước đầu huy động được nguồn vốn trung dài hạn từ dân chúng. Tuy nhiên, điều đó đòi hỏi Nhà nước cần có sự kiểm soát, quản lý thật chặt chẽ để hoạt động của thị trường chứng khoán thực sự hiệu quả đối với thị trường vốn, có ảnh hưởng tích cực cho hoạt động ngân hàng nói chung. 3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam : Để thuận tiện cho việc huy động vốn trong nền kinh tế, đặc biệt là qua kênh NHTM thì Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách mềm dẻo, linh hoạt theo hướng: - Thực thi chính sách tiền tệ quốc gia một cách linh hoạt, trong đó cần khuyến khích tiết kiệm, tập trung vốn nhàn rỗi đầu tư cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy các NHTM và các tổ chức tín dụng cạnh tranh lành mạnh, tự chủ trong kinh doanh. Ngân hàng Nhà nước cần dùng lãi suất làm “đòn bẩy” thúc đẩy các NHTM chú trọng huy động vốn, xây dựng và hoàn thiện chính sách tiền tệ hợp lý nhằm khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng. - Tăng vốn tự có cho hệ thống NHTM Nhà nước để tăng khả năng cạnh tranh và đảm bảo hoạt động ngân hàng hiệu quả. Việc tăng vốn tự có thực hiện thông qua phát hành trái phiếu đặc biệt của Bộ Tài chính, phối hợp với MHB để hoàn tất tiến trình cổ phần hoá và bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. - Có hướng dẫn cụ thể về các hình thức huy động vốn như: tiết kiệm bằng vàng, tiết kiệm đảm bảo giá trị theo vàng… cần có các quy định cụ thể về áp dụng lãi suất đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn 10 năm, 20 năm. - Phải có quy định cụ thể thông tin, số liệu về hoạt động mà các tổ chức bắt buộc phải công khai cho công chúng biết theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế. Qua đó nhằm giúp khách hàng có được hướng giải quyết đúng đắn trong việc đầu tư, giao dịch với ngân hàng. - Có văn bản quy định rõ quy trình chiết khấu giấy tờ có giá của ngân hàng, cho phép chiết khấu cả giấy tờ có giá ngắn hạn lẫn dài hạn, tạo sự thống nhất trong các chỉ tiêu hoạt động của ngân hàng như lãi suất chiết khấu. Tóm lại, để mở rộng huy động vốn trong thời gian tới thì đòi hỏi hệ thống Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long phải nghiên cứu, triển khai và thực hiện linh hoạt, đồng bộ nhiều biện pháp. Đồng thời Chính phủ cũng như Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách thiết thực, vừa khuyến khích NHTM huy động vốn vừa khơi dậy được tiềm năng vốn trong và ngoài nước nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế. 3.3.3. Đối với Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long - MHB cho phép Chi nhánh Hà Nội được thành lập phòng Marketing và dịch vụ tư vấn để thực hiện kế hoạch, chiến lược marketing, phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng mới và chăm sóc khách hàng. - MHB cần tạo điều kiện cho Chi nhánh Hà Nội mua được trụ sở mới để ổn định trong hoạt động kinh doanh, góp phần nâng cao vị thế của ngân hàng trong tiến trình hội nhập và đủ điều kiện phục vụ khách hàng trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, đáp ứng kịp với xu thế phát triển của Thủ đô nói riêng và cả nước nói chung trong thời gian tới. - Tăng cường nâng cấp cơ sở vật chất, nhanh chóng hoàn tất chương trình cổ phần hoá và hiện đại hoá ngân hàng chuẩn bị cho bước hội nhập hệ thống ngân hàng trong khu vực và thế giới. - Triển khai các sản phẩm, dịch vụ mới, tăng thêm chức năng cho thẻ ATM, triển khai các chương trình phần mềm hiện đại, nhiều tiện ích và tính năng phục vụ cho giao dịch khách hàng, công tác quản trị điều hành. - Đưa ra nhiều sản phẩm huy động vốn với các hình thức huy động linh hoạt hấp dẫn: hình thức huy động vốn gửi một nơi lĩnh nhiều nơi, hình thức tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm tích luỹ, tiết kiệm xây dựng nhà ở (khách hàng gửi tiền dài hạn vào MHB sẽ được cấp vốn bổ sung để xây dựng, sửa chữa nhà ở khi có nhu cầu), các hình thức tiết kiệm lãi suất bậc thang… - Đầu tư cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên về chuyên môn nghiệp vụ, đào tạo để nâng cao kỹ năng kiến thức quản trị điều hành cho cán bộ lãnh đạo, tạo điều kiện cho cán bộ nhân viên MHB nói chung và Chi nhánh Hà Nội nói riêng được tham gia học tập trong và ngoài nước, được tiếp cận với các thông tin thị trường tài chính quốc tế để có những biện pháp và chính sách kịp thời, nâng cao hiệu quả huy động vốn cho Chi nhánh. KẾT LUẬN Huy động vốn là nghiệp vụ quan trọng của NHTM vì nó quyết định quy mô, cơ cấu tài sản sinh lời. Huy động vốn không chỉ mang lại lợi nhuận cho bản thân ngân hàng mà thực chất còn mang lại hiệu quả kinh tế xã hội nói chung. Đối với Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội, huy động vốn là nhiệm vụ hàng đầu và trở thành chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Việc nghiên cứu thực trạng huy động vốn và giải pháp cho công tác này tại Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và thực tiễn. Qua các nội dung đã trình bày, có thể nói luận văn đã hoàn thành những nhiệm vụ cơ bản sau: - Hệ thống hoá được những lý luận cơ bản về vốn và huy động vốn của Ngân hàng thương mại. - Phân tích và đánh giá thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội giai đoạn 2003- 2006, từ đó chỉ ra những kết quả đạt được và những hạn chế cùng nguyên nhân làm ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn. - Trên cơ sở lý luận và thực tiến tình hình huy động vốn tại Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội, luận văn đã đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội trong giai đoạn tới. Với những nghiên cứu trên đây cùng sự hướng dẫn chỉ bảo nhiệt tình của PGS.TS Nguyễn Thị Bất và các thầy, cô giáo trong Khoa Ngân hàng Tài chính – Trường Đại học Kinh tế quốc dân, các anh chị đồng nghiệp tại Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội, tác giả mong muốn những ý kiến, đề xuất trong luận văn được áp dụng thực tế giúp cho công tác huy động vốn tại Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội hiệu quả hơn. Đây là một đề tài nghiên cứu rộng và nội dung liên quan tới nhiều lĩnh vực, là mối quan tâm của các NHTM giai đoạn hiện nay. Tác giả mong muốn nhận được sự đóng góp của các thầy cô giáo, đồng nghiệp và các bạn đọc để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Frederic S.Mishkin (1995), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. TS.Phan Thị Thu Hà (2004), Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, Hà Nội. Peter S.Rose (2004), Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính, Hà Nội. Philip Kotler (2000), Quản trị Marketing, NXB Thống kê, Hà Nội Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long, Bản tin hàng tháng 2006. Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long, Báo cáo thường niên 2003. Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long, Báo cáo thường niên 2004. Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long, Báo cáo thường niên 2005. Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 2003-2006. Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội, Báo cáo lãi suất trên địa bàn 2006. Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội, Bảng cân đối kế toán 2003. Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội, Bảng cân đối kế toán 2004. Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội, Bảng cân đối kế toán 2005. Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội, Bảng cân đối kế toán 2006. Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long – Chi nhánh Hà Nội, Báo cáo tổng kết 3 năm hoạt động ( 2006) Học viện ngân hàng (2004), Quản trị kinh doanh ngân hàng, NXB Thống kê, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29434.doc
Tài liệu liên quan