Thách thức đối với mặt hàng dệt may Việt Nam khi Xuất khẩu sang thị trường EU

Lời mở đầu Trong điều kiện tiến bộ khoa học công nghệ và của phân công lao động quốc tế hiện nay, không thể có một nước phát triển bình thường mà không cần sự giao lưu,phân công hợp tác quốc tế. Do vậy, quan hệ kinh tế quốc tế là nhân tố, là biện pháp để thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững, có hiểu quả. Mặt khác, phát triển công nghiệp sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế, làm cho đất nước có thể hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Một trong những chiến lược phát triển công nghiệp Việt

doc40 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thách thức đối với mặt hàng dệt may Việt Nam khi Xuất khẩu sang thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nam đó là hoạt động xuất nhập khẩu, là kết quả tất yếu của quá trình tự do hoá thương mại, quá trình phân công lao động, quá trình nâng cao vai trò tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu của công nghiệp, nó là bản chất của hoạt động thương mại quốc tế trong phát triển kinh doanh công nghiệp. Cho nên để tăng nhanh tốc độ xuất khẩu, đẩy nhanh tiến độ hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, đảng ta đã chủ trương “ tiếp tục mở cửa nền kinh tế, thực hiện đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá mối quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới...” Việc xuất khẩu sản phẩm sang thị trường EU hiện nay đang là vấn đề trung tâm để phát triển kinh tế nước nhà. Mặt khác, hãng dệt may lại đang là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong giai đoạn hiện nay của Việt Nam. Do vậy, xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU có ý nghĩa tầm chiến lược đối với sự phát triển ngoại thương nói riêng và nền kinh tế của Việt Nam nói chung. Xuất phát từ những thực tế trên và nhận thức được tầm quan trọng của ngành dệt may Việt Nam và thị trường EU là một thị trường tiềm năng song cũng có những quy định hết sức khắt khe đòi hỏi hàng dệt may Việt Nam phải không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường này. Vì vậy, em đã chọn đề tài: “Những thời cơ và thách thức khi xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường EU của ngành dệt may Việt Nam”. Nội dung của đề tài này bao gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu. Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU. Chương III: Các kiến nghị và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu. Trên cơ sở những kiến thức đã học và việc tổng hợp các tài liệu, sách báo, tạp chí em hy vọng đưa ra được nội dung cô đọng và cơ bản nhất liên quan đến đề tài. Trong quá trình thực hiện đề án môn học này, mặc dù đã có sự nỗ lực cố gắng của bản thân song do trình độ, thời gian và kinh nghiệm còn hạn chế; nguồn tài liệu còn hạn hẹp nên đề tài không tránh khỏi những sai sót. Vì vậy, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo và cùng bạn đọc. Em xin chân thành cảm ơn Giảng viên chính Nguyễn Thị Tứ đã dầy công hướng dẫn em làm đề án môn học Kinh tế và quản lý công nghiệp. Em xin chân thành cảm ơn nhiều. Sinh viên thực hiện Lê Thiết Ngọc. Chương I: Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu. I. Khái niệm và vai trò của hoạt động xuất khẩu: 1. Khái niệm và đặc điểm: a. Khái niệm Hoạt động xuất khẩu là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước thông qua hành vi mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về nền kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia khác nhau trên thế giới. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có một vị trí và vai trò vô cùng to lớn trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi một quốc gia nói chung và công nghiệp nói riêng. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn và là phương tiện thúc đẩy phát triển nền kinh tế. Nhà nước ta luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu. b. Đặc điểm Xuất khẩu hàng hoá thể hiện sự kết hợp chặt chẽ và tối ưu các khoa học quản lý kinh tế với các nghệ thuật kinh doanh, giữa nghệ thuật kinh doanh với các yếu tố khác của từng quốc gia như yếu tố luật pháp, kinh tế văn hoá. Hơn nữa, hoạt động xuất khẩu hàng hoá nhằm khai thác lợi thế so sánh của từng nước, khai thác các nguồn lực cho phát triển, góp phần cải thiện đời sống nhân dân gia tăng tiến bộ xã hội và góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập, quốc tế hoá. Lợi thế so sánh đó là các lợi thế về vị trí địa lý, về lao động, về tài nguyên và sở hữu phát minh sáng chế. Trong điều kiện hiện nay, xuất khẩu hàng hoá ở nước ta đang là một trong những mục tiêu cấp bách hàng đầu được chú trọng. Bởi nó đem lại lợi ích vô cùng to lớn cho sự phát triển nước nhà, tạo cho nhiều quốc gia có cơ hội thuận lợi trong việc đẩy mạnh sự phát triển kinh tế văn hoá xã hội. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá diễn ra giữa hai hay nhiều quốc gia khác nhau, ở trong các môi trường và bối cảnh khác nhau. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có một trình độ hiểu biết và kinh nghiệm để giao lưu và học hỏi khi xuất khẩu ra nước ngoài. Vì vậy, chúng ta không thể lấy kinh nghiệm trao đổi hàng hoá thông thường trong một quốc gia để áp đặt hoàn toàn cho hoạt động trao đổi hàng hoá với nước ngoài. Hoạt động xuất khẩu có thể được tiến hành bởi tư nhân hoặc nhà nước. Đối với doanh nghiệp nhà nước thì chính phủ có nhiều mục tiêu khác nhau như chính trị, ngoại giao, văn hoá... Do đó, kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ có thể hiện hoặc không hoàn toàn hướng về lợi nhuận. Còn đối với doanh nghiệp tư nhân thì mục đích của họ là tối đa hoá lợi nhuận, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho đất nước. 2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu Xuất khẩu là hoạt động cơ bản của nền kinh tế quốc dân, là công cụ, phương tiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Do vậy, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vai trò của xuất khẩu thể hiện ở các mặt sau: Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, trong mục tiêu kế hoạch 5 năm 2001-2005 có nói: “ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá...”. Như vậy, để làm được điều đó tât yếu phải cần một lượng vốn lớn để thực hiện. Cho nên vốn là một nhân tố không thể thiếu được, là vấn đề sống còn với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bởi vì khi có một lượng vốn lớn chúng ta có thể xây dựng cơ sở hạ tầng, nhập khẩu máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ sản xuất hiện đại... phục vụ cho phát triển kinh tế. Để có được một lượng vốn cho nhập khẩu có thể được hình thành từ nhiều nguồn như: liên doanh đầu tư nước ngoài với nước ta; vay nợ, viện trợ, tài trợ; hoạt động du lịch, dịch vụ; xuất khẩu hàng hoá, lao động... Nhưng vẫn quan trọng hơn cả là xuất khẩu hàng hoá. Bởi vì các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ... tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hoặc cách khác. Ngoại tệ thu được qua các hoạt động du lịch, dịch vụ hiện nay chỉ là rất nhỏ so với nhu cầu về vốn của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xuất khẩu lao động không ổn định đang có xu hướng giảm dần. Do vậy, nguồn ngoại tệ quan trọng nhất chi dùng cho nhập khẩu chính là từ xuất khẩu. Đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển: Việc coi thị trường và đặc biệt là thị trường quốc tế là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động đến sản xuất thể hiện ở chỗ: + Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hoặc thuốc nhuộm.. Mặt khác sẽ kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó. + Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và ổn định. + Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. + Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước thông qua việc thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ từ các nước phát triển và Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước tạo ra một năng lực sản xuất mới. + Thông qua xuất khẩu, hàng hóa của Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với mọi thị trường. + Xuất khẩu còn đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất và kinh doanh. Xuất khẩu có tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân: Việc xuất khẩu sản phẩm hàng hoá qua các thị trường quốc tế phải cần một lượng lớn nhân công để sản xuất và hoạt động xuất khẩu thu về một lượng ngoại tệ đáng kể để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú của nhân dân. Những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất còn kém như: ô tô, xe máy... do đòi hỏi trình độ và kỹ thuật cao cho nên việc đáp ứng nhu cầu đều qua con đường nhập khẩu đến với người tiêu dùng. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta: Quan hệ kinh tế đối ngoại bao các hoạt đông giao lưu giữa các nước với nhau. Trong đó xuất khẩu là một hình thức của hoạt động kinh tế đối ngoại. Điều này làm cho hoạt động xuất khẩu cùng với các mối quan hệ kinh tế quốc tế khác làm cho nền kinh tế nước ta gắn chặt với nền kinh tế thế giới và tham gia vào phân công lao động quốc tế. Chính nhờ thông qua xuất khẩu và các quan hệ đối ngoại khác nhau mà hiện nay nước ta đã thiết lập mối quan hệ thương mại với hơn 140 nước trên thế giới, ký các hiệp định thương mại với hơn 70 nước là thành viên của tổ chức kinh tế của thế giới và khu vực. II. Các nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu. 1. Nhân tố kinh tế. Sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ xuất khẩu. Đối tượng của các nhà xuất khẩu là xuất khẩu hàng hoá cho các khách hàng, bạn hàng và các tổ chức kinh tế nước ngoài. Cho nên việc đáp ứng được nhu cầu của họ là một thành công lớn trong hoạt động xuất khẩu. Do vậy đòi hỏi phải có được sản phẩm có vị thế trong lòng người tiêu dùng đặc biệt là người nước ngoài. Yếu tố thị trường cũng tác động không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu. Việc lựa chọn đúng đắn thị trường cho xuất khẩu là một nhân tố đòi hỏi phải tính toán dự báo chính xác thị trường đó phải là thị trường tiềm năng, có triển vọng trong tương lai. Còn yếu tố đối tác cũng không kém phần quan trọng bởi đây là đầu mối để lưu thông sản phẩm xuất khẩu. Cho nên việc lập mối quan hệ tốt hay tìm hiểu kỹ đối tác đem lại lợi ích to lớn cho hoạt động xuất khẩu. Chính sách quốc gia, quốc tế ảnh hưởng to lớn đến hoạt động xuất khẩu. Việc xuất khẩu với số lượng ít hay nhiều phụ thuộc rất lớn vào chính sách quốc gia của từng nước. Khi mối quan hệ kinh tế với các nước đối tác không còn thuận lợi thì sẽ có các chính sách hạn nghạch xuất khẩu làm cho việc xuất khẩu trở nên khó khăn hơn. Hàng hoá xuất khẩu của doanh nghiệp phải chịu rất nhiều sức ép từ các phía. Đầu tiên đó là các sản phẩm cùng loại hay thay thế từ thị trường trong nước. Thứ hai là các sản phẩm của nước mình nhập khẩu vào. Thứ ba là các sản phẩm của các nước khác nhập khẩu vào nước mình nhập khẩu. Như vậy, để tồn tại và phát triển ở nước ngoài, sản phẩm của doanh nghiệp phải được người tiêu dùng chấp nhận và có tính cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Hàng hoá tham gia xuất khẩu của doanh nghiệp được thanh toán bằng ngoại tệ có giá trị chuyển đổi. Trong khi đó hạch toán chi phí lại dùng nội tệ do vậy, tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động xuất khẩu. 2. Nhân tố khoa học và công nghệ Như đã nói ở trên, việc xuất khẩu hàng hoá sang thị trường ngoài nước đòi hỏi sản phẩm xuất khẩu phải có các đặc tính riêng biệt và có thể cạnh tranh được với các sản phẩm cùng loại trên thị trường nước bạn và của các nước khác nhập vào. Để tạo ra được các tố tính ưu việt, các nhà xuất khẩu không ngừng đổi mới đầu tư thiết bị, khoa học công nghệ cho dây chuyền sản xuất để ngày càng đổi mới sản phẩm, thích nghi với nhu cầu đa dạng phong phú của người tiêu dùng là nước ngoài. Do vậy nhân tố khoa học công nghệ ảnh hưởng quyết định đến mức tiêu thụ sản phẩm hay việc đáp ứng nhu cầu thị trường cả về số lượng và chất lượng. 3. Nhân tố chính trị, xã hội và quân sự: Sự ổn định hay không ổn định về chính trị – xã hội cũng là nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống chính trị, các quan điểm chính trị, xã hội đều tác động trực tiếp đến phạm vi lĩnh vực, mặt hàng và đối tác kinh doanh. Mặt khác các xung đột lớn hay nhỏ về quân sự trong nội bộ quốc gia và giữa các quốc gia dẫn đến sự thay đổi lớn về các chính sách kinh tế, chính trị, quân sự. Từ đó tạo ra các hàng rào vô hình ngăn cản hoạt độnh kinh doanh quốc tế, đặc biệt là xuất khẩu. 4. Nhân tố liên minh, liên kết về kinh tế – chính trị: Việc mở rộnh ngoại giao, hình thành các khối liên kết kinh tế, chính trị, quân sự góp phần tạo điều kiện thuận lợn cho hoạt độnh kinh doanh buôn bán giữa các quốc gia thành viên. Tăng cường tích cựctiến hành ký kết với các quốc gia ngoài khối những hiệp định, thoả ước để từng bước nới lỏng hàng rào vô hình, tạo điều kiện cho hoạt độnh kinh doanh phát triển và đôi bên cùng có lợi. Chương II : Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU I. Vị trí của ngành dệt may và thị trường EU: 1. Vị trí của ngành dệt may Nhận thức được tầm quan trọng của xuất khẩu nên nước ta hiện nay áp dụng chiến lược: Hướng vào xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu sang dạng chế biến sâu, mở ra những mặt hàng mới và có lợi nhuận cao. Đặc biệt ngành dệt may xuất khẩu là một ngành đang được coi trọng và đóng vai trò chủ lực trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Là một ngành công nghiệp nhẹ, ngành dệt may xuất khẩu đã đem lại cho đất nước những nguồn thặng dư đáng kể. Do vậy việc tăng cường xuất khẩu hàng dệt may là rất cần thiết, phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới và yêu cầu của hoạt động xuất khẩu trong nước. Ngành dệt may góp phần đảm bảo nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, giải quyết một số lượng lớn công ăn việc làm. ở Việt Nam hiện nay, nhu cầu về may mặc đang ngày càng được nâng cao, từ ăn chắc mặc bền đang chuyển dần sang ăn ngon mặc đẹp hợp thời trang và hiện đại. Do vậy việc phát triển ngành dệt may đang là một trong những ngành có triển vọng mang lại hiệu quả cao. Mặt khác ngành dệt may cũng thu hút được một lượng nhân công lớn, tạo việc làm, tạo phúc lợi cho xã hội. Xu hướng chuyển dịch các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động trong đó có ngành dệt may từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Lợi thế của ngành dệt may là đòi hỏi một lượng vốn đầu tư tương đối ít ( so với các ngành công nghiệp khác ), phát huy hiệu quả tương đối nhanh, giải quyết lao động xã hội phù hợp với bước đi ban đầu của các nước đang phát triển. Ngành dệt may Việt Nam có rất nhiều lợi thế như: Giá nhân công rẻ, trình độ tay nghề của người lao động ở vào mức khá so với ở nơi khác. Điều này rất quan trọng vì nước ta hiện nay có một lực lượng lao động nhàn rỗi khá lớn ( nhất là lao động nữ ) rất phù hợp với ngành công nghiệp nhẹ, ngành sử dụng nhiều lao động này. Thêm vào đó, trong sản xuất hàng dệt may chúng ta đảm bảo cung ứng được một phần nguyên liệu phụ do sản xuất trong nước, không phụ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu. 2. Vị trí của thị trường EU. a. EU: Một thị trường rộng lớn và thống nhất. Thị trường thống nhất có thể được tóm tắt trong 4 từ: tự do lưu thông. đây là sự tự do lưu thông-không bị cản trở-của cải và dịch vụ, các thể nhân và tiền bạc giữa 15 nước EU, như thể trong một quốc gia hoặc một thị trường duy nhất. Thí dụ cụ thể, là người khách hàng có thể được cung ứng một danh mục các sản phẩm hoặc dịch vụ rất rộng bởi các doanh nghiệp tại các nước khác nhau. Nói như vậy không có nghĩa là “EU mở cửa để hứng chịu mọi cơn gió”. EU vừa tăng cường các biện pháp bảo hộ thương mại để bảo vệ các ngành công nghiệp của mình trước nhưng hành động không trung thực của các đối thủ cạnh tranh. Các biện pháp này gồm thuế chống xuất khẩu bán phá giá, thuế chống tài trợ và các điều khoản bảo vệ khác. Ngoài ra, EU cũng có những quy định “giải quyết các trở ngại thương mại” cho phép chống lại trong khuôn khổ WTO. Đối với hàng may mặc của Việt Nam, việc đáp ứng thị hiếu người Châu Âu là đẹp nhưng phải rẻ. Đây là cả một vấn đề lớn. Nếu như Mỹ là một thị trường đa chủng khổng lồ dễ dàng du nhập các kiểu mốt thậm chí trái ngược nhau thì EU lại được coi là một thị trường khá kỹ tính và chọn lọc đối với hàng may mặc. “Miếng bánh” của thị phần xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU có tăng được hàng năm hay không là cả một vấn đề lớn về việc đổi mới công nghệ và quá trình hội nhập vào ngành công nghiệp thời trang thế giới. b. EU: trung tâm kinh tế hùng mạnh, có vai trò lớn trong nền kinh tế thế giới. Liên minh Châu Âu EU bao gồm 15 quốc gia (Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Italia, Thuỵ Điển, Bỉ...) với tốc độ tăng trưởng rất mạnh so với thế giới. EU không chỉ lớn mạnh về quy mô mà còn vững mạnh về cơ cấu, tăng trưởng ổn định nắm giữ đồng tiền mạnh EURO có khả năng chuyển đổi trên toàn thế giới. EU không chỉ có nguồn nhân lực có trình độ cao, lành nghề còn có thị trường nội địa với sức mua lớn. Các chính sách của EU đều được đưa ra sao cho phù hợp và thuận lợi cho các nước thành viên cùng có lợi, góp phần phát triển chung nền kinh tế thế giới. Do vậy khi chúng ta thiết lập mối quan hệ thương mại Việt Nam –EU, Việt Nam càng có điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu, trao đổi hàng hoá với nước ngoài, đặc biệt là hàng dệt may vào thị trường tiềm năng EU. Hàng dệt may Việt Nam có những cơ hội phát triển cao hơn cả về số lượng và chất lượng khi xuất khẩu sang thị trường này. c. EU: nền ngoại thương phát triển thứ hai thế giới Chỉ thua kém sau Mỹ với một tỷ lệ rất nhỏ, EU hàng năm xuất khẩu một lượng lớn hàng hoá từ khắp thế giới cũng từ đó EU nhập khẩu một lượng hàng hoá không nhỏ trong đó có hàng dệt may chiếm tỷ lệ cao. Tình hình ngành công nghiệp dệt may ở Châu Âu: Do khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ chưa từng có ở một số lĩnh vực như: điện tử, tin học, tự động hoá, vật liệu mới, công nghệ sinh học... nên cuộc cách mạng này làm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hầu hết các nước trong EU đều diễn ra nhanh chóng theo hướng chuyển mạnh sang các ngành có hàm lượng trí tuệ và dịch vụ cao, còn các tỷ trọng nông nghiệp và khai thác khoáng sản giảm dần và đặc biệt là các ngành cần nhiều nhân công đang có xu hướng chuyển dịch ra khỏi Châu Âu. đặc biệt là ngành dệt may, sản xuất hàng dệt may ở các năm đang giảm dần với tỷ lệ giảm đang tăng lên. Do vậy, việc đáp ứng nhu cầu nội tại ở EU đang là vấn đề cần phải cập nhập. Đó là một thời cơ thuận lợi cho ngành dệt may Việt Nam không bỏ lỡ cơ hội đẩy mạnh và tăng tốc xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU. II. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU 1. Về kim ngạch xuất khẩu Ngành dệt may nước ta phát triển đã lâu nhưng chỉ từ thập niên 90 trở lại đây, nó mới thực sự chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng. Trong suốt 4 năm qua, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may luôn đạt trên 1 tỷ USD/năm và trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Từ năm 1991 đến nay, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nước ta khong ngừng tăng. Năm 1991, tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may chỉ đạt 158 triệu USD, đến năm 1998 đã gấp 9,18 lần, đạt 1450 triệu USD, tương đương với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 43,5 %, tức khoảng 160 triệu USD/năm. Bên cạnh đó, tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta luôn tăng, từ 7,6% năm 1991 lên 15% năm 1998. Đến nay, hàng dệt may đứng thứ nhất trong số 10 mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam. Hai năm gần đây, tốc độ tăng trưởng hàng dệt may xuất khẩu đã chững lại. Điều này đòi hỏi cần phải có sự phân tích và điều chỉnh hợp lý trong thời gian tới để ngành dệt may đứng vững trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Mặc dù hàng dệt may của Việt Nam là một mặt hàng xuất khẩu trọng yếu nhưng so với các nước trong khu vực và với tiềm năng của nó thì kim ngạch đạt được còn khiêm tốn. Năm 1994, riêng Trung Quốc đã xuất khẩu được 15 tỷ USD hàng dệt may, ấn Độ là 5,9 tỷ USD và Thái Lan là 4,2 tỷ USD. Thị trưòng xuất khẩu hàng dệt may có hạn ngạch chủ yếu của Việt Nam là các nước thuộc khối EU. EU được coi là thị trường xuất khẩu trọng điểm của nước ta và đang được tập trung khai thác có hiệu quả các tiềm năng của thị trường này. Hàng năm EU nhập khẩu trên 63 tỷ USD quần áo các loại và trong đó chỉ khoảng 10-15% là tiêu dùng còn lại 85-90% là sử dụng theo mốt. Từ năm 1980, Việt Nam đã xuất khẩu hàng dệt may sang một số nước EU như Đức, Pháp... nhưng do thay đổi về chính trị thế giới nên quan hệ buôn bán đã bị hạn chế. Từ năm 1991, xuất khẩu hàng dệt may sang EU đã có những bước tiến mới, đặc biệt phát triển mạnh từ sau Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU ký kết ngày 15/12/1992 và có hiệu lực từ ngay 1/1/1993 với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 23% trong thời kỳ 1993-1997. Theo H iệp định mới, Việt Nam còn được tự do chuyển đổi Quota giưa các mặt hàng một cách rộng rãi và dễ dàng hơn, đồng thời EU cũng dành cho phía Việt Nam quy chế tối huệ quốc (MFN), nhiều mặt hàng của Việt Nam xuất khẩu vào EU đựoc hưởng thuế quan với mức 0% theo chế độ ưu đãi phổ cập ( GSP). Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU Đơn vị: triệu USD Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Thị trường EU 250 285,50 350,44 420,52 450,55 563,68 Nguồn: Tổng cục hải quan 2. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu Một vấn đề đáng lưu ý là giá trị gia công chiếm tới 80% kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc.Hơn nữa, các hợp đồng gia công không ổn định, giá gia công thấp và sự phụ thuộc về nguyên vật liệu đã khiến không ít doanh nghiệp may mặc nước ta lúng túng, bị động trong sản xuất kinh doanh. Những mặt hàng xuất khẩu khó làm như quần âu, áo veston chiếm tỉ lệ nhỏ vì rất ít doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ để có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu sản xuất.các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của ngành dệt may Việt Nam chủ yếu là áo jacket, áo váy, sơ mi đơn giản. Đến nay, những mặt hàng cao cấp đòi hỏi công nhân lành nghề, máy móc hiện đại còn nhiều hạn ngạch nhưng chỉ một số ít doanh nghiệp có khả năng thực hiện. Như vậy, trong thời gian tới, các doanh nghiệp không tự lấp lỗ hổng về mặt kỹ thuật về tay nghề tức là tự mình làm mất đi một thị trường có rất nhiều tiềm năng cho ngành dệt may nước nhà. Trong các chủng loại mặt hàng may mặc xuất khẩu sang EU, hầu hết các doanh nghiệp may mới chỉ tập trung vào một số sản phẩm dễ làm, các mã hàng nóng như áo jacket 2 hoặc 3 lớp, áo váy, sơ mi. Đặc biệt, đối với mặt hàng áo jacket luôn chiếm vị trí hàng đầu trong cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu sang EU. Năm 1997, Việt Nam xuất khẩu sang EU gần 11,7 triệu chiếc, tăng gần 5 triệu chiếc ( hay 72% ) so với năm 1993, chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU. Các nước EU nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam là Đức (40-42%), Pháp (13-15%), Hà Lan (10-13%)... Ngoài ra Việt Nam còn mở rộng quan hệ buôn bán với các nước EU khác như: Phần Lan, Thuỵ Điển, Đan Mạch... tỷ trọng nhập khẩu của các nước này đang tăng lên. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ tận dụng được 40% năng lực của mình tại thị trường EU, 70% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nước ta vào EU được thực hiện thông qua các nhà trung gian như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc và Đức. Thực tế cho thấy, còn nhiều chủng loại mặt hàng có hạn ngạch nhưng hiện nay chưa có doanh nghiệp nào sản xuất, đó là những mặt hàng yêu cầu phải có trang thiết bị kỹ thuật cao, công nhân lành nghề và có tay nghề cao nhưng các doanh nghiệp của nước ta chưa đáp ứng được. Trong tương lai, thị trường tiếp tục mở rộng nếu ta không đầu tư để lấp các lỗ hổng về kỹ thuật thì sẽ mất đi một tiềm năng to lớn về thị trường cho ngành dệt may của nước ta. Cùng với vấn đề đặt ra làm sao chúng ta có thể tiếp cận thị trường và xuất khẩu trực tiếp sang thị trường EU, giảm sự phụ thuộc và không thông qua các nhà đặt hàng trung gian. 3. Về cơ cấu hình thức xuất khẩu Tự do hoá buôn bán hàng dệt may, bãi bỏ chế độ hạn ngạnh theo điều khoản của Hiệp định buôn bán hàng dệt may (ATC), sẽ đem lại cho những nước xuất khẩu hàng dệt may nói chung và Việt Nam nói riêng những thuận lợi đáng kể. Những điều dễ thấy nhất là nhà xuất khẩu có thể tự do xuất khẩu những mặt hàng mà Việt Nam có năng lực sản xuất, có khả năng cạnh tranh; không bị giới hạn về số lượng theo các Hiệp định thương mại song phương. Tuy nhiên, bãi bỏ chế độ hạn ngạch cũng đem lại những thách thức mới. Hạn ngạch được xem như “chiếc áo bảo hộ”, mà khi nó được cởi ra thì việc hàng hoá có thể thâm nhập được vào thị trường hay không sẽ được quyết định bởi chính khả năng đáp ứng các yêu cầu thị trường của bản thân hàng hoá đó. Có nghĩa nhà sản xuất phải chấp nhận cạnh tranh với các đối thủ và với chính mình để đáp ứng yêu cầu thị trường nhập khẩu. Và khi đó, tổ chức Marketing sẽ càng trở nên đặc biệt quan trọng, đóng vai trò quyết định trong thành công của hoạt động xuất khẩu. Từ năm 1993, với Hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam - EU (được ký ngày 15/2/1992), EU đã trở thành một trong những thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu tăng từ 250 triệu USD lên 450 triệu USD năm 1997, chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Tuy nhiên, xuất khẩu hàng dệt may sang EU trong những năm gần đây là những mặt hàng do EU quy định theo hạn ngạch nên công tác Marketing chưa thực sự được các doanh nghiệp Việt Nam chú trọng. Trong xu hướng toàn cầu hoá ngày nay, công tác này không thể cứ “ ì ạch” như trước, mà cần được quan tâm đầu tư cho đúng với tầm vóc của nó. Với EU, do là một thị trường rộng lớn nên nhiều điểm khác biệt về thị hiếu tiêu dùng, về tập quán kinh doanh và phương thức tổ chức phân phối đối với mỗi nước thành viên, nên để thâm nhập vào thị trường đòi hỏi phải có những kênh Marketing riêng biệt, thích ứng với cơ cấu của hệ thống phân phối của mỗi nước thành viên cũng như phù hợp với đặc điểm của sản phẩm xuất khẩu. Mối liên hệ giữa nhà xuất khẩu với hệ thống phân phối ở nước nhập khẩu thường được tổ chức theo các hình thức sau: -Các cửa hàng chuyên doanh hàng may mặc liên nhánh thường nhập khẩu trực tiếp từ các nước sản xuất hoặc đặt các hãng nước ngoài gia công theo hợp đồng, phụ từ các hợp động gia công chính (theo phương thức CMT). -Các nhà bán lẻ độc lập có thể tổ chức nguồn hàng theo các hình thức mua hàng trực tiếp từ các nhà sản xuất hay đại lý của các nhà sản xuất; mua hàng của hãng nhập khẩu/ bán buôn; mua hàng theo hình thức frachize (như các cửa hàng liên nhánh hay dây chuyền phân phối; mua của các trung tâm thu mua...). Phần lớn các nhà bán lẻ độc lập là thành viên của hiệp hội thu mua. Đây là hình thức khá phổ biến ở nhiều nước EU như Đức, Hà Lan... ở thị trường EU, các nhà sản xuất hay xuất khẩu ít có khả năng liên kết trực tiếp với các nhà bán lẻ tại các nước nhập khẩu, mà thường phải thoả thuận để phân phối sản phẩm của mình qua các khâu trung gian của hệ thống phân phối nhà nhập khẩu, các trung tâm thu mua, các nhà bán buôn hoặc qua các nhà sản xuất khác của nước khập khẩu. Mặt khác, cũng nên lưu ý là mặc dù có những loại hình tổ chức phân phối tương đồng, hệ thống bán lẻ hàng may mặt của các nước EU có cơ cấu khá khác biệt. Vì vậy, tuỳ thuộc vào đặc điểm của hệ thống tổ chức phân phối ở mỗi nước nhập khẩu, nhà xuất khẩu có thể chọn những kênh Marketing thích hợp nhất cho sản phẩm xuất khẩu của mình nhằm cho phép tiếp cận nhiều nhất với các khách hàng tiềm năng. 4. Về cơ cấu thị trường Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, nhiều nước như Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore, Nhật Bản... phá giá tiền tệ làm giá xuất khẩu của hàng Việt Nam đắt tương đối trên thị trường thế giới, khiến sự cạnh tranh vốn còn yếu của hàng Việt Nam lại giảm xuống. Hơn nữa, cơn lốc khủng hoảng làm cho sức mua của dân chúng giảm đáng kể, kết quả là thị trường tiêu thụ của nước ta gặp nhiều khó khăn. Thị trường trọng điểm EU, với 360 triệu dân có mức tiêu dùng vải cao hàng đầu thế giới (17 kg/người/ năm), đây là một thị trường tốt để Việt Nam đầu tư, khai thác. Tuy vậy, đòi hỏi lớn không thể đáp ứng ngay là yêu cầu về chất lượng, mẫu mã sản phẩm dệt may của người dân EU rất cao. Trong tổng số 36 tỷ USD quần áo nhập khẩu vào EU hàng năm chỉ có khoảng 9,0 tỷ USD quần áo tiêu dùng bình thường, số còn lại (khoảng 87%) là sử dụng theo mốt. Vì vậy, giá trị hàm lượng chất xám trong sản phẩm cao hơn rất nhiều so với giá trị vật liệu cấu thành lên nó. Điều này giải thích tại sao giá xuất khẩu giữa hai loại sản phẩm tương đồng của Việt Nam và Thái Lan lại có sự chênh lệch khá cao. Đây là một thiệt thòi không nhỏ do ngành tạo mốt Việt Nam còn non trẻ. Trong thời gian tới, nhờ một số thay đổi trong Hiệp định buôn bán hàng dệt may EU-Việt Nam giai đoạn 1998-2000 ký ngày 17/11/1997, ngành may mặc của nước ta sẽ có nhiều cơ hội để mở rộng thị trường tiệu thụ sang EU. Theo Hiệp định này, từ năm 1998, Việt Nam được phép tự do chuyển đổi Quota giữa các mặt hàng một cách rộng rãi hơn (17% so với trước kia là 12%). Hơn nữa, Việt Nam còn được hưởng quy chế tối huệ quốc và quy chế ưu đãi phổ cập của EU. Như vậy, một số mặt hàng của Việt Nam sẽ được hưởng thuế quan nhập khẩu 0%, làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu nước ta nói chung, trong đó có hàng dệt may. Các nhà xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam đến nay thường vẫn phải thông qua nước thứ 3 như Đài Loan và Đức... để vào thị trường nước ngoài. Bên cạnh thị trường có hạn ngạch, Việt Nam đã thâm nhập được một số thị trường không hạn ngạch khổng lồ như Nhật Bản, Mỹ, Singapore và Đông Âu... để tiêu thụ hàng dệt may xuất khẩu, trong đó thị trường lớn nhất là Nhật Bản, không chỉ có lượng dân cư đông đúc hơn 125 triệu người mà Nhật Bản còn là nước có mức tiêu thụ sản phẩm may mặc rất cao (27 kg/người/năm). Năm 1997 Việt Nam đứng hàng thứ 7 trong số các nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất vào Nhật Bản với thị phần hàng dệt thoi là 3,6% và dệt kim là 2,3%. Tuy vậy, Việt Nam mới chỉ đáp ứng được nhu cầu may mặc bình dân của người Nhật Bản với các mặt hàng chủ yếu là áo gió nam, quần áo lao động, và một số loại sơ mi, quần âu đơn giản. Trong năm 1998 vừa qua, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, sức mua ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0489.doc