Tăng cường kiểm soát nguồn thu thuế giá trị gia tăng (VAT) từ các Doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội

Lời nói đầu 1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu Trong điều kiện hiên nay, do sự phát triển không ngừng của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, đòi hỏi phải tăng cường chức năng kinh tế, xã hội của nhà nước.Để thực hiện các chức năng đó, Nhà nước cần phải sử dụng các công cụ khác nhau để tác động đến nền kinh tế, nhằm thoả mãn các nhu cầu xã hội. Việc tăng cường vai trò kinh tế, xã hội của nhà Nước dẫn đến tốc độ chi tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên, điều đó tất yếu đòi hỏi Nhà

doc94 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1209 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Tăng cường kiểm soát nguồn thu thuế giá trị gia tăng (VAT) từ các Doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước phải mở rộng quỹ tài chính của mình. Quỹ tài chính của Nhà nước được hình thành nên từ các nguồn thu.Trong đó Thuế vừa là nguồn thu chủ yếu của NSNN, vừa là một công cụ đắc lực để quản lí nền kinh tế. Đặc biệt là thuế GTGT. Thuế GTGT được áp dụng ở Việt Nam từ ngày 1/1/1999. Sau hơn hai năm thực hiện, ngoài những ưu điểm giúp cho việc kiểm soát nguồn thu tương đối chặt chẽ và thuận lợi như : Đơn giản, dễ hiểu, có tính chất liên hoàn, tăng cường công tác hạch toán, kế toán tại doanh nghiệp. . . Luật thuế GTGT và quy trình quản lí thuế GTGT cũng bộc lộ những nhược điểm, ảnh hưởng tới công tác kiểm soát nguồn thu, do vậy ảnh hưởng trực tiếp tới kế hoạch thu ngân sách của Nhà nước. Kiểm soát tốt được nguồn thu thuế GTGT cũng đồng nghĩa với việc tăng thu cho NSNN. Xuất phát từ vai trò quan trọng đó nên việc “ Tăng cường kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội” là đề tài được chọn trong luận án thạc sĩ của tôi. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Luận án nghiên cứu thực trạng kiểm soát nguồn thu thuế GTGT đối với các Doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà nội. Hệ thống hoá những quan điểm mới về kiểm soát phù hợp với vai trò quản lí của Nhà nứớc, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT- một nguồn thu quan trọng của Nhà nước. 3. Nội dung đề tài Ngoài lời mở đầu và kết luận , luận án gồm 3 chương: Chương I: Lí luận chung về kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh nghiệp Chương II: Thực trạng kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà nội Chương III: Những giải pháp tăng cường kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài. Luận án nghiên cứu việc tăng cường kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh nghiệp thực hiện luật thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Phạm vi nghiên cứu: Các doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội. 5. Phương pháp nghiên cứu Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, kết hợp với các phương pháp tổng hợp, phân tích và phương pháp so sánh. 6. Những đóng góp của luận án Luận án làm rõ ý nghĩa quan trọng của việc tăng cường kiểm soát nguồn thu thuế GTGT, nêu lên thực trạng của hoạt động kiểm soát nguồn thu thuế GTGT đối với các Doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà nội, đồng thời nêu ra những giải pháp và kiến nghị có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này chương i lý luận chung về kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT từ các doanh nghiệp. 1.1/ kiểm tra, kiểm soát trong hệ thống quản lý nhà nước. Kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT là một trong những hoạt động quản lý của Nhà nước. Do vậy để hiểu được khái niệm về kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT, chúng ta phải xuất phát từ quản lý nói chung và quá trình quản lý của Nhà nước nói riêng. 1.1.1 - Những vấn đề chung về quản lý. Một cách chung nhất, quản lý là một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các mục tiêu đã định trên cơ sở những nguồn lực xác định nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Quá trình quản lý bao gồm 4 giai đoạn cơ bản: Thứ nhất: trên cơ sở dự báo về các nguồn lực hiện có và các nguồn lực tiềm năng, người quản lý xác định các mục tiêu của quản lý. Đây là giai đoạn định hướng. Thứ hai: Xây dựng các chương trình, các kế hoạch để đạt được mục tiêu của quản lý. ở giai đoạn này, người quản lý phải đưa ra các quyết định cụ thể để tổ chức thực hiện với những công cụ, các biện pháp, các chính sách.v...v... Thứ ba: Giai đoạn tổ chức thực hiện. Trong giai đoạn này, cần kết hợp các nguồn lực theo một phương án tối ưu nhất, sử dụng các quyết định quản lý một cách hiệu quả nhất nhằm đạt được kết quả tối ưu như mục tiêu đã đặt ra. Thứ tư: là giai đoạn đánh giá kết quả hoạt động. Giai đoạn này rất quan trọng vì các thông tin thu được sẽ cho biết các kết quả đạt được có thoả mãn các mục tiêu của người quản lý hay không, từ đó người quản lý có thể có những điều chỉnh cần thiết. Trong suốt quá trình quản lý, kiểm tra luôn gắn kết với các giai đoạn của quản lý. ở giai đoạn định hướng cần có những dự báo về nguồn lực và mục tiêu cần và có thể đạt tới, kiểm tra lại các thông tin về nguồn lực và mục tiêu, xây dựng các chương trình, kế hoạch...Sau khi các chương trình, kế hoạch đã được kiểm tra có thể đưa ra các quyết định cụ thể để tổ chức thực hiện. ở giai đoạn tổ chức thực hiện, cần kết hợp các nguồn lực theo phương án tối ưu, đồng thời thường xuyên kiểm tra diễn biến và kết quả của các quá trình để đIều hoà các mối quan hệ, điều chỉnh các định mức và mục tiêu trên quan điểm tối ưu hoá kết quả hoạt động. Như vậy, kiểm tra không phải là một giai đoạn hay một pha của quản lý mà nó được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của quá trình này. Bởi vậy, kiểm tra là một chức năng của quản lý. Tuy nhiên, chức năng này được thể hiện rất khác nhau tuỳ thuộc vào cơ chế kinh tế và cấp quản lý, vào loại hình hoạt động cụ thể, vào những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể và trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể. 1.1.2 - Kiểm tra, kiểm soát- một chức năng của quản lý Nhà nước. Để hiểu được vai trò của kiểm tra, kiểm soát trong quá trình quản lý, chúng ta cần đi từ khái niệm của kiểm tra, kiểm soát. Trong quản lý, kiểm tra là công việc nhằm soát xét lại những quyết định và quá trình thực thi những quyết định đó, nhưng được giới hạn theo cấp bậc quản lý (ví dụ kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới). Kiểm tra thường gắn liền với xử lý, gọi là thanh tra. Kiểm soát là công việc nhằm soát xét lại những quy định, những quá trình thực thi các quyết định quản lý được thể hiện trên các nghiệp vụ (những thao tác cụ thể) nhằm nắm bắt và đIều hành được những nghiệp vụ đó. Nhằm tham gia vào quá trình quản lý, kiểm tra kiểm soát phải tuân thủ theo 3 bước cơ bản: Thứ nhất là xây dựng hệ thống tiêu chuẩn dựa trên cơ sở của những mục tiêu quản lý. Thứ hai là đo lường việc thực hiện theo những tiêu chuẩn đã được xây dựng. ở bước này người quản lý sẽ nhận được các thông tin về đối tượng quản lý. Thứ ba là dựa trên những thông tin thu thập được ở bước thứ hai, người quản lý điều chỉnh các sai lệch trong việc thực hiện. Như vậy, kiểm tra kiểm soát gắn liền với hoạt động quản lý. ở đâu có quản lý thì ở đó có kiểm tra, kiểm soát. Kiểm tra, kiểm soát không tự nhiên tồn tại mà nảy sinh và phát triển từ chính nhu cầu quản lý và phục vụ quản lý. Kiểm tra kiểm soát là cầu nối giữa thực tế sinh động và nhận thức chủ quan của con người trong quá trình quản lý. Về phân cấp quản lý, có rất nhiều mô hình khác nhau song chung nhất thường là phân thành quản lý vĩ mô (của Nhà nước ) và quản lý vi mô (của các đơn vị cơ sở). Ngoài ra, trong nhiều trường hợp giữa hai cấp quản lý cơ bản nói trên còn có cấp quản lý trung gian vừa chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, vừa thực hiện chức năng quản lý của các đơn vị cơ sở. Đối với quản lý vi mô, để bảo đảm hiệu quả hoạt động, tất yếu mỗi đơn vị cơ sở đều tự kiểm tra mọi hoạt động của mình trong tất cả các khâu : rà soát các tiềm lực, xem xét lại các dự báo, các mục tiêu và định mức, đối chiếu và truy tìm các thông số về sự kết hợp, soát xét lại các thông tin thực hiện để điều chỉnh kịp thời trên quan điểm bảo đảm hiệu năng của mọi nguồn lực và hiệu quả kinh tế cuối cùng của các hoạt động. Công việc này là kiểm soát nội bộ hay còn gọi là nội kiểm. Trong khi đó, với cương vị quản lý vĩ mô, Nhà nước cũng thực hiện chức năng kiểm tra của mình. Trong nền kinh tế, Nhà nước có vai trò bảo đảm một môi trường kinh doanh ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh hơn nữa, Nhà nước còn giữ vai trò định hướng sự phát triển của nền kinh tế thông qua việc điều tiết kinh tế vĩ mô. Với những vai trò đó, đối tượng của quản lý Nhà nước là rất rộng lớn, từ các doanh nghiệp cho tới những lĩnh vực , những ngành nghề khác nhau và trên nguyên tắc, tất cả các hoạt động kinh tế đều thuộc đối tượng quản lý của Nhà nước. Với đối tượng quản lý rất rộng, việc quản lý của Nhà nước đòi hỏi phải bám sát thực tế kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng đồng thời phải bảo đảm đúng định hướng, bảo đảm thực hiện các mục tiêu của Nhà nước. Mặt khác, Nhà nước là một tổ chức chính trị, đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị, thi hành các chính sách do giai cấp thống trị đặt ra để cai trị xã hội. Để duy trì sự hoạt động của mình, Nhà nước cần có những nhu cầu chi tiêu chung có tính chất xã hội. Do đó, Nhà nước phải dùng quyền lực chính trị vốn có để giành lấy một bộ phận của cải xã hội phục vụ cho các chức năng, nhiệm vụ của mình. Đó là lý do tồn tại của nguồn thu NSNN. Về thực chất, nguồn thu NSNN là sự phân phối của cải xã hội nhằm thực hiện chức năng của tài chính. Do tính chất quan trọng của nguồn thu NSNN, Nhà nước phải thực hiện quản lý và thiết lập việc kiểm soát các nguồn thu này. Do vậy, kiểm tra kiểm soát nói chung và kiểm soát nguồn thu NSNN nói riêng là rất cần thiết và vô cùng quan trọng trong quản lý Nhà nước. Trong việc kiểm soát của Nhà nước, các tiêu chuẩn kiểm soát là hệ thống các Luật và các quy định dưới Luật. Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra của mình hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. ở cấp độ trực tiếp (thông thường với tư cách chủ sở hữu) Nhà nước kiểm tra các mục tiêu các chương trình, kế hoạch hoạt động, kiểm tra các nguồn lực, kiểm tra quá trình và kết quả thực hiện các mục tiêu của các doanh nghiệp Nhà nước và bộ máy hành chính, kiểm tra tính trung thực của các thông tin cũng như tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ. ở cấp độ gián tiếp, Nhà nước có thể sử dụng kết quả kiểm tra của các chuyên gia hoặc các tổ chức kiểm tra độc lập để thực hiện điều tiết vĩ mô qua các chính sách của mình, hoặc tham gia đầu tư hoặc với tư cách là các khách hàng của các tổ chức kinh tế. Việc kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước khác với kiểm tra, kiểm soát của các doanh nghiệp do mục đích quản lý, đối tượng quản lý là hoàn toàn khác nhau. Nếu như đối với doanh nghiệp, mục tiêu của quản lý là tạo ra lợi nhuận tối đa và một nền tảng bền vững để phát triển thì đối với Nhà nước, mục tiêu quản lý lại là ổn định nền kinh tế trên các lĩnh vực: sản xuất, thương mại, tài chính - tiền tệ , bảo đảm một môi trường kinh doanh ổn định và thực hiện huy động đủ nguồn thu NSNN. Đối tượng quản lý của quản lý Nhà nước là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, các yếu tố của môi trường kinh doanh, các giá trị văn hoá, môi trường xã hội. Còn đối tượng quản lý của doanh nghiệp lại là những vấn đề chi phí, thu nhập, cơ cấu các nguồn vốn sử dụng, quy trình tạo ra sản phẩm, dịch vụ..v.v... Do vậy, quá trình kiểm tra kiểm soát đối với doanh nghiệp thì ngoài việc kiểm tra trong nội bộ doanh nghiệp còn phải chịu sự kiểm tra, kiểm soát này nhằm bảo đảm các quyết định quản lý kinh tế của Nhà nước, trong đó có chính sách huy động nguồn thu NSNN được thực hiện một cách có hiệu quả. Trên giác độ tài chính, cả kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp và kiểm soát của Nhà nước đều hướng tới một đối tượng chung là hoạt động tài chính của doanh nghiệp. 1.1.3 - Kiểm tra, kiểm soát hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Phạm vi quản lý bao gồm tất cả các lĩnh vực chức năng khác nhau. Tùy theo tính chất nghiệp vụ, sự chuyên môn hoá và sự phân quyền mà các bộ phận chức năng có thể được thiết lập. Quá trình quản lý trong mỗi lĩnh vực đều phải tuân thủ theo các bước như đã nêu ở trên nhưng phải tập trung vào việc thực hiện chức năng đã định một cách hiệu quả nhất. Để thực hiện mục tiêu này, cần phải thiết lập hệ thống kiểm soát trên hai khu vực, đó là kiểm soát quản lý và kiểm soát kế toán. Theo các chuẩn mực đã hệ thống hoá của Hội đồng kế toán viên công chứng Mỹ (AICPA), phần thực hành kiểm toán (32009) thì : Kiểm soát quản lý (trong doanh nghiệp được cụ thể hoá là kiểm soát quản trị - Administrative) bao gồm (nhưng không hạn chế) kế hoạch tổ chức và các trình tự, hồ sơ cần cho quá trình ra quyết định để cho phép tiến hành các nghiệp vụ. Kiểm soát quản lý gắn liền với trách nhiệm thực hiện các mục tiêu của tổ chức và là điểm xuất phát để thiết lập kiểm soát kế toán. Kiểm soát kế toán (Accounting Control) bao gồm kế hoạch tổ chức và các trình tự, hồ sơ cần thiết cho việc bảo vệ tài sản và độ tin cậy của sổ sách tài chính và do đó phải bảo đảm hợp lý rằng : - Các nghiệp vụ được tiến hành theo sự chỉ đạo chung hoặc cụ thể của quản lý. - Các nghiệp vụ được ghi sổ là cần thiết để : (1) Giúp chuẩn bị các báo cáo tài chính đúng với nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận hoặc các tiêu chuẩn có thể áp dụng cho các báo cáo này; (2) Duy trì khả năng hạch toán của tài sản. - Chỉ khi được phép của nhà quản lý mới động đến tài sản. - Tài sản đã ghi sổ phải được đối chiếu với tài sản thực có tại thời điểm thích hợp và phải có sự điều chỉnh phù hợp khi có những chênh lệch. Như vậy, kiểm soát kế toán chỉ quan tâm đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp được phản ánh trên các tài liệu kế toán. Trong khi đó, kiểm soát quản lý yêu cầu một phạm vi rộng hơn của các đối tượng kiểm soát theo mục tiêu quản lý của toàn bộ tổ chức. Tuy nhiên, kiểm soát kế toán lại có vai trò là cơ sở cho kiểm soát quản lý. Các chứng từ kế toán không chỉ là sự thông tin mà còn là minh chứng pháp lý cho sự hình thành các nghiệp vụ kinh tế. Từ đó, kiểm soát kế toán có thể hình thành phương pháp tự kiểm soát : đối ứng tài khoản không chỉ là phương pháp phân loại, phản ánh sự vận động của tài sản mà còn là phương pháp kiểm tra những quan hệ cân đối cụ thể, tổng hợp - cân đối kế toán không chỉ cung cấp những thông tin tổng hợp mà còn là phương pháp kiểm tra kết quả cân đối tổng quát trong thông tin kế toán. . . Tuy vậy, thực trạng hoạt động tài chính và sự phản ánh nó trong kế toán vẫn có những sự cách biệt do giới hạn của trình độ, phương tiện thu thập thông tin và những giới hạn cho phép về nghề nghiệp trong chính sách kế toán với sự đa dạng, thường xuyên của lượng thông tin phát ra từ hoạt động tài chính. Do vậy, cần phải có kiểm tra ngoài kế toán mới có thể xác minh một cách chính xác thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Từ những lý luận trên, có thể cụ thể hoá đối tượng của kiểm soát kế toán trong hoạt động tài chính doanh nghiệp trên những vấn đề sau : + Thực trạng hoạt động tài chính doanh nghiệp. Đối với mỗi doanh nghiệp, thực trạng hoạt động tài chính bao gồm 2 phần rõ rệt: một phần được phản ánh trong các tài liệu kế toán và phần còn lại chưa được phản ánh trong tài liệu kế toán. Đối với phần thực trạng được phản ánh trong các tài liệu kế toán, việc kiểm soát đã có đầy đủ bằng chứng, đó là các chứng từ kế toán do doanh nghiệp lập ra trên cơ sở các nghiệp vụ phát sinh và các quy định của hệ thống Luật pháp về kế toán. Tuy vậy, đây chỉ là phần nổi của các hoạt động tài chính. Hoạt động kiểm soát còn quan tâm đến phần thực trạng hoạt động tài chính chưa được phản ánh trong tài liệu kế toán. Đó là khi các chứng từ kế toán không đủ độ tin cậy mà trên thực tế không phát sinh các nghiệp vụ kinh tế, hoặc các nghiệp vụ kinh tế chưa được phản ánh đầy đủ trên các chứng từ. +Kiểm soát về tài liệu kế toán. Thực trạng hoạt động tài chính là đối tượng chung của kiểm soát. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, khi các nghiệp vụ kế toán và tài chính phát triển đến trình độ cao và hệ thống Luật pháp ngày càng trở nên chặt chẽ thì yêu cầu chung đối với quản lý là tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh phải được phản ánh đầy đủ trên các tài liệu kế toán. Một mặt đây là sự lượng hoá các nghiệp vụ kinh tế, mặt khác tài liệu kế toán còn thể hiện tính pháp lý của hoạt động kinh tế. Đối với các tài liệu kế toán, việc kiểm soát phải thực hiện theo các nội dung sau: - Kiểm tra tính hiện thực của các thông tin kế toán. Tính hiện thực của thông tin trên các tài liệu kế toán thể hiện sự phản ánh một cách trung thực, đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Kiểm tra tính hợp pháp của các biểu mẫu, của trình tự lập và luân chuyển các tài liệu kế toán. - Kiểm tra tính hợp lý của các đói tượng kế toán phù hợp với nội dung của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. - Và cuối cùng, kiểm tra tính pháp lý trong việc thực hiện các quy định, chuẩn mực và chế độ tài chính của doanh nghiệp. Để tiến hành kiểm soát cần phải có những phương pháp cụ thể , đó là phương pháp kiểm soát trên chứng từ và phương pháp kiểm soát ngoài chứng từ. Các phương pháp kiểm soát trên chứng từ. Các phương pháp kiểm soát trên chứng từ dựa trên cơ sở các nguồn tài liệu kế toán sẵn có của doanh nghiệp. Các phương pháp này gồm có: - Phương pháp kiểm soát cân đối kế toán: là phương pháp dựa trên các cân đối kế toán và các cân đối khác để kiểm soát các quan hệ nội tại của các yếu tố cấu thành nên quan hệ cân đối đó. Đó là cân đối giữa nguồn lực và kết quả cân đối giữa số phát sinh nợ và số phát sinh của các tài khoản v.v... - Phương pháp đối chiếu trực tiếp: Là phương pháp so sánh (về mặt lượng) trị số của cùng một chỉ tiêu trên các chứng từ kế toán. Phương pháp đối chiếu trực tiếp thường sử dụng trong các trường hợp sau: + Đối chiếu giữa số cuối kỳ và số đầu năm hoặc giữa các kỳ về chỉ tiêu doanh thu, chi phí, thu nhập để phát hiện sự biến động bất thường trong các chỉ tiêu đó. + Đối chiếu trị số của các chỉ tiêu với trị số của các yếu tố cấu thành chỉ tiêu đó. Chẳng hạn đối chiếu số lượng, đơn giá với số tiền trong các chứng từ gốc, đối chiếu thu nhập, chi phí với kết quả kinh doanh. Tuy vậy, phương pháp này chỉ được sử dụng trong trường hợp các chỉ tiêu được hạch toán theo cùng một nội dung, cùng phương pháp, cùng đơn vị , trong cùng một khoảng thời gian điều kiện tương tự nhau. - Phương pháp đối chiếu logic: Là phương pháp xem xét mức biến động tương ứng về trị số của các chỉ tiêu có quan hệ kinh tế trực tiếp song nó có thể có mức biến động khác nhau theo những chiều hướng khác nhau (ví dụ giữa hàng tồn kho với tiền mặt, tiền gửi và các khoản phải thu). Các phương pháp kiểm soát ngoài chứng từ - Phương pháp kiểm kê: Là phương pháp kiểm tra tại chỗ các loại tài sản. Phương pháp này giúp việc kiểm soát phát hiện sự sai lệch giữa thực trạng tài sản và việc phản ánh trên các chứng từ kế toán. - Phương pháp thực nghiệm: Là phương pháp diễn lại hoặc nghiên cứu, phân tích từng yếu tố cấu thành của một tài sản, một quá trình đã có, đã diễn ra và cần xác minh lại. - Phương pháp điều tra: Đây là phương pháp xác định lại một tài liệu, hoặc một thực trạng để đi đến những quyết định hay kết luận trong quá trình kiểm soát. Tóm lại, kiểm tra, kiểm soát đối với doanh nghiệp chính là thực hiện việc kiểm tra kế toán trong hoạt động tài chính. Nó có vai trò rất quan trọng trong hệ thống quản lý của doanh nghiệp và của Nhà nước. Do có đối tượng, có phương pháp cụ thể, kiểm tra kế toán trong hoạt động tài chính đã đáp ứng được các nhu cầu của quản lý và là một chức năng quan trọng của quản lý. Trong phạm vi của đề tài, tác giả sẽ đi sâu vào một hoạt động kiểm tra kế toán trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp, đó là kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. 1.2/ Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp. 1.2.1 - Những vấn đề cơ bản về thuế GTGT. Thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất. Giá tính thuế đối với hàng hoá, dịch vụ là giá bán chưa có thuế GTGT (gồm cả khoản phụ thu và phí thu thêm mà cơ sở kinh doanh được hưởng). Có hai phương pháp tính thuế GTGT: + Phương pháp khấu trừ thuế. + Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. Trong luận văn này chúng ta chỉ đi vào xem xét phương pháp thứ nhất: phương pháp khấu trừ thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp. Phương pháp khấu trừ thuế được áp dụng cho các cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ các yêu cầu về mở và ghi sổ kế toán, chấp hành đầy đủ các quy định của chế độ hoá đơn, chứng từ bao gồm: các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, các Công ty cổ phần, hợp tác xã và các đơn vị tổ chức kinh doanh khác. Cơ sở kinh doanh đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế phải sử dụng hoá đơn GTGT (trừ trường hợp được dùng chứng từ ghi giá thanh toán đã có thuế GTGT). Trên hoá đơn GTGT phải ghi rõ: giá bán (chưa có thuế GTGT), các khoản phụ thu, thuế GTGT và tổng số tiền phải thanh toán. Thuế GTGT phải nộp là số chênh lệch giữa số thuế GTGT đầu ra với số thuế GTGT đầu vào. Công thức tính như sau: Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào Trong đó, thuế GTGT đầu ra là số thuế tính trên tổng giá bán (chưa bao gồm thuế GTGT) hàng hoá, dịch vụ bán ra trong kỳ. Thuế GTGT đầu ra được tính theo công thức sau: Thuế GTGT đầu ra = Giá tính thuế x Thuế suất Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế khi bán hàng hoá, dịch vụ phải tính và thu thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra. Khi lập hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán chưa bao gồm thuế GTGT, thuế GTGT, tổng giá thanh toán. Trường hợp hoá đơn chỉ ghi giá thanh toán, không ghi rõ giá chưa có thuế GTGT và thuế GTGT thì thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra phải tính trên giá thanh toán ghi trên hoá đơn, chứng từ. Thuế GTGT đầu vào là số thuế GTGT được ghi trên hoá đơn GTGT khi mua hàng hoá, dịch vụ hoặc trên chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu. Đối với quản lý Nhà nước, mục tiêu của việc áp dụng thuế GTGT là : - Góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu. Thuế GTGT khắc phục được việc thu trùng lắp của thuế doanh thu, thuế GTGT không thu trên vốn đầu tư, do đó khuyến khích sản xuất kinh doanh và đầu tư. Đối với hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp không phải nộp thuế GTGT, mặt khác lại được hoàn thuế GTGT đầu vào nên có điều kiện hạ giá bán, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. - Bảo đảm động viên số thu quan trọng và tương đối ổn định cho NSNN. - Tăng cường công tác hạch toán kế toán và khuyến khích việc mua bán hàng hoá có hoá đơn, chứng từ. - Phù hợp với thông lệ quốc tế và đẩy nhanh tiến trình hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới 1.2.2 - Vai trò của kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT. 1.2.2.1- Vai trò của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT Nguồn thu NSNN là nguồn tài chính nuôi sống sự hoạt động của bộ máy Nhà nước. Hơn nữa nguồn thu NSNN còn quyết định mức chi NSNN, do đó ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Từ đó có thể thấy rằng việc quản lý Nhà nước phải đặt việc quản lý nguồn thu NSNN, trong đó có nguồn thu thuế GTGT là một trong những mục tiêu quan trọng nhất. Mà như chúng ta đã biết, việc quản lý luôn luôn tồn tại cùng với việc kiểm tra, kiểm soát. Do vậy, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT đóng vai trò rất quan trọng trong quản lý Nhà nước về kinh tế. Có thể thấy vai trò của kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT trên những khía cạnh sau đây: Thứ nhất, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT có vai trò quan trọng trong việc động viên nguồn thu thường xuyên, ổn định cho NSNN vì nguồn thu từ thuế GTGT chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng nguồn thu NSNN ( Tù 20 đến 30%). ở mỗi quốc gia, trong chính sách vĩ mô luôn có một chiến lược phát triển nguồn thu Thuế GTGT. Tuy nhiên, khi các mục tiêu được đặt ra và mặc dù đã có một hệ thống pháp luật đầy đủ, hoàn chỉnh thì các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân vẫn có thể không thực hiện đóng góp nghĩa vụ tài chính cho Nhà nước. Bản thân Nhà nước cũng không chắc chắn các mục tiêu kinh tế vĩ mô có thực hiện được không. Do vậy, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT là vô cùng quan trọng. Nó giúp cho Nhà nước nhận diện đầy đủ các đối tượng nộp thuế và các khoản thu khác, đồng thời đem lại những thông tin về thuế suất cũng như mức đóng góp có phù hợp với thực trạng kinh doanh của các doanh nghiệp hay không, để từ đó Nhà nước có những điều chỉnh kịp thời nhằm động viên một cách đầy đủ các nguồn thu vào NSNN. Thứ hai, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT có vai trò quan trọng trong thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, giúp Nhà nước can thiệp có hiệu quả vào đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể thấy tác dụng điều tiết kinh tế vĩ mô được thể hiện rõ nét nhất qua chính sách thuế GTGT. Chính sách thuế GTGT có ảnh hưởng tới giá cả nguyên vật liệu đầu vào, từ đó tác động tới giá thành sản xuất. Chính sách thuế GTGT lại có thể ảnh hưởng đến giá bán đầu ra, quyết định đến sự chấp nhận của người tiêu dùng đối với hàng hoá. Tóm lại, thông qua thuế suất và đối tượng đánh thuế, đối tượng nộp thuế, Nhà nước có thể tác động một cách mạnh mẽ vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy vậy sự can thiệp của Nhà nước chỉ thực sự có hiệu quả khi thực hiện tốt kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT. Bởi ở góc độ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, các mục tiêu của Nhà nước và lợi ích của từng doanh nghiệp không phải bao giờ cũng thống nhất. Trong khi đó, Nhà nước với tư cách đại diện cho ý chí toàn bộ xã hội luôn phải được đặt lên vị trí hàng đầu. Thứ ba, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT tạo điều kiện hình thành thói quen tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp, các cá nhân trong hoạt động kinh tế - xã hội. Đối với các doanh nghiệp, chính sách thuế GTGT của Nhà nước luôn là mối quan tâm sâu sắc nhất. Nền kinh tế thị trường có thể phát huy mọi tiềm năng, giải phóng sức sản xuất nhưng cũng tạo ra những tiêu cực như trốn, lậu thuế,... Kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT nếu được thực hiện tốt sẽ buộc các doanh nghiệp, các cá nhân tuân thủ Luật thuế, từ đó tạo ra thói quen tự giác chấp hành pháp luật của nhà nước trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Cuối cùng, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trong các hoạt động kinh tế. Trên góc độ quản lý Nhà nước, tất cả các doanh nghiệp phải bình đẳng và có trách nhiệm tuân thủ đầy đủ việc nộp thuế và các nguồn thu khác cho NSNN. Tuy nhiên thực tế các doanh nghiệp có thể thực hiện rất khác nhau về nghĩa vụ đóng góp, có doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh, song cũng có doanh nghiệp không thực hiện, hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ nộp thuế. Điều đó dẫn tới sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Trên nguyên tắc, Nhà nước có vai trò là người trọng tài, không được thiên vị. Do vậy, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT khi được thực hiện đầy đủ tới mọi đối tượng nộp thuế sẽ tạo ra sự công bằng bảo đảm cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp. Tóm lại, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT là sự cần thiết khách quan trong quản lý Nhà nước. Thực hiện kiểm soát được các nguồn thu Thuế GTGT vào NSNN đồng nghĩa với việc góp phần thực hiện thành công chính sách tài chính, đồng thời Nhà nước nâng cao tính pháp chế, tính quyền lực của mình trong các hoạt động kinh tế. Mặc dù vậy, kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT khi không được thực hiện tốt có thể đưa đến những tác hại khôn lường, gây thiệt hại về kinh tế và tạo ra thói quen bỏ qua Luật pháp, lách Luật của các chủ thể trong nền kinh tế. 1.2.2.2 - Những mục tiêu cơ bản của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT: Thứ nhất, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp phải tập trung, huy động đầy đủ số thu cho NSNN. Đây là mục tiêu chủ yếu vì với mục tiêu này, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT mới thể hiện đầy đủ vai trò của nó trong việc quản lý nguồn thu NSNN từ các doanh nghiệp. Thứ hai, tăng cường ý thức nghiêm chỉnh chấp hành Luật thuế và nâng cao ý thức pháp luật nói chung cho các doanh nghiệp. Mục tiêu này có tính chất thường xuyên, lâu dài và tác động tới ý thức, tư tưởng của các doanh nghiệp. Để thực hiện được mục tiêu này thì Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải tuân thủ một cách nghiêm chỉnh các quy định của quá trình kiểm tra, kiểm soát. Thứ ba, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp phải phát huy tốt nhất vai trò của thuế GTGT trong nền kinh tế. Đây không chỉ là mục tiêu chung của chính sách thuế mà còn là mục tiêu cụ thể của Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp. Bởi vì chất lượng của Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT tốt thì vai trò thực sự của thuế GTGT mới được phát huy có hiệu quả trong nền kinh tế. Để đạt được các mục tiêu trên, yêu cầu đặt ra với Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp là: Thứ nhất, phải chấp hành và thực hiện đúng Luật Thuế GTGT và pháp luật có liên quan. Trong việc Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp, hệ thống Luật pháp vừa là căn cứ để thực hiện kiểm tra, đối chiếu, vừa là công cụ trong việc điều chỉnh, xử lý vi phạm của các Doanh nghiệp . Do vậy, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải bám sát vào các quy định pháp luật và phải thực hiện đúng theo các quy định đó. Thứ hai, phải tuân thủ quy trình quản lý thu thuế. Việc quản lý nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh nghiệp luôn được thực hiện theo quy trình cụ thể. Kiểm soát là một chức năng của quản lý và tham gia vào tất cả các giai đoạn của quản lý. Do đó kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT từ các doanh nghiệp phải tuân thủ theo quy trình quản lý thu thuế. Thứ ba, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải bao quát hết tất cả các nghiệp vụ phát sinh từ doanh nghiệp. Cụ thể là bao quát về số lượng các Doanh nghiệp, các loại hoạt động, số Doanh nghiệp trong diện điều tiết của thuế GTGT. Thứ tư, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải bảo đảm tính công bằng cho các Doanh nghiệp. Chúng ta đều hiểu rằng việc kiểm soát về thuế và các nguồn thu đối với Doanh nghiệp là yêu cầu bắt buộc của pháp luật. Tuy vậy, Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT không phải vì vậy mà kiểm soát chặt chẽ Doanh nghiệp này, buông lỏng với Doanh nghiệp khác làm mất tính công bằng của môi trường pháp luật. 1.2.3 - Nội dung của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp. Việc kiểm soát nguồn thu thuế GTGT thực chất là kiểm tra kế toán trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp dựa trên quy trình quản lý thu thuế. Do đó, trước hết chúng ta phải xuất phát từ quy trình quản lý thu thuế. 1.2.3.1. Quy trình quản lý nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh nghiệp. Quy trình quản lý thu thuế GTGT của Doanh nghiệp được tiến hành theo những bước cơ bản sau: * Đăng ký thuế và cấp mã số thuế Hàng năm trên cơ sở khai đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp, Cơ quan Thuế tiến hành cấp mã số thuế cho các doanh nghiệp. Việc quản lý đối tượn._.g nộp thuế được thực hiện trên cơ sở mạng máy vi tính thống nhất trong cả nước. Mỗi doanh nghiệp được gắn một mã số duy nhất. Tất cả các thông tin về doanh nghiệp như ngành nghề kinh doanh, tính chất và quy mô kinh doanh, địa chỉ, trụ sở... được lưu vào máy tính với file dữ liệu riêng biệt. Khi cần kiểm tra một doanh nghiệp nào đó thì chỉ cần mở file theo mã số của doanh nghiệp. Đây là phương thức hiện đại được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Nó cho phép Cơ quan Thuế tiết kiệm được thời gian, công sức trong công tác quản lý thuế mà vẫn bảo đảm tính chính xác ngay cả trong điều kiện số lượng các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh hàng năm tăng rất nhanh. Phương thức này còn giúp Cơ quan Thuế dễ dàng phát hiện ra những gian lận trong công tác thu nộp thuế, đặc biệt là thuế GTGT. * Tính thuế và kê khai thuế Hiện nay ở nước ta việc tính thuế và kê khai thuế do các doanh nghiệp tự giác thực hiện, có sự kiểm tra, thanh tra của Cơ quan Thuế. Trên cơ sở các quy định cụ thể của Luật thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành, doanh nghiệp tự áp thuế suất và tự tính doanh thu, thu nhập chịu thuế, từ đó lập ra tờ khai thuế phải nộp. Cơ quan Thuế quy định cụ thể các chỉ tiêu trong nội dung của tờ khai tương ứng với loại thuế. Đối với mỗi loại thuế cũng quy định cụ thể kỳ tính thuế, thời hạn lập tờ khai thuế. Đến thời hạn quy định, doanh nghiệp phải nộp tờ khai cho Cơ quan Thuế. * Xử lý miễn thuế, giảm thuế và tạm giảm thuế Đối với các doanh nghiệp thuộc đối tượng được miễn, giảm, tạm giảm thuế theo Luật thuế, Cơ quan Thuế thực hiện miễn, giảm, tạm giảm thuế cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp đã lập đủ hồ sơ và gửi cho Cơ quan Thuế. Quyết định miễn, giảm, tạm giảm thuế phải có đầy đủ nội dung như thuế suất được giảm, tạm giảm, thời hạn miễn, giảm, tạm giảm thuế * Tổ chức thu nộp tiền thuế Trên cơ sở tờ khai đã lập ra, doanh nghiệp phải tự giức nộp thuế vào Kho bạc Nhà nước hoặc ngân hàng. Đối với khâu này, Cơ quan Thuế phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với Kho bạc, ngân hàng trong đó đặt ra quy chế cho việc luân chuyển chứng từ, sau khi thu thuế giữa ba cơ quan này. Để tăng hiệu lực của việc nộp thuế, Cơ quan Thuế cũng đưa ra biện pháp khá mạnh mẽ về kinh tế và hành chính xử lý vi phạm trong trường hợp doanh nghiệp chậm nộp tiền thuế. Chẳng hạn, doanh nghiệp phải chịu phạt 0,1% trên số tiền thuế chậm nộp trong 1 ngày. * Hoàn thuế, quyết toán thuế Việc hoàn thuế được thực hiện với thuế GTGT, doanh nghiệp lập hồ sơ hoàn thuế theo quy định của Luật thuế gửi kèm với các hoá đơn chứng từ đến Cơ quan Thuế. Cơ quan Thuế sẽ kiểm tra hồ sơ hoàn thuế và thực hiện hoàn thuế cho doanh nghiệp. Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi kết thúc năm dương lịch, doanh nghiệp phải lập và gửi quyết toán thuế cho Cơ quan Thuế. Quyết toán thuế phải có đầy đủ nội dung về số thuế phải nộp, số thuế được hoàn trả, số thuế đã nộp, số thuế được khấu trừ trong kỳ tới v.v.... Cơ quan Thuế kiểm tra tính chính xác, đầy đủ của quyết toán thuế và quyết định số thuế được khấu trừ, số thuế còn phải nộp cho doanh nghiệp. * Thanh tra thuế Thanh tra thuế là một trong những nội dung quan trọng của quá trình kiểm soát nguồn thu thuế. Thanh tra thuế được tiến hành sau những bước cơ bản trong quá trình thu thuế từ doanh nghiệp như đã trình bày ở trên. Thực chất thanh tra thuế là kiểm tra việc nộp thuế của doanh nghiệp và kèm theo việc xử lý vi phạm. Mục đích của thanh tra thuế là: - Phát hiện để từ đó có biện pháp xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm Luật thuế như khai man thuế, nợ đọng thuế, chiếm dụng tiền thuế, hạn chế mức thấp nhất tình trạng thất thu thuế cho Nhà nước. - Bảo đảm nâng cao ý thức chấp hành Luật thuế cho các doanh nghiệp và cho người thi hành công vụ trong ngành Thuế. - Phát hiện những nội dung không phù hợp của Luật thuế với thực tiễn đời sống kinh tế, xã hội của đất nước, các vấn đề nghiệp vụ trong công tác thu thuế, những điều không hợp lý của công tác tổ chức hệ thống bộ máy kiểm tra thuế, đề từ đó kiến nghị các cơ quan chức năng sửa đổi, bổ sung kịp thời nhằm hoàn thiện hệ thống kiểm soát thuế một cách chặt chẽ. Nội dung của thanh tra thuế: Công tác thanh tra thuế đối với doanh nghiệp tập trung vào những vấn đề cơ bản sau: - Thanh tra việc chấp hành những quy định về đăng ký, kê khai nộp thuế mà cụ thể là: + Kê khai về địa điểm, tính chất hành nghề, mặt hàng kinh doanh. + Kê khai tình hình vốn và tài sản, doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. + Kê khai việc sử dụng hình thức sổ sách kế toán, phương pháp hạch toán. + Kê khai về tài khoản giao dịch. - Thanh tra việc chấp hành thống kê - kế toán, hoá đơn, chứng từ theo pháp luật hiện hành. - Thanh tra việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Với những quốc gia thực hiện quy trình quản lý thu thuế trên cơ sở tự nguyện, tự giác của các doanh nghiệp thì thanh tra thuế đóng vai trò vô cùng quan trọng trong kiểm soát nguồn thu từ thuế. Có thể nói rằng công tác thanh tra thuế là một hoạt động rất đặc trưng của công tác kiểm soát nguồn thu ngân sách Nhà nước từ các doanh nghiệp. 1.2.3.2 Tổ chức bộ máy kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ doanh nghiệp Gắn liền với quy trình quản lý thu thuế là việc tổ chức một bộ máy chuyên trách thực hiện kiểm soát nguồn thu thuế GTGT mà chủ yếu là bộ máy ngành Thuế. Bên cạnh đó, do việc thu thuế được thực hiện trên nhiều mặt hàng khác nhau, nhiều đối tượng khác nhau nên có liên quan đến nhiều bộ, ngành khác nhau. Đó là các cơ quan sau: - Bộ chủ quản của doanh nghiệp. - Cơ quan Hải quan (liên quan đến việc thu thuế đối với hàng hoá nhập khẩu) - Kho bạc và ngân hàng: là những cơ quan trực tiếp thu nộp tiền thuế của doanh nghiệp. Để kiểm soát các nguồn thu thuế GTGT một cách chặt chẽ, các cơ quan trên phải có sự phối hợp đồng bộ với ngành thuế theo chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của mình, tránh sự chồng chéo, gây khó khăn cho các doanh nghiệp. Riêng đối với bộ máy ngành thuế phải được tổ chức gọn nhẹ phải bao quát hết các đối tượng nộp thuế cũng như các nguồn thu khác nhau từ doanh nghiệp. Để thực hiện được yêu cầu này, Nhà nước cần phải có một hệ thống pháp luật về thuế có hiệu lực, dễ thực hiện và Nhà nước cần đầu tư cơ sở vật chất hiện đại, nhất là công nghệ thông tin. Hiện nay ở nước ta, bộ máy quản lý thu thuế được tổ chức theo mô hình sau: - Bộ phận quản lý thuế đối với các doanh nghiệp quốc doanh. - Bộ phận quản lý thuế đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. - Bộ phận quản lý thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu nước ngoài. - Bộ phận tính thuế và thông báo thuế. 1.2.3.3- Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT thông qua kiểm tra thực trạng hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT quan tâm đến doanh thu bán hàng (liên quan đến thuế đầu ra) và chi phí mua hàng (liên quan đến thuế đầu vào). Đối với doanh thu và chi phí, phải kiểm soát cả thực trạng hoạt động tài chính và kiểm soát tài liêụ kế toán của doanh nghiệp. Đối với thực trạng hoạt động tài chính, việc kiểm soát tập trung vào việc phản ánh các giao dịch mua, bán trên các tài liệu kế toán , chủ yếu là các hoá đơn mua, bán hàng hoá, dịch vụ. Quan tâm một cách đầy dủ đến thực trạng hoạt động tài chính của các doanh nghiệp, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT không những phát hiện các hiện tượng trốn thuế (không phản ánh vào tài liệu kế toán), những nhầm lẫn, những sai phạm không cố ý của Doanh nghiệp trong việc phản ánh doanh thu, lãi, lỗ và số thuế phải nộp, để thực hiện thu đúng, thu đủ mà còn cung cấp thông tin cho việc quản lý nguồn thu ngân sách nhà nước để từ đó Nhà nước có chính sách thực tế hơn trong việc nuôi dưỡng, phát triển các nguồn thu, tránh tình trạng các doanh nghiệp phải gánh chịu những khoản thuế nặng nề ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong việc kiểm soát tài liệu kế toán, các tài liệu cần thiết đối với kiểm soát nguồn thu Thuế GTGT là: - Các tài liệu hoạch toán ban đầu, hay còn gọi là chứng từ gốc. Đó là các hoá đơn mua bán hàng hoá, dịch vụ. - Các bảng kê, bảng tổng hợp chứng từ kế toán. - Các sổ tổng hợp và chi tiết kế toán. - Các bảng cân đối, tổng hợp kế toán. - Các biên bản xử lý, thanh lý tài sản, vốn, vật tư, hàng hoá v.v... Trong việc kiểm soát thu thuế đối với doanh nghiệp, các tài liệu kế toán đóng vai trò rất quan trọng. Đối với thuế GTGT, các chứng từ hạch toán ban đầu là quan trọng nhất vì nó chỉ ra số thuế doanh nghiệp phải nộp cũng như số thuế được khấu trừ. Do vậy, nội dung việc kiểm tra tập trung vào tính hiện thực của tài liệu kế toán. Trong khi đó, kiểm tra tính hợp pháp của các biểu mẫu, trình tự lập và luân chuyển chứng từ, kiểm tra tính hợp lý của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh sẽ cho biết chất lượng của công tác kế toán và việc chấp hành các quy định, thể lệ của pháp luật về kế toán tài chính. Việc vi phạm hai nội dung này sẽ gây khó khăn cho công tác kiểm tra, kiểm soát việc tính thuế, kê khai của doanh nghiệp. Các phương pháp kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. Với những đối tượng kiểm soát khá rộng, việc kiểm soát nguồn thu thuế GTGT có nhiều phương pháp khác nhau, trong đó sử dụng cả hai phương pháp là phương pháp kiểm soát trên chứng từ và phương pháp kiểm soát ngoài chứng từ. Đối với các phương pháp kiểm soát chứng từ, phương pháp cân đối rất hay được sử dụng trong kiểm tra tính thuế và kê khai thuế của các doanh nghiệp khi kiểm tra doanh thu, thu nhập và tính toán kết quả kinh doanh. Phương pháp đối chiếu trực tiếp được sử dụng tương đối phổ biến trong kiểm tra chứng từ để tính thuế, để đối chiếu giữa số cuối kỳ và số đầu năm hoặc giữa các kỳ về các chỉ tiêu doanh thu, chi phí, thuế phải nộp để phát hiện sự biến động bất thường trong các chỉ tiêu đó. Phương pháp đối chiếu logic cũng được sử dụng để phát hiện những mâu thuẫn trong việc tính thuế, kê khai thuế của doanh nghiệp. Bên cạnh phương pháp kiểm soát chứng từ, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT còn sử dụng các phương pháp kiểm soát ngoài chứng từ. Phương pháp kiểm kê được sử dụng để phát hiện các chứng từ khống, hoặc doanh thu bán hàng chưa lập chứng từ, hoá đơn đầy đủ. Do vậy, nó được sử dụng trong việc kiểm soát kê khai thuế GTGT của doanh nghiệp. Ngoài ra, phương pháp điều tra cũng được sử dụng khi có những biểu hiện bất thường của các chỉ tiêu kê khai thuế của doanh nghiệp, hoặc khi có các đơn từ tố cáo. Trong kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp, chúng ta có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau và trong quá trình kiểm tra, kiểm soát cần vận dụng kết hợp giữa các phương pháp một cách linh hoạt. 1.3/ Những nhân tố ảnh hưởng đến kiểm soát thuế GTGT từ các doanh nghiệp. Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp là một hoạt động quản lý Nhà nước về kinh tế. Do vậy, nó mang ý nghĩa áp đặt tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị mà đại diện là nhà nước. Ngược lại, doanh nghiệp lại có những mục tiêu hoạt động riêng, đó là lợi nhuận, sự an toàn để tồn tại và phát triển. Giải quyết mâu thuẫn giữa những mục tiêu khác nhau đó là một nội dung vô cùng quan trọng của kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. Để đạt được mục tiêu đã đặt ra, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải được thực hiện trong những điều kiện nhất định. 1.3.1 - Tác động của ý thức xã hội đối với việc chấp hành Luật pháp Nhà nước. ý thức xã hội là một điều kiện rất quan trọng đối với việc thực thi pháp luật nói chung và với kiểm soát nguồn thu ngân sách nhà nước nói riêng. Trong một xã hội có nhiều hiện tượng tiêu cực, pháp luật không có hiệu lực thì việc chấp hành các Luật thuế của Nhà nước không thể đầy đủ và nghiêm túc. Ngược lại, khi công chúng tự giác chấp hành pháp luật thì các doanh nghiệp sẽ có ý thức hơn khi đóng góp thuế và các nghĩa vụ tài chính khác cho Nhà nước. ý thức xã hội có tác động mạnh nhất đến tư tưởng cán bộ công vụ thực hiện kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp, đó chính là yếu tố con người. Trong đó kiểm soát thu thuế là vấn đề rất nhạy cảm và không thể có vấn đề tuyệt đối hoá vấn đề con người trong công vụ ngay cả ở những nước phát triển. Để khắc phục hiện tượng này, chỉ có tính chặt chẽ của hệ thống Luật pháp, một quy trình quản lý thu thuế hiện đại và sự tiến bộ trong công nghệ thông tin mới có thể giải quyết được. 1.3.2 - Tác động của hệ thống Luật pháp Trong kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp, tính chặt chẽ, hợp lý của hệ thống Luật pháp có vai trò vô cùng quan trọng. Một hệ thống Luật lý tưởng là một hệ thống Luật bao quát mọi vấn đề, mọi quan hệ kinh tế phát sinh trong nền kinh tế, thực hiện các quy Luật kinh tế và bảo đảm để thực hiện. Nếu không đáp ứng các yêu cầu trên sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp và cho cả người thực hiện công vụ. Chính vì vậy, không những thực thi Luật pháp mà kiểm soát nguồn thu thuế GTGT còn phải cung cấp thông tin về thực trạng các doanh nghiệp để Nhà nước hoàn thiện hơn nữa hệ thống Luật thuế. 1.3.3 - ảnh hưởng của hệ thống kiểm toán nội bộ Theo khái niệm về kiểm toán nội bộ trong cuốn Kiểm toán nội bộ hiện đại của V. Brink và H.Witt thì : Kiểm toán nội bộ là một chức năng thẩm định độc lập được thiết lập bên trong một tổ chức để xem xét và đánh giá các hoạt động của tổ chức đó, với tư cách là một sự trợ giúp đối với tổ chức đó. Trong doanh nghiệp, bộ phận kiểm toán nội bộ chịu trách nhiệm xem xét lại một cách định kỳ các biện pháp mà Ban giám đốc và các cơ quan quản lý Nhà nước áp dụng để quản lý và kiểm soát doanh nghiệp. Các mục tiêu chính của kiểm toán nội bộ trong khuôn khổ xem xét định kỳ là kiểm tra các thủ tục có đủ độ an toàn và các thông tin có trung thực, tin cậy hay không, các nghiệp vụ có hợp thức, tổ chức hoạt động có hiệu quả, cơ cấu có rõ ràng và thích hợp với hoạt động kinh doanh, với chế độ kế toán hay không. Kiểm toán nội bộ có ba chức năng: kiểm tra, xác nhận và đánh giá. Phạm vi kiểm tra, xác nhận và đánh giá của kiểm toán nội bộ bao gồm: - Độ tin cậy của thông tin tài chính kế toán do kế toán tổng hợp, xử lý và trình bày. - Tính tuân thủ Luật pháp và các quy chế, các quy định của Nhà nước, các quy định của bản thân doanh nghiệp. - Tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát trong doanh nghiệp. - Tính hiệu quả của các hoạt động kinh tế và việc sử dụng các nguồn lực, lựa chọn các phương án, các quyết định kinh tế. Với các chức năng trên, hệ thống kiểm toán nội bộ là đầu mối thu thập, xử lý, phân tích, tổng hợp tất cả các thông tin, nhất là các bảng công bố tài chính của doanh nghiệp. Do vậy, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ doanh nghiệp cần phải thông qua kiểm toán nội bộ để xác định một cách đầy đủ các thông tin phục vụ cho việc tính thuế, kê khai thuế của doanh nghiệp. Hơn nữa kiểm toán nội bộ cũng giúp cho việc kiểm soát thuế được nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm thời gian hơn. Tuy vậy, những thông tin từ hệ thống kiểm toán nội bộ là những thông tin thứ cấp. Nghĩa là đã được xử lý trước khi cung cấp cho cơ quan quản lý Nhà nước. 1.3.4 - Cơ sở vật chất kỹ thuật Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, các giao dịch kinh tế là vô cùng lớn. Về nguyên tắc, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải kiểm soát được tất cả các giao dịch này. Vì vậy một yêu cầu vô cùng quan trọng là cơ sở vật chất kỹ thuật, nhất là công nghệ thu thập và xử lý thông tin phải đủ mạnh để trang bị cho kiểm soát nguồn thu ngân sách nhà nước. Đặc biệt, cần kết nối thông tin giữa các cơ quan quản lý Nhà nước, Kho bạc và hệ thống ngân hàng với bộ máy ngành Thuế. Với hệ thống thông tin này, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp sẽ được thực hiện nhanh chóng, bảo đảm chống gian lận trong việc nộp thuế và các nguồn thu khác từ doanh nghiệp. Tóm lại, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp là một nhu cầu tất yếu của quản lý nhà nước về kinh tế. Việc kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp phải tuân thủ chặt chẽ quy trình kiểm tra, kiểm soát nói chung và quy trình quản lí thu thuế nói riêng, từ kiểm soát việc đăng ký, kê khai cho đến việc nộp tiền thuế vào ngân sách Nhà nước. Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp có đối tượng riêng, mục đích, yêu cầu riêng và có những phương pháp riêng. Song để thực hiện có hiệu quả kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp, Nhà nước cần phải tăng cường trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho Ngành thuế. Mặt khác, những điều kiện về kinh tế - xã hội có những tác động nhiều chiều, hoặc tích cực, hoặc tiêu cực đến kiểm soát nguồn thu ngân sách nhà nước từ các doanh nghiệp. Do vậy, hệ thống Luật pháp của Nhà nước cần phải thực sự chặt chẽ và có hiệu lực. Chương II Thực trạng kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà Nội 2.1/ Quá trình triển khai Luật Thuế GTGT với kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập với khu vực và quốc tế. Để có chính sách thuế phù hợp với thông lệ quốc tế và cơ chế thị trường, Việt Nam đã tiến hành cải cách hệ thống và chính sách thuế. Ngày 10/05/1997, Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 11 đã thông qua 2 Luật thuế mới: Luật Thuế GTGT và Luật Thuế TNDN và được áp dụng từ ngày 01/01/1999. Qua 2 năm thực hiện Luật thuế mới, Luật Thuế GTGT đã tỏ ra có hiệu quả trong việc kích thích sản xuất kinh doanh, góp phần phát triển sản xuất, giúp cho việc ổn định và tăng trưởng nguồn thu vào NSNN. Tuy nhiên, qua thực hiện, có nhiều điểm trong Luật Thuế còn bất cập, không phù hợp với tình hình thực tế. Đã có quá nhiều văn bản sửa đổi, bổ sung, điều này đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp và cho các nhà quản lý. Vì vậy, ngày 29/12/2000, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 79/2000/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thực hiện Luật thuế GTGT, thực hiện từ 1/1/2001. Nghị định này ban hành thay thế các nghị định hướng dẫn về thuế GTGT của Chính phủ đã ban hành trước đây. Bộ Tài Chính đã ban hành Thông tư số 122/2000/ TT - BTC ngày 29/12/2000 hướng dẫn thi hành Nghị định này. Thông tư này thay thế các thông tư hướng dẫn về thuế GTGT của Bộ Tài chính đã ban hành trước đây. Để thực hiện tốt luật thuế mới trên địa bàn Thành phố Hà Nội, UBND Thành phố Hà Nội đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện các Luật thuế mới bao gồm lãnh đạo các sở, ban, ngành chức năng nhằm tập trung chỉ đạo tổ chức thực hiện từ ngày 1/1/1999. Công tác chuẩn bị được thực hiện tương đối tốt. Cục Thuế Hà Nội đã mở nhiều lớp tập huấn quy trình quản lý thuế, chế độ kế toán và việc sử dụng Hoá đơn theo Luật thuế GTGT. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng đã mua Hoá đơn mới để chuẩn bị sử dụng vào ngày 1/1/1999. Đến 31/12/1998 đã có 75% số doanh nghiệp mua Hoá đơn GTGT, số còn lại tiếp tục mua vào quý 1/1999. Bên cạnh việc mở các lớp tập huấn, Cục Thuế Hà Nội đã phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng để tuyên truyền phổ biến các Luật thuế mới, đặc biệt là Luật thuế GTGT và việc sử dụng Hoá đơn GTGT cho các đối tượng nộp thuế. Cục Thuế Hà Nội cũng đã phối hợp với Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội thực hiện chuyên mục thuế để tuyên truyền những nội dung cơ bản của Luật Thuế GTGT, giải đáp các khó khăn, vướng mắc trong việc sử dụng Hoá đơn, chứng từ mới và kê khai thuế, nộp thuế. Nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc triển khai Luật Thuế GTGT và vai trò của mình, Cục Thuế Hà nội đã thực hiện kiện toàn bộ máy tổ chức, xác định rõ các chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng phòng, ban. Cơ cấu tổ chức bộ máy Cục Thuế Hà Nội từ khi thực hiện Luật Thuế GTGT như sau: Phòng nghiệp vụ Phòng ấn chỉ Phòng Trước bạ Phòng máy tính Phòng Tài vụ Phòng Hành chính Phòng Thanh tra, xử lý tố tụng Các phòng Quản lý thu quốc doanh Các phòng Quản lý thu Ngoài quốc doanh Phòng Kế hoạch Các Cục Phó Phòng Tổ chức Cán bộ Cục trưởng Cục Thuế T.P. Hà Nội Sơ đồ 1 : Cơ cấu tổ chức bộ máy Cục Thuế Hà Nội sau khi triển khai thực hiện Luật Thuế GTGT. - Các Phòng Quản lý thu: bao gồm các Phòng quản lý thu các doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Doanh nghiệp Ngoài quốc doanh...Các phòng này có nhiệm vụ : + Quản lý đối tượng nộp thuế: theo dõi tình hình biến động về đối tượng nộp thuế trên lĩnh vực, địa bàn quản lý như: nắm số doanh nghiệp phát sinh, doanh nghiệp phá sản, giải thể, sáp nhập, liên doanh, liên kết... Phân tích tình hình thu nộp, tham gia việc lập dự toán thu, khai thác nguồn thu trong lĩnh vực được giao quản lý, tham mưu, đề xuất với lãnh đạo Cục các biện pháp quản lý thuế. + Hướng dẫn đối tượng nộp thuế các thủ tục kê khai đăng ký thuế, kê khai thuế, lập hồ sơ miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế và quyết toán thuế... giải đáp các thắc mắc của đối tượng nộp thuế liên quan đến việc tính thuế, thu nộp thuế, lập và tổ chức lưu giữ hồ sơ các doanh nghiệp. + Thực hiện việc kiểm tra các chỉ tiêu kê khai trên các tờ khai đăng ký kinh doanh, kê khai nộp thuế, hồ sơ đề nghị miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế và quyết toán thuế, liên hệ với đối tượng nộp thuế để chỉnh sửa việc kê khai theo đúng quy định. + Đề xuất và tham mưu cho lãnh đạo Cục giải quyết các trường hợp miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế; lập các thủ tục xét miễn, giảm, hoàn thuế theo quy định; kiểm tra hồ sơ quyết toán thuế, xác định số thuế quyết toán từng doanh nghiệp; cung cấp các thông tin trên cho bộ phận tính thuế. + Thực hiện việc ấn định thuế cho các đối tượng nộp thuế không nộp hoặc chậm nộp tờ khai thuế; xác định các đối tượng nộp thuế cần phát hành lệnh thu hoặc phạt hành chính thuế. + Theo dõi tình hình nộp thuế của các doanh nghiệp và đôn đốc, nhắc nhở các doanh nghiệp nộp đúng hạn... - Phòng Kế hoạch - Kế toán - Thống kê và Máy tính có nhiệm vụ: + Căn cứ số liệu tình hình phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương, phân tích số liệu thống kê thuế để lập dự toán thu hàng năm của đơn vị; phân bổ kế hoạch và theo dõi tiến độ thực hiện kế hoạch. + Thực hiện nhập tờ khai đăng ký thuế và quản lý hệ thống cấp mã số đối tượng nộp thuế, in giấy chứng nhận đăng ký thuế. + Xử lý tính thuế, tính nợ, tính phạt nộp chậm, nhận giấy nộp tiền từ Kho bạc, chấm nợ; nhận các kết quả xét miễn, giảm, hoàn thuế, quyết toán thuế và các kết quả thanh tra, kiểm tra từ các Phòng Quản lý thu và Phòng Thanh tra - xử lý tố tụng để tính điều chỉnh số thuế phải nộp của từng đối tượng nộp thuế. + Thực hiện công tác kế toán, thống kê thuế theo chế độ quy định, kiểm tra đối chiếu số thu với Kho bạc. - Phòng Thanh tra - Xử lý tố tụng: + Kiểm tra phát hiện các đối tượng có hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhưng không kê khai đăng ký nộp thuế để đưa vào diện quản lý thu thuế. + Lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra trình lãnh đạo Cục duyệt, tổ chức lực lượng kiểm tra và tiến hành kiểm tra các đối tượng cần kiểm tra về hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, kiểm tra sổ sách kế toán, Hoá đơn chứng từ mua bán hàng hoá, phát hiện kịp thời các hành vi khai man, trốn lậu thuế, đề xuất các hình thức xử lý theo pháp luật. + Hỗ trợ các Phòng Quản lý thu để quản lý, đôn đốc thu nộp và thực hiện các biện pháp cưỡng chế thu đối với những đối tượng cố tình vi phạm Luật thuế. +Kiểm tra việc chấp hành các quy định về quản lý thu và tính thuế của các bộ phận trong Cơ quan Thuế để kịp thời chấn chỉnh những sai sót. Để chuẩn bị cho việc thực hiện Luật Thuế GTGT, Tổng cục Thuế đã ban hành Quyết định số 1368/TCT-QĐ-TCCB ngày 16/12/1998 về quy trình quản lý thu thuế. Các bộ phận trên sẽ phối hợp đồng bộ để kiểm soát thu thuế theo 5 Quy trình cụ thể là: Quy trình đăng ký thuế và cấp mã số thuế. Quy trình xử lý tờ khai, chứng từ nộp thuế, Quy trình xử lý hoàn thuế, Quy trình xử lý miễn thuế, giảm thuế, tạm giảm thuế, Quy trình xử lý quyết toán thuế. Các quy trình trên có thể tóm tắt bằng sơ đồ 2: Sơ đồ số 2 : Quy trình kiểm soát nguồn thu thuế. Kho bạc Ngân hàng Doanh nghiệp (3) (4) (3) (4) (5) (1)+(2) (2) Phòng Hành chính (5) (1)+(2) Các Phòng quản lý thu thuế Phòng Thanh tra, xử lý tố tụng (2) (3) Phòng nghiệp vụ (4) (4) (1)+(2) - Phòng Kế hoạch-Kế toán - Thống kê - Phòng máy tính (2)+(4) Đăng ký, cấp mã số thuế, doanh nghiệp nộp tờ khai Xử lý tờ khai, chứng từ nộp thuế, thông báo thuế, miễn thuế, giảm thuế, tạm giảm thuế Doanh nghiệp nộp thuế Hoàn thuế. Quyết toán thuế. Quy trình quản lý thu thuế này hoàn toàn trên cơ sở các doanh nghiệp tự đăng ký, kê khai và nộp thuế vào Kho bạc. - Đăng ký và cấp mã số thuế : Doanh nghiệp nộp hồ sơ bao gồm quyết định thành lập, đăng ký kinh doanh, trong đó kê khai rõ tên, địa chỉ kinh doanh, lọai hình doanh nghiệp, các hoạt động kinh doanh, các mặt hàng kinh doanh, tài khoản giao dịch ở ngân hàng... cho Phòng Hành chính. Hồ sơ này sẽ được Các phòng Quản lý thu thuế kiểm tra, xác minh. Sau khi kiểm tra hồ sơ đăng ký mã số thuế, Phòng quản lý thu sẽ chuyển hồ sơ cho bộ phận Máy tính để cấp mã số thuế cho doanh nghiệp. - Kê khai thuế, nộp thuế : Hàng tháng, doanh nghiệp phải kê khai doanh thu, thuế GTGT đầu ra, giá trị hàng hoá, dịch vụ mua vào, thuế GTGT đầu vào, tự tính thuế phải nộp, gửi tờ khai cho Cục Thuế qua Phòng Hành chính. Các phòng Quản lý thu sẽ kiểm tra tờ khai và chuyển cho Phòng Máy tính để hạch toán số thuế phải nộp của doanh nghiệp và ra thông báo thuế gửi cho Doanh nghiệp qua Phòng Hành chính. Trong quá trình xử lý tờ khai, nếu có dấu hiệu nghi vấn, phòng Quản lý thu sẽ phối hợp với Phòng Thanh tra - Xử lý tố tụng để xác minh chính xác số thuế phải nộp. Trên cơ sở Thông báo Thuế, doanh nghiệp tự giác lập giấy nộp tiền vào NSNN và chuyển tiền đến Kho bạc Nhà nước để nộp thuế. - Miễn thuế, giảm thuế, tạm giảm thuế : Trên cơ sở các quy định của Luật Thuế GTGT và các Luật có liên quan, doanh nghiệp có thể được miễn thuế, giảm thuế, tạm giảm thuế. Trong trường hợp đó, doanh nghiệp phải gửi đầy đủ hồ sơ đến Cục Thuế để Cục Thuế xem xét, quyết định. Đối với các doanh nghiệp đã gửi hồ sơ đề nghị miễn thuế, giảm thuế, tạm giảm thuế, Phòng Quản lý thu phối hợp với Phòng Thanh tra - Xử lý tố tụng để xác minh và trình Lãnh đạo Cục Thuế quyết định. - Hoàn thuế : Các doanh nghiệp sẽ được hoàn thuế nếu như số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế GTGT đầu ra. Nếu doanh nghiệp có những dấu hiệu vi phạm trong quá trình hoàn thuế, Phòng Quản lý thu phải phối hợp với phòng Thanh tra - Xử lý tố tụng để xác minh lại. Trong trường hợp doanh nghiệp được hoàn thuế, Phòng Quản lý thu thuế sẽ phối hợp với Phòng Nghiệp vụ để trình Lãnh đạo Cục thuế Quyết định hoàn thuế cho doanh nghiệp. Quyết định hoàn thuế được gửi cho doanh nghiệp và Kho bạc để chuyển trả lại tiền thuế cho doanh nghiệp. - Quyết toán thuế: Hàng năm, căn cứ vào quyết toán thuế GTGT và báo cáo tài chính của Doanh nghiệp, cục Thuế Hà nội tiến hành kiểm tra việc chấp hành luật thuế tại đơn vị. Việc quyết toán thuế hàng năm chính là một hoạt động kiểm soát của Nhà nước thông qua cơ quan quản lí là Cục thuế nhằm kiểm soát chặt chẽ các nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, nhất là nguồn thu từ thuế GTGT. 2.2/ thực trạng công tác kiểm soát nguồn thu thuế gtgt từ các doanh nghiệp theo quy trình quản lý thuế. 2.2.1 - Tác động của Quy trình quản lý thuế đối với Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. Sau 2 năm triển khai thực hiện Luật Thuế GTGT, thực tế đã chứng minh Luật Thuế GTGT đã đi vào thực tiễn cuộc sống. Công chúng và các doanh nghiệp đã tạo được thói quen tính toán hiệu quả kinh tế cũng như sử dụng Hoá đơn, chứng từ trên cơ sở của Thuế GTGT. Đồng thời, thực tế cũng đã chứng minh: Thuế GTGT là loại thuế có tính khoa học, chuyên môn hoá cao, có tác dụng kích thích mạnh mẽ sản xuất kinh doanh, đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi đối với công tác quản lý Nhà nước về kinh tế. Có thể thấy tác dụng của Luật Thuế GTGT trên một số khía cạnh sau: Thứ nhất, thuế GTGT tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá phát sinh trong quá trình luân chyển từ sản xuất đến tiêu dùng nên đã loại bỏ triệt để tính trùng lắp, thuế trùng lên thuế của thuế doanh thu trước đây. Điều đó thể hiện tính khoa học của thuế GTGT và tạo điều kiện thuận lợi để thuế GTGT được các doanh nghiệp chấp nhận, ủng hộ. Thứ hai, Luật Thuế GTGT tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu. Đối với hoạt động nhập khẩu, thuế GTGT đánh vào hàng nhập khẩu (điều mà thuế doanh thu không thực hiện được) đã tạo ra ba khả năng quan trọng: (1) góp phần khuyến khích và bảo hộ hợp lý sản xuất nội địa; (2) cho phép có thể giảm thuế nhập khẩu, thúc đẩy tiến trình Việt nam hội nhập kinh tế với Thế giới mà trước mắt là khối ASEAN; (3) góp phần chuyển dịch cơ cấu thuế theo hướng nội địa hoá. Đối với hoạt động xuất khẩu, Luật Thuế GTGT đã khuyến khích mạnh mẽ hàng xuất khẩu. Với thuế suất 0% cho hàng hoá xuất khẩu, toàn bộ thuế GTGT đầu vào được hoàn trả cho doanh nghịêp xuất khẩu. Thực chất đây là một biện pháp trợ giá cho các Doanh nghiệp xuất khẩu nên đã giúp các doanh nghiệp tập trung được nguồn hàng trong nước để xuất khẩu và có lợi thế do giảm được giá vốn hàng xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đó là một động lực mạnh mẽ đối với hoạt động xuất khẩu mà không một sắc thuế nào có thể tạo ra. Vì thế năm 1999, năm đầu tiên thực hiện Luật Thuế GTGT, khoảng 1.720 tỷ đồng thuế GTGT đã được hoàn trả cho các đơn vị xuất khẩu, góp phần quan trọng thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu tăng 23,8%, gấp gần 4 lần chỉ tiêu do Quốc hội đề ra. Thứ ba, Luật Thuế GTGT khuyến khích mạnh mẽ việc đầu tư tài sản cố định, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành sản xuất. Theo Luật Thuế GTGT, thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được, cần nhập khẩu thì không thuộc diện chịu thuế GTGT. Ngoài ra, toàn bộ thuế GTGT của công trình xây dựng được khấu trừ hoặc hoàn trả mà không cấu thành nguyên giá công trình. Đồng thời, kể từ ngày 1/9/1999, hoạt động xây dựng và lắp đặt được giảm thuế suất từ 10% xuống 5%. Tất cả những điều đó đã tạo điều kiện giảm giá thành xây dựng, lắp đặt, từ đó làm giảm chi phí khấu hao tài sản cố định trong giá thành sản phẩm. Thứ tư, Luật Thuế GTGT tạo điều kiện thuận lợi cho việc phản ảnh trung thực tình trạng sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp một cách khách quan, công bằng. Cơ chế vận hành của thuế GTGT là lấy thuế đầu ra trừ đi số thuế đầu vào trong cùng kỳ. Thuế đầu ra phản ánh doanh thu, thuế đầu vào phản ánh giá trị tài sản, vật tư, dịch vụ mua tron._.anh thu mua, bán hàng hoá và số thuế GTGT phải nộp. + Kết luận về tính kịp thời của việc nộp thuế vào NSNN qua Kho bạc của doanh nghiệp. + Xác định số thuế GTGT chính xác được khấu trừ tiếp vào kỳ sau, số thuế GTGT phải nộp, số thuế GTGT được hoàn lại của doanh nghiệp sau khi quyết toán thuế. Những thông tin qua phân tích, tổng hợp trên kết luận của thanh tra sẽ làm cơ sở cho việc xử lý vi phạm và bổ sung tiếp vào các thông tin cần thu thập để tiếp tục phát hiện dấu hiệu vi phạm ở các doanh nghiệp khác. * Xử lý vi phạm: Xử lý vi phạm là đặc trưng của hoạt động thanh tra, làm cho việc thanh tra khác với kiểm tra thông thường. Tuy vậy, việc xử lý vi phạm phải tuân thủ đúng Luật pháp. Do đó, các hình thức xử lý vi phạm Luật Thuế GTGT phải được quy định một cách cụ thể, chi tiết. Đối với việc xử lý vi phạm theo tác giả cần phân định rõ ràng 3 hình thức tuỳ theo mức độ vi phạm của doanh nghiệp. - Xử lý bằng biện pháp hành chính: biện pháp này áp dụng đối với những vi phạm Luật Thuế GTGT mang tính chất không thường xuyên, không có chủ ý của doanh nghiệp, ví dụ phạt nộp chậm thuế. Đặc biệt, cần đưa thêm các hành vi vi phạm khác vào việc xử lý hành chính, đó là kê khai sót doanh thu, hạch toán không đúng doanh thu mua và bán hàng hoá, dịch vụ (các vi phạm này hiện vẫn chưa có biện pháp xử lý). - Xử lý bằng biện pháp kinh tế: biểu hiện dưới hình thức phạt tiền. Biện pháp này được áp dụng đối với những vi phạm mang tính chất thường xuyên nhưng chưa đến mức độ nghiêm trọng phải khởi tố. Do vậy, diện phạt rất rộng, bao gồm các vi phạm đã bị xử lý hành chính nhưng vi phạm lại từ lần thứ hai trở đi. Theo tác giả, cần có hình thức phạt tiền luỹ tiến, nghĩa là doanh nghiệp vi phạm nhiều lần thì càng bị phạt tiền nhiều hơn. - Xử lý bằng biện pháp hình sự: Biện pháp này được áp dụng với việc vi phạm mang tính chất thường xuyên, ngày càng nghiêm trọng, gây thiệt hại, thất thu thuế lớn đối với NSNN. Để xử lý bằng biện pháp hình sự, Cơ quan Thuế sẽ thực hiện cưỡng chế nộp thuế, phong toả tài khoản của doanh nghiệp tại Ngân hàng, tịch thu tài sản hoặc khởi tố theo quy định của pháp luật. Đây là những biện pháp mạnh, cứng rắn và có phần áp đặt. Tuy vậy, nó thể hiện một cách rõ nét nhất tính quyền lực của Luật thuế và có tính răn đe mạnh. Xử lý vi phạm của một cuộc thanh tra phải được lập thành một Quyết định riêng do Cơ quan Thuế soạn thảo, Quyết định này sẽ do Phòng Đốc thu và cưỡng chế thuế thực hiện. 3.2.4 - Tăng cường công tác xử lý khiếu nại về thuế: Theo hệ thống Luật thuế của Việt Nam hiện nay thì quy trình khiếu nại được xử lý như sau: - Đối tượng nộp thuế có quyền khiếu nại việc cán bộ thuế, Cơ quan Thuế thi hành không đúng Luật thuế. Đơn khiếu nại được gửi đến Cơ quan Thuế trực tiếp quản lý thu thuế hoặc quyết định xử lý trong thời hạn (quy định trong Luật) là 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo hoặc quyết định xử lý của cán bộ thuế, Cơ quan Thuế. - Trong khi chờ giải quyết, đối tượng nộp thuế vẫn phải thực hiện theo thông báo hoặc quyết định xử lý Cơ quan Thuế. - Cơ quan Thuế nhận khiếu nại có quyền yêu cầu người khiếu nại cung cấp các hồ sơ, tài liệu liên quan để xem xét trong thời hạn 15 ngày hoặc đến 30 ngày đối với các vụ việc phức tạp. - Cơ quan Thuế phải hoàn trả tiền thuế hoặc tiền phạt thu không đúng cho đối tượng nộp thuế, hoặc truy thu tiền thuế, tiền phạt nếu phát hiện có sự khai man trốn thuế. - Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định của cơ quan giải quyết khiếu nại hoặc quá thời hạn quy định mà chưa được giải quyết thì có quyền khiếu nại lên Cơ quan Thuế cấp trên trực tiếp hoặc khởi kiện đến Toà án theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp không khởi kiện ra toà thì quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính là quyết định cuối cùng. Có thể tóm tắt quy trình khiếu nại về thuế theo sơ đồ sau: Sơ đồ 5 : Quy trình khiếu nại về thuế Đối tượng nộp thuế Cơ quan Thuế trực tiếp quản lý hoặc Quyết định xử lý Thuế (Cục Thuế, Chi cục Thuế) Cơ quan Thuế cấp trên trực tiếp (Cục Thuế, Tổng cục Thuế) Toà án hành chính Bộ tài chính Nói chung, việc tiếp nhận, giải quyết đơn thư khiếu nại về thuế đã được bảo đảm kịp thời, đúng thời gian quy định, không có đơn thư khiếu tố tồn đọng hoặc quá hạn. Trong kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp, việc xử lý khiếu nại về thuế đóng vai trò quan trọng. Qua việc xử lý khiếu nại, kiểm soát thu thuế có thể thu thập thông tin về tình hình thực hiện chính sách thuế của các doanh nghiệp, về những vướng mắc của các văn bản pháp luật về thuế. Đặc biệt, việc xử lý khiếu nại thuế có thể phát hiện những trường hợp khai man, trốn thuế, tránh thuế của đối tượng nộp thuế. Nhất là trong bối cảnh hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp đang kiến nghị giảm thuế, Luật Thuế GTGT trong quá trình thực hiện chưa bảo đảm công bằng, trung lập thì việc giải quyết khiếu nại thuế lại càng trở nên bức xúc. Tuy vậy, trong thời gian qua việc giải quyết khiếu nại về thuế có một số điểm lưu ý là: - Hầu hết các trường hợp khiếu nại đều do Cơ quan Thuế trực tiếp quản lý hoặc Cơ quan Thuế cấp trên giải quyết. Rất ít trường hợp khiếu nại lên Bộ Tài chính hoặc khởi kiện ra toà. - Số lượng đơn khiếu nại tập trung nhiều ở khu vực các doanh nghiệp tư nhân do hiểu biết về pháp luật thuế của đối tượng nộp thuế còn hạn chế. - Chưa có một tổ chức giải quyết khiếu nại về thuế riêng. Hiện nay, Phòng Thanh tra - Xử lý tố tụng về thuế chịu trách nhiệm giúp Thủ trưởng Cơ quan Thuế trong việc giải quyết khiếu nại về thuế. Do vậy, thời gian và nhân lực bố trí cho việc này còn hạn chế, phần nào ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết khiếu nại về thuế. Thực trạng trên làm cho Cơ quan Thuế chưa được nhận thức đúng đắn là một cơ quan quản lý Nhà nước độc lập, mang nặng tính áp đặt, quyền hành. Nhiều doanh nghiệp có vướng mắc về thuế nhưng không muốn khiếu nại mà tìm cách lách Luật để kinh doanh. Theo kinh nghiệm của Nhật Bản, để giải quyết khiếu nại về thuế có một hệ thống toà án thuế thực hiện và hệ thống này được tổ chức theo ngành dọc. ở địa phương, Toà án thuế được tổ chức độc lập với Cơ quan Thuế, ở Trung ương có Toà án thuế quốc gia trực thuộc Tổng cục Thuế. Quy trình khiếu nại có thể tóm tắt theo sơ đồ sau: Sơ đồ 6 : Quy trình xử khiếu nại về Thuế theo kinh nghiệm của Nhật bản Đối tượng nộp thuế Toà án Thuế địa phương Toà án Thuế quốc gia Toà án Hành chính Mô hình tổ chức khiếu nại trên có ưu điểm rõ nét là bảo đảm sự độc lập của Cơ quan Thuế ở địa phương với Toà án thuế địa phương, do đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia khiếu nại về thuế, bảo đảm công bằng trong xã hội. ở Việt Nam, theo tác giả về lâu dài cũng cần thành lập một Toà án chuyên giải quyết khiếu nại thuế ở địa phương. Đồng thời, pháp luật cũng cho phép Cơ quan Thuế có quyền khởi tố các đối tượng nộp thuế vi phạm nghiêm trọng Luật thuế lên Toà án hành chính (như ở Nga đã thành lập bộ phận cảnh sát thuế). Trong thời gian trước mắt, cần có tổ chức thực hiện việc giải quyết khiếu nại về thuế riêng, đó là một Phòng độc lập trực thuộc Cục thuế địa phương. Bên cạnh việc tổ chức bộ phận khiếu nại thuế, cũng cần đào tạo một đội ngũ cán bộ chuyên trách giải quyết khiếu nại về thuế, bảo đảm lợi ích của các đối tượng nộp thuế cũng như lợi ích của Nhà nước theo đúng quy định của pháp luật. 3.2.5 - Xây dựng hệ thống thông tin kiểm soát thu thuế. Việc xây dựng được một hệ thống thông tin hoàn chỉnh, sẽ là một công cụ đắc lực trong kiểm soát nguồn thu NSNN, đặc biệt là nguồn thu thuế GTGT. Thực hiện kiểm soát thu thuế GTGT từ việc kê khai thuế, tính thuế và nộp thuế và Kho bạc Nhà nước đến việc mua, bán hoá đơn, sử dụng hoá đơn giả... đã cho thấy rằng kiểm soát thu thuế GTGT chỉ được thực hiện tốt trên cơ sở hạ tầng là một hệ thống thông tin hoàn chỉnh giữa Cơ quan Thuế, Kho bạc và doanh nghiệp, giữa các Cục thuế địa phương với nhau. Do vậy, một yêu cầu bức xúc đối với kiểm soát thu thuế GTGT là phải hoàn thiện lại hệ thống thông tin này. Mục tiêu xây dựng hệ thống thông tin kiểm soát thu thuế bao gồm các yêu cầu sau: - Phát hiện nhanh chóng, kịp thời và chính xác các hiện tượng trốn thuế, tính và kê khai không đúng tiền thuế, nộp thuế thiếu vào Kho bạc và các vi phạm trong việc sử dụng hoá đơn. - Tính phạt tự động số tiền thuế chậm nộp, số tiền thuế nộp thiếu và các vi phạm Luật Thuế GTGT khác. - Tổng hợp thông tin về tình hình thu thuế hàng ngày, hàng tháng lên Cục thuế, Tổng cục Thuế. Các biện pháp thực hiện: - Thực hiện trang bị máy tính và nối mạng toàn ngành Thuế, nối mạng giữa các Cục thuế địa phương và Kho bạc tỉnh, thành phố. Việc nối mạng máy tính toàn ngành Thuế sẽ làm cho quá trình xác minh các hoạt động của Doanh nghiệp, xác minh hoá đơn chính xác và kịp thời hơn hiện nay. Mặt khác, do cơ chế nộp thuế gồm kê khai và nộp thuế ngay tại Kho bạc nên việc nối mạng giữa Cơ quan Thuế và Kho bạc sẽ giúp cho Cơ quan Thuế nắm bắt được tình hình nộp thuế của các doanh nghiệp, phát hiện những hiện tượng vi phạm Luật thuế một cách nhanh chóng. - Thực hiện trang bị chương trình thuế trên máy vi tính cho các doanh nghiệp để các doanh nghiệp kê khai thuế, số hoá đơn đầu ra, đầu vào. Hàng tháng, doanh nghiệp gửi file dữ liệu cho Cơ quan Thuế xử lý. Quá trình xử lý thông tin trên nhiều doanh nghiệp khác nhau sẽ làm cho quá trình xác minh hoá đơn trở nên đơn giản, thuận tiện. Ngoài ra, để hoàn chỉnh hệ thống thông tin kiểm soát thu thuế, Cơ quan Thuế cũng cần nối mạng với các cơ quan quản lý doanh nghiệp khác như Sở Kế hoạch và Đầu tư, Cục Thống kê để quản lý số lượng doanh nghiệp, cấp mã số thuế cho các doanh nghiệp, từ đó tiến tới một hệ thống thông tin quản lý doanh nghiệp chung trên địa bàn và toàn quốc. 3.3/ Kiến nghị đối với nhà nước. Những vướng mắc trong Luật Thuế GTGT hiện nay vừa làm cho các doanh nghiệp lúng túng trong việc kê khai và nộp thuế, vừa làm kiểm soát thu thuế GTGT khó khăn trong việc thực hiện. Do vậy, cần phải tháo gỡ những vướng mắc này mà việc tháo gỡ đòi hỏi phải xuất phát từ những quy định của pháp luật nên Nhà nước có vai trò rất quan trọng. Theo tác giả, cần phải giải quyết những vướng mắc này theo từng quy định cụ thể về đối tượng chịu thuế, thuế suất đến các khâu khấu trừ thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế cũng như xác định rõ ràng các khoản doanh thu chi phí của doanh nghiệp, giúp cho các doanh nghiệp thực hiện Luật Thuế GTGT một cách ngày càng tốt hơn. 3.3.1 - Về đối tượng chịu thuế: Trong giai đoạn trước mắt 2001 - 2005, Chính phủ cần giảm và hạn chế đến mức thấp nhất các hàng hoá, dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT để tránh hiện tượng không công bằng giữa các mặt hàng chịu thuế và không chịu thuế GTGT. Trước mắt, kiến nghị Nhà nước bổ sung các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt ở khâu sản xuất và nhập khẩu vào diện chịu thuế GTGT. Việc đưa các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt vào diện đối tượng chịu thế GTGT cần tính đến việc giảm thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt để đồng bộ với việc đánh thuế GTGT. Trong giai đoạn 2005 - 2010, Nhà nước cần đưa thêm các đối tượng chịu thuế GTGT các mặt hàng là sản phẩm ở khâu sản xuất nông nghiệp để bảo đảm thực hiện thuế GTGT liên hoàn và thống nhất ở tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, bảo đảm tính công bằng, trung lập của thuế GTGT. 3.3.2 - Về thuế suất thuế GTGT. Trong quá trình thực hiện Luật Thuế GTGT 2 năm vừa qua cho thấy việc định ra nhiều mức thuế suất cùng với sự không rõ ràng trong việc phân biệt hàng hoá chịu thuế theo công dụng, mục đích sử dụng gây khó khăn rất nhiều cho việc tính thuế. Do đó, trong giai đoạn 2001 - 2005, Nhà nước cần giảm số lượng thuế suất tối đa còn 02 mức thuế suất. Việc điều chỉnh mức thuế suất GTGT là để bảo đảm nguồn thu NSNN trong khi thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu (đến năm 2006 phải thực hiện xong). Mức thuế suất sẽ chỉ còn 2 mức là 8% và 10%. Trong đó, sắp xếp lại để hạn chế các sản phẩm, dịch vụ thuộc nhóm thuế suất 8%, còn lại đa số các sản phẩm, dịch vụ áp dụng mức thuế suất 10%, để đến giai đoạn 2006 - 2010, áp dụng thống nhất một mức thuế suất 10% đối với tất cả các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Ngoài ra, để bảo đảm tính công bằng, trung lập của thuế GTGT, Nhà nước cần xoá bỏ tất cả các quy định ưu đãi miễn, giảm thuế GTGT cho tất cả các đối tượng. 3.3.3 - Về áp dụng phương pháp tính thuế và sử dụng hoá đơn. Việc quy định 2 phương pháp tính thuế gây phức tạp cho kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. Do vậy, trong thời gian tới cần sửa đổi phương pháp tính thuế theo hướng một phương pháp là phương pháp khấu trừ thuế. Để có thể tiến đến áp dụng một phương pháp tính thuế, cần thực hiện các biện pháp sau: - Phân loại các hộ kinh doanh tư nhân có quy mô nhỏ, thu nhập thấp đưa ra khỏi diện phải nộp thuế GTGT. Quy định mức doanh số để xác định đối tượng là hộ kinh doanh nhỏ. Đối với đối tượng này chuyển sang áp dụng nộp thuế theo mức tỉ lệ % ấn định trên doanh thu. - Thực hiện chế độ kế toán đối với các hộ kinh doanh có quy mô lớn để chuyển dần các đối tượng này sang áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế. - Đối với các doanh nghiệp, hợp tác xã bắt buộc thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ. Đến giai đoạn 2005 - 2010, việc tính thuế chỉ thực hiện một phương pháp duy nhất là khấu trừ thuế. Đối với việc sử dụng hoá đơn, Nhà nước cần áp dụng các biện pháp sau: - Trong giai đoạn 2001 - 2005, các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ phải sử dụng hoá đơn GTGT. Đối với các hộ kinh doanh lớn tính thuế theo phương pháp trực tiếp, các hộ kinh doanh nhỏ nộp thuế theo mức thuế ấn định thì sử dụng hoá đơn bán hàng không ghi thuế GTGT. Đến cuối giai đoạn này, khi các hộ kinh doanh lớn đã chuyển sang thực hiện chế độ kế toán và tính thuế theo phương pháp khấu trừ cũng phải sử dụng hoá đơn GTGT. Đồng thời, Nhà nước cần quy định doanh nghiệp tự phát hành hoá đơn vào cuối giai đoạn này. - Đối với việc sử dụng hoá đơn tự in, Nhà nước cần quy định thống nhất các nội dung trên tờ hoá đơn và nghiêm cấm không khấu trừ các hoá đơn không đúng theo mẫu quy định. Đối với các doanh nghiệp cho lưu hành các hoá đơn không đủ yếu tố theo quy định, Nhà nước cần có quy định phạt tiền với mức độ nặng, đủ răn đe. Các doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về việc quản lý hoá đơn do mình phát hành. Nhà nước cũng quy định trách nhiệm của doanh nghiệp khi làm mất hoá đơn và trách nhiệm của công ty in hoá đơn trong việc chống làm giả hoá đơn. Đặc biệt, đối với các hành vi làm giả hoá đơn, mua bán hoá đơn, Nhà nước cần đưa vào khung hình phạt của Bộ Luật Hình sự. Giải quyết các vấn đề liên quan đến hoá đơn, theo tác giả cần đưa ra những quy định xử lý cụ thể. Đây chính là cái thiếu hiện nay của các quy định của pháp luật. Khi đã được quy định cụ thể, rõ ràng, hiện tượng thông đồng giữa các doanh nghiệp với nhau mua bán hoá đơn nhưng báo mất, ghi liên 1 khác liên 2 để trốn thuế, khấu trừ thuế sẽ được nghiêm trị, tạo ra sự trong lành cho môi trường kinh tế. 3.3.4 - Về khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Như trên đã trình bày, phương pháp thống nhất để tính thuế sẽ là phương pháp khấu trừ. Tuy vậy, trong giai đoạn trước mắt, chưa thể thực hiện ngay phương pháp này vì thực tế các điều kiện như phân loại hộ kinh doanh, chế độ kế toán tại các hộ kinh doanh..v.v... chưa cho phép. Do vậy, Nhà nước vẫn phải quy định các phương pháp tính thuế khác nhau. Việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào phải theo hướng khuyến khích việc sử dụng hoá đơn, cụ thể là: khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hàng hoá dịch vụ mua vào có hoá đơn bán hàng theo một tỉ lệ % cao hơn đối với trường hợp không có hoá đơn. Khấu trừ thuế GTGT đầu vào theo tỷ lệ % (thấp hơn tường hợp có hoá đơn bán hàng) áp dụng đối với hàng hoá là nông, lâm, thuỷ sản, sắt thép, phế liệu, đất, đá, cát, sỏi... mua trực tiếp của người tự sản xuất. 3.4.5 - Xác định chính xác doanh thu, chi phí để tính thuế Doanh thu và chi phí là cơ sở để tính thuế GTGT đầu ra, thuế GTGT đầu vào, từ đó xác định số thuế phải nộp. Do vậy, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT phải xác định chính xác doanh thu bán hàng và chi phí mua hàng của doanh nghiệp. Nhằm tăng cường việc kiểm soát doanh thu chịu thuế GTGT, theo tác giả, vấn đề cốt lõi là kiểm soát được việc viết hoá đơn của doanh nghiệp. Đối với các đơn vị bán lẻ, đây là công việc khó khăn, nhưng với những quy định xử phạt nghiêm minh kết hợp với việc thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra thì chắc chắn việc kê khai thuế sẽ được thực hiện đầy đủ. Mặt khác, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT cũng cần tăng cường phương pháp đối chiếu giữa doanh thu bán hàng của người bán với chi phí mua hàng của người mua. Việc kiểm tra sẽ phát hiện những vi phạm như kê khai thiếu doanh thu, khấu trừ khống hoá đơn đầu vào, viết hoá đơn liên 1 khác liên 2 để trốn thuế. Hiện nay, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, doanh thu được xác định là giá trị khối lượng hoàn thành trên biên bản nghiệm thu công trình giữa bên A và bên B nhưng doanh thu thực tế lại là giá trị quyết toán sau khi được các cấp có thẩm quyền duyệt. Nhằm giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần có quy định về căn cứ để xác định chính xác doanh thu chịu thuế GTGT, thời điểm viết hoá đơn và kê khai thuế, nhằm tránh tình trạng thuế đầu ra phải nộp thấp hơn thuế đầu vào được khấu trừ (như phần trước đã trình bày), gây thất thu thuế cho Nhà nước. Biện pháp này sẽ tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp và tạo điều kiện thuận lợi cho kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. 3.4.6 - Tăng cường công tác kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp. Như trên đã trình bày, mô hình quản lý và quy trình quản lý thu thuế trong thời gian tới đòi hỏi tính tự giác, tự nguyện cao của các doanh nghiệp, các đối tượng nộp thuế. Công tác kiểm toán nội bộ nếu được thực hiện tốt sẽ giúp doanh nghiệp kiểm soát mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh trong doanh nghiệp đồng thời trợ giúp một cách tích cực kiểm soát nguồn thu thuế GTGT ngay tại doanh nghiệp. Tuy vậy, thực trạng công tác kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp hiện nay đang còn rất yếu, chưa thúc đẩy tính tự giác của doanh nghiệp đối với việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho NSNN. Do đó, một trong những giải pháp quan trọng, có tính đồng bộ là tăng cường công tác kiểm toán nội bộ để tăng cường kiểm soát nguồn thu thuế GTGT tại doanh nghiệp. Công tác kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp hiện chưa được tổ chức một cách nghiêm túc theo đúng yêu cầu của quản lý Nhà nước và nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh, một phần là do các doanh nghiệp chưa nhận thức đúng đắn vai trò của kiểm toán nội bộ, một phần khác là do chưa có sự quản lý, hướng dẫn chuyên môn của các cơ quan chức năng của Nhà nước. Một khung pháp lý vững chắc và đầy đủ chưa được kiến tạo khiến các doanh nghiệp vừa lúng túng trong việc thực hiện lại vừa cố ý đùn đẩy, không muốn tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ độc lập. Theo tác giả, đứng trước một vấn đề còn lạ lẫm với thực tế kinh doanh của Việt Nam, Nhà nước cần ban hành một Đạo Luật về kiểm toán vừa tạo cơ sở pháp lý vững chắc, vừa mang ý nghĩa hướng dẫn hiện thực cho sự phát triển của kiểm toán nội bộ. Việc tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động của kiểm toán nội bộ phải hướng đến thiết lập một cơ chế hoạt động, các hình thức kiểm toán cũng như phải thiết lập các quy định, chuẩn mực và các mối quan hệ của kiểm toán nội bộ trong quá trình hoạt động. Những nội dung này rất rộng, nhưng trong phạm vi bài viết này tác giả chỉ đề cập các vấn đề trên trong mối liên hệ với kiểm soát nguồn thu thuế nói chung, thuế GTGT nói riêng. Về cơ chế hoạt động trong giai đoạn hiện nay, kiểm toán nội bộ chỉ thực sự hoạt động hiệu quả khi có những yêu cầu cơ bản liên quan đến địa vị, chức năng kiểm toán nội bộ và mối quan hệ của kiểm toán nội bộ với các nhà quản lý doanh nghiệp, với các bộ phận khác trong doanh nghiệp được thực hiện tốt. Bởi vì, những mối quan hệ này góp phần nâng cao địa vị, chức năng và phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ. Theo đó, kiểm toán nội bộ phải được giao quyền hạn rộng rãi để có thể kiểm soát toàn bộ các hoạt động, phải được phép thực hiện các hoạt động kiểm soát phù hợp với các chuẩn mực nghề nghiệp và được quyền sử dụng mọi hồ sơ, thông tin và gặp gỡ tiếp xúc với các đối tượng có liên quan đến thu thập bằng chứng làm sáng tỏ các vấn đề trong khi thực hiện kiểm toán. Với những yêu cầu đó, kiểm toán nội bộ có thể nắm bắt toàn bộ các hoạt động mua, bán hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp và sẵn sàng cung cấp thông tin về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ với các nhà quản lý có vai trò quyết định trong việc tăng cường tính tự giác của doanh nghiệp trong quản lý thu thuế. Một bộ máy kiểm toán nội bộ hiệu quả có thể tư vấn với Ban lãnh đạo về việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đúng theo Luật định. Việc thiết lập các quy định, chuẩn mực khi thực hiện kiểm toán và các mối quan hệ của kiểm toán nội bộ trong quá trình hoạt động là vô cùng cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Theo đó, kiểm toán viên nội bộ phải khách quan, độc lập với các hoạt động mà họ kiểm toán. Hơn nữa, việc bố trí cán bộ trong bộ máy kiểm toán nội bộ phải thực sự là những người có trình độ học vấn, có đạo đức nghề nghiệp, có kỹ năng và kiến thức chuyên môn và phải được cấp chứng chỉ kiểm toán viên của cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Với các quy định, chuẩn mực này, bộ phận kiểm toán nội bộ sẽ đem lại những thông tin chính xác, khách quan cho Ban lãnh đạo doanh nghiệp, để từ đó Ban lãnh đạo doanh nghiệp nhận biết được thực trạng tình hình thực hiện nghĩa vụ với NSNN. Về hình thức kiểm toán, trong việc tự giác thực hiện nộp thuế cho NSNN, kiểm toán nội bộ cần chú trọng tới kiểm toán tuân thủ. Kiểm toán nội bộ phải kiểm tra tình hình kê khai và nộp thuế hàng tháng của doanh nghiệp theo đúng các quy định của Luật thuế. Bên cạnh đó, kiểm toán nội bộ còn kiểm tra độ tin cậy của các giao dịch mua, bán hàng hoá, phát hiện những hoá đơn, chứng từ không hợp pháp, phát hiện và loại bỏ những vi phạm như hoá đơn giả, mua bán hoá đơn, kê khai thiếu doanh thu trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Ngoài ra, kiểm toán nội bộ còn góp phần củng cố và hoàn thiện chế độ hạch toán kế toán tại doanh nghiệp, giúp cho kiểm soát nguồn thu thuế GTGT được thuận lợi hơn. Như vậy, hệ thống kiểm toán nội bộ có vai trò rất quan trọng trong kiểm soát nguồn thu thuế GTGT ngay tại doanh nghiệp. Chính vì vậy, một trong những kiến nghị rất bức thiết hiện nay là Nhà nước cần tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc để tăng cường hơn nữa công tác kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp. 3.4.7 - Tăng cường sự phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng trong kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. Kiểm soát nguồn thu thuế GTGT là một hoạt động của quản lý Nhà nước, được điều chỉnh bằng một hệ thống Luật pháp hoàn chỉnh. Do vậy, nó cũng có tính xã hội và phải mang tính xã hội, trong đó có sự giám sát của nhân dân. Mặt khác, hoạt động kiểm soát phải có sự phối hợp đồng bộ giữa nhiều cơ quan chức năng, trong đó có sự lãnh đạo của Chính quyền các cấp. Tại hầu hết các nước có nền kinh tế chuyển đổi, Cơ quan Thuế được tổ chức theo ngành dọc thống nhất tổ chức từ Trung ương đến địa phương, nhằm tập trung nguồn thu vào NSNN. ở Việt Nam, việc thống nhất quản lý, chỉ đạo điều hành cũng theo mô hình đó. Tuy vậy, do nhu cầu thực tế của công tác tổ chức hành thu và thi hành Luật thuế, phải cần có sự phối hợp của Chính quyền địa phương nên Chính quyền địa phương có ảnh hưởng lớn đến công tác tổ chức và chỉ đạo của Cơ quan Thuế ở các địa phương và việc quản lý nguồn thu có nhiệm vụ bảo đảm nhu cầu chi tiêu cho bộ máy Chính quyền địa phương. Hơn nữa, Việt Nam đang trong quá trình cải cách, nền kinh tế xã hội chưa phát triển, trình độ dân trí và pháp luật còn nhiều hạn chế, sự tuân thủ tự nguyện pháp luật nói chung và pháp luật về thuế nói riêng chưa cao, do đó đòi hỏi sự phối hợp chỉ đạo của các cấp Chính quyền và sự phối hợp thực hiện của các cơ quan chức năng khác: Công an, Quản lý thị trường. v.v.. Trong kiểm soát nguồn thu thuế GTGT, các lực lượng này có vai trò quan trọng, đặc biệt là trong việc phát hiện các hành vi trốn lậu thuế, mua bán hoá đơn thật, hoá đơn giả v.v.. Các lực lượng này còn thực hiện các biện pháp cưỡng chế thuế theo chức năng, nhiệm vụ của mình, giúp việc thi hành Luật thuế trở nên có hiệu lực hơn. Theo tác giả, sự phối hợp giữa Cơ quan Thuế và Hải quan địa phương trong thời gian qua chưa thật sự đồng bộ, nhất là trong việc kiểm soát thu thuế GTGT hàng nhập khẩu. Để bảo đảm thống nhất công tác hành thu, Chính phủ cần xem xét đề án thống nhất tổ chức ngành Thuế và Hải quan tại các địa phương nhằm tập trung, tạo điều kiện thuận lợi cho kiểm soát thu thuế trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Ngoài ra, mối quan hệ giữa ngành Thuế và hệ thống Ngân hàng thời gian qua chưa được thuận lợi. Nhiều Ngân hàng, do yêu cầu của khách hàng đã không thực hiện lệnh thu cưỡng chế thuế của Cơ quan Thuế. Theo tác giả, Nhà nước cần có những biện pháp xử lý đối với những Ngân hàng không thực hiện lệnh thu của Cơ quan Thuế nhằm tạo ra sự nghiêm minh của Luật thuế. Tóm lại, kiểm soát nguồn thu thuế GTGT không chỉ là hoạt động độc lập của riêng ngành Thuế. Để thực hiện tốt công tác này, cần phải có sự phối hợp một cách đồng bộ của các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như của toàn xã hội. Kết luận Qua 2 năm triển khai thực hiện trên địa bàn Hà Nội, Luật Thuế GTGT đã thực sự đi vào đời sống kinh tế – xã hội. Việc thực hiện Luật Thuế GTGT đã khuyến khích các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh và đầu tư, góp phần tăng kim nghạch xuất khẩu của Thủ đô hàng năm 20 %, tăng GDP hàng năm trên 9 %. Với đặc tính chuyên môn hoá cao, công bằng và trung lập, thuế GTGT đã trở thành công cụ hiệu quả điều tiết vĩ mô nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp tiếp cận nhanh hơn và sâu hơn với nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Bên cạnh đó, việc thực hiện Luật Thuế GTGT cũng góp phần giúp các doanh nghiệp trong nước tiếp cận nhanh hơn với thị trường quốc tế trong bối cảnh Việt nam hội nhập với các tổ chức kinh tế và thương mại trong khu vực và trên toàn thế giới. Quá trình triển khai thực hiện Luật Thuế GTGT cũng là quá trình ngành Thuế Hà Nội thực hiện một bước cải cách phương thức quản lý thu thuế, trong đó nổi bật nhất là áp dụng quy trình quản lý thu thuế mới mà nội dung cơ bản là các doanh nghiệp tự kê khai và nộp thuế vào Kho bạc Nhà nước. Việc thực hiện quy trình quản lý thu thuế mới đã thể hiện những ưu điểm rõ nét là nâng cao ý thức chấp hành Luật thuế của các doanh nghiệp, đưa hoạt động nộp thuế vào NSNN trở thành một hoạt động thường xuyên của các doanh nghiệp. Tuy vậy, phương thức quản lý thu thuế mới vẫn chưa được thực hiện tốt, kết quả thu thuế từ các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đạt thấp, các hiện tượng vi phạm Luật thuế, trốn thuế và tránh thuế còn diễn ra dưới nhiều hình thức, ngày càng tinh vi hơn đang là một thách thức đối với ngành Thuế Thủ đô. Trong bối cảnh đó, bằng những lý luận và thực tiễn, trên cơ sở phân tích quá trình triển khai việc thực hiện Luật thuế GTGT, kết quả thu thuế GTGT trên địa bàn Hà Nội, cơ cấu tổ chức của bộ máy Cục thuế Hà Nội cũng như quy trình quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp đang được áp dụng tại Cục thuế Hà Nội. Chuyên đề đã nêu lên thực trạng, chỉ ra nguyên nhân và đề ra giải pháp cụ thể để tăng cường hơn nữa công tác kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Cụ thể chuyên đề đã hoàn thành một số nhiệm vụ sau : 1- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp. Nêu rõ được tầm quan trọng của công tác kiểm soát nguồn thu thuế GTGT. 2- Phân tích và đánh giá thực trạng công tác kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội trong những năm qua. Chỉ ra nguyên nhân và một số bất cập về cơ chế chính sách và quy trình quản lý thuế. 3- Đề ra những giải pháp cụ thể để tăng cường hơn nữa hoạt động kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội trong thời gian tới. Các giải pháp chủ yếu luận án đưa ra là: - Giải pháp về cải cách bộ máy quản lí thuế. - Những giải pháp về nghiệp vụ quản lí thuế. - Xử lí và khiếu nại về thuế. - Một số giải pháp nhằm khắc phục những vướng mắc trong Luật thuế GTGT Những giải pháp, kiến nghị trên còn mang nhiều tính gợi mở. Do vậy tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến, thẳng thắn trao đổi của các Thầy, Cô giáo, các vị Lãnh đạo và các đồng nghiệp. /. các từ ngữ viết tắt trong luận án gtgt Giá trị gia tăng nsnn Ngân sách nhà nước tndn Thu nhập doanh nghiệp dnnntw Doanh nghiệp Nhà nước trung ương dnđp Doanh nghiệp địa phương đtnn Đầu tư nước ngoài dn Doanh nghiệp ct Công ty ctxd Công ty xây dựng xnk Xuất nhập khẩu tscđ Tài sản cố định ubtvqh Uỷ ban thường vụ quốc hội htx Hợp tác xã tài liệu tham khảo Báo cáo tình hình thực hiện chính sách động viên nguồn thu những năm vừa qua và những nội dung cơ bản về cải cách hệ thống thuế, chính sách thuế giai đoạn 2, Bộ Tài chính tháng 01/2000 Báo cáo tổng kết công tác quản lý thu thuế doanh nghiệp ngoài quốc doanh các năm 1998,1999 Báo cáo tổng kết một năm triển khai thực hiện các luật thuế mới, Trình Quốc hội khoá X-kỳ họp thứ 7, tháng 5/2000 Báo cáo v/v thực hiện VAT thí điểm và kiến nghị bổ sung, Tổng cục thuế, tháng 11/1993 Biên bản kiểm tra quyết toán thuế của một số đơn vị Bài giảng Kiểm toán tài chính GS - TS Nguyễn Quang Quynh Lý thuyết kiểm toán Trường đại học Kinh quốc dân GS - TS Nguyễn Quang Quynh Luật doanh nghiệp Luật thuế GTGT và Luật thuế TNDN, Quốc hội khoá IX kì họp thứ 10 Qui trình quản lý thu thuế các doanh nghiệp ban hành kèm theo quyết định số 1368TCT/QĐ/TCCB ngày 09/12/1998 Bộ Tài chính-Tổng cục thuế, Hệ thống hoá các văn bản pháp luật về thuế giá trị gia tăng đã được sửa đổi, bổ sung, Nhà xuất bản Tài chính tháng 1-2001 Victor Z.Brink and Herbert Witt, Kiểm toán nội bộ hiện đại-đánh giá các hoạt động và hệ thống kiểm soát, Nhà xuất bản Tài chính 2000 Tạp chí Kế toán các số năm 1999 Thông tin Tài chính các số 1999 Thời báo Tài chính số 3 - 3/2000 Tạp chí Tài chính các số năm 1999, 2000, 2001 Tạp chí Thuế nhà nước các số 1999, 2000, 2001 Bản tin Thuế nhà nước - Các số năm 1998, 1999 Thuế Hà Nội các số 1999, 2001, 2001 Mục lục Lời mở đầu ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28197.doc
Tài liệu liên quan