Tăng cường quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng

MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU TÓM TẮT LUẬN VĂN DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT AMC :Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản CIC :Trung tâm thông tin tín dụng CVQHKH :Chuyên viên quan hệ khách hàng DPRR :Dự phòng rủi ro DNNN :Doanh nghiệp nhà nước NHQĐ :Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội NHTM : Ngân hàng Thương mại NHNN :Ngân hàng Nhà nước Việt Nam MB :Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội QLTD :Quản lý tín dụng QHKH :Quan hệ khách hàng QTRR :Qu

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1502 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Tăng cường quản lý nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản trị rủi ro TNHH :Trách nhiệm hữu hạn TMCP :Thương mại Cổ phần TSCĐ :Tài sản cố định TCTD :Tổ chức tín dụng UBND :Ủy ban nhân dân XHTD :Xếp hạng tín dụng DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Trang Bảng 1.1 : - Phân loại khách hàng, phân loại nợ 16 Sơ đồ 2.1: - Sơ đồ tổ chức bộ máy 28 Bảng 2.1: - Kết quả huy động vốn 30 Bảng 2.2: - Kết quả hoạt động cho vay 32 Biểu đồ 2.1: - Kết quả hoạt động cho vay 33 Biểu đồ 2.2: - Kết quả hoạt động bảo lãnh 34 Bảng 2.3: - Cơ cấu dư nợ nội bảng theo nhóm nợ 36 Biểu đồ 2.3: - Dư nợ ngoại bảng 38 Biểu đồ 2.4: - Nợ xấu phân theo xử lý dự phòng rủi ro 39 Bảng 2.4: - Nợ ngoại bảng chia theo thời gian phát sinh 40 Bảng 2.5: - Phân loại nợ theo kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ 42 Bảng 2.6: - Kết quả phân loại nợ nội bảng tại 31/12/2008 43 Bảng 2.7: - Kết quả xử lý nợ xấu 51 Sơ đồ 3.1 : - Quy trình xử lý nợ xấu 70 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau hai năm gia nhập WTO, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, mở ra nhiều cơ hội nhưng theo đó cũng có không ít thách thức đối với nền kinh tế nói chung và thị trường Tài chính nói riêng. Thực tế thời gian vừa qua cho thấy, việc suy yếu và sụp đổ hàng loạt của hệ thống Ngân hàng trên khắp thế giới đã ảnh hưởng không nhỏ đến hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ đó xuất phát từ hậu quả do hoạt động tín dụng mang lại. Việc quản lý và kiểm soát hoạt động tín dụng của ngân hàng không tốt đã làm cho nợ xấu gia tăng, kéo theo đó là lợi nhuận suy giảm, thậm chí là thua lỗ nặng. Hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đang phải đối mặt với tình hình nợ xấu ngày một gia tăng, cùng với gánh nặng từ các khoản nợ xấu còn tồn đọng trong một thời gian dài chưa xử lý được đã và đang đặt các Ngân hàng thương mại trước nguy cơ suy giảm lợi nhuận, chất lượng các khoản vay giảm sút, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng. Việc quản lý và kiểm soát nợ xấu luôn cần được nhìn nhận và thực hiện một cách nghiêm túc để đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung đối với mỗi ngân hàng. Nằm trong hệ thống các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng cũng đang phải đối mặt với tình hình nợ xấu gia tăng trong khi quản lý nợ xấu còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Nhận thức được tầm quan trọng đó mà đề tài “Tăng cường quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng” đã được tác giả lựa chọn làm đề tài nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý thyết về quản lý nợ xấu của ngân hàng thương mại, đánh giá thực trạng quản lý nợ xấu tại MB – Chi nhánh Hải Phòng để đề xuất giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại MB – Chi nhánh Hải Phòng trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại Phạm vi nghiên cứu: Quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2006 – 2008, vấn đề nghiên cứu trên giác độ của Ngân hàng thương mại. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học: Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp Phương pháp lịch sử, logic. 5. Kết quả nghiên cứu Qua nghiên cứu thực trạng quản lý nợ xấu của Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng, luận văn đã chỉ ra được những mặt còn hạn chế và nguyên nhân từ đó đề xuất giải pháp để tăng cường quản lý nợ xấu, nhằm nâng cao khả năng cạnh trạnh và tính bền vững trong hoạt động cho vay của Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải Phòng trong điều kiện hiện nay và một số năm tiếp theo. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài Phần mở đầu, mục lục, danh mục bảng biểu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Khái quát về nợ xấu của Ngân hàng thương mại Tổng quan về Ngân hàng thương mại Khái niệm Ngân hàng thương mại Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và động lực đối với sự phát triển của Ngân hàng thương mại và Ngân hàng thương mại phát triển tạo điều kiện ngược lại thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Ban đầu, Ngân hàng được gọi là ngân hàng của những “Thợ vàng” vì nó gắn liền với nghiệp vụ đúc hoặc đổi tiền của các thợ vàng. Do lưu hành tiền tệ riêng của từng quốc gia kết hợp với việc giao thương quốc tế tạo ra nhu cầu đúc, đổi tiền trong giao dịch buôn bán tại các cửa khẩu hoặc trung tâm thương mại nơi giao thương. Những người làm nghề đúc, đổi tiền thực hiện đổi bản tệ lấy ngoại tệ và ngược lại đổi từ ngoại tệ lấy bản tệ, lợi nhuận thu được là chênh lệch giá mua bán. Đầu tiên, những nhà buôn tiền – chủ ngân hàng chỉ dùng vốn tự có của mình để cho vay, nhưng từ hoạt động thực tiễn họ đã nhận thấy rằng thường xuyên có người gửi vào và cũng có những người lấy tiền ra song tất cả họ không rút tiền cùng một lúc và đã tạo số dư tiền gửi thường xuyên ở ngân hàng. Do tính chất vô danh của tiền, nên các chủ ngân hàng đã lấy số dư tiền gửi của khách hàng để cho vay. Hoạt động này làm thay đổi cơ bản hoạt động của nhà buôn tiền - kẻ cho vay nặng lãi và trở thành hoạt động của Ngân hàng thương mại sau này. Do lợi nhuận từ việc cho vay lớn, nhiều chủ Ngân hàng đã lạm dụng ưu thế của chứng chỉ tiền gửi (lưu thông thay vàng hoặc bạc), phát hành chứng chỉ tiền gửi khống để cho vay và dẫn đến các ngân hàng mất khả năng thanh toán, phá sản. Sự sụp đổ của các Ngân hàng dẫn đến khó khăn cho những nhà buôn, bên cạnh đó lãi suất vay cao dẫn đến các nhà buôn đã tự thành lập Ngân hàng với mục đích ban đầu chủ yếu tài trợ ngắn hạn và thanh toán hộ, gắn liền với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp và Ngân hàng này được gọi là Ngân hàng thương mại. NHTM cũng thực hiện các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng là nhận tiền gửi, thanh toán, cất giữ hộ và cho vay. Sự khác biệt cơ bản giữa NHTM và Ngân hàng thợ vàng lúc đó là NHTM chủ yếu cho vay chiết khấu thương phiếu dựa trên quá trình luân chuyển hàng hoá (các khoản phải thu) với lãi suất phải thấp hơn lợi nhuận được tạo ra do sử dụng tiền vay. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, công nghệ đã tạo điều kiện cho hệ thống Ngân hàng phát triển đa dạng. Do quá trình tích tụ và tập trung vốn trong ngân hàng đã hình thành nên Ngân hàng cổ phần. Đồng thời tại mỗi nước trong những điều kiện khác nhau mà hình thành nên những loại hình Ngân hàng khác nhau như: Ngân hàng tiết kiệm, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư... Quá trình phát triển đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa vai trò của Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng đã tạo ra các Ngân hàng sở hữu Nhà nước. Sự mở rộng hoạt động của các Ngân hàng sang các quốc gia khác đã thúc đẩy sự ra đời của Ngân hàng liên doanh và các tập đoàn Ngân hàng phát triển mạnh mẽ vào những năm cuối thế kỷ 20, tạo ra những nghiệp vụ mới như mở rộng cho vay trung - dài hạn, cho vay đầu tư bất động sản, cho vay kinh doanh chứng khoán, cho vay tiêu dùng, cho thuê tài sản …Bên cạnh đó, nhiều hình thức huy động tiền gửi cũng phát triển như tiết kiệm trả lãi cuối kỳ, đầu kỳ, theo định kỳ, tiết kiệm an sinh, tích luỹ… đồng thời nhờ có sự phát triển vượt bậc về công nghệ, trong lĩnh vực Ngân hàng nhiều dịch vụ khác cùng phát triển như rút tiền tự động qua máy ATM 24/24 giờ, bảo lãnh trong nước, mở L/C, mobile banking, internet banking... NHTM là một định chế tài chính có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng, vậy NHTM là gì? Theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá 10 thông qua ngày 12/12/1997: Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Cũng theo luật này, “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. 1.1.1.2. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại a - Hoạt động huy động vốn Ngoài nguồn vốn tự có (huy động vốn chủ sở hữu), hoạt động huy động vốn (huy động vốn nợ) có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng thương mại trong việc tạo lập nguồn vốn để hoạt động kinh doanh. Hoạt động huy động vốn nợ của ngân hàng thương mại bao gồm: Huy động vốn tiền gửi: Huy động theo hình thức này chủ yếu là tiền gửi của dân cư và tổ chức dưới hình thức có kỳ hạn (chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi chờ thanh toán của tổ chức) và không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán của tổ chức, cá nhân). Đây là nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn nợ của NHTM. Huy động từ phát hành các công cụ nợ: chủ yếu là phát hành kỳ phiếu và trái phiếu. Kỳ phiếu dùng chủ yếu huy động vốn ngắn hạn. Trái phiếu phát hành để huy động vốn trung - dài hạn. Hình thức huy động này mang tính ổn định hơn, làm tăng khả năng huy động vốn của NHTM trong thời gian ngắn và hoàn toàn chủ động trong sử dụng nguồn vốn. Huy động từ vay các NHTM: các NHTM thực hiện việc đi vay nhằm điều hoà vốn trong toàn hệ thống, tăng dự trữ, đảm bảo tốt khả năng thanh khoản của NHTM. Việc huy động vốn thông qua hình thức này thường đơn giản và nhanh gọn, có thể vay trực tiếp, vay qua Ngân hàng đại lý và khoản vay thường không có bảo đảm (nếu có thường là chứng khoán của kho bạc). Huy động từ vay Ngân hàng Trung ương: Thường là hình thức huy động cuối cùng trong hoạt động huy động vốn của NHTM, áp dụng cho việc vay để đảm bảo duy trì dự trữ bắt buộc hay thiếu hụt thanh toán. Hình thức huy động này thường làm giảm uy tín của NHTM trên thị trường. Huy động từ nợ khác: bao gồm huy động các khoản uỷ thác; tiền ký quỹ; các khoản nợ thuế chưa nộp, lương chưa trả ... đây là hình thức huy động mang tính thụ động và thường có khối lượng nhỏ không đáng kể. b- Hoạt động tín dụng Hoạt động tín dụng là hoạt động cấu thành nên tài sản có và có ý nghĩa quan trọng đối với khả năng tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng. Hoạt động tín dụng mang lại thu nhập chính cho NHTM, là hoạt động không thể thiếu làm nền tảng nhằm thu hút các dịch vụ khác cho NHTM, nhưng ngược lại đó cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro. Hoạt động tín dụng không tốt sẽ gây ảnh hưởng lớn đến tính thanh khoản, thậm chí dẫn đến sự sụp đổ của NHTM. Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức và cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố giấy tờ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. c- Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, bao gồm: Dịch vụ cung ứng các phương tiện thanh toán Dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng Dịch vụ thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, đá quý Thực hiện dịch vụ thu hộ, chi hộ các tổ chức và cá nhân Phát triển các sản phẩm ngân hàng điện tử Các sản phẩm khác như giữ hộ tài sản, thanh toán séc... d - Các hoạt động khác Góp vốn đầu tư, mua cổ phần của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng khác từ nguồn vốn tự có để đa dạng hoá danh mục đầu tư, hạn chế rủi ro và nâng cao hiệu quả kinh doanh Tham gia thị trường tiền tệ: Thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc, thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn khác theo quy định của ngân hàng nhà nước Hoạt động uỷ thác và đại lý liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng Các hoạt động khác như cho thuê két, dịch vụ cầm đồ và các dịch vụ khác theo quy định của Pháp luật. Nợ xấu của Ngân hàng thương mại . Khái niệm nợ xấu Tùy theo quan điểm và mức độ đánh giá rủi ro khác nhau mà có những khái niệm về nợ xấu khác nhau. Tuy nhiên, xét về bản chất thì nợ xấu là các khoản nợ bị suy giảm khả năng thu hồi hoặc không có khả năng thu hồi. */ Quan niệm của Ngân hàng Trung ương Châu Âu i. Nợ xấu là nợ không được thanh toán đầy đủ cho Ngân hàng, bao gồm: Những khoản nợ mà người vay khó có thể trả nợ và yêu cầu điều chỉnh lại lịch trả nợ nhưng không thanh toán được trong khoảng thời gian đã được điều chỉnh. Những khoản nợ mà giá trị tài sản bảo đảm không đủ để trả nợ hoặc tài sản bảo đảm không được chấp thuận về mặt pháp lý dẫn đến người vay không thể trả nợ Ngân hàng đầy đủ. Những khoản nợ mà Tòa án tuyên bố người vay phá sản và phần bồi hoàn cho Ngân hàng ít hơn dư nợ phải thanh toán. ii. Nợ xấu là những khoản nợ không thể thu hồi được, bao gồm: Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có đủ căn cứ đòi thanh toán từ người vay. Người vay bỏ trốn hoặc mất tích, không có tài sản giữ lại để thanh toán nợ. Những khoản nợ mà Ngân hàng không thể liên lạc được với người vay hoặc không thể tìm được người vay. Những khoản nợ mà người vay chấm dứt hoạt động kinh doanh, hoặc thanh lý tài sản, hoặc kinh doanh thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ. */ Quan niệm của Phòng thống kê – Liên Hợp Quốc: Một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thỏa thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ. Quan niệm này vừa mang tính định tính vừa mang tính định lượng và được áp dụng khá phổ biến trên thế giới. */ Quan niệm của Việt Nam Kể từ sau khi Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam được ban hành, Việt Nam mới thực sự đề cập đến khái niệm về nợ xấu. Mặc dù đã dần tiếp cận với những chuẩn mực quốc tế, đề cập đến việc đánh giá các khoản nợ trên cả khía cạnh định lượng và định tính, tuy nhiên vẫn có những sự khác biệt nhất định. Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, nợ xấu được định nghĩa như sau: "Nợ xấu (NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7 Quy định này. Theo đó, nợ xấu cũng được xác định dựa trên yếu tố định lượng (quá hạn trên 90 ngày) và yếu tố định tính (đánh giá của tổ chức tín dụng về khả năng trả nợ của khách hàng). Như đã trình bày, quan niệm về nợ xấu giữa các quốc gia và theo thông lệ quốc tế đều căn cứ trên hai yếu tố là định tính và định lượng. Tuy nhiên, các quan niệm này mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá khoản vay thông thường trên cơ sở khả năng trả nợ hiện thời của khách hàng vay mà không đề cập đến những khoản vay đã được xử lý bằng quỹ dự phòng của tổ chức tín dụng. Những khoản nợ đã được xử lý bằng quỹ dự phòng của tổ chức tín dụng mặc dù xét về tổn thất thì đã được bù đắp, tuy nhiên về bản chất cũng như quy định của pháp luật thì vẫn cần được theo dõi, quản lý và thu hồi. Vì vậy, theo quan niệm của tác giả: Nợ xấu là những khoản nợ phát sinh từ hoạt động cho vay không được thanh toán đầy đủ cho ngân hàng hoặc được đánh giá là không có khả năng thu hồi, bao gồm cả các khoản nợ xấu thông thường (nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5 theo Điều 7 – Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN) và các khoản nợ đã xử lý bằng quỹ dự phòng của ngân hàng được theo dõi tại ngoại bảng. . Phân loại nợ xấu Trên cơ sở đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng đối với từng khoản vay trong hiện tại và tương lai, không phân biệt khoản vay hiện tại có quá hạn hay chưa, người ta chia nợ xấu thành: Nợ xấu thông thường: đảm bảo thu hồi đủ 100%. Nợ xấu khó đòi: chỉ có khả năng thu hồi được một phần hoặc thu hồi đầy đủ nhưng thời gian thu hồi kéo dài. Nợ xấu mất trắng: không có khả năng thu hồi. Căn cứ nguyên nhân có thể chia nợ xấu thành: Nợ xấu do nguyên nhân bất khả kháng: do thiên tai, do thay đổi cơ chế chính sách, ốm đau, ... Nợ xấu do lỗi của người vay: trình độ quản lý yếu kém, khả năng cạnh tranh kém dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh; cố tình trây ỳ không trả nợ… Nợ xấu do lỗi của người cho vay: trình độ chuyên môn, nghiệp vụ kém dẫn đến không quản lý, theo dõi và phát hiện sớm sai phạm của khách hàng; đồng tình với những sai phạm của khách hàng. Căn cứ việc xử lý bằng quỹ DPRR tín dụng chia nợ xấu thành: Nợ chưa được xử lý bằng quỹ DPRR tín dụng - Nợ hạch toán nội bảng Nợ đã được xử lý bằng quỹ DPRR tín dụng - Nợ hạch toán ngoại bảng Quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại Khái niệm quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại Hoạt động cho vay của NHTM luôn chứa đựng những rủi ro và khả năng phát sinh nợ xấu là một biểu hiện rõ nhất của rủi ro tín dụng. Nợ xấu phát sinh sẽ gây hậu quả không nhỏ không chỉ đến hoạt động ngân hàng mà còn tác động đến cả nền kinh tế. Vì thế, chấp nhận rủi ro để có những biện pháp ngăn ngừa rủi ro và xử lý tổn thất là việc làm cần thiết và mang lại hiệu quả trong hoạt động tín dụng ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng. Xuất phát từ tầm quan trọng và hậu quả mà nợ xấu có thể mang lại, việc quản lý nợ xấu luôn được các ngân hàng quan tâm và đề ra những yêu cầu cụ thể. Quản lý nợ xấu là quá trình xây dựng và thực thi các chính sách về nợ xấu nhằm đảm bảo mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững. Nội dung quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại Trong hoạt động của NHTM, cùng với việc xây dựng được một chính sách quản trị rủi ro từ hoạt động cho vay tốt thì việc thực thi chính sách có ý nghĩa quyết định. Quản lý nợ xấu đòi hỏi các NHTM cần phải làm tốt từ việc nhận biết nợ xấu đến các giải pháp nhằm hạn chế nợ xấu phát sinh cũng như xử lý nợ xấu đã phát sinh một cách hiệu quả. 1.2.2.1. Xác định nợ xấu Việc xác định nợ xấu cần được NHTM thực hiện định kỳ và đột xuất một cách thường xuyên ngay khi khách hàng hoặc khoản vay có những biểu hiện nhất định: a - Dấu hiệu phi tài chính Hành vi của khách hàng Tìm cách tránh gặp ngân hàng, miễn cưỡng hoặc chậm cung cấp thông tin tài chính : Khi nhận thấy hoạt động kinh doanh đang gặp vấn đề, ban lãnh đạo sẽ thường có xu hướng liên lạc với ngân hàng ít hơn so với khi đang làm ăn tốt. Khách hàng có những biểu hiện này, Ngân hàng cần tìm hiểu nguyên nhân đồng thời đánh giá toàn bộ các khoản vay hiện tại của khách hàng, cảnh báo về khả năng dẫn đến nợ xấu. Khách hàng tỏ ra không đáng tin : Trong hoạt động cho vay của Ngân hàng, việc khách hàng không giữ uy tín sẽ là một dấu hiệu rõ nét tiềm ẩn nguy cơ nợ xấu. Khả năng quản lý Bằng chứng về cãi cọ trong công ty, đặc biệt là trong đội ngũ cán bộ quản lý : Việc xảy ra mâu thuẫn giữa những người điều hành có thể ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh doanh, từ đó ảnh hưởng đến nguồn thu để trả nợ, tiềm ẩn nợ xấu. Nghỉ ốm dài hoặc bất ngờ của những nhân sự chủ chốt, mất các nhà quản lý cấp cao : Sự thay đổi bất ngờ và bất thường của đội ngũ cán bộ quản lý là dấu hiệu cảnh báo hoạt động kinh doanh có sự thay đổi theo chiều hướng bất lợi hoặc có sự vi phạm pháp luật. Tin đồn bất lợi về doanh nghiệp : Việc phát sinh tin đồn bất lợi, dù đúng hay không đúng cũng sẽ có những ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh cũng như uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng, tiềm ẩn nguy cơ phát sinh nợ xấu. Đầu tư vào lĩnh vực ngoài kinh nghiệm, chuyên môn, thiếu nhận biết về vị trí của công ty trên thị trường hoặc về vấn đề cạnh tranh : Trong thời kỳ hội nhập kinh tế sâu rộng, việc kinh doanh mạo hiểm cũng như không nhận biết được điểm mạnh, điểm yếu của mình sẽ không thể giúp doanh nghiệp phát triển mở rộng hay ít nhất là giữ vững vị thế hiện có của mình. Hoạt động kinh doanh Có hoạt động pháp lý chống lại khách hàng, bao gồm cả những khó khăn với cơ quan thuế hoặc hải quan : Việc vi phạm những quy định của pháp luật, ngay cả những lỗi đối với việc kê khai thuế, hải quan sẽ ảnh hưởng tới quyền được hoạt động kinh doanh của khách hàng theo quy định của pháp luật, có thể phải ngừng hoạt động đối với những vi phạm nghiêm trọng. Các nhà cung cấp, nhà phân phối lớn thay đổi chính sách bán, mua hàng : Việc thay đổi chính sách của các đối tác, đặc biệt là đối tác lớn sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh nói chung, doanh thu, lợi nhuận của khách hàng nói riêng. Tình hình môi trường vĩ mô : Ngân hàng cần nắm được những yếu tố vĩ mô, nằm ngoài tầm kiểm soát của người vay và ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của người vay như chi phí tăng nhưng lại không thể chuyển một phần sang cho khách hàng, lãi suất cao hơn, vấn đề về ngành kinh doanh...để chủ động đánh giá hoạt động kinh doanh của khách hàng có chịu tác động theo hướng bất lợi hay không. b - Dấu hiệu tài chính Kế quả kinh doanh Doanh thu tăng quá nhanh nhưng vốn lưu động không sẵn sàng đủ do tăng cường chính sách bán chịu hoặc phải chịu sức ép cạnh tranh, chênh lệch lợi nhuận biên thấp sẽ ảnh hưởng tới vốn duy trì hoạt động cũng như khả năng thanh toán của khách hàng. Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận thấp hơn mức bình quân của ngành. Các khoản thu nhập và chi phí bất thường tăng đột biến. Xuất hiện lỗ ròng hoặc lưu chuyển tiền tệ âm : Một doanh nghiệp sẽ không thể duy trì được lâu sự tồn tại của mình trong những điều kiện như vậy. Tài sản cố định Giá trị còn lại tài sản cố định giảm mạnh : khách hàng thực hiện bán, thanh lý tài sản nằm ngoài kế hoạch thay mới, dấu hiệu khách hàng có thể gặp khó khăn, chuyển đổi tài sản cố định thành tài sản có tính lỏng cao hơn, thuận tiện cho việc thu hẹp hoặc ngừng hoạt động. Tốc độ đầu tư tài sản cố định tăng quá nhanh : việc đầu tư tài sản cố định quá mức, nằm ngoài khả năng tài chính cũng như huy động vốn của khách hàng sẽ ảnh hưởng tới khả năng thanh toán cũng như vốn lưu động phục vụ kinh doanh của khách hàng. Hoạt động của tài sản thấp bất thường : dấu hiệu cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh có nguy cơ bị thu hẹp hoặc khách hàng có khó khăn về vốn lưu động để duy trì hoạt động sản xuất. Cơ cấu tài chính và quản lý nợ vay Cơ cấu nợ vay/vốn chủ sở hữu thay đổi đột biến theo chiều hướng tăng tỷ trọng vốn vay. Tốc độ tăng nợ vay không tương xứng với tốc độ tăng doanh thu. Trì hoãn tăng vốn hoặc tài trợ dài hạn, hoặc tăng vốn nhưng với mức lãi suất cao. Thu nhập để lại có xu hướng giảm dần. Khả năng trả lãi kém đi. Yêu cầu ngân hàng thay đổi các điều khoản đảm bảo hoặc các cam kết trả nợ. Các khoản phải thu và phải trả Vòng quay các khoản phải thu/phải trả thương mại chậm lại : Giá trị các khoản phải thu cũng như thời gian các khoản phải thu đều quan trọng. Những khoản phải thu bị chậm thanh toán, quá hạn hoặc không thể thu hồi sẽ ảnh hưởng tới năng lực tài chính của khách hàng. Cùng với đó, các khoản phải trả tăng đột biến cho thấy khách hàng đang gặp khó khăn, bắt đầu phải trì hoãn các khoản phải trả và đây cũng chính là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy có vấn đề rắc rối. Các khoản phải thu, phải trả quá tập trung vào một số đối tác lớn. Các khoản dự phòng phải thu khó đòi tăng nhanh. Hàng tồn kho Hàng tồn kho quá nhiều : điều này có thể thấy doanh nghiệp đang vận hành dưới mức năng lực bán hàng của mình hoặc doanh thu giảm. Nguyên vật liệu mua bị trả lại nhiều Các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho tăng nhanh Trên cơ sở những dấu hiệu và số liệu nêu trên, ngân hàng sẽ thực hiện đánh giá khách hàng, khả năng hoàn trả nợ vay cho ngân hàng để xác định khoản nợ đó là nợ xấu hay không. Việc xác định khoản vay là nợ xấu sẽ dựa trên mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng của các dấu hiệu về tài chính và phi tài chính đến khả năng trả nợ của khách hàng, trên cơ sở thiết lập một bộ chỉ tiêu (bao gồm các dấu hiệu tài chính và phi tài chính) quy đổi theo tỷ lệ nhất định tương ứng với khả năng trả nợ của khách hàng. Thông thường, việc đánh giá khách hàng, khả năng trả nợ cũng như xác định nợ xấu được các NHTM chuẩn hóa thành Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ bao gồm các chỉ tiêu về tài chính, phi tài chính được lượng hóa theo thang điểm 100. Theo đó, việc phân loại khách hàng sẽ được phân chia thành mười mức khác nhau, trên cơ sở đó NHTM sẽ thực hiện xác định, phân loại các khoản vay của những khách hàng này theo năm nhóm nợ tương ứng, cụ thể : Bảng 1.1 – Phân loại khách hàng, phân loại nợ Tổng số điểm Xếp hạng Phân loại nợ Từ Đến 91 100 AAA Đủ tiêu chuẩn 81 90 AA Đủ tiêu chuẩn 71 80 A Đủ tiêu chuẩn 66 70 BBB Cần chú ý 61 65 BB Cần chú ý 56 60 B Dưới tiêu chuẩn 51 55 CCC Dưới tiêu chuẩn 46 50 CC Nghi ngờ 41 45 C Nghi ngờ 0 40 D Có khả năng mất vốn Theo đó, các khách hàng được xếp loại từ 3B đến D thì các khoản vay của các khách hàng này tương ứng sẽ được xác định là nợ xấu. Ngoài ra, những khoản nợ đã được xử lý bằng quỹ dự phòng của Ngân hàng, đang được theo dõi tại ngoại bảng cũng là các khoản nợ xấu. 1.2.2.2. Xử lý nợ xấu */ Đôn đốc thu hồi nợ  Các NHTM cần tiến hành phân tích, phân loại các khoản nợ xấu để từ đó đề ra biện pháp đôn đốc, thu hồi, xử lý phù hợp với từng khoản vay. Cần quản lý tài chính chặt chẽ với các khách hàng có nợ xấu, đặc biệt là các khách hàng lớn. Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động thì cần tạo điều kiện để họ duy trì hoạt động bình thường. Các biện pháp đôn đốc thu hồi chỉ nên thực hiện trong một thời gian nhất định đồng thời cần vận dụng kết hợp với một số biện pháp khác. */ Tái cơ cấu các khoản nợ, tái cấu trúc doanh nghiệp Biện pháp này được áp dụng đối với những khoản nợ có khả năng thu hồi. Sau khi thương lượng với khách hàng về giải pháp thực thi cũng như yêu cầu cam kết của khách hàng, Ngân hàng có thể áp dụng các phương pháp sau : Gia hạn nợ : là việc khách hàng được phép kéo dài thêm thời hạn trả nợ cuối cùng. Đây là phương án giúp khách hàng giảm bớt được áp lực thanh toán nợ trong một khoảng thời gian nhất định, từ đó có thể phục hồi hoạt động kinh doanh cũng như thu xếp vốn để trả nợ ngân hàng. Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ : là việc khách hàng được thay đổi thời gian trả từng phần của khoản nợ hoặc thay đổi số tiền từng kỳ trả nợ đã thỏa thuận ban đầu nhưng không làm thay đổi tổng số tiền phải trả và thời hạn trả hết nợ cuối cùng. Cấp thêm vốn cho khách hàng : Ngân hàng chỉ xem xét cấp thêm vốn khi khách hàng chứng minh được kế hoạch kinh doanh sẽ giúp khách hàng vượt qua giai đoạn khó khăn và chắc chắn có hiệu quả. Việc áp dụng phương pháp này có tính mạo hiểm vì thế cần được cân nhắc và kiểm soát chặt chẽ. Chứng khoán hóa các khoản nợ : Ngân hàng có thể chuyển các khoản nợ xấu thành vốn cổ phần đối với các doanh nghiệp cổ phần. Ngân hàng áp dụng biện pháp này khi các khách hàng gặp khó khăn nhưng được đánh giá là có triển vọng phục hồi. Trong trường hợp khách hàng là cổ đông của Ngân hàng thì Ngân hàng có thể tạo điều kiện để cổ đông đó bán cổ phiếu cho bên thứ ba để trả nợ Ngân hàng. */ Xử lý tài sản bảo đảm, yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh Khi các khoản nợ xấu không thể cơ cấu, khách hàng trây ỳ không thanh toán hoặc không có khả năng thanh toán nợ thì Ngân hàng sẽ tiến hành các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm hoặc yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Thanh lý tài sản bảo đảm tiền vay : Thông thường khi xét duyệt cho vay, khách hàng cần có tài sản bảo đảm nhất định để đảm bảo cho nghĩa vụ nợ tại ngân hàng. Khi khách hàng không trả nợ, ngân hàng sẽ xem xét áp dụng biện pháp xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Tài sản sau khi hoàn tất các thủ tục pháp lý để bàn giao cho Ngân hàng, ngân hàng có thể sẽ tự bán công khai tài sản ; hoặc bán qua trung tâm bán đấu giá tài sản ; hoặc bán cho Công ty mua bán nợ Quản lý, khai thác tài sản : Tùy theo trường hợp cụ thể, ngân hàng có thể tiếp nhận tài sản, tiếp tục quản lý, khai thác tài sản để thu hồi nợ Yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh : Trong trường hợp việc đòi nợ từ phía người vay gặp khó khăn, ngân hàng có thể yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh dưới hình thức thanh toán nợ trực tiếp hoặc xử lý tài sản bảo đảm của người bảo lãnh. */ Bán các khoản nợ Ngân hàng thường áp dụng biện pháp này khi không muốn mất thời gian hoặc bản thân ngân hàng đã có một tổ chức chuyên môn hóa trong việc xử lý nợ đó là Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC). Việc bán lại các khoản nợ xấu (hay quyền đòi nợ) cho một tổ chức khác (có thể là một ngân hàng hoặc AMC) sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu được nợ xấu. Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp này ngân hàng thường phải chấp nhận bán lại các khoản nợ với giá trị thấp hơn quyền đòi nợ hiện tại, từ đó gây ra những tổn thất nhất định đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. */ Sử dụng công cụ pháp lý để đòi nợ Để áp dụng biện pháp này đạt hiệu quả, ngân hàng cần đảm bảo hồ sơ khoản vay đầy đủ và phù hợp về mặt pháp lý. Ngân hàng thực hiện kiện khách hàng ra tòa để đòi nợ. Phán quyết của tòa án sẽ buộc khách hàng trả nợ hoặc chuyển giao tài sản bảo đảm tiền vay cho ngân hàng để xử lý thu hồi nợ. Trường hợp khách hàng là các doanh nghiệp không trả được nợ, ngân hàng với tư cách là chủ nợ chính có thể làm đơn xin mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo luật phá sản. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp này thường không mang lại nhiều kết quả do thủ tục rắc rối, mất nhiều thời gian và chế tài giám sát việc thi hành quyết định của tòa án chưa thật sự phát huy hiệu quả. */ Xử lý bằng vốn Ngân sách Nợ xấu phát sinh từ các khoản cho vay theo chính sách của Chính phủ thì Chính phủ phải đứng ra giải quyết, bù đắp tổn thất cho các NHTM. Chính phủ sẽ dùng vốn ngân sách để mua lại toàn bộ nợ xấu thuộc diện cho vay theo chính sách của Chính phủ, sau đó xử lý dần trong một số năm. Biện pháp này có hạn chế do ngân sách là có hạn, Chính phủ luôn phải cân nhắc chi tiêu ngân sách và không phải khoản nợ xấu nào phát sinh cũng được xử lý trong thời gian ngắn. 1.3. Nhân tố ảnh hưởng tới Quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 1.3.1. Nhân ._.tố chủ quan Chính sách quản lý rủi ro Chính sách quản lý rủi ro là một hệ thống các quy định nhằm điều chỉnh hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng phù hợp với chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ. Bản thân hoạt động cho vay của ngân hàng luôn chứa đựng rủi ro. Việc xây dựng chính sách quản lý rủi ro là kim chỉ nam cho hoạt động cho vay. Chính sách quản lý rủi ro giúp định hướng phát triển hoạt động cho vay trên cơ sở chấp nhận một mức độ rủi ro nhất định, đồng thời cũng sẽ tác động trực tiếp đến quản lý nợ xấu phát sinh từ hoạt động cho vay. Việc tăng cường hay nới lỏng quản lý nợ xấu luôn phải tuân theo định hướng và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng. Khi tỷ lệ nợ xấu cũng như mức độ rủi ro tiềm ẩn vượt ra ngoài giới hạn rủi ro cho phép thì ngân hàng cần áp dụng ngay những biện pháp hữu hiệu để quản lý và kiểm soát nợ xấu. Quy trình cho vay Mỗi ngân hàng khi triển khai bất kỳ sản phẩm, dịch vụ nào cũng cần phải ban hành quy trình hướng dẫn cụ thể về sản phẩm, dịch vụ, cách thức thực hiện. Việc ban hành quy trình cho vay chi tiết, rõ ràng sẽ giúp cho nhân viên ngân hàng hiểu và triển khai nghiệp vụ có hiệu quả, hạn chế được những lỗi vi phạm quy trình cho vay không chủ đích, tránh ảnh hưởng tới chất lượng các khoản cho vay. Bên cạnh đó, với quy trình cho vay chuẩn xác, việc rà soát, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời các sai phạm, thiếu sót sẽ được thực hiện dễ dàng hơn. Điều này đồng nghĩa với công tác quản lý nợ xấu cũng sẽ được điều chỉnh mức độ cho phù hợp. Công tác phân tích, đánh giá, lựa chọn khách hàng, dự án vay vốn Việc phân tích, đánh giá, lựa chọn khách hàng, dự án để tài trợ vốn là khâu quan trọng, quyết định đến mức độ rủi ro cũng như khả năng sinh lời của mỗi khoản vay. Khi quyết định cho vay được đưa ra trên cơ sở các phân tích, đánh giá đầy đủ, khách quan sẽ giúp hạn chế được khả năng phát sinh nợ xấu. Từ đó ảnh hưởng tới công tác lập kế hoạch và triển khai quản lý nợ xấu phát sinh. Phân tích, đánh giá, lựa chọn khách hàng, dự án vay vốn cần tập trung một số điểm sau: Năng lực pháp lý: khi có đề xuất vay vốn, khách hàng cần đáp ứng được yêu cầu về năng lực pháp lý (tư cách pháp nhân đối với doanh nghiệp, năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân sự đối với cá nhân) và đảm bảo hoạt động kinh doanh theo ngành nghề đã đăng ký và/hoặc không thuộc các ngành pháp luật cấm. Đây là điều kiện đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của Ngân hàng và khách hàng trước pháp luật. Uy tín của khách hàng vay vốn: Đối với khách hàng cũ, uy tín được đánh giá qua quá trình quan hệ vay vốn tại ngân hàng, mối quan hệ với các bạn hàng, đối tác của khách hàng. Đối với khách hàng mới, uy tín được đánh giá chủ yếu thông qua các nguồn thông tin bên ngoài như từ phía cơ quan quản lý nhà nước, các ngân hàng khác, trung tâm thông tin tín dụng….Uy tín của khách hàng sẽ thể hiện sự sẵn lòng và cam kết trả nợ vô điều kiện của người vay. Năng lực tài chính: Tiềm lực tài chính tốt là cơ sở quan trọng giúp khách hàng giành lợi thế trong cạnh tranh cũng như đảm bảo khả năng hoàn trả các nghĩa vụ nợ tại Ngân hàng. Hiệu quả của dự án đầu tư: đánh giá hiệu quả của dự án sẽ quyết định đến việc ngân hàng có tài trợ vốn hay không. Một dự án không khả thi về phương diện tài chính sẽ không được NHTM xem xét tài trợ vốn bởi nguồn trả nợ chính của khách hàng là từ tiền thu về từ dự án đầu tư. Đây là một nguyên tắc nhằm đảm bảo khả năng hoàn trả vốn vay của khách hàng. Tài sản bảo đảm: đây là nguồn vốn dự phòng trong trường hợp nguồn trả nợ của khách hàng không đủ để thực hiện nghĩa vụ nợ đối với ngân hàng. Việc đảm bảo tính pháp lý, giá trị của tài sản bảo đảm cũng như tính khả mại sẽ giúp cho quá trình xử lý nợ xấu (nếu có) đạt hiệu quả cao, tiết kiệm thời gian, chi phí và hạn chế tối đa tổn thất. Tuy nhiên, cần xác định tài sản bảo đảm chỉ nhằm mục đích phòng chống rủi ro chứ không phải nhằm mục đích bù đắp cho các khoản thua lỗ. Khi quyết định cho vay, phân tích khả năng hoàn trả nợ vay vẫn là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ hoạt động cho vay Sau khi giải ngân khoản vay, ngân hàng cần thực hiện việc theo dõi khoản vay, nắm bắt tình hình của khách hàng nhằm phát hiện càng sớm càng tốt các khoản vay có vấn đề hoặc tiềm ẩn rủi ro để có những biện pháp xử lý kịp thời. Bên cạnh đó, hoạt động kiểm soát cũng góp phần phát hiện, ngăn chặn những rủi ro đạo đức do nhân viên ngân hàng gây ra. Khi thiết lập được hệ thống kiểm tra, kiểm soát độc lập, vận hành có hiệu quả sẽ góp phần hỗ trợ rất tốt cho công tác quản lý hoạt động cho vay nói chung và quản lý nợ xấu nói riêng. Sự ứng dụng công nghệ tin học ngân hàng Ngày nay, việc ứng dụng công nghệ tin học có ảnh hưởng rất lớn, chi phối mọi hoạt động của ngân hàng. Nền tảng công nghệ tốt sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng tiết kiệm được thời gian, nhân lực trong quản lý nói chung và theo dõi các khoản vay nói riêng. Ứng dụng công nghệ tin học trong thực hiện các chính sách quản lý nợ xấu sẽ giúp tăng cường công tác quản lý, cảnh báo và phát hiện kịp thời những khoản vay suy giảm chất lượng do vi phạm cam kết hoàn trả. 1.3.2. Nhân tố khách quan Sự tăng trưởng của nền kinh tế Nền kinh tế thị trường, với sự tham gia bình đẳng của các thành phần kinh tế đã tạo động lực cho sự tăng trưởng ở tất cả các ngành, lĩnh vực. Hoạt động ngân hàng luôn chịu tác động mạnh mẽ của tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế tăng trưởng kéo theo nhu cầu đầu tư cũng gia tăng, từ đó thúc đẩy hoạt động cho vay phát triển. Cùng với mở rộng hoạt động cho vay, tăng dư nợ tín dụng là những vấn đề về rủi ro tín dụng, nợ xấu. Hoạt động cho vay nếu không được kiểm soát tốt, tăng trưởng quá nóng sẽ dẫn đến những hậu quả nặng nề, ảnh hưởng đến sự tồn tại của ngân hàng. Chính vì thế, khi nền kinh tế tăng trưởng và hoạt động cho vay được mở rộng quá mức, nằm ngoài kế hoạch của ngân hàng thì việc quản lý nợ xấu cần được đặc biệt chú trọng và triển khai kịp thời. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần phải tính toán phần bù rủi ro hợp lý để không vì thế mà mất đi cơ hội gia tăng hoạt động cho vay của mình. Điều hành Chính sách tiền tệ Là một công cụ hữu hiệu của Chính phủ nhằm điều tiết nền kinh tế theo những mục tiêu định trước, chính sách tiền tệ có tác động sâu rộng đến toàn bộ nền kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Với chính sách tiền tệ nới lỏng, lãi suất tín dụng sẽ được điều chỉnh theo hướng giảm xuống, theo đó hoạt động đầu tư cũng được thúc đẩy, cho vay có điều kiện để mở rộng. Ngược lại, với chính sách tiền tệ thắt chặt, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên, lãi suất tín dụng cũng được điều chỉnh tăng, hoạt động cho vay bị thu hẹp. Tuy nhiên, khi áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt cần phải tính đến tương quan với mục tiêu tăng trưởng, tránh tình trạng lãi suất tín dụng tăng quá mức, ảnh hưởng tới chi phí vốn và khả năng chi trả của người vay, từ đó gia tăng các khoản nợ xấu. Trong trường hợp Chính phủ áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, bản thân các ngân hàng cần phải thực hiện đánh giá ngay tình trạng các khoản vay và tăng cường quản lý nợ xấu theo hướng phòng ngừa, kiểm soát nợ xấu mới phát sinh và giám sát chặt chẽ, tích cực thu hồi các khoản nợ xấu đã phát sinh. Hệ thống pháp luật, quy định của Nhà nước Bất kỳ hoạt động nào của nền kinh tế nếu muốn vận hành tốt cũng cần được thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật và được pháp luật điều tiết. Hoạt động ngân hàng cũng vậy, việc thực hiện các quy định của nhà nước sẽ giúp ngân hàng hoạt động có định hướng và tránh được những rủi ro pháp lý. Hệ thống pháp luật nói chung và quy định về việc quản lý nợ xấu, xác định nợ xấu buộc các ngân hàng phải tuân thủ. Theo đó, các ngân hàng thương mại sẽ phải xác định, xử lý nợ xấu trong một khuôn khổ nhất định, theo tiến trình và những biện pháp mà Nhà nước cho phép. Bên cạnh đó, trên cơ sở giám sát thực hiện các quy định về nợ xấu, Nhà nước có thể hỗ trợ tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc nằm ngoài chức năng xử lý của NHTM. Ngoài ra, các quy định của Nhà nước có liên quan đến từng ngành, lĩnh vực cũng như từng thành phần kinh tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc hoạch định chính sách tín dụng nói chung và quản lý nợ xấu nói riêng cho từng ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế tương ứng. Để việc quản lý nợ xấu đạt hiệu quả thì bản thân Ngân hàng không thể không quan tâm đến chính sách, quy định hiện hành của Nhà nước đối với những lĩnh vực đã và đang tiềm ẩn nguy cơ nợ xấu. Nhân tố thuộc về khách hàng Phân loại khách hàng tốt sẽ giúp ngân hàng dễ dàng hơn trong việc đưa ra các chính sách tín dụng nói chung và biện pháp quản lý nợ xấu có hiệu quả. Tùy theo kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ, đánh giá tính chất các khoản nợ xấu, ngân hàng sẽ áp dụng biện pháp quản lý đối với từng khoản nợ xấu cụ thể. Đối với nhóm khách hàng là doanh nghiệp: Quản lý nợ xấu cần được thực hiện trên cơ sở phân tích các nhân tố chủ yếu: tình hình tài chính, đặc điểm hoạt động, quan hệ đối tác, tính pháp lý đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp… Đối với nhóm khách hàng là cá nhân: Quản lý nợ xấu cần chú trọng đến nhân thân của người vay, các mối quan hệ họ hàng, đồng nghiệp, nguồn thu nhập và tài sản của người vay, người bảo lãnh…. Nhìn chung, các nhân tố từ phía khách hàng có ảnh hưởng trực tiếp, chi phối đến hoạt động quản lý nợ xấu của ngân hàng. Việc quản lý, thu hồi nợ xấu chỉ có thể đạt kết quả khi khách hàng có ý thức trả nợ đồng thời phải có khả năng hoàn trả. Với nghiên cứu lý luận về hoạt động của NHTM nói chung, quản lý nợ xấu nói riêng trên đây, tác giả đã đưa ra quan niệm về nợ xấu, quản lý nợ xấu, các tiêu chí xác định nợ xấu, biện pháp xử lý nợ xấu và hệ thống các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nợ xấu. Nhằm hiểu đầy đủ và sâu sắc hơn những vấn đề này trên thực tế hoạt động của NHTM, tác giả tập trung nghiên cứu thực tiễn quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải Phòng và dùng lý luận này để phân tích, đánh giá cũng như tìm ra nguyên nhân cụ thể làm cho quản lý nợ xấu của chi nhánh còn hạn chế. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG TMCP QUÂN ĐỘI – CHI NHÁNH HẢI PHÒNG 2.1. Khái quát về Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng */ Sự hình thành và phát triển Ngân hàng TMCP Quân đội được thành lập theo Giấy phép thành lập số 0054/NH-GP do Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam cấp ngày 14/09/1994 và Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 060297 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp ngày 30/09/1994. Số vốn điều lệ ban đầu là 20 tỷ đồng với định hướng chủ yếu trong giai đoạn đầu là phục vụ các doanh nghiệp Quân đội tham gia phát triển kinh tế và thực hiện nhiệm vụ Quốc phòng. Theo sự phát triển của nền kinh tế cùng với sự lớn mạnh của Ngân hàng TMCP Quân đội, nhiệm vụ và mục tiêu của Ngân hàng từng bước được thay đổi phù hợp với định hướng trở thành một ngân hàng bán lẻ, đa năng và là một trong những Ngân hàng hàng đầu của Việt Nam. Trải qua hơn 14 năm hoạt động, vốn điều lệ ban đầu chỉ có 20 tỷ đồng, duy nhất một trụ sở chính tại 28A Điện Biên Phủ - Ba Đình - Hà Nội, đến nay đã có những bước phát triển vượt bậc: vốn điều lệ năm 2006 là 1,045.2 tỷ đồng, đến cuối năm 2007 đạt 2,000 tỷ đồng và cuối năm 2008 là 3,400 tỷ đồng; Tổng tài sản tăng từ 32 tỷ đồng năm 1995 lên 27,776 tỷ đồng vào năm 2007 và trên 41,800 tỷ đồng năm 2008. Lợi nhuận trước thuế tăng từ 4.8 tỷ đồng năm 1995 lên 451 tỷ đồng năm 2007 và năm 2008 là trên 770 tỷ đồng. Ngân hàng Quân đội liên tục phát triển mở rộng mạng lưới tại các trung tâm kinh tế lớn trên khắp cả nước, cho đến cuối năm 2008 đã nâng tổng số điểm giao dịch lên 90 điểm. Bên cạnh đó, Ngân hàng luôn chú trọng mở rộng quan hệ hợp tác với các Ngân hàng trên thế giới nhằm đảm bảo khả năng thanh toán trên toàn cầu, cho đến nay hệ thống mạng lưới ngân hàng đại lý đã mở rộng lên tới 700 Ngân hàng thuộc 75 quốc gia trên khắp các châu lục. Liên tục nhiều năm liền Ngân hàng Quân đội được xếp trong nhóm top 5 Ngân hàng ngoài quốc doanh lớn nhất Việt Nam và nhận được nhiều giải thưởng cao quý như Sao Vàng Đất Việt, Ngân hàng Thanh toán tốt nhất trong năm, Thương hiệu mạnh Việt Nam 2008….. Cùng với nhu cầu phát triển mạng lưới, Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải Phòng được thành lập theo quyết định số 140/1998/QĐ-NHNN ngày 20/04/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Đăng ký kinh doanh số 0054/308918 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Phòng cấp ngày 20/05/1998. Trụ sở chính hiện đặt tại số 06 Máy Tơ – Ngô Quyền – Hải Phòng. Ban đầu, chi nhánh chỉ với 10 cán bộ nhân viên hoạt động chủ yếu là phục vụ các đơn vị Quân đội đóng quân trên địa bàn thuộc Quân khu Ba và Quân chủng Hải Quân. Sau 10 năm phát triển, đến nay chi nhánh đã thực hiện đa dạng hóa hoạt động kinh doanh đối với mọi thành phần kinh tế, cung cấp đầy đủ dịch vụ của một chi nhánh NHTM tại Việt Nam. Kết quả hoạt động kinh doanh luôn duy trì tốc độ tăng trưởng trên 50% trong ba năm trở lại đây. Lợi nhuận trước thuế năm 2006 là 10.5 tỷ đồng, năm 2007 là 15.9 tỷ đồng và đạt 25.4 tỷ đồng năm 2008. */ Bộ máy tổ chức và mạng lưới Bộ máy tổ chức của Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải Phòng hiện nay gồm 05 phòng nghiệp vụ, 03 phòng giao dịch và 01 chi nhánh trực thuộc nằm trên địa bàn các quận nội thành Hải Phòng và huyện Thủy Nguyên. Với đội ngũ 95 cán bộ nhân viên, tuổi đời trung bình 27 tuổi, trình độ đại học chiếm trên 95% tổng số nhân viên, chi nhánh Hải Phòng được tổ chức theo cơ cấu tổ chức chung của Ngân hàng TMCP Quân đội đối với chi nhánh có dư nợ trên 800 tỷ. Sơ đồ 2.1: - Sơ đồ tổ chức bộ máy GIÁM ĐỐC PHÒNG QLTD PHÒNG HÀNH CHÍNH TH PHÓ GIÁM ĐỐC KD PHÓ GIÁM ĐỐC TC PHÒNG KHCN (BP: QHKH, THẺ, HỖ TRỢ) PHÒNG KHDN (BP: QHKH VÀ HỖ TRỢ) PGD LẠCH TRAY (BP: QHKH, DVKH) CN NGÔ QUYỀN (BP: QHKH, DVKH) PGD TRẦN PHÚ (BP: QHKH, DVKH) PGD THỦY NGUYÊN (BP: QHKH, DVKH) PHÒNG KẾ TOÁN VÀ DVKH (BP: KẾ TÓAN, TELLER, QUỸ) Theo mô hình này, chức năng cụ thể của các phòng ban như sau: Ban lãnh đạo: Giám đốc chịu trách nhiệm quản lý chung và trực tiếp điều hành hoạt động của Phòng hành chính tổng hợp, Phòng Quản lý tín dụng. 01 Phó Giám đốc phụ trách kinh doanh 01 Phó Giám đốc phụ trách tài chính Phòng quản lý tín dụng: Thực hiện thẩm định độc lập các khoản tín dụng theo quy định trước khi các bộ phận kinh doanh trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Quản lý, đánh giá, đề xuất biện pháp hạn chế rủi ro sẽ phát sinh trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Phòng Hành chính, tổng hợp: Thực hiện công tác hành chính, xây dựng cơ bản. Đồng thời đề xuất, xây dựng và tổ chức thực hiện các vấn đề liên quan đến nhân sự như: tuyển dụng, đào tạo; bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, nhân viên trong phạm vi được phân cấp. Phòng kế toán và dịch vụ khách hàng: Tổ chức thực hiện việc hạch toán kế toán của chi nhánh và các đơn vị trực thuộc chính xác, đầy đủ và kịp thời theo chế độ quy định. Lập kế hoạch, quản lý và theo dõi việc thực hiện thu chi tài chính, chấp hành chế độ báo cáo thống kê, quyết toán tài chính với Hội sở, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước. Phổ biến, hướng dẫn thủ tục và thực hiện các dịch vụ giao dịch như: thanh toán, chuyển tiền, chi trả kiều hối và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng. Phòng khách hàng doanh nghiệp: Tổ chức thực hiện nghiệp vụ tín dụng theo đúng quy định của pháp luật và của ngân hàng Quân đội đối với khách hàng là các doanh nghiệp, Hợp tác xã. Phòng khách hàng cá nhân: Tổ chức thực hiện nghiệp vụ tín dụng theo đúng quy định của pháp luật và của ngân hàng Quân đội đối với khách hàng là các cá nhân. Phát triển các sản phẩm dịch vụ tiện ích như thẻ ATM, POS, dịch vụ chuyển tiền… Các chi nhánh, phòng giao dịch trực thuộc: Thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, dịch vụ ngân hàng theo quy định của nhà nước và Ngân hàng Quân đội. Đảm bảo an toàn và hoạt động hiệu quả theo kế hoạch Giám đốc giao. 2.1.2. Hoạt động chủ yếu của Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng 2.1.2.1. Huy động vốn Huy động vốn là hoạt động cơ bản và hết sức quan trọng đối với NHTM nói chung và Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải Phòng nói riêng. Hoạt động huy động vốn sẽ là nền tảng để các hoạt động khác mở rộng phát triển, đặc biệt là hoạt động cho vay, dịch vụ thanh toán, chuyển tiền… Bảng 2.1: - Kết quả huy động vốn Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) +/-% Số tiền Tỷ trọng (%) +/-% Tổng vốn huy động 695,501 100 808,918 100 16.3 992,173 100 22.7 1. Tiền gửi của khách hàng 649,689 93.4 795,294 98.3 22.4 977,819 98.6 23.0 - Tiền gửi không kỳ hạn 249,141 35.8 262,337 32.4 5.3 272,256 27.4 3.8 - Tiền gửi có kỳ hạn 9,623 1.4 12,783 1.6 32.8 54,287 5.5 324.7 - Tiền gửi tiết kiệm 390,925 56.2 520,174 64.3 33.1 651,276 65.6 25.2 2. Tiền gửi của TCTD 45,812 6.6 13,624 1.7 -70.3 14,353 1.4 5.4 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2006 – 2008) Hoạt động huy động vốn của chi nhánh khá đa dạng và có sự tăng trưởng liên tục qua các năm. Tăng trưởng huy động vốn năm 2008 so với năm 2007 tăng mạnh hơn năm 2007 so với năm 2006, cùng với đó là cơ cấu nguồn vốn cũng có sự thay đổi. Bên cạnh nguồn vốn huy động thông thường từ dân cư, chi nhánh còn huy động nguồn vốn từ các Tổ chức tín dụng khác. Huy động tiền gửi không kỳ hạn: Mặc dù tỷ trọng tiền gửi không kỳ hạn trong tổng vốn huy động có sự sụt giảm qua các năm, tuy nhiên xét về số tuyệt đối thì vẫn có sự tăng trưởng, năm 2008 huy động tiền gửi không kỳ hạn tăng 10,256 triệu đồng so với năm 2007. Cơ cấu huy động vốn có sự dịch chuyển từ tiền gửi không kỳ hạn sang tiền gửi có kỳ hạn. Đây cũng là xu hướng tất yếu khi mà có sự chênh lệch tương đối lớn về lãi suất giữa tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn. Chi nhánh có lượng vốn không kỳ hạn đạt mức cao là do tận dụng được nguồn huy động chủ yếu từ các khách hàng là: Bộ Tư Lệnh Hải Quân và các đơn vị trực thuộc Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Với lượng vốn không kỳ hạn lớn, chi phí thấp sẽ là cơ sở làm gia tăng lợi nhuận cho chi nhánh. Huy động tiền gửi có kỳ hạn: Đây là lượng tiền huy động chủ yếu theo các Hợp đồng tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức. Tiền gửi có kỳ hạn năm 2008 có sự gia tăng mạnh cả về lượng và tỷ trọng so với năm 2007. Mặc dù chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ (5.5%) trong tổng vốn huy động, nhưng đây lại là nguồn vốn với mức chi phí trung bình và tương đối ổn định theo các thỏa thuận tại Hợp đồng tiền gửi. Huy động tiền gửi tiết kiệm: Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn huy động và có sự tăng trưởng mạnh qua các năm, vốn huy động tiết kiệm từ dân cư là nguồn vốn chủ lực cung ứng cho hoạt động cho vay của chi nhánh. Năm 2008 là một năm đầy khó khăn và có nhiều biến động đối với hoạt động huy động vốn của các NHTM, tuy nhiên với uy tín của mình và lòng tin của dân cư đối với thương hiệu MB mà lượng vốn huy động tiền gửi tiết kiệm của chi nhánh vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 25.2% so với năm 2007, cao hơn tốc độ tăng của tổng vốn huy động. Huy động tiền gửi của Tổ chức tín dụng: Vốn huy động này phát sinh chủ yếu kèm theo hoạt động cho vay ủy thác của Ngân hàng. Theo đó, lượng vốn sẽ tăng giảm tùy thuộc vào dư nợ cho vay ủy thác. Vì thế mà vốn huy động đã có sự sụt giảm mạnh qua các năm. Theo phương thức cho vay ủy thác, nguồn vốn huy động này chỉ mang tính chất theo dõi, hạch toán mà không phải trả lãi tiền gửi. 2.1.2.2. Hoạt động tín dụng Hoạt động tín dụng của chi nhánh chủ yếu là hoạt động cho vay và bảo lãnh đối với nền kinh tế. Các nghiệp vụ mua - bán vốn trên thị trường liên ngân hàng, đầu tư, kinh doanh ngoại tệ... đều được tập trung về cơ quan Hội sở. Ngân hàng TMCP Quân đội qui định việc quản lý vốn tập trung trên toàn hệ thống nhằm nâng cao hiệu quả quản lý cũng như điều tiết vốn, đảm bảo khả năng thanh khoản và hiệu quả kinh doanh vốn. Theo đó, vốn để đáp ứng nhu cầu của hoạt động tín dụng sẽ là vốn đi mua lại của Hội sở với mức chênh lệch giữa lãi suất bán và mua được qui định theo từng thời kỳ khác nhau cho từng kỳ hạn cho vay. Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng và luôn tạo ra thu nhập chủ yếu của chi nhánh trong suốt nhiều năm qua. Bảng 2.2: - Kết quả hoạt động cho vay Đơn vị: Triệu đồng STT Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) +/-% Số tiền Tỷ trọng (%) +/-% 1 Cho vay ngắn hạn 399,028 68.00 514,951 64.56 29.05 586,663 61.99 13.93 2 Cho vay trung, dài hạn 187,750 32.00 282,699 35.44 50.57 359,663 38.01 27.22 Tổng cộng 586,778 100 797,650 100 35.94 946,327 100 18.64 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2006 – 2008) Nhìn chung, hoạt động cho vay có sự tăng trưởng qua các năm, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng cũng như dư nợ năm 2008/2007 so với 2007/2006 có sự sụt giảm. Nguyên nhân chủ yếu là do sau giai đoạn hoạt động tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng tăng trưởng quá nóng, bước sang năm 2008 khi mà nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng phải đối diện với lạm phát, suy thoái thì hoạt động cho vay cũng bị thu hẹp, kéo theo đó là tốc độ tăng trưởng dư nợ có giảm so với giai đoạn trước. Mặc dù vậy, xét về số tuyệt đối thì dư nợ tại chi nhánh vẫn có sự gia tăng so với thời điểm cuối năm 2007. Tuy tỷ trọng cho vay trung dài hạn có chiều hướng tăng trong tổng dư nợ nhưng cơ cấu dư nợ theo kỳ hạn của chi nhánh vẫn ở mức độ tương đối hợp lý và nằm trong giới hạn định hướng của Ngân hàng Quân đội. Bên cạnh cho vay, hoạt động bảo lãnh của chi nhánh cũng có sự tăng trưởng khá. Cụ thể: (Nguồn: Cân đối ngoại bảng năm 2006 – 2008) Tổng giá trị bảo lãnh năm 2008 tăng trên 21% so với cuối năm 2007, đạt 288,191 triệu đồng, chủ yếu là bảo lãnh cho các đơn vi quốc phòng thực hiện thi công các công trình xây lắp như Xí nghiệp 7, Xí nghiệp 141, Xí nghiệp TK 21. So với năm 2007, giá trị bảo lãnh thanh toán giảm 15.54% tương đương giảm 4.66 tỷ đồng là do tại thời điểm cuối năm một số bảo lãnh hết thời hạn thanh toán. Nhìn chung, hoạt động bảo lãnh của chi nhánh phát triển tương đối tốt và làm gia tăng đáng kể doanh thu từ những hoạt động ngoài cho vay của chi nhánh theo đúng mục tiêu của NHTM hiện đại. 2.1.2.3. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ Sau 10 năm đi vào hoạt động, Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải Phòng đã tạo dựng được hình ảnh và uy tín nhất định đối với khách hàng trong và ngoài địa bàn Hải Phòng. Cùng với sự gia tăng của hoạt động cho vay, bảo lãnh thì các dịch vụ thanh toán của ngân hàng cũng được phát triển mở rộng. Doanh thu từ dịch vụ thanh toán L/C, chuyển tiền, chi trả lương hộ, kiểm đếm có sự gia tăng vượt bậc, từ 1,612 triệu đồng năm 2006 lên đến 4,780 triệu đồng năm 2007 và đến năm 2008 là 7,992 triệu đồng, tăng 67% so với năm 2007. Sự gia tăng doanh thu từ dịch vụ là một tín hiệu đáng mừng đối với mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận ổn định, an toàn và hiệu quả. Hoạt động thanh toán qua ATM: đến hết năm 2006 chi nhánh mới phát hành được trên 1.000 thẻ ATM Active Plus, đến năm 2007 là 5.000 thẻ và đến cuối năm 2008 là trên 10.000 thẻ. Tuy nhiên, số thẻ hoạt động thực sự chiếm tỷ trọng khoảng 70% với mức dư bình quân trên tài khoản thấp (dưới 2trđ/tài khoản), hầu hết thẻ được phát hành miễn phí và thực hiện miễn phí dịch vụ trong một khoảng thời gian ban đầu thường là 12 tháng. Vì thế, ở giai đoạn đầu hoạt động này hiện chưa phát huy tác dụng và chưa có thu nhập đủ để bù đắp chi phí. Tuy niên, việc mở rộng dịch vụ thẻ ATM sẽ tạo được hình ảnh tốt đối với khách hàng và có điều kiện để quảng bá hình ảnh Ngân hàng Quân đội, tạo tiền đề để phát triển các hoạt động dịch vụ khác của ngân hàng. 2.1.2.4. Các hoạt động khác Hoạt động đầu tư hiện ở cấp chi nhánh không được phép thực hiện, cơ quan Hội sở có các bộ phận, công ty trực thuộc chuyên trách để thực hiện các nghiệp vụ này như: Phòng Quản lý dự án đầu tư: chuyên thực hiện thẩm định và quản lý các dự án đầu tư góp vốn trực tiếp; Phòng Treasury: chuyên kinh doanh vốn trên thị trường liên ngân hàng; Công ty cổ phần Chứng khoán Thăng Long: chuyên quản lý việc đầu tư kinh doanh chứng khoán; Công ty Quản lý Quỹ Hà Nội: chuyên quản lý các quỹ đầu tư khác; Công ty cổ phần địa ốc MB: chuyên quản lý đầu tư kinh doanh bất động sản, khách sạn nhà hàng. Với hệ thống các bộ phận và công ty trực thuộc thực hiện kinh doanh chuyên môn hoá như trên đã thực sự mang lại hiệu quả cao cho Ngân hàng TMCP Quân đội trong suốt nhiều năm qua. 2.2. Thực trạng quản lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng 2.2.1. Tình hình nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng giai đoạn 2006 – 2008 Nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải Phòng giai đoạn 2006 – 2008 có nhiều biến động, cả về tổng dư nợ cũng như tỷ trọng giữa các nhóm nợ, trước tiên ta xem xét thực trạng nợ xấu của chi nhánh dưới góc độ là các khoản nợ đang được theo dõi tại nội bảng, cụ thể: Bảng 2.3: - Cơ cấu dư nợ nội bảng theo nhóm nợ Đơn vị: Triệu đồng STT Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) Số tiền Tỷ trọng (%) 1 Dư nợ nhóm 1 505,019 86.07 724,784 90.86 884,455 93.46 2 Dư nợ nhóm 2 59,103 10.07 40,848 5.12 50,346 5.32 3 Dư nợ nhóm 3 11,436 1.95 24,341 3.05 8,107 0.86 4 Dư nợ nhóm 4 1,271 0.22 1,604 0.20 2,117 0.22 5 Dư nợ nhóm 5 9,949 1.70 6,073 0.76 1,302 0.14 Tổng cộng 586,778 100 797,650 100 946,327 100 (Nguồn: Báo cáo Phân loại nợ và trích lập DPRR - Phòng QLTD các năm 2006 – 2008) Năm 2006 tổng dư nợ xấu (nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5) là 81,759 triệu đồng, chiếm 13.94% tổng dư nợ nội bảng. Năm 2007 con số này có sự sụt giảm, còn 72,866 triệu đồng, chiếm 9.13% tổng dư nợ. Đến thời điểm 31/12/2008, dư nợ xấu đã giảm xuống đáng kể (giảm 10,994 triệu đồng), chỉ còn chiếm 6.54% tổng dư nợ, tương đương dư nợ là 61,872 triệu đồng. Trong đó, nợ nhóm 2 chiếm tỷ trọng lớn nhất (5.32% tổng dư nợ nội bảng), chủ yếu là khoản nợ của Công ty TNHH Vũ Hải: 9,790 trđ, Xí nghiệp TK21: 8.325 trđ, Công ty TNHH Cường Đạt Hải Phòng: 5,884 trđ, Công ty CP đầu tư thương mại Nam Thắng: 2,840 trđ, Công ty CP xây dựng Thành Linh: 3,982 trđ, Công ty TNHH dịch vụ TM Anh Phát: 3,290 trđ, Công ty TNHH TM dịch vụ vận tải Minh Vũ: 1,548 trđ…và một số khách hàng doanh nghiệp, cá nhân khác. Nợ nhóm 3 và nhóm 5 tại 31/12/2008 giảm đi đáng kể so với năm 2007, tuy nhiên nợ nhóm 4 lại gia tăng nhưng không nhiều (tăng 514 trđ so với năm 2007), một phần là do các khoản nợ từ nhóm 3 bị chuyển lên nhóm nợ cao hơn. Nợ nhóm 3 chủ yếu là khoản nợ của DNTN TM và vận tải Mạnh Cường: 2,200 trđ, Công ty TNHH Minh Đạt: 1,100 trđ, Công ty CP XD TM Xuân Mai: 2,548 trđ, Công ty TNHH may TM Bắc Nam: 982 trđ, Trung tâm dịch vụ kỹ thuật phát thanh truyền hình: 945 trđ và một số khoản vay của các khách hàng doanh nghiệp, cá nhân khác. Mặc dù nợ xấu được theo dõi tại nội bảng có chiều hướng giảm xuống, đặc biệt là các khoản nợ nhóm 5. Tuy nhiên, con số dư nợ xấu tại nội bảng giảm xuống không đồng nghĩa với việc chất lượng của các khoản nợ phải thu từ phía khách hàng được nâng lên. Vì vậy, để đánh giá một cách toàn diện về tình hình nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải Phòng ta cần xem xét đến các khoản nợ được theo dõi tại ngoại bảng. (Nguồn: Cân đối ngoại bảng năm 2006 – 2008) Nợ ngoại bảng đã được xử lý bằng quỹ DPRR năm 2007 không tăng nhiều so với năm 2006, đây là khoản nợ của Công ty Sông Hồng: 11,754 trđ, Xí nghiệp 583: 4,475 trđ, Xí nghiệp Bình Minh: 1,032 trđ, Chi nhánh Công ty XNK Vật tư đường biển Hải Phòng: 440 trđ, Công ty TNHH Xây dựng Phú Quý 1.351 trđ, Phạm Thị Huệ: 337 trđ. Đến cuối năm 2008, chi nhánh tiếp tục dùng quỹ DPRR để bù đắp các khoản nợ của Xí nghiệp 141: 8,891 trđ, một phần khoản nợ của Công ty TNHH Bình An: 1,250 trđ, nâng tổng số nợ đã xử lý bằng quỹ DPRR theo dõi tại ngoại bảng lên đến 28,735 trđ. Qua biểu đồ 2.3 cho thấy, dư nợ ngoại bảng tại 31/12/2008 tăng 48.2% so với năm 2007, tương ứng tăng 9,346 triệu đồng. Như vậy, mặc dù nợ xấu tại nội bảng đã giảm 10,994 triệu đồng nhưng thực chất tổng nợ xấu của chi nhánh chỉ giảm được 1,648 triệu đồng, thay vào đó là việc gia tăng các khoản nợ ít có khả năng thu hồi (nợ theo dõi ngoại bảng). Biểu đồ 2.4 sẽ cho ta cái nhìn tổng thể hơn về tình hình nợ xấu tại chi nhánh. (Nguồn: Phòng QLTD – Chi nhánh Hải Phòng) Tổng nợ xấu của chi nhánh đã có xu hướng giảm xuống, đây là một tín hiệu đáng mừng nhất là trong tình hình nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng giai đoạn nửa cuối năm 2008 gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, các khoản nợ ít có khả năng thu hồi lại có xu hướng tăng cao, buộc ngân hàng phải bù đắp bằng quỹ dự phòng rủi ro, điều này sẽ trực tiếp ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của ngân hàng. Ngoài ra, nợ xấu phải xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro không có dấu hiệu giảm xuống cho thấy công tác quản lý nợ xấu của Chi nhánh còn chứa đựng nhiều bất cập. Đến cuối năm 2008, tình hình nợ xấu được theo dõi tại ngoại bảng chia theo thời gian phát sinh như sau: Bảng 2.4: - Nợ ngoại bảng chia theo thời gian phát sinh Đơn vị: Triệu đồng Thời gian xử lý bằng quỹ DPRR Dư nợ tại 31/12/2008 Tỷ trọng - Trước năm 2006 15,146 52.71% - Năm 2006 2,148 7.48% - Năm 2007 1,300 4.52% - Năm 2008 10,141 35.29% Tổng 28,735 100.00% (Nguồn: Phòng QLTD – Chi nhánh Hải Phòng) Qua đây cho thấy phần lớn các khoản nợ đang được theo dõi tại ngoại bảng đều có thời gian phát sinh từ trước năm 2006, công tác xử lý, thu hồi nợ đã xử lý bằng quỹ DPRR không có nhiều tiến triển. Nhìn chung, với quan niệm về nợ xấu như đã trình bày, tình hình nợ xấu của Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng còn có xu hướng diễn biến theo chiều hướng bất lợi, khả năng thu hồi các khoản nợ suy giảm mạnh đối với cả các khoản nợ mới phát sinh và các khoản nợ đã được xử lý bằng quỹ dự DPRR. Trong điều kiện nền kinh tế có nhiều diễn biến bất lợi theo chiều hướng suy giảm như hiện nay, với tình hình nợ xấu củ._.bước hiện đại hoá hoạt động ngân hàng, đổi mới, cải tổ mô hình, bộ máy tổ chức, thay đổi về cơ chế quản lý điều hành, chế độ đãi ngộ, đặc biệt về mặt công nghệ, trong đó lấy công nghệ thông tin làm nền tảng đột phá ... cho đến nay đã tương đối ổn định, đảm bảo có thể hội nhập vào hệ thống tài chính quốc tế. Với giá trị cốt lõi: Tin cậy; Hợp tác; Chăm sóc khách hàng; Sáng tạo; Chuyên nghiệp; Hiệu quả, tầm nhìn của Ngân hàng Quân đội đến năm 2010 sẽ trở thành Ngân hàng bán lẻ đa năng hàng đầu ở Việt Nam trong các mảng thị trường đã lựa chọn như thương mại, xuất nhập khẩu, xây dựng tại các đô thị trọng yếu, tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giữ vững và khai thác hiệu quả khách hàng truyền thống. Hoạt động tín dụng được xác định vẫn là lĩnh vực quan trọng trong nhiều năm tới, hướng tới thực hiện cho vay có chất lượng, đảm bảo an toàn và bền vững. Thực hiện định hướng chung của Ngân hàng TMCP Quân đội về hoạt động tín dụng trong những năm tiếp theo đến 2012, trên cơ sở nghiên cứu thực tế thị trường địa bàn Hải Phòng, MB Hải Phòng đề ra những định hướng cho hoạt động cho vay của chi nhánh, cụ thể: - Mở rộng thị trường hoạt động cho vay tới mọi lĩnh vực thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó chú trọng mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay tiêu dùng. - Tập trung phục vụ tốt các khách hàng truyền thống, khai thác tối đa nhu cầu dịch vụ của nhóm khách hàng này. - Tiếp tục chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu cho vay theo hướng: Nâng cao tỷ lệ cho vay có tài sản đảm bảo, lựa chọn khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, có uy tín. - Triển khai có hiệu quả một số sản phẩm cho vay hiện chi nhánh chưa thực hiện như chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu, bao thanh toán, cho vay theo hạn mức thấu chi…. - Hoàn thành triển khai chương trình Quản lý quan hệ khách hàng (CRM), đảm bảo mỗi khách hàng đều có một CVQHKH quản lý. - Tiếp tục tham gia đồng tài trợ và uỷ thác cho vay đối với các dự án lớn. - Công tác quản lý tín dụng sẽ được thực hiện chi tiết đến từng ngành nghề kinh doanh, từng vùng, từng loại hình sản phẩm. - Tiếp tục nâng cao chất lượng tín dụng, kiểm soát chặt chẽ quá trình giải ngân và thu nợ. Tập trung xử lý các khoản nợ xấu, đặc biệt là các khoản nợ đã được xử lý bằng quỹ DPRR hiện đang theo dõi tại ngoại bảng. 3.1.2. Một số chỉ tiêu cụ thể Với định hướng hoạt động cho vay nêu trên, chi nhánh đã đề ra một số chỉ tiêu cụ thể đối với hoạt động cho vay như sau: - Tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân : tối thiểu 20%/năm - Tỷ trọng cho vay ngắn hạn/tổng dư nợ : > 60% - Dư nợ có TSBĐ : > 90% - Khống chế tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ : < 6% - Số lượng khách hàng vay vốn tăng tối thiểu : 15% 3.2. Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu 3.2.1. Xây dựng và triển khai chính sách quản lý rủi ro đồng bộ Chính sách quản lý rủi ro không chỉ là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng mà còn có tác động toàn diện và sâu sắc đến quản lý nợ xấu. Để tăng cường quản lý nợ xấu tại chi nhánh, khi xây dựng chính sách quản lý rủi ro cần tập trung vào vấn đề giới hạn tín dụng và phân cấp thẩm quyền phê duyệt, cụ thể: Bên cạnh việc ban hành giới hạn tín dụng theo từng chi nhánh, cần ban hành giới hạn tín dụng theo ngành đặc biệt là những địa bàn có các ngành kinh tế đặc thù như địa bàn kinh doanh của MB – Chi nhánh Hải Phòng. Với giới hạn tín dụng theo ngành như đóng tàu, vận tải biển, sản xuất kinh doanh thép…sẽ giúp chi nhánh xác định được ngành mũi nhọn để tài trợ và mức độ sẽ tài trợ. Trên cơ sở đó, chi nhánh cũng sẽ có căn cứ để điều chỉnh cơ cấu dư nợ cho phù hợp, kịp thời thu hồi những khoản nợ thuộc ngành kinh tế cần hạn chế đầu tư, góp phần kiểm soát nợ xấu phát sinh. Ngoài ra, khi thực hiện phân cấp phê duyệt khoản vay theo thẩm quyền, cần rút ngắn thời gian xét duyệt tại cơ quan cấp trên, tránh tình trạng loại bỏ khách hàng tốt do MB không đáp ứng được yêu cầu về thời gian. Với việc thực hiện chính sách quản lý rủi ro đồng bộ từ chi nhánh đến cơ quan cấp trên sẽ tạo điều kiện để có thể nâng cao chất lượng các khoản vay, lựa chọn khách hàng có quy mô và năng lực tài chính tốt, giúp tăng khả năng ứng phó với những biến động bất lợi của nền kinh tế. Từ đó, tạo điều kiện tốt cho công tác xử lý nợ xấu phát sinh (do nguyên nhân khách quan). 3.2.2. Hoàn thiện và đảm bảo chất lượng công tác chấm điểm xếp hạng tín dụng nội bộ Như đã trình bày, kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ có ảnh hưởng trực tiếp đến việc phân loại nợ và xác định nợ xấu. Để đảm bảo quản lý nợ xấu có hiệu quả, ngân hàng phải thực hiện ngay từ đầu việc xác định nợ xấu một cách chuẩn xác. Một trong những vấn đề cần giải quyết đối với hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng hiện tại là việc chấm điểm xếp hạng tín dụng đối với các khách hàng là doanh nghiệp mới. Trong trường hợp doanh nghiệp chưa thể đáp ứng yêu cầu về báo cáo tài chính, để đảm bảo tất cả các khách hàng đều được phân loại dựa trên kết quả xếp hạng tín dụng bao gồm cả các chỉ tiêu định tính và định lượng, ngân hàng có thể thiết lập một bộ chỉ tiêu dành riêng cho đối tượng khách hàng này. Thay vì đánh giá tài chính dựa trên báo cáo của doanh nghiệp, ngân hàng có thể đưa vào hệ thống một số chỉ tiêu tài chính bình quân của ngành tương ứng với quy mô của doanh nghiệp làm cơ sở đánh giá, kết hợp với bộ chỉ tiêu định tính sẽ cho ra kết quả xếp hạng tín dụng có mức độ tin cậy cao hơn. Một vấn đề nữa cần giải quyết trong điều kiện hiện nay là mức độ chuẩn xác của các thông tin đầu vào. Định kỳ hàng quý, ngân hàng cần cung cấp cho CVQHKH các báo cáo phân tích tổng thể những ngành chiếm tỷ trọng tài trợ lớn, giúp cho việc nhận định những tác động từ phía nền kinh tế vĩ mô được chuẩn xác hơn. Bên cạnh đó, cần có quy định cụ thể về chế tài xử phạt đối với những trường hợp cố tình đưa thông tin sai lệch vào hệ thống. Tăng cường giám sát chất lượng chấm điểm xếp hạng tín dụng của CVQHKH bằng việc thực hiện chấm điểm xếp hạng tín dụng đồng thời và/hoặc đột xuất kiểm tra trực tiếp mức độ xác thực của thông tin thông qua tiếp xúc, trao đổi với khách hàng do một cơ quan độc lập thực hiện. 3.2.3. Nâng cao trình độ và vai trò của cán bộ quản lý rủi ro tín dụng Để phát huy hơn nữa vai trò của Phòng quản lý tín dụng trong quản lý rủi ro tín dụng, ngân hàng cần tiêu chuẩn hóa đội ngũ quản lý rủi ro tín dụng. Theo đó, cần xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý rủi ro tín dụng có kinh nghiệm, có kiến thức và khả năng nhanh nhạy khi xem xét, đánh giá các đề xuất tín dụng. Ngân hàng có thể xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn đối với cán bộ quản lý rủi ro tín dụng như trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế, có thời gian trải qua công tác tại bộ phận QHKH. Bên cạnh lựa chọn nhân sự tốt cho bộ phận quản lý rủi ro tín dụng, việc đào tạo nâng cao trình độ cũng cần được tiến hành thường xuyên và đồng bộ. Công tác đào tạo, nâng cao trình độ có thể được tiến hành theo một số hình thức như: Tổ chức các khóa đào tạo chuyên môn, các buổi hội thảo nhằm trao đổi thông tin, kinh nghiệm, quan điểm rủi ro, cách thức tiếp cận và xử lý thông tin hiệu quả. Luân chuyển vị trí công tác: phải được thực hiện thường xuyên và trên phạm vi toàn hệ thống NHQĐ, không chỉ dừng lại ở địa bàn Hà Nội như hiện nay. Theo đó, thực hiện điều chuyển cán bộ quản lý rủi ro tín dụng sang làm việc tại các bộ phận QHKH trong một khoảng thời gian nhất định và ngược lại. Điều này sẽ giúp cho cán bộ quản lý rủi ro tín dụng tích lũy được kinh nghiệm thực tế, ngoài ra việc trao đổi thông tin giữa bộ phận quản lý rủi ro và bộ phận QHKH cũng sẽ được nhìn nhận trên tinh thần hợp tác, chia sẻ. Có chính sách cụ thể khuyến khích cũng như quy định đối với những cán bộ tham gia các chương trình học tập, nâng cao kiến thức chuyên môn nằm ngoài chương trình đào tạo của ngân hàng. Định kỳ thực hiện kiểm tra, đánh giá trình độ chuyên môn, kiến thức của cán bộ quản lý rủi ro tín dụng, trên cơ sở đó lựa chọn, thay thế nhân sự cho phù hợp. Bổ sung nhân sự có trình độ chuyên môn về xử lý, thu hồi nợ xấu cho Phòng quản lý tín dụng nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nợ xấu. Trên cơ sở bộ phận xử lý nợ xấu, phòng QLTD sẽ chủ động hơn trong việc lên kế hoạch, trực tiếp triển khai các biện pháp xử lý nợ xấu kịp thời, phù hợp. Ngoài ra, với sự tham gia đồng thời xử lý nợ xấu của Phòng QLTD sẽ nâng cao hơn trách nhiệm cũng như hiệu quả thu hồi nợ của bộ phận QHKH. Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế trao đổi thông tin hiệu quả, đảm bảo sự liên lạc thường xuyên, liên tục và cập nhật kịp thời các thông tin trọng yếu giữa các bộ phận chức năng trong hoạt động cấp tín dụng, kiểm soát tín dụng, giúp cho bộ phận quản lý rủi ro tín dụng có thể phân tích, đánh giá những rủi ro tiềm ẩn. 3.2.4. Xây dựng hệ thống thông tin nợ xấu Ngày nay, với sự hỗ trợ của hệ thống công nghệ thông tin, việc lưu trữ, cập nhật thông tin về khách hàng, khoản vay có thể được thực hiện trên phạm vi toàn hệ thống NHQĐ. Với tính ưu việt đó, Khối QTRR cần xây dựng hệ thống dữ liệu về các khoản nợ xấu đã phát sinh cũng như đang tồn tại trên toàn hệ thống NHQĐ. Dữ liệu được lưu trữ bên cạnh những thông tin chi tiết về khách hàng, khoản vay còn cần được bổ sung các thông tin khác có liên quan về quá trình xử lý nợ xấu đã thực hiện, nhận định đánh giá của CVQHKH trong quá trình xử lý nợ tại từng thời điểm, những vấn đề lưu ý khác liên quan đến tính đặc thù và mối quan hệ với các bên liên quan…Đối tượng sử dụng, khai thác các thông tin này sẽ được phân cấp theo từng User truy nhập, đảm bảo tính bảo mật, theo đúng phạm vi, quyền hạn và trách nhiệm. Với việc thiết lập hệ thống dữ liệu về nợ xấu sẽ giúp cho công tác tiếp nhận lại các khoản nợ xấu cũng như công tác kiểm tra, giám sát quá trình xử lý nợ xấu được thuận tiện, cán bộ quản lý các cấp có thể theo dõi thường xuyên và đưa ra những điều chỉnh kịp thời, đảm bảo công tác xử lý nợ xấu thực hiện có hiệu quả và khách quan. Ngoài ra, với việc thực hiện đồng thời của bộ phận xử lý nợ thuộc Phòng QLTD như đã nêu trên sẽ giúp tăng cường tính khách quan trong xử lý nợ xấu. 3.2.5. Tăng cường kiểm tra, giám sát đảm bảo tính tuân thủ Thực hiện triển khai mô hình theo nguyên tắc Basel, theo đó việc kiểm tra giám sát khoản vay do bộ phận quản lý nợ - Hỗ trợ tín dụng thực hiện, tách biệt hoàn toàn chức năng bán hàng của CVQHKH với chức năng kiểm soát. Ngoài ra, cần tăng cường năng lực hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Sử dụng phối hợp giữa phương pháp kiểm tra trực tiếp và giám sát gián tiếp thông qua đánh giá các chỉ tiêu hoạt động. Định kỳ và/hoặc đột xuất cần thực hiện kiểm tra toàn bộ hoạt động cho vay, ngoài ra có thể thực hiện kiểm tra theo từng chương trình, sản phẩm cụ thể như kiểm tra các khoản cho vay hỗ trợ lãi suất, các khoản cho vay cầm cố hàng tồn kho, các khoản nợ xấu...Cần phối hợp chặt chẽ với kiểm toán trong công tác kiểm tra, kịp thời phát hiện những sai phạm và hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra. Công tác kiểm tra có thể do Khối kiểm soát nội bộ hoặc cũng có thể do Phòng QLTD tại chi nhánh thực hiện. Kịp thời công khai kết quả kiểm tra trên toàn hệ thống NHQĐ, đảm bảo tính công khai, minh bạch, góp phần nâng cao ý thức tuân thủ giữa các chi nhánh, điểm giao dịch của MB. Bên cạnh đó, tăng cường thực hiện kiểm tra chéo giữa các chi nhánh, phòng ban trên cùng địa bàn. Thiết lập đầu mối tiếp nhận và xử lý kịp thời những sai phạm được phát hiện. Có những hình thức thưởng, phạt công khai, khuyến khích việc kiểm tra, giám sát chéo. 3.2.6. Xây dựng quy trình thẩm định tài sản bảo đảm Cần xây dựng quy trình thẩm định tài sản bảo đảm trên cơ sở quy định cụ thể, chi tiết danh mục tài sản bảo đảm được chấp nhận, phân theo loại tài sản bảo đảm như bất động sản, phương tiện giao thông, máy móc thiết bị, hàng hóa, quyền tài sản... Ngoài ra, cần quy định cụ thể các tiêu chí nhằm xác định giá trị tài sản bảo đảm một cách khách quan, đồng nhất và đáp ứng yêu cầu thận trọng trên quan điểm tối thiểu hóa rủi ro. Có thể xem xét quy định cụ thể bộ phận chuyên trách trong việc định giá tài sản bảo đảm, đảm bảo nguyên tắc độc lập, khách quan. Trong trường hợp tài sản bảo đảm có tính kỹ thuật đặc thù, phức tạp cần quy định cụ thể đối với việc thuê cơ quan định giá hoặc chuyển giao cho AMC thực hiện định giá. Quy trình thẩm định tài sản bảo đảm cũng cần quy định chi tiết các thủ tục, giấy tờ nhằm đảm bảo tính pháp lý đối với tài sản khi thế chấp, cầm cố tại MB. Tránh trường hợp khi xử lý tài sản gặp rất nhiều khó khăn do tính pháp lý chưa đảm bảo. 3.2.7. Xây dựng quy trình xử lý nợ xấu khoa học, thống nhất Việc xây dựng quy trình xử lý nợ xấu thống nhất sẽ là công cụ hữu hiệu trong quản lý nợ xấu nói chung và xử lý nợ xấu nói riêng, giúp cho các bộ phận khi phát sinh nợ xấu chủ động xử lý và áp dụng các biện pháp phù hợp, theo quy định của pháp luật. Đồng thời phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng bộ phận trong xử lý nợ xấu sẽ tạo ra sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả, đảm bảo tính khách quan từ đó nâng cao hiệu quả thu hồi nợ xấu. Xử lý nợ xấu cũng cần được phân cấp trên cơ sở giá trị khoản vay, thời gian phát sinh nợ xấu để đạt hiệu quả tối ưu. Quy trình xử lý nợ xấu được cụ thể bằng sơ đồ dưới đây : Sơ đồ 3.1 : - Quy trình xử lý nợ xấu XHTD, phân loại nợ Chuyển BP xử lý nợ xấu Nợ xấu Chuyên viên xử lý nợ xấu thực hiện rà soát khoản vay Trưởng phòng QLTD Phối hợp với chi nhánh Chuyển giao cho AMC Ghi chép vào Hệ thống thông tin nợ xấu Gửi báo cáo cho BP xử lý nợ xấu - P.QLCLTD – Khối QTRR Kế hoạch hành động tiếp theo Trên cơ sở kết quả chấm điểm xếp hạng tín dụng nội bộ, ngân hàng xác định được các khoản nợ xấu, ngay lập tức các khoản nợ này sẽ được chuyển sang Bộ phận xử lý nợ xấu thuộc phòng QLTD tại chi nhánh, CVQHKH và nhân viên thuộc bộ phận hỗ trợ tín dụng có trách nhiệm cung cấp thông tin, chứng cứ về tình trạng nợ của khách hàng và nguyên nhân phát sinh nợ xấu. Ngay sau khi tiếp nhận khoản nợ xấu phát sinh từ phía bộ phận bán hàng, Trưởng phòng QLTD trên cơ sở hồ sơ, phân tích thông tin, chuyển giao cho chuyên viên xử lý nợ xấu, đồng thời gửi báo cáo chi tiết về khoản nợ xấu cho BP xử lý nợ xấu thuộc khối QTRR. Sau khi nhận được hồ sơ về khoản nợ xấu, chuyên viên xử lý nợ xấu tiến hành rà soát khoản vay. Thu thập thông tin cập nhật để đánh giá lại tình hình khách hàng như tài liệu liên quan đến khoản vay, tài sản bảo đảm, thiện chí của khách hàng, tình hình tài chính...Ngoài ra, rà soát và hoàn thiện các thủ tục pháp lý liên quan đến tài sản bảo đảm, đánh giá lại giá trị tài sản bảo đảm. Trong trường hợp giá trị tài sản bị giảm sút cần ngay lập tức yêu cầu bổ sung tài sản hoặc đề xuất các biện pháp bảo đảm tiền vay thay thế. Về phía BP xử lý nợ xấu – Khối QTRR, sau khi nhận được báo cáo về khoản nợ xấu phát sinh, có trách nhiệm trao đổi, phối hợp và đưa ra kết hoạch hành động tiếp theo. Đối với những khoản nợ xấu không nằm trong phân cấp xử lý của cơ quan Hội sở, Phòng QLTD chủ động đưa ra hướng xử lý tiếp theo trên cơ sở kết quả rà soát khoản vay của chuyên viên xử lý nợ xấu. Phòng QLTD có thể tham khảo ý kiến của BP xử lý nợ xấu – Khối QTRR nếu thấy cần thiết. Đối với những khoản vay thuộc thẩm quyền xử lý của BP xử lý nợ xấu – Khối QTRR, BP xử lý nợ xấu sẽ trực tiếp đề ra kế hoạch hành động, có thể yêu cầu sự phối hợp, hỗ trợ của Phòng QLTD chi nhánh. Kế hoạch hành động tiếp theo có thể thực hiện theo hai hướng sau : Chiến lược giữ lại : được áp dụng khi đánh giá khách hàng có đủ điều kiện để thu hồi đầy đủ khoản nợ, ngân hàng cần duy trì mối quan hệ với khách hàng. Chiến lược rút lui : được áp dụng với những khoản vay được đánh giá là không có khả năng thu hồi hoặc có thể thu hồi nhưng thời gian xử lý phải kéo dài. BP xử lý nợ xấu – Khối QTRR xem xét, đánh giá và tiến hành các thủ tục cần thiết để chuyển giao cho AMC dưới hình thức mua bán nợ hoặc hợp đồng xử lý nợ có thu phí. Đồng thời với việc thực thi kế hoạch hành động tiếp theo, chuyên viên xử lý nợ xấu tại chi nhánh có trách nhiệm ghi chép, cập nhật dữ liệu vào hệ thống thông tin nợ xấu, đảm bảo đầy đủ, trung thực, khách quan. 3.2.8. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC) Xây dựng cơ chế khuyến khích trong việc xử lý và thu hồi nợ xấu đối với cán bộ nhân viên của AMC như có chế độ khen thưởng, tiền lương, ưu tiên trong công tác đào tạo, tạo cơ hội rèn luyện chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, tham gia các khóa đào tạo trong và ngoài nước. Quy định cụ thể trách nhiệm, mục tiêu trong công tác xử lý nợ xấu do MB chuyển giao. Thay vì mục tiêu lợi nhuận, đối với công tác xử lý, thu hồi nợ xấu cần đặt giá trị thu hồi các khoản nợ xấu làm tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động xử lý nợ xấu của AMC. Để tăng cường hơn nữa hoạt động mua bán nợ của AMC, Ngân hàng TMCP Quân đội – cơ quan chủ quản cần tạo điều kiện bổ sung vốn điều lệ cho công ty (vốn điều lệ hiện nay là 179 tỷ đồng), khuyến khích phát triển nghiệp vụ mua bán nợ không chỉ trong MB mà còn thực hiện đối với các khoản nợ của các tổ chức khác. 3.3. Một số kiến nghị NHTM hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật do Nhà nước ban hành và chịu sự giám sát, kiểm soát trực tiếp của Ngân hàng nhà nước, do vậy hoạt động cho vay cũng không nằm ngoài các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong thời gian qua cơ chế, chính sách của nhà nước còn chưa đầy đủ, đồng bộ, chưa tạo được môi trường pháp lý chặt chẽ nên hoạt động cho vay của ngân hàng còn gặp những rủi ro. Để hạn chế rủi ro và tăng cường hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng, sự phối hợp từ phía các cơ quan nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng và có ảnh hưởng chi phối. 3.3.1. Kiến nghị đối với Chính phủ và các Bộ ngành liên quan Kiểm soát hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng Quy định về việc thanh toán tiền qua ngân hàng liên quan đến hoàn thuế GTGT theo Thông tư số 129/2008/TT-BTC mặc dù có hiệu lực từ ngày 01/01/2009, tuy nhiên việc kiểm soát hoạt động thanh toán của doanh nghiệp qua ngân hàng chưa thật sự phát huy hiệu quả. Chính phủ cần ban hành quy định mang tính bắt buộc đối với hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của doanh nghiệp, qua đó ngân hàng có thể quản lý được nguồn thu, tạo điều kiện để công tác xử lý, thu hồi nợ đạt kết quả, tiết kiệm thời gian. Hoàn thiện công tác đăng ký giao dịch bảo đảm Chỉ đạo các Bộ ngành chuẩn hoá các văn bản pháp quy liên quan đến việc thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm như: phân công rõ ràng, chi tiết từng loại tài sản, trách nhiệm của các cơ quan tham gia thực hiện tiếp nhận đăng ký giao dịch bảo đảm cho các NHTM, tránh tình trạng có những tài sản không thể phân định đăng ký thuộc về trách nhiệm của cơ quan nào, phải thực hiện đăng ký nhiều lần tại các cơ quan khác nhau khi tài sản là bất động sản hình thành trong tương lai. Thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra đối với các cơ quan này trong quá trình triển khai thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm, nhằm phòng tránh việc gây khó dễ cho người vay cũng như NHTM khi thực hiện công việc này. Khắc phục ngay tình trạng thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm chậm chễ, chưa có được hệ thống thông tin phản hồi kịp thời đối với các NHTM về tình trạng tài sản được đăng ký giao dịch bảo đảm (có nhiều tài sản sau khi thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm mất một vài tháng mới có thông tin phản hồi lại cho NHTM là tài sản chưa được đăng ký, yêu cầu bổ sung thủ tục, sửa đơn đăng ký,...) và tình trạng thiếu trách nhiệm của các Cán bộ, nhân viên của những cơ quan này khi được các NHTM hỏi thông tin về tình trạng tài sản được đăng ký. Hiện đại hoá công nghệ đăng ký giao dịch bảo đảm (có thể đăng ký qua internet) giúp cho việc tiếp nhận và đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, đảm bảo tiêu chí nhanh chóng, chính xác, thuận tiện hơn cho khách hàng cũng như NHTM. Thêm vào đó, đảm bảo cho NHTM kiểm soát, xử lý nhanh chóng được kết quả đăng ký giao dịch bảo đảm nhằm đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của NHTM đối với bên thứ ba thông qua thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm. Thực hiện công khai hóa thông tin về tài sản bảo đảm được đăng ký tại các Trung tâm đăng ký giao dịch bảo đảm cho đối tượng khai thác là các NHTM để ngân hàng có thể chủ động hơn trong việc nắm bắt, tiếp nhận tài sản thế chấp, hạn chế kịp thời nếu có dấu hiệu lừa đảo. Hoàn thiện các văn bản luật Kiến nghị với Quốc hội để hoàn thiện hệ thống luật liên quan đến quyền sở hữu tài sản, tránh sự chồng chéo như kê biên tài sản đang thế chấp, Tuyên huỷ Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà/sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền cấp nhưng lại không đúng trình tự pháp luật hay có giấy chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp (như qui định) để thế chấp, nhưng vẫn bị kết luận là không có quyền sở hữu hợp pháp do có nguồn gốc hình thành trái pháp luật làm ví dụ). Phát triển thị trường mua bán nợ Chú trọng phát triển thị trường mua bán nợ, không chỉ dừng lại ở các tổ chức trong nước mà cần có chính sách khuyến khích sự tham gia của các đối tác nước ngoài – những đối tác giàu kinh nghiệm. Ban hành quy định cụ thể xác định rõ địa vị pháp lý và các quyền đặc biệt của chủ nợ, các ưu đãi đối với hoạt động mua bán nợ, ví dụ như truy cập hệ thống dữ liệu tài chính doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng... có chế tài đặc biệt để làm công cụ xử lý nợ - những cơ chế này phải được các Bộ Tư pháp, Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Tòa án... cùng bàn bạc thống nhất với nhau để trao cho các tổ chức mua bán nợ quyền lực mạnh hơn. Ngoài ra, Chính phủ tiến hành chỉ đạo cơ quan chủ quản của DNNN, đặc biệt là doanh nghiệp quốc phòng chủ động, tích cực hơn nữa trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với những khoản nợ xấu còn tồn đọng tại ngân hàng. Bên cạnh đó, cần nâng cao hơn nữa trách nhiệm giám sát, phối hợp của cơ quan chủ quản đối với các khoản vay tín chấp của cán bộ, viên chức nhà nước, không để xảy ra tình trạng một cán bộ, viên chức có thể vay vốn cùng lúc tại nhiều tổ chức tín dụng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thu hồi nợ, đặc biệt khi khách hàng không còn khả năng thanh toán trong khi nguồn thu nhập duy nhất là từ tiền lương không đủ thanh toán phần nợ xấu đã phát sinh. 3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Nâng cao chất lượng công tác dự báo, nhận định thị trường để đưa ra chính sách điều hành phù hợp, tránh trường hợp chính sách được ban hành và sửa đổi quá nhanh, chủ yếu tập trung giải quyết vấn đề đã xảy ra, gây khó khăn và để lại những hậu quả nhất định cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng. NHNN cần xây dựng hệ thống tiêu chuẩn về khái niệm, phân loại nợ xấu của NHTM theo hướng phù hợp với chuẩn mực quốc tế, thống nhất lại tên gọi đối với các khoản vay cùng tính chất (không có khả năng được thanh toán đúng hạn, đầy đủ), tránh trường hợp tồn tại hai khái niệm chồng chéo như hiện nay (theo điều 6 QĐ 493 thì nợ quá hạn bao gồm nợ xấu, theo điều 7 QĐ 493 thì nợ xấu có thể không phải nợ quá hạn). Tăng cường vai trò quản lý nhà nước của NHNN cấp tỉnh, kịp thời hỗ trợ NHTM trong việc phối hợp với các cơ quan, chính quyền địa phương trong việc ra các văn bản tháo gỡ về mặt pháp lý đối với xử lý nợ xấu. Đổi mới quản lý Nhà nước trong lĩnh vực Ngân hàng, lấy việc thanh tra, kiểm tra với mục đích phòng ngừa hơn là thực hiện bắt lỗi các NHTM. Nâng cao năng lực của cán bộ thanh tra, tạo điều kiện phát hiện sớm những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của NHTM cũng như phát huy vai trò tư vấn pháp lý trong các cuộc kiểm tra. Nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC). Nội dung các bản trả lời về tình hình quan hệ của khách hàng với các tổ chức tín dụng cần được nêu cụ thể, đảm bảo tính cập nhật và chính xác. Quy định cụ thể trách nhiệm và thời gian xử lý các vướng mắc từ phía NHTM đối với các thông tin CIC đưa ra. Bên cạnh đó, CIC cũng cần có những chế tài để kiểm soát và xử phạt đối với những thông tin do các TCTD cung cấp thiếu tính chính xác. Hoàn thiện xây dựng hệ thống đánh giá xếp hạng tín dụng doanh nghiệp theo Quyết định 1253/QĐ-NHNN ngày 21/06/2006. Tạo dựng cơ sở dữ liệu phong phú, đáng tin cậy về mọi đối tượng khách hàng, rút ngắn thời gian tra cứu và nhận thông tin trả lời. 3.3.3. Kiến nghị đối với Khách hàng Nâng cao năng lực, kinh nghiệm quản trị điều hành của người đứng đầu tổ chức, doanh nghiệp, các cá nhân. Quản lý tốt hoạt động kinh doanh, tránh tình trạng đầu tư quá mức, mở rộng kinh doanh bằng mọi giá trong khi các nguồn lực về con người, vốn, công nghệ...và thị trường chưa đầy đủ, dẫn đến hoạt động kinh doanh gặp khó khăn, thua lỗ, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán các khoản nợ tại Ngân hàng. Cần nắm vững những quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh, quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ với các đối tác cũng như quan hệ vay vốn tại NHTM. Nâng cao hơn nữa ý thức tuân thủ quy định của pháp luật. Tránh tình trạng vi phạm cam kết do nguyên nhân không biết hoặc hiểu sai quy định, dẫn đến cố tình gây cản trở NHTM trong việc thực hiện các quyền đối với tài sản, nghĩa vụ nợ của khách hàng và/hoặc người bảo lãnh. Chú trọng nâng cao chất lượng các báo cáo tài chính cung cấp cho NHTM thông qua việc sử dụng báo cáo tài chính đã được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán độc lập. Thường xuyên đánh giá, phân tích tình hình tài chính, luồng tiền luân chuyển để có thể chủ động trong kinh doanh, khắc phục kịp thời khi tình hình tài chính có dấu hiệu suy giảm, mất cân đối. Không ngừng nâng cao năng lực tài chính, có chính sách phân phối lợi nhuận cho phù hợp, đặc biệt chú trọng đến việc trích lập các quỹ dự phòng nhằm nâng cao khả năng chống đỡ đối với những biến động theo chiều hướng bất lợi của thị trường. Chủ động phối hợp với ngân hàng trong việc cung cấp thông tin, báo cáo kịp thời những thông tin ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của khách hàng, không được che dấu, làm sai lệch thông tin nhằm đạt những mục đích nhất định. Doanh nghiệp khi gặp khó khăn cần chủ động hơn nữa trong việc lựa chọn các giải pháp sáp nhập, hợp nhất hoặc có những phương án tăng vốn kịp thời, đảm bảo duy trì hoạt động kinh doanh, tránh tình trạng kinh doanh thua lỗ kéo dài và không thể cứu vãn. Trong trường hợp không thể cứu vãn, doanh nghiệp cũng cần chủ động tuyên bố phá sản theo luật phá sản, đảm bảo quyền lợi cho các bên liên quan. PHẦN KẾT LUẬN Quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào hệ thống tài chính quốc tế đặt các NHTM Việt Nam trước nguy cơ rủi ro ngày một cao hơn và chịu tác động nặng nề hơn, vì thế nguy cơ nợ xấu cũng có chiều hướng tăng cao. Mặc dù, nợ xấu là một tất yếu của hoạt động NHTM trong nền kinh tế thị trường, là một vấn đề lớn trong tiến trình lành mạnh hóa tài chính của các NHTM, tuy nhiên việc quản lý nợ xấu luôn phải được nhìn nhận như một tiêu chí để đánh giá chất lượng hoạt động cho vay, là một trong những nhân tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của NHTM. Trên cơ sở kiến thức của bản thân tích luỹ được trong suốt khoá học, kinh nghiệm công tác tại Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải phòng và sự tận tình hướng dẫn của các thầy, cô trong khoa Ngân hàng - Tài chính của trường Đại học Kinh tế Quốc dân, bài nghiên cứu đã hoàn thành các mục tiêu nghiên cứu đề ra: Nghiên cứu, hệ thống hóa lý luận cơ bản về quản lý nợ xấu, các tiêu chí xác định nợ xấu, biện pháp xử lý nợ xấu và hệ thống các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nợ xấu. Từ việc đánh giá thực tế hoạt động, với thực trạng quản lý nợ xấu của Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng một số năm qua, tác giả đi sâu phân tích, đánh giá những kết quả đạt được, chỉ ra hạn chế trong quản lý nợ xấu và những nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan ảnh hưởng đến quản lý nợ xấu. Trên cơ sở những định hướng, mục tiêu của Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hải Phòng, tác giả đề xuất một số giải pháp mang tính thực tiễn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cũng như thực trạng quản lý nợ xấu của chi nhánh. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số kiến nghị có tính khả thi đối với Chính phủ, các cơ quan chức năng và các khách hàng có nhu cầu vay vốn nhằm tạo hành lang pháp lý cũng như những điều kiện cần thiết khác giúp tăng cường quản lý nợ xấu. Do đặc điểm phức tạp và thường xuyên biến đổi của rủi ro trong hoạt động ngân hàng mà nợ xấu là một trong những vấn đề có ảnh hưởng nghiêm trọng, quản lý nợ xấu sẽ được các nhà khoa học, người làm chuyên môn tiếp tục nghiên cứu, phát triển và hoàn thiện phù hợp với từng thời kỳ. Đây là một đề tài lớn, trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các nhà khoa học và những người quan tâm để có thể hoàn thiện hơn bài nghiên cứu. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ Luật Dân sự (2005), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. PGS.TS. Phan Thị Thu Hà (2007), Ngân hàng thương mại, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. PGS.TS. Lưu Thị Hương, PGS.TS. Vũ Duy Hào (2007), Tài chính doanh nghiệp, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. TS. Trần Đăng Khâm (2007), Thị trường chứng khoán phân tích cơ bản,, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi (2004), Quản trị Ngân hàng Thương mại, NXB Tài chính, Hà Nội. Peter S.Rose (2004), Quản trị Ngân hàng Thương mại, NXB Tài chính, Hà Nội. Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải Phòng, Sao kê tín dụng năm 2006, 2007, 2008. Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải Phòng, Bảng cân đối kế toán năm 2006, 2007, 2008. Phòng Quản lý tín dụng - Ngân hàng TMCP Quân đội - Chi nhánh Hải Phòng, Báo cáo tình hình nợ xấu năm 2006, 2007, 2008. Ngân hàng TMCP Quân đội, Báo cáo thường niên năm 2006, 2007, 2008. Trung tâm đào tạo nghiệp vụ ngân hàng – BTC (2008), Các phương pháp quản lý và thu hồi nợ có vấn đề, Dự án quỹ phát riển doanh nghiệp vừa và nhỏ - SMEDF, Hà Nội. Nguyễn Đào Tố (2008), “Xây dựng mô hình quản trị rủi ro tín dụng từ những ứng dụng nguyên tắc Basel về quản lý nợ xấu”, Tạp chí Ngân hàng, (5), tr.17-22. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Quyết định của Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro hoạt động tín dụng trong hoạt động ngân hàng của Tổ chức tín dụng, (QĐ 493/2005/QĐ-NHNN). Quốc hội nước CHXH chủ nghĩa Việt Nam (2004), Luật các Tổ chức tín dụng (đã được sửa đổi, bổ sung), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH2557.doc