Thạch Lam với Tự lực Văn Đoàn

Phần mở đầu 1. lý do chọn đề tài Sự dồn nén của lịch sử trong 15 năm (1930 - 1945) về mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng... đã tạo cho xã hội Việt Nam một diện mạo phong phú và phức tạp. Đặc biệt văn học thời kì này hơn lúc nào hết, toả sáng như một hiện tượng lạ, đạt đến độ hoàn toàn hiện đại. Để làm nên điều kỳ diệu đó, cần phải tính đến công lao của Tự lực văn đoàn, đã góp phần hiện đại hoá nền văn học Việt Nam nói chung, văn xuôi nói riêng về mọi phương diện. Tuy nhiên

doc198 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3306 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Thạch Lam với Tự lực Văn Đoàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
qua sàng lọc của thời gian đến nay có những tác giả, tác phẩm đã bị trả về cho dĩ vãng nhưng cũng có những sáng tác vẫn còn nguyên giá trị và thậm chí ngày càng rực rỡ hơn. Trong số rất ít tác giả, tác phẩm đạt đến độ trường tồn đó, phải kể đến Thạch Lam - một thành viên của Tự lực văn đoàn. Nhìn chung việc đánh giá Tự lực văn đoàn của độc giả và giới nghiên cứu từng thời kỳ có khen, chê, sự chào đón, hoặc phê phán là khác nhau, thậm chí có nhiều ý kiến trái ngược, đối lập nhau; nhưng về nhà văn Thạch Lam và các sáng tác của ông thì hầu như dư luận đều khá nhất trí, mặc dù không phải lúc nào cũng được chú ý hoàn toàn. Càng ngày, khi đã lắng đọng và hội đủ điều kiện để nhìn lại những di sản văn hoá với con mắt biện chứng, lịch sử, chúng ta nhìn nhận vấn đề càng sâu sát hơn, đúng đắn hơn, nhất là từ thời kì đổi mới sau 1986. Có thể nói chúng ta tiến được một bước dài trong việc định chân giá trị các sáng tác trước 1945. Về tổ chức văn học Tự lực văn đoàn và vai trò, vị trí đóng góp của các thành viên, chúng ta cũng nhìn nhận bình tĩnh hơn, chuẩn xác hơn, phân rõ được mặt tích cực, mặt hạn chế một cách thoả đáng, có tình có lí hơn. Riêng về nhà văn Thạch Lam, những năm trước 1975, nhìn chung được bàn nhiều trong giới trí thức đô thị miền Nam, tập trung ở Sài Gòn. Còn ở miền Bắc dư luận chỉ mới dừng lại ở một số kết luận ổn định và thận trọng. Từ sau ngày đất nước thống nhất, đặc biệt là sau 1986 đến nay, nhiều công trình đã được công bố, nhiều hội thảo đã được tổ chức và Thạch Lam được khẳng định là một tác giả có nhiều đóng góp đặc sắc, nhất là về truyện ngắn. Tuy nhiên, xu hướng gắn kết Thạch Lam với Tự lực văn đoàn để nghiên cứu trong quan hệ trong và ngoài tổ chức mình còn chưa nhiều và chưa đúng mức. Mặt khác, sự quan tâm của giới phê bình, nghiên cứu văn học mới cơ bản tập trung đi sâu vào các phương diện nội dung, nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam; một số người đã nghiên cứu dưới góc độ thi pháp để tìm những đặc trưng nghệ thuật, hoặc cái đẹp trong truyện ngắn. Một vài công trình có mở rộng để tìm mối liên hệ gắn kết Thạch Lam với các tác giả gần hoặc cùng phong cách để phát hiện dòng phong cách đặc sắc riêng mà Thạch Lam là người có ảnh hưởng lớn, nhưng cũng mới xoay quanh tâm điểm truyện ngắn. Thấp thoáng có tác giả bộc lộ ý tưởng đi vào sự nghiệp văn chương Thạch Lam với đầy đủ các sáng tác của ông nhưng cũng mới chỉ dừng ở mức một chuyên khảo còn nhiều hạn hẹp. Việc nghiên cứu các tác phẩm của Thạch Lam, bao gồm truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, tiểu luận với cái nhìn tổng thể, thống nhất về sự nghiệp văn chương của một tác giả có phong cách độc đáo, một bản lĩnh nghệ thuật vững vàng, một hệ thống quan niệm, tư tưởng nghệ thuật nhất quán để từ đó đánh giá chính xác những đóng góp cũng như phát hiện và khẳng định giá trị nổi bật của toàn bộ văn chương Thạch Lam thì chưa có công trình nào dày dặn và đủ độ. Một vấn đề khác, chúng tôi thấy cũng cần nhấn mạnh là để định chân giá trị các sáng tác của Thạch Lam, cũng như tìm hiểu tư tưởng, tình cảm, quan điểm nghệ thuật Thạch Lam, chúng ta không thể không đặt nhà văn trong mối liên hệ mật thiết với Tự lực văn đoàn. Như Giáo sư Phong Lê đã chỉ rõ: "Đời văn Thạch Lam ngắn ngủi nhưng được hưởng tất cả ưu thế và thuận lợi của Văn đoàn mình" [111,191]. Vì vậy, muốn hiểu sâu Thạch Lam phải gắn Thạch Lam với Tự lực văn đoàn và để hiểu đầy đủ Tự lực văn đoàn phải chú trọng nghiên cứu Thạch Lam. Bởi vì có thể nói những ưu điểm, nhược điểm của Tự lực văn đoàn đều có ở Thạch Lam mà chủ yếu là trong mối quan hệ Thạch Lam với Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Thế nhưng, Thạch Lam lại không hoà tan trong văn đoàn mà vươn lên để khẳng định một phong cách độc đáo, có sức cộng hưởng lớn, lan rộng, vươn xa, có khả năng tạo lập dòng phong cách nghệ thuật mới, gồm Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Đỗ Tốn... Cho nên nghiên cứu Thạch Lam chúng ta vừa "không tách Thạch Lam ra khỏi khuynh hướng chung của Tự lực văn đoàn" [111,191], vừa đặt trong sự đối sánh để " thấy rõ sự khác biệt không ít ở tính chất tiến bộ và nhân đạo trong sáng tác Thạch Lam"[111,191] Đồng thời, cũng cần mở rộng để xem xét Thạch Lam trong tiến trình phát triển của văn xuôi hiện đại nói chung, truyện ngắn nói riêng trước 1945, nhất là với truyện ngắn của các tác giả tiêu biểu cho khuynh hướng hiện thực và lãng mạn như Nam Cao, Nguyễn Tuân. Như thế, chúng ta sẽ có một nhận thức đầy đủ toàn diện hơn. Vì vậy, chúng tôi chọn vấn đề Thạch Lam với Tự lực văn đoàn làm đề tài nghiên cứu chính của luận án. 2. Mục đích yêu cầu: Nghiên cứu đề tài Thạch Lam với Tự lực văn đoàn là nghiên cứu trọn vẹn chân dung một tác giả văn học, có phong cách nghệ thuật độc đáo, trên cơ sở vừa gắn với tổ chức văn đoàn vừa vượt lên để tìm hướng phát triển. Vì thế, mục đích yêu cầu chính của đề tài là nhằm: 2.1. Khẳng định Tự lực văn đoàn là một tổ chức văn học có ưu thế và uy thế trên văn đàn dân tộc, trong những năm ba mươi của thế kỷ XX; có một sứ mệnh lịch sử quan trọng, và đã làm tròn sứ mệnh vẻ vang đó. Đây cũng là cơ sở nền tảng, là "mảnh đất ươm" tài năng Thạch Lam. 2.2. Nghiên cứu các sáng tác của Thạch Lam bao gồm: truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, tiểu luận, đặt nó trong mối liên hệ mật thiết với tổ chức Tự lực văn đoàn và tác phẩm của các thành viên trong văn đoàn nhất là với truyện ngắn của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, trên một số phương diện cơ bản về nội dung, nghệ thuật. Từ đó nhằm xác định quan hệ tương tác giữa Thạch Lam với Tự lực văn đoàn. 2.3. Đồng thời chỉ ra những giá trị mới, cùng sức hấp dẫn, sức cuốn hút mạnh mẽ của tác phẩm văn chương Thạch Lam - người đã tạo lập được một dòng phong cách nghệ thuật độc đáo là dòng phong cách truyện ngắn trữ tình, dòng tuỳ bút về văn hoá Hà Nội; mở rộng để so sánh đối chiếu một vài điểm cần thiết, nổi bật trong truyện ngắn Thạch Lam với truyện ngắn một vài tác giả khác ngoài văn đoàn như Nguyễn Tuân, Nam Cao để nhằm thấy rõ hơn nét khác biệt cũng như sự tiếp thu và ảnh hưởng lẫn nhau giữa truyện ngắn Thạch Lam với khuynh hướng truyện ngắn lãng mạn, và khuynh hướng truyện ngắn hiện thực. 2.4. Từ đó xác định vai trò, vị trí, đặc trưng, phong cách nghệ thuật, đóng góp của Thạch Lam đối với Tự lực văn đoàn và văn học Việt Nam hiện đại. 3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu: Hơn 70 năm qua vấn đề Tự lực văn đoàn và văn nghiệp Thạch Lam đã được dư luận độc giả và giới nghiên cứu thẩm định qua các chặng đường đầy biến động của lịch sử dân tộc. Tựu trung có thể khảo sát qua các chặng: - Từ khi thành lập Tự lực văn đoàn đến trước 1945. - Từ 1945 đến 1985. - Từ 1986 đến nay. Để có cái nhìn tổng quan cần thiết, chúng tôi xin trình bày vấn đề theo trình tự thời gian các công trình nghiên cứu, bài báo của các nhà nghiên cứu đã được công bố; từ tổ chức Tự lực văn đoàn đến nhà văn Thạch Lam qua các chặng lịch sử đó. 3.1. Về Tự lực văn đoàn 3.1.1. Từ 1933 đến 1945 Sau khi Tự lực văn đoàn hoạt động và có thành tựu, một số nhà nghiên cứu phê bình văn học đã viết các bài báo hoặc dành các chương mục trong các sách để bàn về giá trị văn chương Tự lực văn đoàn ở một số mặt như đấu tranh giải phóng cá nhân; nghệ thuật tả cảnh, và phác hoạ tâm lý nhân vật. Tiêu biểu là các công trình của Trương Chính: Dưới mắt tôi (1939), Vũ Ngọc Phan: Nhà văn hiện đại (1942), Dương Quảng Hàm: Việt Nam văn học sử yếu (1943); các bài báo của Trương Tửu như Phê bình “Nửa chừng xuân” - Loa- số 76/ 1935;...vv. Với hơn 100 trang Dưới mắt tôi nhà nghiên cứu Trương Chính đã phân tích, chỉ ra những thành công cơ bản cùng những "hạt bụi " trong các tác phẩm của Nhất Linh (Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Tối tăm), Khái Hưng (Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Trống mái, Gia đình); những tác phẩm viết chung của Nhất Linh, Khái Hưng (Gánh hàng hoa, Đời mưa gió) và Thạch Lam (Gió đầu mùa). Thái độ của Trương Chính là ủng hộ và khen ngợi những vấn đề mới mẻ đặt ra trong tác phẩm của các nhà văn Tự lực văn đoàn. Những trang ông viết về tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất Linh thực chất là những luận điểm mang tính bút chiến với Trương Tửu. Ông kết luận dứt khoát “lời phê bình cuối cùng của tôi là một lời khen thành thực”(92-635). Ông cũng không đồng ý với cách nhìn của Trương Tửu đối với một số tác phẩm của Khái Hưng mà khẳng định: "Đọc Khái Hưng ta thấy cõi lòng sáng hẳn lên như soi rọi bởi những tia vui trong trẻo. Nói rằng một kỷ nguyên mới trong lịch sử văn học Việt Nam và tác giả nó là một nhà luân lý cũng không phải là quá đáng"... "Nhà luân lý Khái Hưng lại là một nhà tâm lý nữa"(92-639). Năm 1942, Vũ Ngọc Phan cho ra mắt công chúng một công trình khá đồ sộ với 1400 trang viết về Nhà văn hiện đại. Đặc biệt ông dành gần 100 trang cho Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam. Ông có nhiều ý kiến xác đáng, nhất là những ý kiến nhận xét tiểu thuyết, truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng. Tiếp đó, năm 1943 Dương Quảng Hàm viết cuốn Việt Nam văn học sử yếu. Là bộ sách giáo khoa cho bậc trung học, ông đã dành một ít trang giới thiệu sơ lược về tổ chức văn học Tự lực văn đoàn cùng hai tác giả tiêu biểu là Nhất Linh, Khái Hưng với 4 tác phẩm nổi bật là Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân. Ông chỉ ra đặc điểm của từng nhà văn: tác phẩm Nhất Linh là tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết Khái Hưng thì thiên về khuynh hướng lý tưởng. Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu phê bình văn học thời kỳ này khá sôi nổi và có nhiều thành tựu. Với Tự lực văn đoàn, quan điểm của các nhà nghiên cứu phê bình không thuần nhất một chiều. Xu hướng chung là khen nhiều hơn chê, khẳng định nhiều hơn phủ định. Những ý kiến đánh giá ngày càng khách quan, ủng hộ cái mới, trân trọng những thành tích của Tự lực văn đoàn, nhất là tiểu thuyết. Đây là cơ sở quan trọng tạo tiền đề và có ảnh hưởng sâu sắc đối với hoạt động nghiên cứu giai đoạn sau. 3.1.2. Từ 1945 đến 1985: Suốt một chặng đường dài 40 năm đầy sóng gió của lịch sử dân tộc, đất nước trải qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, nhiều vấn đề trọng yếu phải quan tâm.Việc nghiên cứu, đánh giá và thái độ tiếp nhận văn chương Tự lực văn đoàn trong từng vùng, từng lúc có khác nhau. 3.1.2.1. 1945- 1954: Trong tình hình cả nước phải dốc toàn lực cho Cách mạng tháng Tám 1945 và cuộc kháng chiến chống Pháp bảo vệ độc lập dân tộc, suốt gần chục năm, hiện tượng Tự lực văn đoàn gần như ít được sách báo nhắc đến, ngoài bài viết của Trường Chinh: Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam. Tác phẩm này nhằm giải quyết những vấn đề quan hệ giữa văn hoá, nghệ thuật với kinh tế, chính trị; quan hệ giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Về vấn đề văn học lãng mạn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám đồng chí Trường Chinh đã phân tích nguồn gốc, tính chất của chủ nghĩa lãng mạn là một vấn đề phức tạp của văn học nước ta. Đó là kết quả của sự tiếp nhận không đầy đủ của các nhà văn lãng mạn Việt Nam đối với văn học lãng mạn Pháp. Nhưng văn học lãng mạn Việt Nam có cơ sở tồn tại và phát triển “vì khi đó ở Việt Nam đã bắt đầu có chủ nghĩa tư bản dân tộc và sau đó càng ngày lối sống của tư sản và tiểu tư sản thành thị càng chống lại lễ giáo phong kiến, tập quán của xã hội phong kiến Việt Nam suy tàn. Hơn nữa, vì các tầng lớp tư sản dân tộc và tiểu tư sản Việt Nam tìm thấy trong chủ nghĩa lãng mạn một tiếng thở dài chống chế độ thuộc địa”[20,128]. Đồng thời cũng khẳng định "Dẫu sao, hoạt động của nhóm Tự lực văn đoàn đã đẩy mạnh phong trào văn nghệ nước ta tiến tới"[20,128]. Tuy Tự lực văn đoàn chưa được chú ý nghiên cứu nhưng nhận định trên sẽ là định hướng quan trọng để giới nghiên cứu phê bình giai đoạn sau tiếp tục triển khai. 3.1.2.2. 1954 đến 1975: Trong tình hình đất nước bị chia cắt, việc tiếp nhận văn chương Tự lực văn đoàn ở hai miền cũng có nhiều vấn đề phức tạp. ở miền Nam: Thái độ chung là đánh giá cao văn chương Tự lực văn đoàn. Các tác giả, tác phẩm Tự lực văn đoàn chiếm vị trí quan trọng trong chương trình trung học phổ thông. Nhiều công trình nghiên cứu về Tự lực văn đoàn đã xuất bản như của: Nguyễn Văn Xung - Bình giảng về Tự lực văn đoàn (1958); Phạm Thế Ngũ - Việt Nam văn học sử giản ước tân biên - Tập 3 (1960); Doãn Quốc Sỹ- Về Tự lực văn đoàn (1960); Lê Hữu Mục - Khảo về "Đoạn tuyệt "(1960); Thanh Lãng- Phê bình văn học thế hệ 32- Tập 3(1972); Vũ Hân- Văn học Việt Nam thế kỷ XIX tiền bán thế kỷ XX 1800- 1945; Thế Phong- Nhà văn tiền chiến 1930- 1945. Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên- Tập 3 đã giới thiệu nhiều mặt hoạt động củaTự lực văn đoàn: Về người sáng lập Nguyễn Tường Tam ; Từ tờ báo đến văn đoàn; Quan điểm của nhóm về xã hội và nhân sinh; Tôn chỉ và đường lối sáng tác của văn đoàn; Những cơ quan truyền bá của văn đoàn; Tổng luận về Tự lực văn đoàn. Từ đó đã tạo được một nhận thức chung khá toàn diện về Tự lực văn đoàn. Trong từng tiêu mục, tác giả đã dẫn ra một số tư liệu và nhận định khá sâu sát, chủ yếu là biểu dương phong trào văn học này. Chẳng hạn trong Tổng luận về Tự lực văn đoàn, ông viết: Làm việc trong bảy tám năm liền bằng tờ báo, bằng quyển sách, những người trong nhóm Tự lực văn đoàn đã đi đến hoán cải bộ mặt xã hội chúng ta hồi đó về hai phương diện tư tưởng và văn học". "Về đường tư tưởng, chủ trương duy tân và cấp tiến, họ đưa ra tác động như một cơn lốc thổi vào cái xã hội trì trệ trước 1932, nhất là với cái cười Phong hoá, không có gì họ nhằm đả phá mà đứng vững được(...). Thật vậy, không phải chỉ tác động bằng tiếng cười đả phá mà còn bằng tiểu thuyết, bằng thơ, những sáng tác văn nghệ của họ ngấm sâu vào linh hồn và thay đổi nề nếp suy cảm của cả một thế hệ độc giả [92-26]. Đặc biệt Phạm Thế Ngũ đã khẳng định đóng góp lớn nhất của Tự lực văn đoàn cho văn học Việt Nam hiện đại là thể loại tiểu thuyết: Có thể nói chỉ với Tự lực văn đoàn chúng ta mới bắt đầu có tiểu thuyết Việt Nam. (...) ở giai đoạn trước, như ta đã thấy chỉ thịnh hành tiểu thuyết dịch, còn đến sáng tác, nếu có thì thường mang dáng điệu mô phỏng, mô phỏng Tây, mô phỏng Tàu, mô phỏng cốt truyện, mô phỏng nhân vật. Đến khi tiểu thuyết Tự lực văn đoàn ra đời mới thấy những vai tuồng Việt Nam, hoạt động giữa khung cảnh Việt Nam, trong một câu truyện Việt Nam [92,28]. Mặt khác, tác giả chuyên luận cũng không quên việc điểm lại luồng dư luận trước 1945 phản đối một số chủ trương của Tự lực văn đoàn như Trúc Hà, từ 1935 trên báo Sống ở Sài Gòn đã phê phán "óc bè phái tự tôn, khuynh hướng chế diễu và mạt sát tất cả, nhất là tôn chỉ bài Nho của họ". Hoặc thái độ của nhóm Tri tân, nhóm Hàn Thuyên đối với Tự lực văn đoàn... Năm 1962 trên tạp chí Bách khoa số 140- Nguyễn Hữu Ngư viết bài Giải thưởng Tự lực văn đoàn đã lần lượt giới thiệu về các lần xét và tặng giải thưởng cho các nhà văn có tác phẩm dự thi. Tựu trung có 3 lần xét và trao giải: 1935; 1937; 1939. Năm 1938 có xét nhưng không có tác phẩm nào được tặng giải thưởng. Đây cũng là một hoạt động có nhiều ý nghĩa của Tự lực văn đoàn. Sau cái chết của Nhất Linh (tháng 7-1963) trên tạp chí Văn - xuất bản ở Sài Gòn trong nhiều số của năm 1963, 1964, 1965 và tạp chí Bách khoa (Sài Gòn) đã có nhiều bài về Nhất Linh và các tác giả khác trong văn đoàn, chẳng hạn: Đặng Tiến - Hạnh phúc trong tác phẩm Nhất Linh; Thế Phong - Nhất Linh- Nguyễn Tường Tam; Thế Uyên- Người bác Nhất Linh trong dĩ vãng một người trẻ tuổi; Vũ Hạnh- Nhà văn Nhất Linh và một kẻ đến sau; Tường Hùng- Một vài nét về chân dung Nhất Linh; Nguyễn Mạnh Côn- Vĩnh quyết Nhất Linh;... Đây là những cảm tưởng, hồi ký nặng tính chất bày tỏ tình cảm. Đặc biệt, năm 1974, bà Nguyễn Thị Thế - em Nhất Linh, Hoàng Đạo, chị của Thạch Lam đã cho ra mắt độc giả cuốn Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường - (NXB Sóng 8.1974). Đây là một nguồn tư liệu quý giá giúp độc giả cả nước và giới nghệ sĩ, phê bình giải đáp được nhiều vấn đề và tiếp nhận văn chương Tự lực văn đoàn một cách đúng đắn hơn, có sức thuyết phục hơn. Như vậy ở miền Nam trước 1975, giới phê bình nghiên cứu văn học và độc giả đã dành nhiều ưu ái cho Tự lực văn đoàn. Việc đánh giá vai trò, vị trí, đóng góp của Tự lực văn đoàn cho tiến trình văn học hiện đại Việt Nam theo chúng tôi là khá thoả đáng, có cơ sở đứng vững. Tuy nhiên, các bài viết, công trình nghiên cứu đa số chỉ mới khai thác được một số khía cạnh về nội dung nghệ thuật, một số bài chỉ là những hồi ức, kỷ niệm. Hoặc vì những lý do khác nhau một số ít người như Nguyễn Vỹ (Văn thi sĩ tiền chiến), Vũ Bằng (40 năm nói láo) tỏ ra không thật sự tán đồng và cố ý lảng tránh đánh giá vai trò Tự lực văn đoàn. Dù vậy, từ điểm nhìn đầu thế kỷ XXI, chúng ta thấy các nhà phê bình văn học miền Nam trước đây đã làm được một số việc, tạo thuận lợi để thời kỳ đổi mới sau 1986 chúng ta nhìn nhận trào lưu văn học lãng mạn và Tự lực văn đoàn trước 1945 khách quan, đúng mức hơn. ở miền Bắc: ở miền Bắc, từ sau 1954, việc nghiên cứu đánh giá văn học tiền chiến nói chung, văn học lãng mạn và văn chương Tự lực văn đoàn nói riêng khá phức tạp. Sau một thời gian dài ít được quan tâm, từ 1957 trở đi một số công trình nghiên cứu về văn học giai đoạn trước 1945 được công bố. Nổi bật là Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam - Tập 3 (1957) của nhóm Lê Quý Đôn; Văn học Việt Nam 1930 - 1945 (1961) của Bạch Năng Thi, Phan Cự Đệ; Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945 (1964); Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong văn học Việt Nam hiện đại 1930-1954 (1971) của Vũ Đức Phúc; Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (1974,1975) của Phan Cự Đệ. Trên Tạp chí Văn nghệ, tập san Nghiên cứu văn học, rồi Tạp chí Văn học công bố một số bài về văn học lãng mạn và Tự lực văn đoàn của các nhà phê bình văn học như: Hoài Thanh - Đánh giá nhân sinh quan "Tiêu sơn tráng sĩ”-Tạp chí Văn nghệ số 3-tháng 8-1957; Nhìn lại cuộc tranh luận về nghệ thuật hồi 1935-1936 -Nghiên cứu văn học số 1 tháng 1-1960; Vũ Đức Phúc: Mấy nhận xét về quá trình phát triển của các khuynh hướng thuộc trào lưu văn học lãng mạn 1930-1945 – Nghiên cứu văn học số 3- 1963; Sự phát triển của chủ nghiã lãng mạn tư sản ở Việt Nam và phong trào Thơ mới. Cuộc tranh luận về Thơ mới, thơ cũ trước cách mạng- Tạp chí văn học số 5- 1969; Nguyễn Công Hoan: Mấy ý kiến về cuốn "Văn học Việt Nam 1930-1945" - Nghiên cứu văn học số 2- 1962; Đỗ Đức Dục: Sự kế thừa của chủ nghĩa hiện thực phê phán đối với chủ nghĩa lãng mạn trong văn học- Nghiên cứu văn học số 4- 1963.v.v. Một số tác giả đã khảo cứu và chỉ ra được mặt thành công và hạn chế của văn học lãng mạn và văn chương Tự lực văn đoàn trên các phương diện nội dung, hình thức. Chẳng hạn, mặc dù bị phê bình là hữu khuynh nhưng thực tế cho thấy ý kiến của Bạch Năng Thi trong Văn học Việt Nam 1930- 1945 là rất xác đáng:“Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn buổi đầu là tấm gương phản ánh những dằn vặt và những ước mơ của họ; hơn thế nữa còn là trạng sư đầy nhiệt tình của họ trước dư luận xã hội nữa”...[92,590] Quả vậy, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn rất mới hồi ấy so với tiểu thuyết cũ, miêu tả được cụ thể môi trường phong kiến, tư sản và tiểu tư sản; xây dựng được những nhân vật mới đại diện cho tầng lớp thanh niên mới. Với tính chất trữ tình, nó nói lên được những ước mơ của họ. Với tính chất tự sự, nó kể lại được cuộc đời của họ. Với những “sen” ngắn có đối thoại, nó bộc lộ xung đột giữa các xu hướng và các cá tính. Với những đoạn ý nghĩ và cảm tưởng, nó trực tiếp phát biểu quan niệm xã hội của các nhà văn... [92,591]. Bạch Năng Thi khẳng định: Cuộc xung đột “mới, cũ” trong văn học của ta không có quy mô rộng lớn và không được náo nhiệt như cuộc xung đột giữa phái cổ điển và phái lãng mạn ở Pháp. Nhưng nó cũng có ý nghĩa xã hội của nó cuối buổi giao thời ấy. Và Tự lực văn đoàn với một loạt tiểu thuyết mới, cả một loạt Thơ mới nữa, phất cờ chiến thắng là tất nhiên [92,592]. Tuy nhiên trong quá trình trình bày, những nhận xét, đánh giá của các tác giả nói chung vẫn tỏ ra e dè, rào đón. Đa số người viết đều khen ít, chê nhiều, xoay quanh tiêu chí giai cấp; tiêu chí văn học vô sản đối lập với văn học tư sản; hiểu định hướng văn nghệ phục vụ chính trị một cách máy móc, nên trong phê bình không tránh khỏi tình trạng suy diễn, thậm chí quy chụp, nặng về xem xét nội dung xã hội của tác phẩm trên một số phương diện chính trị, tư tưởng, đạo đức, giá trị hiện thực... Về nghệ thuật nặng về yêu cầu điển hình hoá, cá thể hoá, miêu tả tâm lý nhân vật. Giới nghiên cứu miền Bắc thời kỳ này hầu như cùng chung một nhận định: Những năm 1941-1945 là thời kỳ toàn bộ nền văn học công khai đi vào bế tắc. Vũ Đức Phúc trong Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945 cho rằng: Trong cuộc đấu tranh nghệ thuật vị nghệ thuật, nghệ thuật vị nhân sinh nhóm Tự lực văn đoàn không dám tham gia cuộc tranh luận. Đường lối cơ hội chủ nghĩa của họ trong thời kỳ này thể hiện trong sáng tác là muốn “kiếm ăn cả về hai mặt”. Một mặt thì vuốt ve công nông bằng những tác phẩm như Tối tăm(1936), mặt khác lại muốn phục vụ cho khách hàng “tài hoa son trẻ” bằng những tác phẩm như Trống mái (1937) [146-123]. Hoặc cho rằng Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo là tiêu biểu cho “một khuynh hướng” phản động, muốn giữ vững quyền lợi cho giai cấp bóc lột đồng thời ban ơn cho dân nghèo”(qua một số tác phẩm Con đường sáng, Gia đình) [146-155] Hầu hết các tác phẩm của các thành viên chủ chốt Tự lực văn đoàn (trừ Thạch Lam) đều được đặt dưới tiêu chí đó để xem xét. Các tiểu thuyết Đời mưa gió, Băn khoăn, Bướm trắng trong các công trình kể trên hầu như đều được xem là truỵ lạc, độc hại, cần loại bỏ khỏi đời sống văn hoá dân tộc: “ Nó là một tác phẩm trơ trẽn trong đó con người không phải là người nữa, mà chỉ là con vật, phần nhân tính đã khuất phục phần thú tính rồi” (180-521). Sự đánh giá này không chỉ riêng đối với văn chương Tự lực văn đoàn mà còn là chung cho cả văn học lãng mạn. Tình trạng đó đã tạo nên những “ấn tượng” hoặc cảm nhận không đúng về bản chất bộ phận văn học lãng mạn. Do vậy năm 1989 trên đặc san báo Giáo viên nhân dân số 27 đến 31/7/1989, Trương Chính đã phải nói rõ: “Rút cục là trong một thời gian rất dài ở trường phổ thông cũng như trường đại học, học sinh, sinh viên cứ yên trí sách Tự lực văn đoàn là văn chương đồi truỵ, phản động, thậm chí còn cho là “sách cấm”[92,41] Tại sao có tình trạng như vậy?. Lý giải điều này quả là một vấn đề không đơn giản. Từ sau 1986 đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều hội thảo góp phần làm rõ nguyên do. Theo chúng tôi, ngoài những nguyên nhân khách quan, chủ quan xuất phát từ những yêu cầu cụ thể, chính đáng của một giai đoạn lịch sử đấu tranh của dân tộc đòi hỏi, chúng ta không loại trừ khả năng đã có một thời giới nghiên cứu phê bình còn bị nhiều ràng buộc bởi các quan niệm chật hẹp về di sản và thái độ tiếp nhận di sản. Tình trạng này không dừng sau khi thống nhất đất nước 1975, mà còn kéo dài hơn 10 năm sau. 3.1.2.3. Từ 1975 đến 1985 Nói chung, đất nước sau chiến tranh kết thúc, bộn bề bao khó khăn. Việc nghiên cứu, đánh giá lại các di sản văn hoá cũ nhất là những sáng tác trước 1945 trong đó có Tự lực văn đoàn theo một cách nhìn mới vẫn chưa thể thực hiện. Các giáo trình văn học ở bậc đại học, cao đẳng như cuốn Lịch sử văn học Việt Nam (1930-1945)- tập 5. NXB Giáo dục H.1978 của nhiều tác giả [122] chủ yếu vẫn giữ nguyên những nhận định, đánh giá trước đây. Bây giờ đọc lại, phần nổi bật, xuyên suốt cuốn giáo trình này là nhận thức, đánh giá theo tinh thần phủ định, dù có yếu tố nào tiến bộ thì cũng trình bày như một giá trị nhất thời. Một chủ đề được dư luận đánh giá cao là chủ đề chống lễ giáo phong kiến, đòi quyền tự do yêu đương, đề cao hạnh phúc cá nhân lại được tác giả giáo trình nhận xét: Điều đáng chú ý là ở chỗ vốn là con đẻ của một ý thức hệ tư sản ốm yếu, xanh xao, bệnh tật, thiếu hơi thở nóng hổi của một nhiệm vụ lịch sử, hạnh phúc cá nhân mà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn quan niệm và đề cao là một thứ chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, lấy việc hưởng thụ làm mục đích, xa lạ với truyền thống dân tộc. Chính vì lẽ đó nên tính chất chống phong kiến và quan niệm hạnh phúc cá nhân trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn giảm mất khá nhiều ý nghĩa tích cực. Đó là chưa kể càng về sau chủ nghĩa cá nhân hưởng lạc ấy càng bộc lộ một cách trắng trợn tính chất vô luân và suy đồi của nó [122,67]. Điều đó có thể đúng với một vài trường hợp nào đó trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nhưng nếu nâng thành một đánh giá chung cho toàn thể thì chưa thể nói là thoả đáng. Hoặc: Nội dung tiểu thuyết Tự lực văn đoàn căn bản tiêu cực, thậm chí một số mặt có tính chất phản động. Một ít yếu tố dân tộc, dân chủ chung chung mong manh có thể gạn lọc được lại thường lẫn lộn, xen kẽ với những độc tố. Không phải bàn tay nào cũng dễ dàng gạn được ở dòng nước đục ngầu ấy một vài chén nước trong. Nội dung tiêu cực ấy lại được diễn tả bằng một nghệ thuật ít nhiều có sức hấp dẫn nhất định. Xét về mặt nào đó nghệ thuật tiểu thuyết Tự lực văn đoàn quả có tăng thêm nồng độ cho những độc tố vốn đã có ở nội dung. Những tư tưởng tiêu cực, thoát ly, cải lương trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thường đọng lâu trong người đọc hơn là cùng một nội dung ấy trong tiểu thuyết của các nhà văn lãng mạn khác đương thời...[122-91] Góc nhìn như vậy không thể nói đã tránh được chủ quan, thiên kiến. Từ đó tạo cái nhìn lệch lạc và đánh rơi mất nhiều giá trị của bộ phận văn học lãng mạn 1930-1945 và Tự lực văn đoàn. Tuy nhiên, thực tế đời sống văn hoá, xã hội thời kỳ sau 1975 đã tác động mạnh mẽ giúp cho mọi người, nhất là những người gắn bó toàn bộ cuộc đời với văn học nghệ thuật dần tự điều chỉnh. Có thể nói thời kỳ 1975 -1985 như một khoảng lặng giữa hai đợt sóng, đã dần bộc lộ những ý tưởng mới, nhận thức mới, nhưng chủ yếu là để chuẩn bị cho một thời kỳ đổi mới văn học cả về chất và lượng từ sau 1986. 3.1.3. Thời kỳ 1986 đến nay. Hoà chung trong không khí đổi mới của toàn dân tộc, đây là thời kỳ khởi phát rực rỡ của văn học cả về phương diện sáng tác, nghiên cứu, phê bình. Không khí học thuật thật sự chuyển động. Nhiều hiện tượng văn học quá khứ được đánh giá lại, các tác phẩm văn chương trước Cách mạng tháng Tám - 1945, nhất là văn chương lãng mạn trong đó bao gồm văn chương Tự lực văn đoàn và Thơ mới được thẩm định lại với cái nhìn biện chứng, bình tĩnh và công bằng hơn. Hầu hết tác phẩm của các nhà văn trong Tự lực văn đoàn đã được in lại và được giới thiệu theo một quan điểm, góc nhìn nhận mới. Phan Cự Đệ viết lời giới thiệu cho một loạt tác phẩm: Đoạn tuyệt, Đôi bạn, Băn khoăn, Tiêu sơn tráng sĩ, Trống mái, Thoát ly, Đẹp; Hà Minh Đức viết lời giới thiệu Nửa chừng xuân, Đời mưa gió; Phong Lê sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu Tuyển tập truyện ngắn Thạch Lam... Một số Lời giới thiệu đã đạt đến tầm những chuyên luận về tác giả, tác phẩm của Tự lực văn đoàn. Đặc biệt trong giai đoạn này, hàng loạt công trình nghiên cứu về Tự lực văn đoàn đã làm thay đổi hẳn những nhận thức phần nào thiên kiến lệch lạc trước đây. Đó là các bộ giáo trình Đại học được chỉnh lý và biên soạn mới của Phan Cự Đệ, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Hà Văn Đức: Văn học Việt Nam 1930 - 1945 - NXB Đại học & THCN - 1988; Phan Cự Đệ: Văn học lãng mạn Việt Nam 1932- 1945 NXB Giáo dục 1997; Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức: Văn học Việt Nam 1900-1945 - NXB Giáo dục - 1997. Các công trình này đã đặt Tự lực văn đoàn trong tiến trình chung của văn học dân tộc và tiến trình văn học hiện đại để xem xét. Một số bài viết rất có giá trị như: Lời khái luận - Tổng tập văn học Việt Nam - Tập 28 - Hà Minh Đức - NXB Văn học H. 1990. Báo Giáo viên nhân dân số đặc biệt 27,28,29,30,31 - tháng 7 - 1989 đăng nhiều bài quan trọng của nhiều tác giả trong Hội thảo văn chương Tự lực văn đoàn. Tạp chí Văn học thời kỳ này liên tục đăng tải các bài bàn về Tự lực văn đoàn và các tác giả, tác phẩm thuộc văn đoàn này theo quan điểm, cách nhìn nhận mới như: Lê Thị Đức Hạnh - Thêm mấy ý kiến đánh giá Tự lực văn đoàn - TCVH - số 3 - tháng 5-6/1991; Tự lực văn đoàn với phong trào Thơ mới- TCVH. Số 2- Tháng3- 4 /1993; Tú Mỡ, một thành viên Tự lực văn đoàn với thiên hồi ký rất quý giá: Trong bếp núc của Tự lực văn đoàn - TCVH số 5-6 / 1988 và số1/ 1989; Trương Chính- Vấn đề đánh giá Tự lực văn đoàn - TCVH- Số 3-4 / 1988. Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn - TCVH- Số 5/ 1990. Đặc biệt khi thời gian đã hội đủ điều kiện, một loạt các chuyên luận của các nhà nghiên cứu đã công bố và có sức thuyết phục lớn như: Phan Cự Đệ - Tự lực văn đoàn con người và văn chương - NXB Văn học- 1990; Trần Đình Hượu- Tự lực văn đoàn, nhìn từ góc độ tính liên tục của lịch sử, qua bước ngoặt hiện đại hoá trong lịch sử văn học Phương Đông (từ sách Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại- NXB Văn hoá - Thông tin 1995), Phong Lê- Văn học trên hành trình thế kỷ XX- NXB ĐHQG Hà Nội- 1998; Hà Minh Đức- Khảo luận văn chương- NXB KHXH- 1998; Trịnh Hồ Khoa- Những đóng góp của Tự lực văn đoàn cho việc xây dựng một nền văn xuôi hiện đại Việt Nam - (Luận án PTS Khoa học Ngữ văn- 1996); Lê Thị Dục Tú- Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn- NXB Khoa học xã hội- H. 1997. Riêng Vu Gia đã lần lượt xuất bản một loạt bốn công trình khảo cứu nghiêm túc về bốn nhà văn chủ chốt của Tự lực văn đoàn: Khái Hưng, nhà tiểu thuyết- NXB Văn hoá. H. 1993; Thạch Lam thân thế và sự nghiệp- NXB Văn hoá H. 1994; Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hoá văn học – NXB Văn hoá 1995; Hoàng Đạo, nhà báo- nhà văn- NXB Văn hoá 11-1997. Những năm cuối cùng của thế kỷ XX nhiều nhà nghiên cứu đã kịp sưu tầm, biên soạn, giới thiệu và xuất bản các bộ tuyển tập lớn về văn chương Tự lực văn đoàn như: Tuyển tập Tự lực văn đoàn- NXB Hội Nhà văn - 1999 - 3 tập với khoảng 2000 trang gồm những tác phẩm chủ yếu của Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo và một ít của Thạch Lam, Thế Lữ, Xuân Diệu, Tú Mỡ. Dày dặn, công phu và tương đối đủ các tác phẩm tiêu biểu của Tự lực văn đoàn là bộ tuyển Văn chương Tự lực văn đoàn của nhóm Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ- NXB Giáo dục- 1999 với hơn 3500 trang khổ lớn. Bộ Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam do Vũ Tuấn Anh, Bích Thu chủ biên (NXB Văn học. Hà Nội, 2001) là một đóng góp của các nhà nghiên cứu ở trong và ngoài Viện Văn học. Các bài viết về Tự lực văn đoàn qua các thời kỳ của các nhà phê bình đã được tập hợp lại, biên soạn thành sách như cuốn Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc- ( Mai Hương biên soạn) - NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 2000; Mấy vấn đề._. trong văn học hiện đại Việt Nam của Lê Thị Đức Hạnh (NXB KHXH, Hà Nội, 1999) là những đóng góp thiết thực cho việc nghiên cứu, tiếp nhận bộ phận văn chương này. Một điều đáng quan tâm, trên Tạp chí Văn học các số xuất bản năm 2000 và 2 năm đầu thế kỷ XXI rất chú trọng đăng tải các bài nhằm hướng tới việc tổng kết một thế kỷ văn học; đồng thời khẳng định Tự lực văn đoàn là một tư trào văn học nổi bật. Nhất là các giáo sư gắn bó chặt chẽ cuộc đời mình với sự nghiệp nghiên cứu và bước đường thăng trầm của văn học mấy chục năm qua đã dồn tâm huyết vào hàng loạt bài viết với một nhãn quan sâu sắc, mang tầm nhìn bao quát thế kỷ văn học như Giáo sư Phong Lê Năm 2000 nhìn lại một thế kỷ - TCVH- Số 2-2000; Bức xúc của một công việc - TCVH- Số 2- 2001. Đặc biệt là các bài Văn xuôi những năm hai mươi ( thế kỷ XX)- Phòng chờ cho bước chuyển giai đoạn sau 1932-TCVH- số 5 --2002; Thời kỳ 1900- 1932 và cuộc chuyển giao từ văn học trung đại sang văn học hiện đại - TCVH-số 8- 2002; Thời kỳ 1932 -1945 và diện mạo hiện đại của văn học dân tộc- TCVH-số 9- 2002; Giáo sư Hà Minh Đức Truyện ngắn Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX - TCVH-Số 12- 2000; Thế kỷ không ngừng phát triển và đổi mới văn nghệ - TCVH- Số 1- 2001; Giáo sư Phan Cự Đệ Những bước phát triển trong văn học Việt Nam thế kỷ XX- TCVH- Số 10- 2001. Phó Giáo sư Phan Trọng Thưởng: Cuối thế kỷ nhìn lại việc nghiên cứu, đánh giá văn chương Tự lực văn đoàn - TCVH - số 2 - 2000; Phóng sự (1932 - 1945) một thành tựu đặc biệt của tiến trình văn học Việt Nam - TCVH - số 5- 2000; Tinh thần nhận chân các giá trị của thế kỷ XX - TCVH - số 12 / 2000; PGS Bích Thu: Tiểu thuyết Việt Nam trong quá trình hiện đại hoá văn học nửa đầu thế kỷ - TCVH - số 4 -2002 ; các bài viết của các tác giả Vũ Tuấn Anh, Đặng Anh Đào, Trần Đăng Xuyền, Thành Duy, Lê Dục Tú, Phạm Thị Thu Hương. Tất cả đã góp phần làm sáng rõ diện mạo văn học thế kỷ XX nói chung và văn học lãng mạn, văn chương Tự lực văn đoàn nói riêng, ở từng góc độ, vừa mang tầm khái quát, vừa phong phú, cụ thể. Đặc biệt, công trình khoa học Nhìn lại một thế kỷ văn học (1900 - 2000) đã tập hợp được tài năng trí tuệ và công sức của một lực lượng đông đảo các nhà khoa học trong và ngoài Viện Văn học. Đây là “ một công việc cần thiết và kịp thời đánh giá những thành tựu và hạn chế của một thế kỷ văn học vừa qua” [106,54]. Trong đó Tự lực văn đoàn được đánh giá như một nhân tố quan trọng thúc đẩy tiến trình hiện đại hoá văn học: “Mở đầu là phong trào Duy tân của các nhà nho tiến bộ, đến cải cách của Tự lực văn đoàn, trào lưu hiện thực và văn học cách mạng thấm sâu tư tưởng nhân đạo, dân chủ, tiến bộ”. [106,54]. Như vậy, mặc dù hoạt động của tổ chức văn học Tự lực văn đoàn và sáng tác văn chương của các thành viên chỉ diễn ra chủ yếu trên dưới 10 năm, kể từ 1933 nhưng nó đã có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn hoá, văn nghệ dân tộc suốt chặng đường lịch sử 70 năm qua. Nhìn lại chặng đường đó, giới nghiên cứu phê bình văn học qua các thời kỳ tuy có khi, có lúc do xuất phát từ những điểm nhìn khác nhau, hệ quy chiếu khác nhau nên cũng khó tránh khỏi sự thiếu nhất quán trong cách nhìn nhận, đánh giá nhưng nhìn chung ngày càng thống nhất. Điều thú vị là công tác nghiên cứu phê bình văn học có chất lượng học thuật và đạt thành tựu cao lại tập trung vào hai chặng: Những năm 30 đầu 40 và những năm cuối thế kỷ XX đến nay. Tuy nhiên, có thể nói, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào tập trung tổng kết một cách đầy đủ, toàn diện về Tự lực văn đoàn mà chủ yếu mới khai thác một số khía cạnh hoặc kết hợp nói tới một số vấn đề mà các công trình nghiên cứu cần quan tâm. Vì thế quan hệ Thạch Lam với Tự lực văn đoàn cũng chưa được đi sâu nghiên cứu một cách thấu đáo. 3.2. V ề Thạch Lam Cho đến nay, theo thống kê của chúng tôi, đã có hàng trăm công trình nghiên cứu và bài báo viết về Thạch Lam ở mọi góc độ: từ cuộc đời, thân thế, sự nghiệp đến phong cách nghệ thuật, dòng phong cách, đặc trưng thể loại hoặc đi sâu cảm thụ, tiếp nhận, phân tích các tập truyện và các tác phẩm cụ thể... Điểm chung giữa các nhà nghiên cứu là thống nhất đánh giá cao về thành công và tính độc đáo trong tác phẩm của Thạch Lam. Đây là loại tác phẩm có "trữ lượng lớn"càng đào sâu càng phát hiện ra "nhiều tầng, nhiều vỉa"có sức lan rộng, vươn xa... Nói chung việc đánh giá, nhận xét Thạch Lam và các văn phẩm của ông từ trước đến nay tương đối thuận chiều không thăng trầm, phức tạp như đối với các nhà văn chủ chốt khác trong Tự lực văn đoàn như: Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo. Nhưng ở từng thời kỳ, mức độ quan tâm, quy mô, chất lượng nghiên cứu cũng có khác nhau. 3.2.1. Trước 1945: Người đầu tiên đón nhận, phát hiện tài năng Thạch Lam có thể nói là Khái Hưng. Từ 1937, khi tập truyện ngắn Gió đầu mùa của nhà văn trẻ Thạch Lam ra đời, Khái Hưng đã khẳng định điểm nổi bật ở Thạch Lam là sự thành thực: Thành thực, đó là đức tính không có không được của nhà văn. ở Thạch Lam, sự thành thực lại trở nên sự can đảm. Đọc nhiều đoạn văn của Thạch Lam, tôi rùng rợn cả tâm hồn vì sự thành thực (...), tôi vẫn ước ao có cái can đảm ấy nhưng không sao có được cái can đảm mà tôi thấy ở Tolstoi, mà trong đám văn sĩ mới nước ta tôi thấy ở Thạch Lam"[107,7]. Là một nhà văn tài hoa, tinh tế và chắc chắn ít nhiều có ảnh hưởng đến Thạch Lam, Khái Hưng đã dứt khoát khẳng định: "Nếu ta có thể chia làm hai hạng nhà văn: nhà văn thiên về tư tưởng và nhà văn thiên về cảm giác thì tôi quả quyết đặt Thạch Lam vào hạng dưới [102,7] Tập Gió đầu mùa gồm 16 truyện, in lần đầu vào 1937 đã thực sự gây nên một chấn động lớn trong độc giả và giới nghiên cứu. Sau lời Tựa của Khái Hưng, Xuân Vi với bài báo "Gió đầu mùa" của Thạch Lam: một văn sĩ có tài, một kiệt tác đăng trên báo La Renaissance được đăng lại trên báo Ngày nay số 113, ngày 5.6.1938 đánh giá rất cao thành công của Thạch Lam. Liên tiếp các năm sau 1939, 1942 trong các công trình của các nhà nghiên cứu: Trương Chính (Dưới mắt tôi- NXB Thuỵ Ký H. 1939), Vũ Ngọc Phan (Nhà văn hiện đại- NXB Tân Dân 1942-1944) đều dành nhiều ưu ái khi nhận xét, đánh giá, ghi nhận thành tựu Thạch Lam đã đạt được: "Sau Nhất Linh, sau Khái Hưng, Thạch Lam đã hiểu biết người một cách đầy đủ và xác đáng hơn, không một nét nào thừa và cũng không một nét nào quá đậm"[92,513]. Ông chưa chỉ ra ảnh hưởng của văn đoàn đối với Thạch Lam, nhưng đã chỉ ra nét khác biệt giữa Thạch Lam với Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo: "Không sâu sắc bằng Khái Hưng, không điêu luyện bằng Nhất Linh, không rắn rỏi bằng Hoàng Đạo, Thạch Lam có một tâm hồn dễ rung động hơn, ít tư tưởng và ít tâm lý hơn, nhà văn ấy lại nhiều tình cảm"[92,512]. Vũ Ngọc Phan cũng chỉ rõ: Thạch Lam "có một ngòi bút lặng lẽ điềm tĩnh vô cùng, ngòi bút chuyên tả tỉ mỉ những cái rất nhỏ và rất đẹp, những cảm tình, cảm giác con con nảy nở và biểu lộ ở đủ hạng người, mà ông tả một cách tinh vi". Trong công trình này, Vũ Ngọc Phan với cách nhìn tổng quan đã thấy rõ bước tiến lớn của Thạch Lam từ tập Gió đầu mùa đến tập Sợi tóc. Nhưng mặt khác,ông cũng chưa thật chính xác khi nhận xét một số truyện của Thạch Lam như Nắng trong vườn, Bên kia sông, Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan, Đứa con đầu lòng là "đơn giản","tầm thường","nhạt nhẽo và rời rạc"; sau này thời gian đã chứng minh sự nhầm lẫn đó của nhà phê bình họ Vũ. Tiếp sau đó, năm 1943, trên báo Thanh nghị số 30, Thế Lữ trong bài Tính cách tạo tác của Thạch Lam đã nhận xét: Thạch Lam là một người trầm lặng, bao nhiêu băn khoăn về nghệ thuật, bao nhiêu tư tưởng, cũng như bao nhiêu tình cảm rung động, lúc nào cũng chứa chất dồi dào trong tâm trí: cái kho tàng cuộc sống bên trong ấy rất sẵn châu báu mà chỉ cầm đến bút Thạch Lam đã thấy dàn xếp theo hình thể của lời".Văn tài Thế Lữ thật tinh tế khi cảm nhận Thạch Lam: "... Không có một sáng tác nào của Thạch Lam mà không có rất nhiều Thạch Lam trong đó". "Thạch Lam sống hết cả từng ý "văn", từng câu văn anh đã viết lên giấy. Sự thực của tâm hồn mà Thạch Lam nén trong lời của văn chương phức tạp nhiều hình nhiều vẻ, nhưng bao giờ cũng đằm thắm, cũng nhân hậu,cũng nghẹn ngào một chút lệ của tình thương. Nếu Thạch Lam theo một chút chú ý nào trong công việc của anh thì chú ý ấy là diễn ra và gợi lên sự thương cảm [92,529-530]. Có thể nói, trước 1945 dư luận chung đều nồng nhiệt tiếp nhận các sáng tác của Thạch Lam, ngoài một vài ý kiến với mong muốn nhiều hơn, còn đều là những lời khen ngợi, bước đầu khẳng định Thạch Lam trên một số phương diện cần thiết. 3.2.2. Sau 1945 đến trước 1975: Từ 1945 trở đi, cũng như việc nghiên cứu văn chương Tự lực văn đoàn, một thời kỳ dài hàng chục năm, việc nghiên cứu Thạch Lam chững lại. Mãi đến 1957, một số ít nhà văn, nhà nghiên cứu mới lại tiếp tục viết về khuynh hướng văn học lãng mạn trong đó có Tự lực văn đoàn và Thạch Lam. Khởi đầu là Nguyễn Tuân- tác giả Vang bóng một thời đã không ngần ngại nhận xét:"Nói đến nghệ thuật của Thạch Lam, tức là nói cụ thể đến nghệ thuật viết truyện ngắn của Thạch Lam. Một số truyện ngắn của Thạch Lam có thể coi như là mẫu mực được"[92,438]. Nguyễn Tuân đã đặt Thạch Lam trong tiến trình chung của văn học dân tộc, nhất là trong nền" Văn xuôi Việt Nam hãy còn trẻ tuổi "để xét, và ông khẳng định: Bằng sáng tác văn học, Thạch Lam đã làm cho tiếng nói Việt Nam gọn ghẽ đi, co duỗi thêm, mềm mại ra, và tươi đậm hơn. Thạch Lam có đem sinh sắc vào tiếng ta (...) và đánh giá một nhà văn, đứng về nghề nghiệp chuyên môn mà bàn, thì giá trị một nhà văn xuôi, cụ thể còn là những công đức lập ngôn của nhà văn đó mở mang thêm vốn liếng dân tộc về tiếng nói được đến mức nào, và đã góp được phần sáng tạo của mình vào ngôn ngữ Việt Nam như thế nào [92,444]. So với những người đi trước, Nguyễn Tuân đã tiến thêm một bước về nghiên cứu Thạch Lam: nhìn nhận truyện ngắn Thạch Lam dưới góc độ phong cách. Tuy nhiên khi đánh giá, phân tích, một số truyện ngắn như Người đầm, Nhà mẹ Lê có vài khía cạnh chưa được dư luận đồng tình. Từ sau 1960 trong tình hình đất nước chia làm hai miền, việc nghiên cứu Thạch Lam ở mỗi miền cũng có những biểu hiện khác nhau. Cụ thể: ở miền Bắc: Bạch Năng Thi khi phân tích các tập tiểu thuyết tiêu biểu của Tự lực văn đoàn đã dành một ít trang để giới thiệu Gió đầu mùa của Thạch Lam. Nổi bật trong các trang viết này là một thái độ e dè, có chừng mực, và sự khẳng định là dành cho yếu tố hiện thực trong tác phẩm Thạch Lam: "Có thể nói Gió đầu mùa có yếu tố hiện thực hơn nhiều tác phẩm lãng mạn, và Thạch Lam có xu hướng " bình dân" thành thực hơn nhiều nhà văn lãng mạn khác"(161-618). Sau đó những năm 1964, 1965 có các ý kiến của Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn trong Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945 (NXB Văn học- Hà Nội 1964), Lê Thị Đức Hạnh Mấy ý kiến đánh giá Thạch Lam(Tạp chí Văn học số 4-1965), Hà Minh Đức trong Nhà văn và tác phẩm (NXB Văn học Hà Nội 1971). Trong các bài viết này, một mặt các tác giả thừa nhận Thạch Lam "là một nhà văn lãng mạn có thái độ trân trọng đối với người nghèo hơn cả", một mặt lại phê bình Thạch Lam "thể hiện một lòng thương người không có ranh giới giai cấp". ở miền Nam: Nhìn chung, thái độ của giới nghiên cứu và độc giả đối với văn học lãng mạn nói chung, văn chương Tự lực văn đoàn và Thạch Lam nói riêng là trân trọng đánh giá cao.Đặc biệt nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ trong công trình Việt Nam văn học sử giản ước tân biên đã rất sâu sắc khi xem xét Thạch Lam trên các phương diện: Nhà văn có khuynh hướng xã hội, Nhà văn mô tả những trạng thái tình cảm, Nhà văn chuyên về đoản thiên. Và ông đã đúng khi đặt Thạch Lam trong hệ thống với các nhà văn chủ chốt Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo để so sánh, rút ra những điểm mới, điểm kế thừa và điểm khác biệt giữa Thạch Lam và các nhà văn này. Chẳng hạn trong mục Thạch Lam Nhà văn có khuynh hướng xã hội ông đã chỉ rõ: "Tác phẩm xuất bản đầu tiên của Thạch Lam, tập truyện ngắn Gió đầu mùa ( 1937) cho ta hay Thạch Lam là một nhà văn có khuynh hướng xã hội. Kể ra thì các nhà văn Tự lực đều có khuynh hướng ấy... Tuy nhiên, tư tưởng xã hội ấy ở mỗi người có một sắc thái riêng. Nhất Linh, Hoàng Đạo muốn một cuộc cách mạng từ thành thị về thôn quê và đặt làm một vấn đề lý luận, một đối tượng tranh đấu... Đối với Thạch Lam, khác thế, ông lấy làm nhân vật những người tầm thường trong xã hội: mẹ Lê xóm nghèo, cô hàng xén phố huyện, cậu học trò đi ở trọ, thợ thuyền, tiểu công chức. Ông thường để ý vạch vẽ cuộc đời của họ, những tình cảm cùng ý nghĩ của họ chứ không bận tâm lắm đến việc tuyên truyền trực tiếp hay gián tiếp tư tưởng cách mạng xã hội. Đối với những kẻ nhỏ bé ông thường không đứng ngoài để xem xét, thương hại, mơ tưởng những công trình cứu giúp to tát như trường hợp Nhất Linh hay Hoàng Đạo. Ông đi ngay vào cuộc sống của họ, dùng giọng thân mật vui vẻ với những nỗi khổ eo hẹp của họ "... Theo chúng tôi đây là một bước tiến về phương pháp nghiên cứu Thạch Lam- phương pháp so sánh mà ông Ngũ đã làm từ những năm 1960. Đồng thời, riêng đối với Thạch Lam, giới học thuật, nghiên cứu miền Nam trước đây đã dồn tâm sức vào hai số của tạp chí Văn- Sài Gòn. (số 36 ngày 15.6.1965) và tạp chí Giao điểm - Sài Gòn - số 12- 12. 1971) với hàng chục bài viết thuộc đủ các thể loại như thơ, hồi ký, hồi tưởng, kỷ niệm, bình luận, phân tích, phê bình, tiểu luận... (Theo thống kê của chúng tôi: đăng trên tạp chí Văn số 36 có 10 bài của 8 tác giả là: Đinh Hùng, Lãng Nguyên, Đỗ Đức Thu, Thế Uyên, Huyền Kiêu, Mai Thảo, Hoài Diệp Thứ Lang, Nguyễn Thị Thế. Trong đó Đinh Hùng viết 3 bài. Tạp chí Giao điểm 1971 có 6 bài của 6 tác giả là Nguyễn Tường Giang, Vũ Bằng, Dương Nghiễm Mậu, Đào Trường Phúc, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Nhật Duật. Trong đó đáng chú ý là bài viết: Thạch Lam của Đỗ Đức Thu. Với vị thế của một người đã từng gần gũi và am hiểu Thạch Lam, Đỗ Đức Thu cho rằng: "Tác phẩm sau cùng Hà Nội băm sáu phố phường này mới là tác phẩm then chốt của hết thảy văn phẩm Thạch Lam, mới gần đến chỗ hoàn thiện, toàn mĩ" [92,532]. Đây là một cách nhìn mới mẻ, vì từ trước tới nay các nhà nghiên cứu chủ yếu chỉ mới chú trọng đến truyện ngắn, còn ít người nhìn nhận Thạch Lam theo góc độ đó. Dương Nghiễm Mậu viết về Thời của Thạch Lam; Đào Trường Phúc - Những lời thủ thỉ của truyện ngắn; Nguyễn Nhật Duật - Hương thơm và nỗi u hoài... Hầu như tinh thần chung của các cây bút miền Nam thời này là đi thẳng vào truyện ngắn, phát hiện những nét độc đáo của bút pháp nghệ thuật, những vấn đề hình thành phong cách truyện ngắn Thạch Lam; tuy nhiên, các bài viết đang dừng lại ở bước sơ thảo, chưa có độ dày dặn, quy mô của một công trình. (Nhiều bài mới chỉ là những mẩu chuyện, hồi ức, giai thoại về Thạch Lam như Lãng Nguyên: Thạch Lam ký giả và hoạ sỹ; Hoài Diệp Thứ Lang: Giai thoại một chầu hát không tiền khoáng hậu, Thạch Lam thẩm âm; Đinh Hùng: Những kỷ niệm "chia ngọt sẻ bùi cùng Thạch Lam "...). Điều đáng quý là cách viết của họ rất chân thành và rất có sức thuyết phục. 3.2.3. Từ 1975 đến nay: Bẵng đi một thời gian khá dài gần hàng chục năm không có công trình nào đáng kể, từ 1983 nhiều nhà nghiên cứu trong cả nước, đặc biệt là các nhà phê bình, nghiên cứu văn học ở các trường Đại học, Viện Văn học ở phía Bắc lại dành nhiều tâm lực cho việc nghiên cứu văn học lãng mạn, phong trào Thơ mới, văn chương Tự lực văn đoàn, và dành một phần không nhỏ cho Thạch Lam, nhất là từ cuối 1986 sau khởi động của công cuộc đổi mới đất nước. Đây như là một sự bù đắp cho những hẫng hụt trước đó để cân bằng, trả lại những giá trị thực của những gì đã có. Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Phương Chi, Nguyễn Hoành Khung đã đưa Thạch Lam và tác phẩm vào Từ điển văn học. Lê Thị Đức Hạnh, Nguyễn Đăng Mạnh cũng có nhiều ý kiến xác đáng về Thạch Lam và dòng truyện ngắn trữ tình. Các tác giả đều nhấn mạnh chất thơ và chất hiện thực kết hợp với năng lực khám phá thế giới đời sống tâm hồn con người là yếu tố quan trọng tạo nên bút lực truyện ngắn Thạch Lam. Nếu năm 1965, 1971 là những mốc gắn liền với các hoạt động nghiên cứu nhằm tưởng niệm Thạch Lam, viết về Thạch Lam ở miền Nam, thì năm 1988 cũng có thể xem là một mốc lớn trên tiến trình nghiên cứu Thạch Lam trong phạm vi cả nước. Lần đầu tiên Tuyển tập Thạch Lam [107] do Phong Lê tuyển tập và viết lời giới thiệu ra mắt bạn đọc. Điểm mới nhất, đáng quan tâm là cách đặt vấn đề của Phong Lê về Thạch Lam: Tất cả các sáng tác, bao gồm truyện ngắn, ký, tiểu thuyết,tiểu luận của Thạch Lam, ngay sau khi ra mắt trên các báo đều được nhanh chóng in thành sách. Đời văn Thạch Lam ngắn ngủi nhưng được hưởng tất cả ưu thế và thuận lợi của văn đoàn mình. Đó là lý do giải thích tất cả sáng tác Thạch Lam, nhìn chung vẫn nằm trong khuôn khổ, trong quy định của văn chương lãng mạn [107,11]. Tiếp theo đó, nhiều công trình nghiên cứu, bài báo khai thác mọi khía cạnh về cuộc đời và văn nghiệp Thạch Lam: Hà Nội với đời văn Thạch Lam, Cốt cách trí thức ở ngòi bút Thạch Lam (Vương Trí Nhàn ); Với Thạch Lam (Hồ Dzếnh); Nghĩ về Thạch Lam (Phạm Văn Phúc); Thạch Lam (Lê Kim Vinh); các bài phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Nguyễn Thanh Hồng, Văn Tâm. Trong Lời giới thiệu Tuyển văn học lãng mạn văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930- 1945, Nguyễn Hoành Khung đã đặt Thạch Lam trong hệ thống các nhà viết truyện ngắn tiêu biểu: Cùng với Nguyễn Công Hoan nhà truyện ngắn bậc thầy, có Thạch Lam, cây bút có biệt tài về truyện ngắn mà phong cách khác hẳn Nguyễn Công Hoan. Và Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Đỗ Đức Thu... mỗi người một vẻ cùng với một loạt cây bút truyện ngắn đặc sắc của dòng văn học hiện thực: Nam Cao, Nguyên Hồng, Bùi Hiển, Tam Kính... tất cả họp lại làm nên sự phong phú đặc biệt của truyện ngắn Việt Nam trước Cách mạng [96,24-25]. Đây là một bước chuyển biến lớn trong cách nhìn nhận, đánh giá Thạch Lam của giới nghiên cứu so với thời kì trước. Bên cạnh việc nhấn mạnh chất nhân bản, chất thơ sâu đậm trong các truyện của Thạch Lam, Nguyễn Hoành Khung cũng đã bước đầu đặt vấn đề so sánh giữa truyện của Thạch Lam với truyện của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Tác giả chỉ rõ: Quả thật cây bút quan trọng của Tự lực văn đoàn này vẫn khác với Nhất Linh, Khái Hưng ở nhiều điểm. Có thể nói những sáng tác mang luận đề cải tạo nông thôn, cải cách xã hội của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo và Gió đầu mùa của Thạch Lam, Con trâu của Trần Tiêu là những xu hướng phân hoá khác nhau của nhóm văn học này trước tác động của phong trào Mặt trận Dân chủ [96,34]. Như vậy, bước đầu thể hiện ý hướng xác lập quan hệ Thạch Lam với các nhà văn trong và ngoài văn đoàn mình là một bước chuyển về quan niệm và phương pháp, là hướng đi đúng và cần thiết. Năm 1992, nhân kỷ niệm 50 năm ngày mất của nhà văn Thạch Lam (1942- 1992) Viện Văn học phối hợp với khoa văn các trường Đại học, và hai Hội văn nghệ Hải Dương và Quảng Nam - Đà Nẵng tổ chức Hội thảo khoa học về Thạch Lam. Đây là một sự kiện lớn trong đời sống văn học, "là một cái mốc quan trọng trong việc khám phá di sản văn chương ít ỏi nhưng đầy ắp giá trị của Thạch Lam"[4,6]. Tại hội thảo này đã có trên 30 bản tham luận được trình bày và đưa ra nhiều cách tiếp cận từ các góc độ khác nhau nhằm tìm hiểu sâu hơn giá trị của văn chương Thạch Lam. Không ít những đề xuất mới, có tính chất phát hiện, gợi mở. Kết quả hội thảo được thể hiện trong tập sách do Vũ Tuấn Anh chủ biên: Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp (NXB Hội Nhà văn xuất bản năm 1994). Trong tập kỉ yếu quan trọng này, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến ý kiến của giáo sư Phong Lê về Thạch Lam trong Tự lực văn đoàn. Tiếp nối các ý tưởng trong Lời giới thiệu Tuyển tập Thạch Lam, ở bài viết này, tác giả chỉ rõ: "Đối với Thạch Lam văn chương là văn chương. Tất cả các giá trị mà văn chương có thể mang lại phải được tạo nên từ giá trị văn chương (LMT nhấn mạnh). Có lẽ đây là chỗ phân biệt Thạch Lam với ba cây bút chủ chốt của Tự lực văn đoàn: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo"[4,38]. Đồng thời lại phải thấy rõ: "Tự lực văn đoàn là mảnh đất ươm, là nơi sinh thành"[4,39] của Thạch Lam. Theo chúng tôi, đây có thể xem là bước chuyển căn bản có ý nghĩa phương pháp luận trong tiến trình nghiên cứu Thạch Lam và Tự lực văn đoàn. Điểm mới trong tiến trình tiếp nhận Thạch Lam vào thời kỳ này là nhiều nhà nghiên cứu đã có những khám phá sâu về phong cách, thi pháp Thạch Lam. Phạm Phú Phong với Thi pháp truyện ngắn Thạch Lam. Trần Ngọc Dung trong luận án tiến sĩ Phong cách truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Thạch Lam đã dành một chương để khảo sát phong cách truyện ngắn Thạch Lam. Vũ Tuấn Anh đi từ một khía cạnh Nỗi buồn Thạch Lam - một tâm thế xã hội để phát hiện những dấu hiệu của phong cách nhà văn: Trở thành một khí quyển tâm trạng bao phủ những cảnh đời mà nhà văn dẫn ta vào... Nỗi buồn là chiều sâu riêng của văn Thạch Lam. Nó thể hiện tấm lòng nhà văn, làm nên dấu hiệu, phong cách và thi pháp. Đó là một cảm quan nghệ thuật có ý nghĩa xã hội và ý nghĩa nhân văn đáng kể của Thạch Lam [4,40]. Từ Hội thảo quan trọng này, những năm sau đó, xuất hiện liên tiếp các công trình và luận án tiến sĩ, những bài viết, những tập sách mang tính chất chuyên luận nhằm đi sâu khai thác nhiều phương diện nội dung, nghệ thuật trong các sáng tác Thạch Lam, chủ yếu là truyện ngắn. Đó là luận án của Phạm Thị Thu Hương: Ba phong cách truyện ngắn trữ tình trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930- 1945: Thạch Lam, Thanh Tịnh - Hồ Dzếnh(1995); của Trịnh Hồ Khoa: Những đóng góp của Tự lực văn đoàn cho việc xây dựng một nền văn xuôi Việt Nam hiện đại (1996); Nguyễn Thành Thi: Đặc trưng truyện ngắn Thạch Lam(1997); Vu Gia: Thạch Lam thân thế và sự nghiệp (1994); Lê Dục Tú: Quan niệm con người trong sáng tác của Thạch Lam (Phụ lục của luận án) (1997). Các luận án, bài viết đã giải quyết thấu đáo các vấn đề đặt ra. Nhất là công trình của Nguyễn Thành Thi đã đi sâu vào phân tích cụ thể, giàu sức thuyết phục các đặc trưng cơ bản của truyện ngắn Thạch Lam, xem đây là truyện hiện thực tâm lí. Mỗi truyện là một bức tranh hiện thực tâm lí nghiêng về cảm giác, và thấm đượm phong vị trữ tình, nhưng nhìn chung hầu hết các tác giả đều tập trung vào khám phá vấn đề đặc trưng phong cách, thi pháp truyện ngắn Thạch Lam, ít đề cập đến các thể loại khác của Thạch Lam. Chỉ mới có một ít tác giả quan tâm mở rộng phạm vi nghiên cứu, để có một cái nhìn tổng thể hơn như Phạm Thị Thu Hương đi sâu vào ba tác giả, đặt thành một dòng phong cách: phong cách truyện ngắn trữ tình, đây là công trình mở ra một hướng tiếp cận mới khá thú vị. Hoặc Vu Gia điểm lại những vấn đề liên quan thân thế, sự nghiệp văn chương Thạch Lam với tư cách một chuyên khảo có nhiều tư liệu quan trọng. Một bài viết khác cũng đáng chú ý là Thạch Lam của Hà Văn Đức (một chương trong tập Văn học Việt Nam 1930- 1945 của nhóm tác giả Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức - NXB Giáo dục- 1997). Bài viết đã trình bày có hệ thống các vấn đề đã được dư luận khẳng định về Thạch Lam từ "thân thế, sự nghiệp" đến "thế giới nhân vật của Thạch Lam", "nghệ thuật của Thạch Lam". Điểm mới là trong "thế giới nhân vật của Thạch Lam ", Hà Văn Đức đã sắp xếp theo một hệ thống hình tượng: Hình tượng người tiểu tư sản; Hình tượng người dân nghèo; Hình tượng ngươì phụ nữ. Cách trình bày như vậy, có thuận lợi cho người đọc là giới học sinh, sinh viên, nhưng cũng dễ rơi vào công thức, và nhiều vấn đề quan trọng khó có điều kiện diễn giải rõ ràng, dễ bị bỏ qua. Điều lí thú là trong bài viết này, Hà Văn Đức cũng cho rằng tác phẩm của Thạch Lam có tính chất đan xen giữa hiện thực và lãng mạn. Thạch Lam vừa chịu ảnh hưởng Tự lực văn đoàn, "vừa tách riêng một thế giới và tạo nên được cái độc đáo cho riêng mình. Điều đó giải thích vì sao tác phẩm của Thạch Lam, trải qua bao thử thách khắc nghiệt của thời gian vẫn nguyên vẹn giá trị của nó và vẫn được nhiều thế hệ bạn đọc biết đến với một niềm say mê, trân trọng"[45,583]. Tuy nhiên tác giả chưa lí giải đầy đủ các vấn đề đó một cách thấu đáo, triệt để. Trong những năm này, các nhà nghiên cứu trẻ thường đi sâu vào khai thác những ý văn trong "cái kho rất sẵn châu báu" của Thạch Lam nhằm phân tích, cảm thụ những tác phẩm cụ thể, những chi tiết về nội dung, nghệ thuật ở từng truyện của Thạch Lam. Chẳng hạn trên Tiếng nói tri âm của Nhà xuất bản Trẻ-1994 các tác giả Phan Huy Dũng, Lê Tiến Dũng, Nguyễn Thành Thi, Nguyễn Thị Thanh Xuân đều có bài viết về truyện ngắn Hai đứa trẻ với những phát hiện độc đáo: Tiếng trống thu không và tiếng còi tàu nơi phố huyện của Thạch Lam; Tính nghệ thuật của truyện ngắn "Hai đứa trẻ"; Bóng thức của kinh kỳ trong "Hai đứa trẻ"; "Hai đứa trẻ" trên một vũ trụ già.... Nguyễn Thành Thi còn tâm đắc với nhiều truyện ngắn khác: Tối 30 và khoảnh khắc ngoại ứng của hai kẻ vô loài (Báo Lao động xã hội - Xuân 1994), Khi gió lạnh đầu mùa trong văn Thạch Lam vẫn thổi (Sinh viên và thời đại - TP HCM-1994). Có thể xem đây cũng là một hướng đi đầy hấp dẫn để hiểu sâu từng trang văn của Thạch Lam. Từ năm 2000 - năm cuối cùng của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, trong định hướng tổng kết một thế kỷ văn học, với cái nhìn tổng quan trên một khoảng không gian, thời gian rộng lớn, nhiều nhà nghiên cứu chủ chốt của Viện Văn học, các trường Đại học và các cơ sở nghiên cứu khác đã dồn trí lực vào các công trình, đã lần lượt công bố, nhất là trên Tạp chí Văn học mấy năm gần đây. ở đó các tác giả đã dành một khoảng nhất định cho việc đánh giá vai trò, vị trí, đặc điểm, phong cách, những đóng góp của Thạch Lam trên các phương diện trong tiến trình văn học dân tộc, phát hiện và khẳng định những đặc điểm cơ bản mới mẻ. Chẳng hạn Truyện ngắn Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX (Hà Minh Đức-Tạp chí Văn học số 12 -2000): Truyện ngắn Thạch Lam không lấy điểm tựa và sức hấp dẫn ở cốt truyện mà ở sự kết hợp giữa sự việc với đời sống khách quan và những cảm xúc chủ quan. Biết tìm điểm dừng, độ lắng và những xao động của mạch tình cảm và cuối cùng Thạch Lam đã đưa cảm nghĩ xuôi về khu vực nhân bản nhất, lòng yêu thương, trân trọng và tin cậy ở con người [53,5]. Nhiều công trình, nhiều bài viết của các tác giả khác đã góp phần tái tạo diện mạo một nền văn học quốc ngữ hiện đại có chiều dài lịch sử hàng trăm năm trong đó có sự đóng góp của các nhà văn thuộc các khuynh hướng, các thời kỳ trong đó có vai trò của Thạch Lam. Như vậy, xét từ góc độ thời gian và tình hình đầu tư nghiên cứu tác phẩm Thạch Lam, từ trước đến nay hầu hết giới nghiên cứu văn học và dư luận độc giả đều tập trung vào thẩm định truyện ngắn, còn mảng tiểu thuyết, tiểu luận, ký của Thạch Lam còn thưa thớt, chưa có công trình lớn tương xứng với tầm vóc của khu vực sáng tác này. Việc nghiên cứu Thạch Lam và tác phẩm trong mối quan hệ với tổ chức và các thành viên Tự lực văn đoàn đã được khởi xướng những chủ yếu mới dừng ở một vài ý hướng và cũng chỉ ở truyện ngắn. Tóm lại, trên cơ sở điểm lại những nét cơ bản về tình hình nghiên cứu văn chương Tự lực văn đoàn và Thạch Lam trong thời gian qua ta thấy: nếu như văn chương Tự lực văn đoàn nói chung và các tác giả chủ chốt của văn đoàn là Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo nói riêng, luôn bị đặt trước các vòng xoáy của các quan niệm khác nhau và chịu sự kiểm nghiệm khắt khe của thời cuộc và dư luận, thì văn chương Thạch Lam luôn ổn định, chỉ khác về mức độ biểu hiện, lúc sôi nổi lúc trầm lắng, ít bị đặt trong các tình thế gay cấn. Sở dĩ như vậy, là do Thạch Lam một mặt gắn chặt với tổ chức văn đoàn mình về tôn chỉ, mục đích; mặt khác lại quán triệt quan niệm văn chương là văn chương, có nghĩa là kiên trì với thiên hướng nghệ thuật mà mình đã chọn, để tách dần và vượt lên sự chi phối của các cây bút chủ lực và hình thành một phong cách nghệ thuật riêng, đồng thời kéo theo mình một dòng phong cách độc đáo. Việc nghiên cứu tác phẩm văn chương Thạch Lam, đến nay đã đạt được nhiều thành tựu phong phú, đa dạng thể hiện trên một số mốc lớn và tập trung vào truyện ngắn. Xu hướng nghiên cứu văn chương Thạch Lam với cái nhìn tổng thể các thể loại trên các mối quan hệ trong và ngoài văn đoàn hãy còn trống vắng. Do vậy tiến hành nghiên cứu đề tài Thạch Lam với Tự lực văn đoàn chúng tôi mong đáp ứng những đòi hỏi nêu trên. Đây là một công việc khó khăn nhưng cần thiết và chắc chắn có nhiều ý nghĩa và giá trị khoa học cần quan tâm. 4.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu. 4.1. Đối tượng: Luận án quan tâm đến mối quan hệ giữa con người và tác phẩm Thạch Lam với Tự lực văn đoàn, và với một số phong cách nghệ thuật khác cùng thời. Vì thế, đối tượng chủ yếu của đề tài là Thạch Lam và tác phẩm Thạch Lam bao gồm truyện ngắn, tiểu thuyết, ký, tiểu luận trên nền các mối quan hệ với Tự lực văn đoàn và với những tác giả, tác phẩm trong và ngoài văn đoàn theo yêu cầu luận án. 4.2. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng tất cả các phương pháp cần thiết, thích hợp như: thống kê, tổng hợp, phân tích, đối chiếu, so sánh, hệ thống, khái quát... Trong đó, chú trọng phương pháp so sánh, phân tích. 4.3. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài có thể mở ra nhiều hướng, quan tâm tới nhiều phương diện, nhưng trong phạm vi luận án này, chúng tôi chỉ giới hạn nghiên cứu một số vấn đề sau: - Về Tự lực văn đoàn: chỉ khai thác những yếu tố có ảnh hướng lớn đến tư tưởng, tình cảm, phong cách nghệ thuật của Thạch Lam như vai trò của tổ chức văn đoàn; một số tác phẩm tiểu thuyết, truyện ngắn, ký tiêu biểu của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo; một số ít tác phẩm của các tác giả khác có sự gần gũi, có tác động qua lại với Thạch Lam. - Về Thạch Lam: Quan tâm nghiên cứu cả 4 thể loại nhưng chủ yếu chỉ tập trung vào một số tác phẩm cụ thể, tiêu biểu theo mục đích yêu cầu luận án đặt ra. -Với các tác giả ngoài văn đoàn: chúng tôi chỉ quan tâm tới những tác giả, tác phẩm có ảnh hưởng sâu sắc tới phong cách Thạch Lam và Thạch Lam ảnh hưởng tới những phong cách đó, và một số tác giả, tác phẩm khác khi cần thiết (chủ yếu Nguyễn Tuân, Nam Cao, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh, Đỗ Tốn ). 5- Đóng góp mới của luận án. 5.1. Tình hình nghiên cứu Thạch Lam trong mối quan hệ với các nhà văn và tác phẩm cùng văn đoàn; hoặc cùng một dòng phong cách; sự ảnh hưởng và tác động lẫn nhau giữa nhà văn với các khuynh hướng khác, chúng tôi thấy còn ít người bàn hoặc bàn chưa xứng với tầm vóc và chiều sâu vốn có. Luận án này tập trung nghiên cứu các vấn đề trên một cách hệ thống, đề ra một số cơ sở và kiến giải cụ thể, khả dĩ chấp nhận. 5.2. Lâu ._.ầm thời đại, có khả năng hội nhập với nhân loại mà vẫn giữ vững bản sắc dân tộc đậm đà. Phần kết luận Từ những kết quả nghiên cứu đã trình bày ở trên, chúng tôi rút ra các kết luận sau: 1. Trong đời sống dân tộc nửa đầu thế kỷ XX, trước diễn biến phức tạp, sôi động của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội... văn học đổi mới và phát triển hết sức mạnh mẽ, đạt nhiều thành tựu rực rỡ, đồng thời nảy sinh nhiều yêu cầu mới đòi hỏi cần được đáp ứng. Tự lực văn đoàn là một tổ chức văn học có tôn chỉ, mục đích rõ ràng, tập hợp được nhiều tài năng, thu được nhiều thành tựu, tạo lập được một ưu thế và uy thế lớn trên văn đàn. Trong tư cách một tổ chức văn học, Tự lực văn đoàn có một sứ mệnh lịch sử to lớn, đáp ứng những đòi hỏi khách quan của thời đại, góp phần đưa văn học hiện đại Việt Nam gia nhập vào bối cảnh chung của văn học khu vực và thế giới. Đây không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên chói sáng mà là kết quả của một quá trình vận động của lịch sử dân tộc và văn học dân tộc trên con đường hiện đại hoá.Các thành viên Tự lực văn đoàn, bên cạnh những đóng góp và hạn chế, mỗi người đều có một vai trò, vị trí riêng. 2. Là một thành viên tích cực, quan trọng của Tự lực văn đoàn, Thạch Lam vừa gắn bó chặt chẽ, tuân thủ nghiêm chỉnh các nguyên tắc, tôn chỉ, mục đích của văn đoàn, vừa tiếp thu những phần tinh tuý trong sáng tác của các thành viên. Đồng thời bằng bản lĩnh nghệ thuật vững vàng, Thạch Lam đã vượt ra ngoài khuôn khổ những quan niệm và ảnh hưởng của những người chủ chốt để khẳng định mình bằng một phong cách nghệ thuật riêng. Điểm nổi bật là: nếu Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo hướng ngòi bút vào những vấn đề mang nặng tính chất luận đề về con người và xã hội với những đóng góp và hạn chế của nó, thì Thạch Lam - người trung thành với quan niệm "văn chương là văn chương" - lại tạo lập cho ngòi bút của mình một khoảng cách đủ để nhìn nhận, chọn hướng viết phù hợp với năng lực, sở trường sáng tạo là khai thác những giá trị đậm đà tính nhân văn, nhân bản trong đời sống dân tộc và văn hoá dân tộc. 3. Khuynh hướng nghệ thuật của Thạch Lam là vừa lãng mạn vừa hiện thực; là đi giữa đôi bờ lãng mạn và hiện thực. Các tác phẩm thuộc các thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, tuỳ bút của ông đều rất lãng mạn những không hoàn toàn giống âm hưởng lãng mạn chủ đạo của Tự lực văn đoàn mà ông là một thành viên, cũng không giống khuynh hướng lãng mạn của các nhà văn khác; rất hiện thực nhưng không như khuynh hướng hiện thực của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng... Hiện thực và lãng mạn của Thạch Lam đều thống nhất trong đặc trưng một phong cách nghệ thuật đặc sắc: thiên về cảm xúc, cảm giác, đi vào chiều sâu tâm lý, miêu tả đời sống bên trong con người chủ yếu bằng bút pháp trữ tình. Trong đó, truyện ngắn là thể loại Thạch Lam gặt hái được nhiều thành công nhất. Bằng bút pháp trữ tình đặc sắc, Thạch Lam đã tiếp thu những thành tựu truyện ngắn lãng mạn của các tác giả chủ chốt trong Tự lực văn đoàn là Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo để đi sâu vào khuynh hướng tình cảm; diễn tả quá trình phát triển của cái "tôi" cá nhân theo từng cung bậc khác nhau. Đó là một cái "tôi" đi từ những cảm xúc, rung động "khẽ như cánh bướm non" đến một cái "tôi" mạnh bạo quyết liệt, nhưng không cực đoan mà luôn hướng về những giá trị tốt đẹp giàu chất nhân văn. Còn ở những truyện ngắn thiên về khuynh hướng hiện thực lại là sự bổ sung làm cân đối bức tranh cuộc sống, được Thạch Lam phản ánh trên góc nhìn nhân bản. Đó là hiện thực về một cuộc sống gần gũi, diễn ra trong đời sống của nhiều tầng lớp người được nhà văn diễn tả một cách đầy ám ảnh, gợi cảm giác khắc khoải, sâu đậm trong lòng người đọc mọi thế hệ. So với truyện ngắn của các thành viên khác trong Tự lực văn đoàn, truyện ngắn Thạch Lam đã có sự vượt trội về một số mặt và được khẳng định bằng một phong cách riêng, độc đáo: phong cách trữ tình. Những thành công về truyện ngắn của Thạch Lam đã có ảnh hưởng sâu sắc, tạo sức hấp dẫn to lớn, có giá trị mở đầu cho một dòng truyện ngắn trữ tình bao gồm các cây bút tiêu biểu: Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ DZếnh, Đỗ Tốn... Từ văn đoàn Tự lực, Thạch Lam đã phát huy cao độ ảnh hưởng của mình trong truyện ngắn. So sánh cái "tôi" trong truyện ngắn Thạch Lam với cái "tôi" thể hiện trong truyện ngắn của một số tác giả ngoài văn đoàn, tuy có khác nhau về khuynh hướng nhưng vẫn có một số nét tương đồng, kể cả ở những tác giả có phong cách nghệ thuật tưởng rất xa với Thạch Lam như Nguyễn Tuân và Nam Cao. Bên cạnh những thành công về truyện ngắn, các thể loại tiểu thuyết , ký, tiểu luận cũng là những sáng tác nằm trong chỉnh thể hệ thống tư tưởng nghệ thuật của Thạch Lam và ở mức độ nhất định đều có ý nghĩa khai mở một hướng phát triển mới, chứa đựng kỳ vọng lớn của nhà văn. Đó là, tiểu thuyết Ngày mới, tuy chỉ mới là một thử nghiệm đầu tiên về loại tiểu thuyết trữ tình, nhưng có thể nói đó là sự khởi đầu tốt đẹp cho một xu hướng tiểu thuyết đi sâu vào đời sống bên trong của nhân vật. Sau 1940 nhiều nhà văn đã phát triển thiên hướng này thành khuynh hướng tiểu thuyết tâm lý, kết hợp hài hoà giữa tự sự và trữ tình giàu chất suy tư, triết lý. Bên cạnh Bướm trắng của Nhất Linh, Đẹp và Thanh Đức của Khái Hưng, thì Nam Cao là người đạt tới đỉnh cao cho khuynh hướng đó với tiểu thuyết Sống mòn . Với Hà Nội băm sáu phố phường, Thạch Lam đã có đóng góp quan trọng cho Tự lực văn đoàn ở thể tuỳ bút và là người khơi dòng tuỳ bút về đề tài văn hoá Hà Nội, khởi động cho một hướng sáng tác mới: tìm về vẻ đẹp văn hoá truyền thống của dân tộc mà Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Tô Hoài... là những người kế thừa, phát triển. Đồng thời qua tập tuỳ bút này, Thạch Lam bộc lộ một số quan niệm mới mẻ và sâu sắc về các vấn đề văn hoá, nghệ thuật. Tiểu luận Theo dòng là sự bổ sung cho Tự lực văn đoàn về mảng lý luận. Đó là một hệ thống những vấn đề cơ bản của lý luận văn học được Thạch Lam rút ra từ vốn kiến văn sâu rộng và những chiêm nghiệm của bản thân qua thực tế sáng tác cho đến nay vẫn còn nguyên ý nghĩa thời sự. Nó được trình bày dưới một hình thức mới mẻ, hiện đại. Đây cũng có thể xem như một thử nghiệm mới về cách viết tiểu luận cần ghi nhận. 4. Bao trùm trong văn phẩm Thạch Lam là cái Đẹp bình dị, gắn bó với cuộc sống hàng ngày trong đời sống của những con người bình thường. Đó là cái Đẹp luôn hướng về các giá trị nhân văn, đậm đà tính dân tộc, không sa vào các luận đề, có tính thời thượng, không đi sâu vào các xung đột gay cấn, và thống nhất trong cái "Tôi" nhạy cảm, tinh tế của nhà văn. Cái Đẹp là nơi gặp gỡ của những cái "Tôi" nghệ sĩ cùng có chung quan niệm "văn chương là văn chương"; qua cái Đẹp mà cái "Tôi" của các nhà văn tìm được tiếng nói đồng điệu, tri âm, tri kỷ; được thể hiện thành công trong các tác phẩm, nhất là ở truyện ngắn Thạch Lam và truyện ngắn của các nhà văn trong và ngoài văn đoàn. Mặt khác, cũng phải thấy: Sở dĩ tác phẩm Thạch Lam có sức sống vững bền hơn tác phẩm của nhiều nhà văn trong văn đoàn, chính vì Thạch Lam biết giữ vững bản lĩnh nghệ thuật, chỉ quan tâm đến loại văn chương nghệ thuật, toàn tâm, toàn ý vì mục đích sáng tạo nghệ thuật, nhưng không cầu kỳ, xa lạ, mà luôn gắn với các giá trị của cái Đẹp trong đời sống bình dị của dân tộc. 5. Tự lực văn đoàn là "mảnh đất ươm" tài năng Thạch Lam, nhưng Thạch Lam cũng góp phần quan trọng làm phì nhiêu mảnh đất đó. Bằng các thành tựu sáng tác đặc sắc, các tác phẩm chứa đựng và kết đọng nhiều giá trị cả về nội dung và nghệ thuật, Thạch Lam đã làm rạng rỡ cho văn đoàn và góp phần hoàn thiện diện mạo văn học Việt Nam hiện đại. 6. Văn chương Thạch Lam, ngày càng phát lộ những giá trị to lớn, mãi mãi sẽ là những di sản văn hoá quý báu của dân tộc. Việc giữ gìn và phát huy những thành quả đó trong các sáng tác của Thạch Lam nói riêng, của văn học trước 1945 nói chung là hết sức cần thiết và phải luôn đặt trong tính liên tục của lịch sử để nghiên cứu; mọi giá trị đều được chắt lọc, thử thách và khẳng định từ đó. Thư mục tài liệu tham khảo 1. Đào Văn A (1981), Tự lực văn đoàn trên sách báo miền Nam trước đây, TCVH, số 5. 2. Hoài Anh (2001), Chân dung văn học, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 3. Huỳnh Phan Anh (1972), "Thạch Lam tiểu thuyết gia", TC Giao điểm, số 1, Sài Gòn. 4. Vũ Tuấn Anh (1992), Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, TCVH, số 6 5. Vũ Tuấn Anh (1994), Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội nhà văn, Hà Nội. 6. Vũ Tuấn Anh (2000), 30 năm đầu thế kỷ: Sự định hình tính chất mới, hệ thống thể loại mới của văn học Việt Nam hiện đại, TCVH, số 12. 7. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (2001- chủ biên), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam NXB Giáo dục, Hà Nội. 8. Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú (2001- chủ biên), Thạch Lam, Về tác giả và tác phẩm NXB Giáo dục, Hà Nội. 9. Lại Nguyên Ân (1994), "Giải pháp điều hoà xã hội trong văn Thạch Lam". Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 10. Lại Nguyên Ân (1994), 150 thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG, Hà Nội. 11. Nguyễn Hoa Bằng (1999), Thời gian nghệ thuật truyện ngắn Nam Cao, TCVH, số 11. 12. Nguyễn Hoa Bằng (2000), Thi pháp truyện ngắn Nam cao. Luận án tiến sĩ ngữ văn. 13. Vũ Bằng (1993), 40 năm nói láo, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội - Viện Văn học. 14. Vũ Bằng (2000), Miếng ngon Hà Nội, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội. 15. Vũ Bằng (2000), Thương nhớ mười hai, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội. 16. Lưu Văn Bổng (2001), Văn học so sánh thể loại, hình thức, phong cách, TCVH, số 4. 17. Nam Cao (1999), Sống mòn (tái bản), NXB Văn học, Hà Nội. 18. Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Phương Chi (1983), "Gió đầu mùa" - Từ điển văn học. Tập 1, NXB khoa học xã hội, Hà Nội. 19. Nguyễn Huệ Chi (2000), Nhận diện văn học Thăng Long mười thế kỷ, TCVH, số 11. 20. Trường Chinh (1974), Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội (in lần thứ hai) 21. Trương Chính (1939), Dưới mắt tôi, NXB Thuỵ Ký, Hà Nội. 22. Trương Chính (1988), Vấn đề đánh giá Tự lực văn đoàn - TCVH số 3, số 4. 23. Trương Chính (1989), Hồ DZếnh và tác phẩm chọn lọc - TCVH số 1. 24. Trương Chính (1989), "Tự lực văn đoàn", đặc san báo Giáo viên nhân dân từ 27 đến 31/7/1989, sách Tự lực văn đoàn tiến trình văn học dân tộc, NXB văn hoá thông tin, Hà Nội - 2000. 25. Trương Chính (1990), Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, TCVH, số 5. 26. Trương Chính (1997), "Thạch Lam với Gió lạnh đầu mùa", Dưới mắt tôi - Tổng tập Văn học, tập 24B, NXB KHXH, Hà Nội. 27. Trương chính (2000), Dưới mắt tôi - Sách Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, NXB văn hoá thông tin, Hà Nội. 28. Nguyễn Nhật Duật (1972), "Thạch Lam hương thơm và nỗi u hoài", TC Giao điểm, Sài Gòn, số 1, sách Thạch Lam, về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội-2001. 29. Đỗ Đức Dục (1963), Sự kế thừa của chủ nghĩa hiện thực phê phán đối với chủ nghĩa lãng mạn trong văn học, TC Nghiên cứu văn học, số 4. 30. Trần Ngọc Dung (1994), Phong cách truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Thạch Lam, Luận án phó tiến sĩ - ĐHSP Hà Nội I. 31. Trần Ngọc Dung (2000), Phong cách truyện ngắn Thạch Lam - Sách Thạch Lam và văn chương, NXB Hải Phòng - 2000. 32. Phan Huy Dũng (1994), "Tính nghệ thuật của truyện ngắn Hai đứa trẻ". Tiếng nói tri âm, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 33. Lê Tiến Dũng (1994), "Tiếng trống thu không và tiếng còi tầu nơi phố huyện của Thạch Lam", Tiếng nói tri âm, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh. 34. Tầm Dương (1992), Thơ Việt Nam, 1930-1945, NXB Giáo dục, Hà Nội. 35. Hồ DZếnh (1998), "Với Thạch Lam", TC Sông Hương, số 31, tháng 5,6. 36. Hồ DZếnh (2001), Những trang văn xuôi chọn lọc, NXB Văn học, Hà Nội. 37. Đặng Anh Đào (2001), Gió đông gió tây ảnh hưởng và giao thoa trong văn học Việt Nam hiện đại - TCVH, số 1. 38. Hoàng Đạo (2000), Tiếng đàn, NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh. 39. Phan Cự Đệ (1961), Văn học Việt Nam 1930 - 1945, NXB Giáo dục, Hà Nội. 40. Phan Cự Đệ (1966), Phong trào thơ mới, NXB KHXH, Hà Nội. 41. Phan Cự Đệ (1988), Lời giới thiệu "Đoạn tuyệt", NXB ĐH & GDCN, Hà Nội. 42. Phan Cự Đệ (1991), Lời giới thiệu "Đôi bạn", NXB ĐH & GDCN, Hà Nội. 43. Phan Cự Đệ (1992), Lời giới thiệu "Băn khoăn", NXB ĐH & GDCN, Hà Nội. 44. Phan Cự Đệ, Nguyễn Trác, Hà Văn Đức (1992), Văn học Việt Nam 1930 - 1945, Tập 2 NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội. 45. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức (1997), Văn học Việt Nam (1900 - 1945), NXB Giáo dục, Hà Nội. 46. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục (tái bản), Hà Nội. 47. Phan Cự Đệ (2001), Những bước tổng hợp mới trong văn học Việt Nam thế kỷ XX, TCVH, số 10. 48. Phan Cự Đệ (2002), Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945 (sửa chữa, bổ sung), NXB Văn học, Hà Nội. 49. Trịnh Bá Đĩnh (2000), Tuyển chọn và giới thiệu, Nhất Linh truyện ngắn, NXB Văn học Hà Nội. 50. Hà Minh Đức (1991), Lời giới thiệu "Nửa chừng xuân" NXB ĐH và GDCN, Hà Nội. 51. Hà Minh Đức (1998), Đi tìm chân lý nghệ thuật, NXB Văn học, Hà Nội. 52. Hà Minh Đức (1999- biên soạn), Tuyển tập Nam Cao - 2 tập, NXB Văn học, Hà Nội. 53. Hà Minh Đức (200), Truyện ngắn Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, TCVH, số 12. 54. Hà Minh Đức (2002), Một thế kỷ không ngừng phát triển và đổi mới của văn nghệ, TCVH, số 1. 55. Hà Văn Đức (1997), Thạch Lam - Sách Văn học Việt Nam 1900-1945, NXB Giáo dục, Hà Nội. 56. Nhóm Lê Quý Đôn (1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam - tập 3, NXB Xây dựng Hà Nội. 57. Vu Gia (1994), Thạch Lam thân thế và sự nghiệp, NXB Văn hoá, Hà Nội. 58. Vu Gia (1994), Một ít tư liệu xung quanh Thạch Lam, TCVH số 8. 59. Vu Gia, Thế Lữ , Vũ Ngọc Phan (2000), Thạch Lam của cái đẹp, NXB Giáo dục, Hà Nội. 60. Văn Giá (1994), "Theo dòng - một ghi chú nghệ thuật, những tín niệm văn chương" Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 61. Văn Giá (1994), Khái Hưng - Nhà tiểu thuyết của Vu Gia, TCVH,số 4. 62. Văn Giá (2000), Yêu mến Hà Nội với tâm hồn người Hà Nội, TC Văn hoá, văn nghệ Công an số 10. 63. Văn Giá (2002), Vũ Bằng bên trời thương nhớ, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội. 64. Nguyễn Tường Giang (1972), Thạch Lam, cha tôi trong trí tưởng, TC Giao điểm, Sài Gòn, số 1 - Đăng lại trên Văn nghệ số 30 (28/7/1990). 65. Hồ Thế Hà (1994), "Truyện ngắn Thạch Lam, đặc điểm không gian nghệ thuật". Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 66. Thái Hà (2001 - biên soạn), Những áng văn ẩm thực, NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. 67. Hoàng Quốc Hải (1994), "Tản mạn Thạch Lam", Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 68. Dương Quảng Hàm (1993), Việt Nam văn học lịch sử yếu, NXB Đồng Tháp (tái bản). 69. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử , Nguyễn Khắc Phi (1992 - chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. 70. Lê Thị Đức Hạnh (1965), Mấy ý kiến đánh giá Thạch Lam, TCVH số 4. 71. Lê Thị Đức Hạnh (1983), Gió đầu nhà, TCVH, số 5. 72. Lê Thị Đức Hạnh (1990), Trần Tiêu có phải là thành viên trong tổ chức Tự lực văn đoàn không? TCVH, số 5. 73. Lê Thị Đức Hạnh (1991), Thêm mấy ý kiến đánh giá Tự lực văn đoàn, TCVH số 3. 74. Lê Thị Đức Hạnh (1993), Tự lực văn đoàn với phong trào Thơ mới, TCVH, số 3. 75. Lê Thị Đức Hạnh (1993), Mấy nét về màu sắc dân tộc trong sáng tác Thạch Lam, TC Sông Hương, số 8. 76. Lê Thị Đức Hạnh (1996), Con người và cuộc đời Thạch Lam, báo Giáo dục và thời đại chủ nhật 1.12.1996. 77. Lê Thị Đức Hạnh (1999), Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội. 78. Bùi Hiển (1992), Một nhãn quan, một tâm hồn nghệ sĩ, Văn nghệ, số 29. 79. Đỗ Đức Hiểu (1994), Phố huyện của Thạch Lam - sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 80. Đỗ Đức Hiểu (1996), Đọc "Bướm trắng" của Nhất Linh, TCVH, số 10. 81. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 82. Nguyễn Thanh Hồng (1990), Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam, TCVH, số 3. 83. Đinh Hùng (1961), Tìm về những mùa xuân dĩ vãng; men xuân quê nhà Thạch Lam, Tạp chí Sóng dội miền Nam, số 21. 84. Đinh Hùng (1965), Tìm hiểu Thạch Lam thêm một vài khía cạnh, Tạp chí Văn Sài Gòn, số 36-15/6/1965. 85. Đinh Hùng (1965), "Những kỷ niệm chia bùi, sẻ ngọt cùng Thạch Lam", Tạp chí Văn, Sài Gòn số 36, sách Tự lực văn đoàn tiến trình văn học dân tộc, NXB Văn hoá Thông tin Hà Nội. 86. Khái Hưng (1937), "Một quan niệm về văn chương (tựa gió đầu mùa)", Ngày nay số 89,12.12.1937, in lại Tựa gió đầu mùa, NXB Minh Đức, Hà Nội 1957. 87. Khái Hưng, Nhất Linh (2002), Anh phải sống (tập truyện ngắn), (tái bản), NXB Văn học, Hà Nội. 88. Phạm Thị Thu Hương (1993), Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Thạch Lam, TCVH, số 3. 89. Phạm Thị Thu Hương (1994), "Sự tìm kiếm cái đẹp bị đánh mất", sách Thạch Lam Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 90. Phạm Thị Thu Hương (1995), Ba phong cách truyện ngắn trữ tình trong Văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945: Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ DZếnh, luận án Phó tiến sĩ, Viện Văn học. 91. Phạm Thu Hương (1995), Hồ DZếnh với nhiều khắc khoải giữa hai bờ xứ sở, TCVH, số 4. 92. Mai Hương (2000), Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. 93. Trần Đình Hượu (1995), "Tự lực văn đoàn nhìn từ góc độ tính liên tục của lịch sử qua bước ngoặt hiện đại hoá trong lịch sử văn học phương Đông" - trích Nho giáo và văn học Việt Nam trong cận đại - in lại trong Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 2000. 94. Trình Hồ Khoa (1996), Những đóng góp của Tự lực văn đoàn cho việc xây dựng một nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, luận án Phó tiến sĩ ngữ văn , ĐHQG Hà Nội . 95. Nguyễn Hoành Khung (1984), "Thạch Lam", Từ điển văn học, tập II, NXB KHXH, Hà Nội. 96. Nguyễn Hoành Khung (1989), Lời giới thiệu văn xuôi lãng mạn Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội. 97. Nguyễn Hoành Khung (1990), Lời giới thiệu truyện ngắn Việt Nam 1930 - 1945, tập I, NXB Giáo dục, Hà Nội. 98. Huyền Kiêu (1965), Thạch Lam một người Việt Nam thành thực, Tạp chí Văn, Sài Gòn, số 36. 99. Song Kim (1992), Thạch Lam, những điều còn nhớ, Văn nghệ, số 29. 100. Thạch Lam (1937), Mở màn, Cẩm nang ông Nghị hoàn toàn, báo Ngày nay, số 85, tr 955. 101. Thạch Lam (1940), "Vang bóng một thời" của Nguyễn Tuân, báo Ngày nay 15.6.1940 in lại Sách Giảng văn - Văn học Việt Nam 1930-1945, tập I NXB Giáo dục 1991. 102. Thạch Lam (1957), Gió đầu mùa, NXB Minh Đức, Hà Nội (tái bản). 103. Tôn Phương Lan (1999), Thi sĩ Hồ DZếnh - tài năng và tấm lòng, TCVH số 12. 104. Hoài Diệp Thứ Lang (1965), Giai thoại một chầu hát không tiền khoáng hậu. Thạch Lam thẩm âm, TC Văn, Sài Gòn, số 36. 105. Thanh Lãng (1973), Phê bình văn học thế hệ 1932, Phong trào văn hoá, Sài Gòn. 106. Mã Giang Lân (2002), Nhìn lại một thế kỷ văn học (1900-2000): Một công trình nghiên cứu nghiêm túc và có giá trị khoa học, TCVH, số 5. 107. Phong Lê (1988- sưu tầm, tuyển chọn), Tuyển tập Thạch Lam, NXB văn học, Hà Nội. 108. Phong Lê (1988), Thạch Lam trong Tự lực văn đoàn, TCVH, số 2. 109. Phong Lê (1988), Lời giới thiệu tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, Hà Nội. 110. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, NXB Hội nhà văn, Hà Nội 111. Phong Lê (1999), Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, NXB ĐHQG, Hà Nội. 112. Phong Lê (1999), Vẫn chuyện văn và người, NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. 113. Phong Lê (2000), Năm 2000, nhìn lại một thế kỷ, TCVH, số 2. 114. Phong Lê (2001), Trên quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XX, TCVH, số 1. 115. Phong Lê (2001), Phác thảo buổi đầu văn xuôi quốc ngữ, TCVH, số 11. 116. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại (những chân dung tiêu biểu), NXB ĐHQG, Hà Nội. 117. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương, học thuật Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội 118. Phong Lê (2002), Văn xuôi những năm 20 (thế kỷ XX) phòng chờ cho bước chuyển giai đoạn 1932, TCVH, số 5. 119. Phong Lê (2002), Thời kỳ 1900-1932 và cuộc chuyển giao từ văn học trung đại sang văn học hiện đại, TCVH, số 8. 120. Phong Lê (2002), Thời kỳ 1932-1935 và diện mạo hiện đại của văn học dân tộc, TCVH, số 9. 121. Thế Lữ (1943), Tính cách tạo tác của Thạch Lam, báo Thanh nghị, số 39 16/6/1943; đăng lại tên TC Văn, Sài Gòn số 36 (15/6/1965). 122. Huỳnh Lý, Hoàng Dung, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Trác (1978), Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945, tập V, NXB Giáo dục, Hà Nội. 123. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB tác phẩm mới, Hà Nội. 124. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Khái luận Tổng tập văn học Việt Nam, tập 30A, NXB KHXH, Hà Nội. 125. Nguyễn Đăng Mạnh (2000) (sưu tầm và giới thiệu), Nguyễn Tuân, Yêu ngôn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 126. Dương Nghiễm Mậu (1972), Thời của Thạch Lam , TC Giao điểm, Sài gòn, số 1. 127. Tôn Thảo Miên (2002 - tuyển chọn), Truyện ngắn Thạch Lam, tác phẩm và dư luận, NXB văn học, Hà Nội. 128. Tú Mỡ (1988), Trong bếp núc của Tự lực văn đoàn, TCVH, số 5,6 và số 1/1989 in lại: Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2000. 129. Nguyễn Xuân Nam (1984), "Truyện ngắn", Từ điển văn học, tập II, NXB KHXH, Hà Nội. 130. Phương Ngân (2000), Khái Hưng nhà tiểu thuyết, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 131. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 132. Phạm Thế Ngũ (1988), "Thạch Lam", trích từ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3- in lại: Thạch Lam, Về tác giả và tác phẩm NXB Giáo dục, Hà Nội 2002. 133. Lãng Nguyên (1965), Thạch Lam - ký giả và hoạ sĩ, Tạp chí Văn, Sài Gòn, số 36. 134. Nguyễn Hữu Ngư (1962), Giải thưởng Tự lực văn đoàn, Bách khoa, số 10. 135. Vương Trí Nhàn (1988), Hà Nội với đời văn Thạch Lam, báo Người Hà Nội, số 73. 136. Vương Trí Nhàn (1990), Cốt cách trí thức ở ngòi bút Thạch Lam, TCVH, số 5. 137. Vương Trí Nhàn (1992), Tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác, TCVH, số 5. 138. Vương Trí Nhàn (2000) (sưu tầm, biên soạn), Những lời bàn về tiểu thuyết trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 139. Vũ Ngọc Phan (1945), Thạch Lam, nhà văn hiện đại, quyển IV, tập hạ NXB Tân Dân, NXB Văn hoá Thông tin - 2000. 140. Phạm Phú Phong (1992), Mấy vấn đề về thi pháp truyện ngắn Thạch Lam, Tạp chí Sông Hương, số 5. 141. Phạm Phú Phong (1994), "Thi pháp truyện ngắn Thạch Lam", Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp - NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 142. Thế Phong (1971), "Các nhà văn trong Tự lực văn đoàn", Lược sử văn nghệ Việt Nam nhà văn tiền chiến 1930-1945, NXB Vàng son, Sài Gòn. 143. Đào Trường phúc (1972), Thạch Lam, những lời thủ thỉ của truyện ngắn, TC Giao điểm, Sài Gòn số 1. 144. Phạm Văn Phúc (1989), Nghĩ về Thạch Lam, báo Người giáo viên nhân dân số tháng 7/1989. 145. Nguyễn Phúc (1994), "Quan niệm văn chương của Thạch Lam: vị nghệ thuật hay vị nhân sinh?" Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp - NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 146. Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn (1964 - chủ biên), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945, NXB Văn học, Hà Nội. 147. Nguyễn Vinh Phúc (1994), "Thạch Lam với Hà Nội ba mươi sáu phố phường", Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 148. Phan Diễm Phương (1994), "Biểu hiện tâm lý, quan niệm và cách thức" sách: Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 149. Nguyễn Xuân Sanh (1994), "Thạch Lam, những đức tính sáng tạo"; Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 150. Băng Sơn (2000), Thú ăn chơi người Hà Nội, NXB Văn hoá - Thông tin Hà Nội. 151. Trần Đình Sử (1992), Văn học, tập 2 sách đào tạo giáo viên tiểu học, Vụ giáo viên. 152. Trần Đình Sử (1997), Văn 11, tập 2, ban KHXH, NXB Giáo dục, Hà Nội. 153. Văn Tâm (1991), Giảng văn, tập I, NXB Giáo dục, Hà Nội. 154. Mai Thảo (1965), Phượng hoàng gẫy cánh, TC Văn, Sài Gòn số 36. 155. Nguyễn Công Thắng (1992), Thạch Lam trong Gió lạnh đầu mùa, Kiến thức Ngày nay, số 9. 156. Bùi Việt Thắng (1994), "Người chắt chiu cái đẹp", Sách Thạch Lam - văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 157. Hoài Thanh (1982), "Một vài ý kiến về phong trào Thơ mới và quyển Thi nhân Việt Nam ", Tuyển tập Hoài Thanh - tập 2, NXB Văn học, Hà Nội. 158. Nguyễn Thành (1994), "Nhìn lại những quan niệm văn học của Thạch Lam" , Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 159. Nguyễn Thị Thế (1965), Người con thứ sáu, Tạp chí Văn, Sài Gòn, số 36. 160. Nguyễn Thị Thế (1974), Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường, NXB Sóng. Sài Gòn. 161. Bạch Năng Thi (1961), "ưu thế của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn", Văn học Việt Nam 1930-1945, tập I, NXB Giáo dục - in lại ở Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc - NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 2000. 162. Nguyễn Thành Thi (1994), "Bóng thức kinh kỳ trong "Hai đứa trẻ", Tiếng nói tri âm, NXB Trẻ. 163. Nguyễn Thành Thi (1994), Tối ba mươi và khoảnh khắc ngoại ứng của hai kẻ vô loài, báo Lao động và xã hội, Xuân 1994. 164. Nguyễn Thành Thi (1994), Khi gió lạnh đầu mùa trong văn Thạch Lam vẫn thổi, Sinh viên và thời đại, TP HCM. 165. Nguyễn Thành Thi (1998), Đặc trưng truyện ngắn Thạch Lam, NXB Giáo dục, Hà Nội. 166. Nguyễn Thành Thi (2000), Thạch Lam, từ quan niệm về cái đẹp đến những trang văn Hà Nội ba mươi sáu phố phường, TCVH, số 10. 167. Nguyễn Ngọc Thiện (1994), "Thạch Lam: nghĩ và viết tiểu thuyết", Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 168. Nguyễn Ngọc Thiện (1999), "Về một quan niệm viết truyện của Thạch Lam", VNQĐ, số 5 in lại Thạch Lam, về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2001. 169. Lưu Khánh Thơ, Bích Thu (2003 - tuyển chọn), Tuyển tập truyện ngắn lãng mạn, NXB Văn học, Hà Nội. 170. Bích Thu (1992), Thế giới phụ nữ trong sáng tác của Thạch Lam, Khoa học và phụ nữ, số 3. 171. Bích Thu (1992), Sự thức tỉnh của con người trong sáng tác Thạch Lam, Tạp chí Khoa học và tổ quốc, số 11. 172. Bích Thu (1994), "Thạch Lam và kiểu nhân vật tự thức tỉnh" Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 173. Bích Thu (2001), Tiểu thuyết Việt Nam trong quá trình hiện đại hoá văn học nửa đầu thế kỷ, TCVH, số 4. 174. Bích Thu, Lưu Khánh Thơ, Thuỷ Liên (sưu tầm - 2001), Tác phẩm được giải thưởng Tự lực văn đoàn, NXB Văn học, Hà Nội. 175. Đỗ Đức Thu (1965), Thạch Lam, Tạp chí Văn, Sài gòn, số 36 (15/6/1965) 176. Lộc Phương Thuỷ (1994), "Thạch Lam trong sự giao tiếp với văn học Pháp", Sách Thạch Lam văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội. 177. Lộc Phương Thuỷ (2001), Bước đầu nhận xét về ảnh hưởng của Anđre Gide ở Việt Nam, TCVH, số 5. 178. Ngô Văn Thư (2001), Nửa chừng xuân, bước tiến của nghệ thuật tiểu thuyết, TCVH, số 7 180. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ (1999 - tuyển chọn), Văn chương Tự lực văn đoàn, (3 tập), NXB Giáo dục, Hà Nội). 181. Phan Trọng Thưởng (1999), "Vài nét về Tự lực văn đoàn", Lời giới thiệu bộ tuyển văn chương Tự lực văn đoàn - NXB Giáo dục, Hà Nội. 182. Phan Trọng Thưởng (2000), Cuối thế kỷ nhìn lại việc nghiên cứu, đánh giá văn chương Tự lực văn đoàn, TCVH số 2. 183. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ , Nguyễn Hữu Sơn (2000 - tuyển chọn), Phóng sự Việt Nam (1932 - 1945) (3 tập), NXB Văn học, Hà Nội. 184. Phan Trọng Thưởng (2000), Phóng sự (1932 - 1945), Một thành tựu đặc biệt của tiến trình văn học Việt Nam, TCVH, số 5. 185. Thanh Tịnh (1998), Thanh Tịnh tác phẩm chọn lọc, (Anh Thư biên soạn), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 186. Hoàng Tiến (1994), "Những điều tôi học được ở Thạch Lam", Sách Thạch Lam văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 187. Ngô Tất Tố (1998 - tái bản), Tắt đèn , NXB Văn học, Hà Nội. 188. Đỗ Tốn (1945), Hoa vông vang, NXB Đời nay, Hà Nội; in lại ở Tuyển tập truyện ngắn lãng mạn, NXB Văn học, 2003. 189. Đinh Quang Tốn (1994), "Thạch Lam và quê hương sáng tác", Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 190. Nguyễn Tuân (1957), Lời giới thiệu Thạch Lam tuyển tập, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội; in lại trong Tuyển tập Nguyễn Tuân, Tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1982 và Thạch Lam về tác giả và tác phẩm, NXB Giáo dục Hà Nội, 2001. 191. Nguyễn Tuân (1969), Quê hương, NXB Trường sơn 192. Lê Dục Tú (1993), Quan niệm về con người sáng tác của Thạch Lam, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 4. 193. Lê Dục Tú (1994), Miêu tả nội tâm trong Tự lực văn đoàn, TCVH, số 8. 194. Lê Dục Tú (1995), Vấn đề định giá văn học lãng mạn Việt Nam và sự đổi mới tư duy nghiên cứu văn học, TCVH, số 12. 195. Lê Dục Tú (1997), Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, NXB, KHXH, Hà Nội. 196. Xuân Tùng (2000 - Sưu tầm, biên soạn), Thạch Lam và văn chương, NXB Hải Phòng. 197. Hà Xuân Trường (1998), Không có một thời …. như thế, NXBVH và Trung tâm nghiên cứu quốc học, Hà nội. 198. Hà Xuân Trường (2001), Vài ý kiến nhân "Nhìn lại một thế kỷ văn học Việt Nam", TCVH số 9. 199. Thế Uyên (1965), "Tìm kiếm Thạch Lam", Tạp chí Văn, Sài gòn, số 36; in lại ở Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dần tộc, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội; 2000. 200. Nguyễn Vỹ (1994), Văn thi sỹ tiền chiến, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 201. Tổng mục lục Tạp chí Văn học 1960 - 1999, Viện Văn học, 1999. 202. Trần Đăng Xuyền (1998), Nam Cao - Nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, TCVH, số 6. 203. Trần Đăng Xuyền (2001), Cảm hứng chủ đạo và những xung đột nghệ thuật có bên trong văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945, TCVHHHHHHHHHHH, số 2. mụC LụC Bộ giáo dục và đào tạo viện khoa học xã hội việt nam Viện văn học Lê minh truyên Thạch lam với tự lực văn đoàn Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 5.04.33 Luận án tiến sĩ ngữ văn Người hướng dẫn khoa học: giáo sư phong lê Hà Nội - 2004 Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì công trình nào khác. Tác giả luận án Lê Minh Truyên ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32874.doc