Thẩm định khía cạnh tái chính dự án đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư

Mục lục Lời nói đầu Qua hơn 10 năm đổi mới với bao nhiêu trăn trở đáp ứng đòi hỏi thực tiễn của đất nước, bắt kịp xu hướng thời đại - Đảng và Nhà nước ta đã có đường nối đổi mới đúng đắn, năng động và sáng tạo, chuyển nền kinh tế nước ta sang cơ chế thị trường, từng bước công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, hoạt động đầu tư cũng không ngừng phát triển nhằm tham gia vào nhiều lĩnh vực ở mọi thành phần kinh tế và đã góp phần không nhỏ vào quá trình

doc102 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1265 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thẩm định khía cạnh tái chính dự án đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chuyển đổi - tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Mỗi hoạt động đầu tư được tiến hành với rất nhiều công việc có những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật đa dạng. Nguồn lực cần huy động và sử dụng cho hoạt động đó thường rất lớn. Do đó đầu tư theo dự án được các nhà kinh tế đánh giá là có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư chỉ thật sự mang lại hiệu quả khi dự án đầu tư được đưa vào thẩm định chính xác ở mọi khía cạnh. Trong đó thẩm định về khía cạnh tài chính là quan trọng nhất đối với nhà đầu tư - người bỏ vốn. Vậy thẩm định như thế nào ? bằng những phương pháp nào ? và dựa trên những tiêu thức nào là tốt nhất, hợp lý nhất, nhìn nhận chính xác nhất hiệu quả của dự án đầu tư lại là một vấn đề không phải đơn giản. Bởi vậy, nghiên cứu thẩm định khía cạnh tài chính dự án đầu tư luôn thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư và chủ dự án đầu tư. Trước bối cảnh đó cùng với ý thức được tầm quan trọng của công tác thẩm định dự án trong đầu tư, tôi đã lựa chọn đề tài: “Thẩm định khía cạnh tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư”. Nội dung của đề tài: Ngoài lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, bài viết gồm 3 chương. Chương I - Lý luận chung về đầu tư và thẩm định dự án đầu tư. Chương II - Thực trạng công tác thẩm định khía cạnh tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Chương III - Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chất lượng công tác thẩm định khía cạnh tài chính các dự án đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Để hoàn thành bài viết này tôi đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp quý báu. Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo. Xin chân thành cảm ơn Phòng dự án Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và các cán bộ Ngân hàng đã giúp tôi hoàn thiện nhiệm vụ của mình. Với khả năng có hạn nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được sự góp ý giúp đỡ của cơ quan và các thầy cô giáo để bài viết được hoàn thiện hơn. Chương I Lý luận chung về đầu tư và thẩm định dự án đầu tư. I-/ Đầu tư và dự án đầu tư. A-/ Đầu tư. 1-/ Khái niệm đầu tư. Trong thời đại hiện nay thuật ngữ “Đầu tư” đang được sử dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực về lý luận cũng như thực tiễn, song thuật nhữ này cũng có nhiều cách hiểu và cách diễn đạt khác nhau. Đầu tư là đem lại một khoản tiền của đã được tích luỹ để sử dụng vào một việc nhất định nhằm thu lại các lợi ích có gái trị lớn hơn hay vì một mục đích sinh lợi trong tương lai. Đầu tư là những biện pháp cường độ hoá quá trình tái sản xuất thông qua việc tạo ra những tài sản cố định mới mở rộng hay hiện đại hóa những tài sản hiện có nhằm thay thế đổi mới hoặc nâng cao chất lượng, trình độ của các tài sản cố định đã được sử dụng trong tất cả các khu vực của nền kinh tế. Như vậy, khái niệm vốn đầu tư sẽ được hiểu là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung và các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng. Vốn đầu tư là khoản tiền tích luỹ của xã hội từ các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và số tiền có thể huy động được từ các nguồn khác nhau như liên doanh, liên kết hoặc tài trợ của nước ngoài... được sử dụng cho hoạt động đầu tư. Với quan niệm như đã trình bày ở trên, vốn đầu tư được hiểu như là phương tiện và có khả năng sinh lợi tại mọi thời điểm và mọi nơi. Quan niệm này cần được coi là chủ đạo, xuyên suốt trong quá trình thẩm dịch, phân tích, đánh giá dự án. 2-/ Vai trò của hoạt động đầu tư. Ngày nay đầu tư càng chứng tỏ được sức mạnh của nó trong nền kinh tế quốc dân. Đầu tư giữ một vị trí quan trọng: + Đầu tư là một hoạt động cơ bản thúc đẩy phát triển nền kinh tế nhằm thoa mãn nhu cầu vật chất tinh thần cua nhân dân. + Đầu tư sẽ tạo ra và đổi mới cơ cấu kinh tế, hình thành nên các ngành sản xuất mới, làm tiền đề cho việc chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội. + Đầu tư tạo ra hoặc đưa vò áp dụng công nghệ mới tăng năng suất lao động và chất lượng sản phẩm cho nền kinh tế quốc dân. + Đầu tư nhằm phát trển sản xuất và phát triển các cơ sở phục vụ cho các nhu cầu văn hoá,tinh thần, nâng cao chất lượng sống và tiến bộ xã hội. 3-/ Các đặc điểm cơ bản của hoạt động đầu tư. Để làm rõ hơn nội dung của khái niệm đầu tưchúng ta đi sâu phân tích các đặc điểm cơ bản của hoạt động này, làm rõ sự khác biệt của hoạt động đầu tư với các hoạt động khác, đồng thời cũng thấy rõ yêu cầu và nội dung đối với công tác thẩm định dự án. Hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn:Để thực hiện đầu tư trước hết cần có vốn. Số vốn chi phí cho một công cuộc đầu tư khá lớn và được hiểu như là các nguồn sinh lợi. Vì vậy, các quyết định đầu tư thường được xem xét từ phương diện tài chính (số vốn bỏ ra là bao nhiêu...). Trên thực tế hoat động đầu tư, các quyết định chi tiêu thường được cân nhắc bởi sự hạn chế của ngân sách (Nhà nước, địa phương, cá nhân) và luôn được xem xét từ những khía cạnh tài chính nêu trên. Nhiều dự án có thể khả thi ở các phương diện khác (kinh tế, xã hội) nhưng không khả thi về phương diện tài chính và vì thế cũng không thể thực hiện trên thực tế. Hoạt động đầu tư là hoạt động có tính chất lâu dài: Thời gian kể từ khi bắt đầu một hoạt động đầu tư, cho đến khi các thành quả của công cuộc đầu tư đó phát huy tác dụng và đem lại lợi ích kinh tế xã hội phải kéo dài trong nhiều năm. Đây là đặc điểm có ảnh hưởng rất cơ bản đến hoạt động đầu tư. Do tính lâu dài nên với mọi sự túc liệu đều là dự tính chịu một xác suất biến đổi nhất đinịh do nhiều nhân tố. Chính điều này là một trong những vấn đề cần phải tính đến trong nội dung phân tích, đánh giá của quá trình thẩm định dự án. Hoạt động đầu tư là hoạt động luôn có sự cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi trong tương lai: đầu tư về một phương diện nào đó là sự hy sinh lợi ích hiện tại để đánh đổi lấy lợi ích tương lai. Nhà đầu tư mong muốn và chấp nhận đầu tư trong điều kiện lợi ích thu được trong tương lai lớn hơn lợi ích hiện nay họ tạm thời phải hi sinh (không tiêu dùng hoặc không đầu tư vào nơi khác). Vì vậy luôn có sự so sánh, cân nhắc giữa lợi ích hiện tại và lợi ích tương lai. Hoạt động đầu tư là hoạt động mang nặng rủi ro. Từ các đặc điểm trên đã cho thấy hoạt động đầu tư là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro, bất trắc. Bản chất của sự đánh đổi lợi ích và thời gian thực hiện dài không cho phép nhà đầu tư lường hết những thay đổi có thể xảy ra trong quá trình thực hiện đầu tư so với dự tính. Nhận thức được điều này, nhà đầu tư cũng có những cách thức, biện pháp ngăn ngừa hay hạn chế để khả năng xảy ra rủi là ít nhất. Những đặc điểm này đặt ra cho người phân tích đánh giá đầu tư chẳng những quan tâm về mặt nội dung xem xét mà còn tìm các phương pháp, cách thức đo lường, đánh giá để có những kết luận giúp cho việc lựa chọn và ra quyết định đầu tư một cách có căn cứ. Như vậy để đảm bảo cho mọi hoạt động đầu tư là khả thi, đạt mục tiêu mong và đem lại hiệu quả kinh tế xã hội thì trước khi bỏ vốn cần phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng bằng việc nghiên cứu, soạn thảo dự án đầu tư. B-/ Dự án đầu tư. 1-/ Khái niệm về dự án đầu tư. Mỗi hoạt động đầu tư được tiến hành với rất nhiều công việc có những đặc điểm kinh tế đa dạng. Nguồn lực cần huy động thường rất lớn. Thời gian thực hiện và kết thúc đầu tư, nhất là việc thu hồi đầu tư vốn đã bỏ ra, hoặc đem lại những lợi ích cho xã hội, là một quá trình có thời gian dài. Vì vậy cần phải đầu tư theo dự án. Có thể xem xét dự án đầu tư dưới nhiều góc độ khác nhau: Về mặt hình thức: Dự án đầu tư là một tập hồ sơ, tài liệu trình bày một cách chi tiết có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện những mục tiêu nhất định trong tương lai. Trên góc độ quản lý: Dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử vốn, vật tư, lao động để tạo ra các kết quả kinh tế tài chính trong một thời gian dài. Trên góc độ kế hoạch hóa: dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế xã hội, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư vào túi họ. Nó là một hoạt động kinh tế riêng biệt, là khâu đầu tiên trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói chung. Về mặt nội dung: dự án đầu tư là một hợp các hoạt động có liện quan đến nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt được các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định. Như vậy dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chát lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định. 2-/ Nội dung dự án đầu tư: * Mục tiêu của dự án: Đó là những lợi ích kinh tế - xã hội do thực hiện dự án mang lại hoặc là các mục đích cụ thể cần đạt được của việc thực hiện dự án. Mục tiêu trực tiếp phải được lượng hóa bằng con số cụ thể và không được đối lập với mục tiêu phát triển. * Các kết quả của dự án: Đó là những kết quả cụ thể, có định hướng, dược tạo ra từ những hoạt động khác nhau của dự án. Thực hiện được các kết quả sẽ gopa phần thực hiện được các mục tiêu trực tiếp của dự án. * Các hoạt động của dự án: Đó là những nhiệm vụ hoặc hành động (các giải pháp kinh tế, kỹ thuật cụ thể) được thực hiện trong dự án để tạo ra những kết quả nhất định. Những nhiệm vụ hoặc hành động này cùng với một lịch biểu và trách nhiệm cụ thể của các bộ phận thực hiện sẽ tạo thành kế hoạch làm việc của dự án. * Các nguồn lực của dự án (biểu hiện cụ thể của vốn đầu tư): Đó là cac nguồn về vật chất, tài chính và con người cần thiết để tiến hành các hoạt động của dự án. Giá trị hoặc chi phí của các nguồn lực này chính là vốn đầu tư cần thiết cho dự án. Mối quan hệ giữa các thành phần của dự án được thể hiện theo sơ đồ sau: Mục tiêu phát triển Các nguồn lực Các hoạt động Các kết quả Mục tiêu trước mắt Trên thực tế, để đánh giá tính khả thi của dự án người ta thường xem xét trên một số phương diện chủ yếu sau. Các điều kiện pháp lý, các yếu tố công nghệ, kỹ thuật, các yếu tố kinh tế, tài chính, các yếu tố tổ chưc, thực hiện. Nội dung của dự án đầu tư dược nêu trong thông tư số 09 BKH/VPTĐ ngày 21/9/1999 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin tóm tắt như sau: - Chủ đầu tư: + Chức vụ. + Số điện thoại và địa chỉ liên lạc. - Những căn cứ (xuất xứ và căn cứ pháp lý, nguồn gốc tài liệu sử dụng, phân tích các kết quả điều tra cơ bản và tự nhiên, tài nguyên kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển,...). - Lựa chọn hình thức đầu tư, công suất (đầu tư sâu, mở tông, đầu tư mới,...). - Chương trình sản xuất và các yêu cầu đáp ứng (nhu cầu đầu vào cho dự án và các giải pháp đảm bảo). - Các phương án về khu vực địa điểm cụ thể (hoặc tuyến công trình). - Phần công nghệ kỹ thuật của dự án: cần xác định rõ công nghệ phù hợp với dự án nguồn cung cấp công nghệ và giá thành toàn bộ công nghệ). Đánh giá tác động của môi trường và giải pháp xử lý (phù hợp với yêu cầu của Luật môi trường và Thông tư hướng dẫn của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường). - Phần xây dựng và tổ chức thi công xây lắp. - Tổ chức quản lý sản xuất và bố trí lao động. - Phân tích tài chính, kinh tế- xã hội của sự án. - Tài chính (xác định tổng vốn đầu tư, các biểu tính toán vốn đầu tư. - Phân tích kinh tế- xã hội (giá trị sản phẩm và dịch vụ gia tăng, việc làm và thu nhập cho người lao động gia tăng, đóng góp ngân sách, các lợi ích về mặt xã hội...) - Tổ chức thực hiện- kết luận- kiến nghị các chính sách và chế độ ưu đãi. Quá trình nghiên cứu, soạn thảo một dự án đầu tư được thực hiện theo từng giai đoạn rất cẩn thận nhưng vẫn không thể tránh khỏi những sai sót. Do đó, chúng ta cần phải có một qui tính thẩm định các dự án nhằm phát hiện và sửa chữa những sai sót, đồng thời bổ xung các biện pháp để đảm bảo tính khả thi cao cho việc thực hiện dự án. II-/ Thẩm định dự án đầu tư. 1-/ Quản lý đầu tư. 1.1-/ Tình hình quản lý đầu tư ở nước ta hiện nay. Trải qua hơn 10 năm đổi mới, từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế thị trường với sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian qua qui mô và tốc độ đầu tư đã tăng lên nhanh chóng, công tác quản lý đầu tư trở thành một nhiệm vụ quan trọng của nhà nước. Để hoạt động đầu tư đạt được hiệu quả cao thì nhà nước cần phải quản lý chặt chẽ tất cả các khâu trong quá trình đầu tư. Vì vậy kiên tục trong một thời gian ngắn (1993 - 1999) Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quan trọng trong lĩnh vực quản lý hoạt động đầu tư và xây dựng cũng như sửa đổi thay thế các văn bản này cho phù hợp với tình hình thực tế: Nghị định 385- HĐBT ngày 7/11/1993 của HĐBT nay là Chính phủ. Nghị định 177/CP ngày 20/11/1997 của Chính phủ... Văn bản gần đây nhất là nghị định số 42CP. Ngày 16/7/1999 về việc ban hành Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng và Nghị định số 92/CP ngày 23/8/2000, qui định về một số sửa đổi và bổ xung. Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo Nghị định 42 CP. Sự ra đời các văn bản pháp lý này đã xác định rõ những yêu cầu và nguyên tắc quản lý đầu tư; thẩm quyền quyết định đầu tư, cho phép đầu tư và cấp giấy phép đầu tư. Đồng thời tạo lập một môi trường pháp lý ổn định, đáp ứng được những yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý đầu tư và thuận lợi cho các nhà đầu tư. Như vậy, quản lý đầu tư nhằm đáp ứng những yêu cầu cơ bản là đảm bảo cho hoạt động đầu tư được thực hiện theo đúng mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Mặt khác quản lý đầu tư cũng góp phần to lớn vào việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư trong nước cũng như của nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, khai thác tốt mọi tiềm năng của đất nước (lao động, tài nguyên...) bảo vệ môi trường sinh thái và chống mọi hành vi tham ô, lãng phí trong hoạt động đầu tư. Hiện nay, nước ta đang thực hiện quản lý đầu tư theo nghuyên tắc nhà nước thống nhất quản lý đầu tư đối với tất cả các thành phần kinh tế về mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội, qui hoạch và kế hoạch phát triển của ngành , vùng lãnh thổ, lựa chọn công nghệ, bảo vệ môi trường sinh thái và các khía cạnh khác của dự án. Đối với các dự án đầu tư có sử dụng vốn ngân sách nhà nước còn quản lý về các mặt thương mại, tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội của dự án. Những cơ quan có trách nhiệm quản lý nhà nước về đầu tư ở nước ta hiện nay gồm có: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nươc Việt Nam cùng các Bộ quản lý ngành khác có liên quanvà Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương. Theo qui định nêu tại nghị định số 42/CP . Thẩm quyền quyết định đầu tư và cấp giấy phép đầu tư cũng được tuân theo nghị định này và phân loại theo nguồn vốn và nhóm dự án. 1.2-/ Quản lý giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Quản lý giai đoạn chuẩn bị đầu tư được coi là khâu then chốt trong việc quản lý đầu tư, trong đó có việc lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư. Thẩm định dự án được tiến hành trong các giai đoạn hình thành dự án, nó được xem như một yêu cầu không thể thiếu và là cơ sở để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định đầu tư. - Công tác lập và trình duyệt dự án: được qui dịnh theo nghị định 42/CP, ngày 16 tháng 7 năm 1999 của chính phủ. Nghị định này qui định: +Chủ đầu tư có trách nhiệm lập nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi để trình trực tiếp người có thẩm quyền quyết định đầu tư xét duyệt. + Trong nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi, chủ đầu tư có quyền yêu cầu các cơ quan hữu quan của nhà nước chỉ dẫn các vấn đề liên quan đến dự án. - Công tác thẩm định dự án. Tuỳ theo mục tiêu của từng dự án mà có phương pháp thẩm định cụ thể: + Đối các dự án nhằm thu lợi nhuận, công tác thẩm định kiểm tra sinh lời về mặt tài chính của dự án. - Đối với các dự án nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội thì công tác thẩm định tiến hành đánh giá những tác động cụ thể của dự án đến chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Theo qui định của nhà nước tất cả các dự án thuộc mọi nguồn vốn, mọi thành phần kinh tế đều phải thẩm định để có quyết định đầu tư đúng đắn. - Phê duyệt quyết định đầu tư. Sau khi có báo cáo quyết định thẩm định, các cấp có thẩm quyền qui định tại văn bản nói trên xem xét ra quyết định đầu tư. 2-/ Công tác thẩm định dự án đầu tư. 2.1-/ Khái niệm thẩm định dự án: Hoạt động đầu tư đã đóng một vai trò không nhỏ vào việc xây dựng và phát triển ổn định kinh tế xã hội. Để phát huy được mặt tích cực của các dự án đầu tư và hạn chế được những mặt tiêu cực của nó thì khi chấp thuận việc thực hiện một dự án, người ta thường phân tích, đánh giá, xem xét dự án về các mặt tài chính, kinh tế xã hội... Để có được một quyết định đúng đắn khi đưa dự án vào thực hiện. Những hoạt động xem xét, đánh giá dự án nhằm những mục tiêu nói trên được gọi là “thẩm định dự án”. Vậy: thẩm định đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, có khoa học toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của một dự án. Từ đó ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư. Đây là một quá trình kiểm tra, đánh giá các nội dung của dự án một cách độc lập tách biệt với quá trình soạn thảo dự án. Thẩm định dự án đã tạo ra cơ sở vững chắc cho hoạt động đầu tư có hiệu quả. Các kết luận rút ra từ quá trình thẩm định là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư. 2.2-/ Sự cần thiết phải thẩm định đầu tư. Thẩm định dự án nhằm làm sáng tỏ và phân tích một loạt các vấn đề có liên quan tới tính khả thi trong quá trình thực hiện dự án: thị trường, công nghệ, kỹ thuật, khả năng tài chính của dự án để đứng vững trong suốt đời hoạt động về quản lý thực hiện dự án, phần đóng góp kinh tế của dự án vào sự tăng trưởng của nền kinh tế ... Đồng thời thẩm định dự án đầu tư là cần thiết bắt nguồn từ vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với các hoạt động đầu tư. Nhà nước với chức năng công quyền của mình sẽ can thiệp vào quá trình lựa chọn các dự án đầu tư. Tất cả các dự án đầu tư thuộc mọi nguồn vốn, mọi thành phần kinh tế đều phải đóng góp vào lợi ích chung của đấtt nước. Bởi vậy, trươc khi ra quyết định đầu tư, các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước cần biết xem dự án có góp phần đạt được mục tiêu của quốc gia hay không? Sở dĩ cần phải qua các khâu trong thẩm định dự án vì trên thực tế cho thấy rằng: Một dự án đầu tư dù được tiến hành soạn thảo kỹ lưỡng đến đâu cũng vẫn mang tính chủ quan của người soạn thảo. Người soạn thảo thường đứng trên góc độ hẹp để hìn nhận các vấn đề của dự án. Còn các nhà thẩm định thường có cách nhìn rộng hơn trong việc đánh giá dự án. Họ xuất phát từ lợi ích chung của toàn xã hội, của cả cộng đồng để xem xét các lợi ích kinh tế xã hội mà dự án đem lại. Mặt khác, khi soạn thảo dự án có thể có những sai sót, các ý kiến có thể mâu thuẫn nhau, không lôgic, thậm chí có thể có nhữg câu văn, những chứ dùng sơ hở gây ra tanh cãi hoặc tranh chấp giữa các đối tác tham gia đầu tư. Công tác thẩm định dự án sẽ phát hện và sửa chữa được những sai sót đó. Như vậy, thẩm định dự án là cần thiết, nó là một bộ phận không thể thiếu của công tác quản lý nhằm đảm bảo cho hoạt động đầu tư có hiệu quả. 2.3-/ Vai trò của công tác thẩm định dự án. Công tác thẩm định dự án có một vai trò quan trọng trong quá trình đầu tư theo dự án. Nó đem lại ý nghĩa to lớn đối với chủ đầu tư, đối với nhà nước và cả đối với các nhà tài trợ. Đối với chủ đầu tư thì việc thẩm định dự án như là một quá trình kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ các phương diện của dự án dưới một cái nhìn và quan điểm khách quan hơn. Dưới cách nhìn này, một dự án đầu tư sẽ bị loại bỏ nếu nó không thực sự đem lại lợi ích cho chủ đầu tư và giúp cho chủ đầu tư lựa chọn được phương án đầu tư tốt nhất. Đối với nhà nước thì việc thẩm định dự án sẽ xác định được phần lợi ích mà dự án đóng góp cho xã hội và phần chi phí mà xã hội phải bỏ ra để xem xét khả năng sinh lợi của dự án trên phương diện toàn xã hội. Từ đó loại bỏ những dự án không có hiệu quả về mặt kinh tế xã hội hay đạt hiệu quả thấp. Còn đối với các nhà tài trợ thì việc thẩm định dự án mang lại cho họ những thông tin về tính khả thi của dự án và các mặt của dự án mà họ quan tâm. Để từ đó có quyết định chính xác có nên tài trợ hay không. Như vậy thẩm định dự án nhằm tránh thực hiện đầu tư các dự án không có hiệu quả, mặt khác cũng không bỏ mất các cơ hội đầu tư có lợi. 2.4-/ Nhiệm vụ và yêu cầu của công tác thẩm định dự án. a. Nhiệm vụ: + Xem xét, phân tích, đánh giá dự án. + Lựa chọn kiến nghị phương án và điều kiện thực hiện. b. Yêu cầu: Thẩm định dự án được tiến hành đối với tất cả các dự án thuộc mọi nguồn vốn, thuộc các thành phần kinh tế (bao gồm các dự án đầu tư thuộc nguồn vốn nhà nước như: vốn ngân sách, vốn tín dụng ưu đãi... Và các dự án đầu tư không sử dụng vốn nhà nước). Tuy nhiên, yêu cầu của công tác thẩm định với các dự án này cũng khác nhau. Theo nghị định 42CP ngày 16-7-1999 của thủ tướng chính phủ, tất cả cá dự án đầu tư có xây dựng thuộc mọi thành phần kinh tế đều phải thẩm định về qui hoạch xây dựng, các phương án kiến trúc, công nghệ, sử dụng đất đai, tài nguyên, bảo vệ mội trường sinh thái phòng chống cháy nổ và các khía cạnh khác của dự án. Đối với các dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước còn được thẩm định về phương diện tài chính và hiệu quả kinh tế của dự án. Đối với các dự án đầu tư sử dụng vốn ODA phải phù hợp với qui định của nhà nước và thông lệ quốc tế. 2.5-/ Các bước thẩm định dự án đầu tư. Giai đoạn thẩm định dự án bao gồm một loạt khâu thẩm định và quyết định, đưa đến kết quả là chấp thuận hay bác bỏ dự án. Xét trên cơ sở lôgic, toàn bộ qui trình này sẽ được chia làm các bước sau đây. Các bước và yêu cầu cụ thể thẩm định trong quá trình ra quyết định đầu tư. a. Thẩm định kết quả nghiên cứu tiền khả thi (NCTKT). Nghiên cứu khả thi là đi vào nghiên cứu một cách sâu hơn chi tiết hơn các khía cạnh của cơ hội đầu tư đã lựa chọn nhằm khẳng định lại cơ hội đầu tư đã lựa chọn có tính khả thi hay không. Việc thẩm định kết quả NCTKT là bước thẩm định để phê duyệt NCTKT và ra quyết định triển khai NC khả thi. Tuỳ theo từng dự án cụ thể mà có tổ chức công tác thẩm định thích hợp. Đối với dự án lớn phức tạp (các dự án có vốn đầu tư lớn, có liên quan đến nhiều ngành, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế, bảo vệ an ninh, quốc phòng...) cần phải tiến hành thẩm định toàn diện, kỹ lưỡng trước khi tiến hành triển khai tiếp bước NCKT. Đối với các dự án thông thường, bước này đượ xem xét trên một số mặt cơ bản về chủ trương và các thông số chính của dự án. Nếu theo các vấn đề này cho thấy các dáu hiệu khả quan thì có thể thông qua để triển khai bước tiếp theo. Yêu cầu đối với thẩm định báo cáo NCTKT. Thẩm định báo cáo NCTKT là nỗ lực đầu tiên nhằm đánh giá triển vọng chung của dự án. Để thực hiện giai đoạn này, điều quan trọng là phải nhận thức được rằngmục đích của việc NCTKT này là để có được những ước tính phản ánh giá trị của cá biến số mà chúng sẽ cho thấy trước dự án có đủ hấp dẫn hay đủ tin cậy không, trên cơ sở đó, hoặc đình chỉ công việc hoặc tiến hành nghiên cứu chi tiết hơn. Trong quá trình thẩm định, đặc biệt trong giai đoạn NCTKT, các tính toán được thực hiện trên cơ sở trị số trung bình của các biến số mà chúng chỉ được biết với mức độ không chắc chắn lắm. Vì vậy, trong phân tích tiền khả thi, để tránh việc chấp thuận những dự án dựa trên những ước tính lạc quan về chi phí và lợi ích, chúng ta nên sử dụng những ước tính chênh lệch về hướng làm giảm bớt lợi ích của dự án trong khi làm tăng cao mức ước tính về chi phí. Nếu dự án vẫn hấp dẫn sau khi đã tiến hành thẩm định như vậy, thì có rất nhiều khả năng dự án sẽ đứng vững khi được thẩm định kỹ hơn, chính xác hơn trong giai đoạn NCKT. Trong khi tiến hành NCTKT, có thể phải sử dụng nghiên cứu chuyên đề nếu thấy cần thiết. Nghiên cứu chuyên đề bao gồm việc phân tích các tài liệu nghiên cứu đã có trước đây về các vấn đề đang nghiên cứu, thu nhập thêm các thông tin có liên quan đến công việc thẩm định dự án. Phần lớn các vấn đề kỹ thuật và thị trường đều xảy ra với các chủ đầu tư khác và đã được giải quyết do đó, chúng ta có thể thu nhập được nhiều loại thông tin một cách nhanh chóng và ít tốn kém nếu như các nguồn thông tin hiện có được sử dụng một cách hiệu quả nhất. b. Đối với thẩm định báo cáo NCKT. Sau khi đã hoàn tất xong các khâu phân tích trong giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi, chúng ta nghiên cứu dự án để xem xét xem liệu có triển vọng đáp ứng được các tiêu chuẩn về tài chính, kinh tế xã hội cho các khoản đầu tư hay không. Giai doạn NCKT của dự án là nhằm tăng cường mức độ chính xác của việc tính toán các yếu tố chủ yếu. Nếu như dự án cho thấy nó có triển vọng thành công, chúng ta càng cần phân tích độ nhậy của dự án đối với các biến số chủ yếu có vai trò quyết định kết quả dự án để xác định mức độ chắc chắn của dự án. Chính vào cuối giai đoạn này là lúc mà quyết định quan trọng nhất phải được xác định, đó là có nên chấp thuận dự án không. Thẩm định cần phải chỉ ra rằng đó là một dự án khả thi hay không khả thi. 2.6-/ Phương pháp thẩm định dự án đầu tư. Để đảm bảo dự án đầu tư được thẩm định một cách khoa học và toàn diện kết hợp với kinh nghiệm quản lý thực tiễn và các nguồn thông tin đáng tin cậy. Công việc của người làm công tác thẩm định dự án không phải là làm lại toàn bộ công việc của người lập dự án mà đi sâu tìm hiểu những nhược điểm, tồn tại của dự án để có ý kiến về việc có nên cấp giấy phép đầu tư hoặc bỏ vốn đầu tư cho dự án hay không. Hiện nay có ba phương pháp thẩm định thường được sử dụng. a. Phương pháp so sánh. Về thực chất, phương pháp so sánh là phương pháp phổ biến và đơn giản, các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật chủ yếu của dự án được so sánh với các dự án đã và đang xây dựng hoặc đang hoạt động. Sử dụng phương pháp này giúp cho việc đánh giá tính hựop lý và chính xác các chỉ tiêu của dự án. Từ đó có thể rút ra các kết luận đúng đắn về dự án để đưa ra quyết định đầu tư được xác định. Phương pháp so sánh được tiến hành theo một số chỉ tiêu sau: - Tiêu chuẩn thiết kế, xây dựng, tiêu chuẩn về cấp công trình do nhà nước qui định hoặc điều kiện tài chính mà dự án có thể chấp nhận được. - Tiêu chuẩn về công nghệ, thiết bị trong quan hệ chiến lược đầu tư công nghệ quốc gia, quốc tế. - Tiêu chuẩn đối với loại sản phẩm của dự án mà thị trường đòi hỏi. - Các chỉ tiêu tổng hợp như cơ cấu vốn đầu tư, sản xuất đầu tư. - Các định mức về sản xuất, tiêu hao năng lượng, nguyên liệu nhân công, tiền lương, chi phí quản lý ... của ngành theo các định mức kinh tế - kỹ thuật chính thức hoặc các chỉ tiêu kế hoạch và thực tế. - Các chỉ tiêu về hiệu quả đầu tư (ở mức trung bình tiên tiến). - Các tỷ lệ tài chính doanh nghiệp theo thông lệ phù hợp với các hướng dẫn, chỉ đạo của nhà nước, của ngành đói doanh nghiệp cùng loại. - Các chỉ tiêu trong trường hợp có dự án và chưa có dự án. Trong việc sử dụng phương pháp so sánh thì các chỉ tiêu dùng để so sánh phải được vận dụng phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của dự án và doanh nghiệp tránh khuynh hướng so sánh máy móc cứng nhắc. b. Phương pháp thẩm định theo trình tự. Theo phương pháp này, việc thẩm định dự án được tiến hành theo một trình tự biện chứng từ tổng quát đến chi tiết, từ kết luận trước làm tiền đề cho kết luận sau. - Thẩm định tổng quát: Là việc xem xét tổng quát các nội dung cần thẩm định của dự án, qua đó phát hiện các vấn đề hợp lý hay chưa hợp lý cần phải đi sâu xem xét. Thẩm định tổng quát cho phép hình dung khái quát dự án, hiểu rõ qui mô tầm quan trọng của dự án. Vì xem xét tổng quát các nội dung của dự án, do đó ở giai đoạn này khó phát hiện các vấn đề cần phải bãi bỏ hoặc các sai sót của dự án cần bổ xung hoặc sửa đổi. Chỉ khi tiến hành thẩm định chi tiết, những vấn đề sai sót của dự án mới được phát hiện. - Thẩm định chi tiết: Được tiến hành sau thẩm định tổng quát. Việc thẩm định này được tiến hành với từng nội dung của dự án từ việc thẩm định các điều kiện pháp lý đến phân tích hiệu quả tài chính và kinh tế - xã hội của dự án. Mỗi nội dung xem xét đều đưa ra những ý kiến đánh gióa đồng ý hay cần phải sửa đổi thêm hoặc thể chấp nhận được. Tuy nhiên mức độ tập trung cho những nội dung cơ bảncó thể khác nhau tuỳ theo đặc điểm và tình hình cụ thể của dự án. Trong bước thẩm định chi tiết, kết luận rút ra nội dung trước có thể là điều kiện để tiếp tục nghiên cứu. Nếu một số nội dung cơ bản của dự án bị bác bỏ thì có thể bác bỏ dự án mà không cần đi vào thẩm định toàn bộ các chỉ tiêu tiếp theo. c. Phương pháp thẩm định dự án được dựa trên việc phân tích độ nhạy cảm của dự án. Cơ sở của phương pháp này là dự kiến một số tình huống bất trắc có thể xảy ra trong tương lai đối với dự án, như vượt chi phí đầu tư, sản lượng đạt thấp, giá các chi phí đầu vào tăng và giá tiêu thụ sản phẩm giảm, có thay đổi về chính sách thuế theo hướng bất lợi... Khảo sát tác động của những yếu tố đó đến hiệu quả đầu tư và khả năng hoà vốn của dự án. Mức độ sai lệch so với dự kiến của các bất trắc thường chọn từ 10% đến 20% và nên chọn các yếu tố tiêu biểu dễ xảy ra gây tác động xấu đến hiệu quả của dự án để xem xét. Nếu dự án vẫn tỏ ra có hiệu quả kể cả trong trường hợp có nhiều bất trắc phát sinh đồng thời thì đó là những dự án vững chắc có độ an toàn cao. Trong trường hợp ngược lại, cần phải xem lại khả năng phát sinh bất trắc để đề suất các biện pháp hữu hiệu để khắc phục hay hạn chế. Dùng phương pháp này sẽ có hiệu quả cao hơn mức bình thường nhưng sẽ gặp không ít rủi ro và các điều kiện khách quan khác. 2.7-/ Các nội dung cần xem xét khi thẩm định dự án. Một dự án đầu tư có thể xem xét theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng chủ yếu được xem xét ở bốn nội dung chính. a. Phân tích tài chính: Các dự án được đánh giá trên cơ sở giá cả tài chính như thực có trên thị trường. b. Phân tích kinh tế: Các dự án được xem xét trên cơ sở sử dụng các giá cả đã được điều chỉnh trong điều kiện biến dạng của thị trường để chúng phản ánh chi phí tài nguyên hay lợi ích kinh tế thực sự đối với một quốc gia. c. Phân tích phân phối: Các d._.ự án được nhìn nhận trên quan điểm phân phối lợi ích kinh tế cho các đối tượng chịu tác động trực tiếp hay gián tiếp của dự án này. d. Phân tích xã hội: Phân tích ảnh hưởng của các sản phẩm do dự án tạo ra đến xã hội trên quan điểm các chuẩn mực mà xã hội qui định. Đồng thời cũng có các quan điểm xem xét khác như của tổ chức tập thể hay cá nhân, nhà nước hay chủ đầu tư, tổng vốn hay cổ phần. Việc đánh giá dự án theo các quan điểm khác nhau là rất quan trọng bởi vì trong nhiều trường hợp không có sự đồng nhất về lợi ích và chi phí giữa các quan điểm đối với một dự án. Vì vậy, phân tích, đánh giá dự án từ nhiều quan điểm khác nhau cho phép nhìn nhận một cách toàn diện và có các quyết định đúng đắn trong việc tham gia thực hiện dự án. Tuy nhiên đứng trên góc độ là một ngân hàng thương mại thì công tác thẩm định chủ yếu là xem xét về phương diện tài chính của dự án. Khi xem xét về phương diện này sẽ xác định được mối tương quan giữa thu nhập và chi phí khả năng chi trả và thanh toán các khoản nợ cũng như sự tăng trưởng về tài chính từ các hoạt động của dự án. III-/ Nội dung thẩm định phương diện tài chín các dự án đầu tư. 1-/ Xác định các yếu tố cơ sở để phân tích đánh giá dự án đầu tư. 1.1-/ Lập kế hoạch đầu tư. Trên cơ sở các giải pháp kỹ thuật,tổ chức, các kết quả nghiên cứu thị trường... tiến hành lập kế hoạch đầu tư là danh mục các khoản chi phí când thiết cho việc thực hiện dự án khi bắt đầu đi vào hoạt động. Các khoản chi tiêu trong kế hoạch đầu tư cần được chi tiết hoá phù hợp với yêu cầu phân tích và đánh giá tài chính của dự án. Kế hoạch đầu tư là cơ sở cho việc triển khai trên thực tế đồng thời là điều kiện đảm bảo hiệu quả của dự án. Kế hoạch đầu tư thay đổi sẽ dẫn tới sự thay đổi các chỉ tiêu tài chính mà trước hết là các khoản chi phí tài chính của dự án. 1.2-/ Lập kế hoạch hoạt động. Kế hoạch hoạt động của dự án phản ánh một số nội dung sau; * Mức huy động công suất (năng lực phục vụ hàng năm). Mức huy động công suất phụ thuộc vào cá yếu tố: - Đặc điểm công nghệ, thiết bị (các yếu tố về kỹ thuật) - Tình hình tổ chức, quản lý vận hành. - Thị trường, nhu cầu phục vụ; đặc điểm về thời vụ. Nói chung mức huy động công suất tăng dần và có thể đạt được sự ổn định sau một thời gian nhất định. * Kế hoạch sản xuất, khai thác, cung ứng dịch vụ: Sản lượng số lượng, chủng loại sản phẩm, dịch vụ tại mỗi thời điểm hoạt động. Tuỳ thuộc vào tình hình nhu cầu, thị trường, điều kiện tiêu thụ quyết định kế hoạch sản xuất, khai thác cụ thể. * Kế hoạch phân phối, tiêu thụ sản phẩm. Kế hoạch này cần được xác định rõ các yếu tố sau: lượng tiêu thụ, nơi và thời gian tiêu thụ cũng như mức giá cả tương ứng. Đặc biệt cần xác định mức tồn kho cần thiết (bảo hiểm, dự trữ chiến lược) đối với từng loại sản phẩm. Kế hoạch sản xuất, tiêu thụ sản phẩm có liên quan mật thiết với việc xác định nhu cầu vốn lưu động và các kế hoạch khác như vận tải, cung ứng vật tư, vật liệu,... 1.3-/ Kế hoạch khấu hao và xử lý các khoản thu hồi. Về nguyên tắc, mọi khoản chi phí đầu tư cho dự án cần được thu hồi để hoàn vốn. Tuy nhiên, mỗi khoản chi phí có cách thức thu hồi riêng. Các chi phí tạo ra tài sản cố định của dự án được thu hồi dưới hình thức khấu hao, tức là khoản tiền khấu trừ hàng năm theo mức độ sử dụng (hao mòn) của tài sản. Khâu hao trong kế toán được xem như một khoản chi phí cho các tài sản đã tạo ra trước đây bằng các khoản đầu tư vì vậy trên thực tế nó còn mang ý nghĩa như một khoản thu trong nội bộ dự án để bù đắp cho các chi phí trước đây đã bỏ ra. Vì vậy khấu hao không được coi là một khoản của dòng tiền ra. Tuy nhiên khấu hao là một khoản chi xác định thu nhập của dự án. Các khoản thuế thu nhập được tính trên thu nhập sau khi đã trừ đi khấu hao. Trong phân tích đánh giá tài chính dự án thường chia tài sản khấu hao thành các loại sau: - Nhà xưởng, vật kiến trúc. - Máy móc thiết bị (trong đó tách biệt từng nhóm riêng như: thiết bị công nghệ, thiết bị phụ trợ, thiết bị vận tải và các thiết bị khác). Khấu hao là một tác nghiệp tài chính nhậy cảm và có ảnh hưởng nhiều đến tình trạng tài chính của dự án. Trong trường hợp sử dụng vốn vay thì khấu hao là nguồn chủ yếu để trả nợ, vì vậy việc khấu hao nhanh hay chậm (tỷ lệ khấu hao cao hay thấp) có ảnh hưởng quyết định đến tình trạng tài chính nói chung và khả năng trả nựo của dự án. 1.4-/ Vốn lưu động của dự án. Vốn lưu động của dự án là khoản tiền cần thiết hàng năm để chi phí thường xuyên đẩm bảo cho hoạt động kinh doanh của dự án được thuận lợi. Vốn lưu động bao gồm các khoản chủ yếu sau: tiền mặt, hàng tồn kho (kể cả dự tữ sản xuất dở dang cũng như thành phẩm), chênh lệch giữa khoản phải thu và khoản phải trả. a. Tiền mặt: Nhu cầu tiền mặt có thể tăng lên hay giảm xuống tuỳ thuộc vào tình hình phát sinh thực tế trong quá trình hoạt động (trả nợ giao dịch thanh toán ...). Sự thay đổi nhu cầu tiền mặt có thể xảy ra ngay cả khi các khoản doanh thu, khoản mua tài khoản thu, tài khoản nợ không có sự thay đổi. Nhu cầu tiền mặt phụ thuộc vào các khoản chi phí thường xuyên (chi phí vận hành). Qua đó sẽ xác định được sự biến đổi của dòng tiền. b. Hàng tồn kho: Bao gồm toàn bộ lượng nguyên vật liệu bán thành phẩm và thành phẩm trong kho. Sự thay đổi lượng này dẫn tới các chi phí tương ứng sẽ có sự thay đổi và do đó làm thay đổi tài khoản thu hoặc tài khoản nợ trong bảng báo cáo tài chính của dự án. 1.5-/ Kế hoạch trả nợ. Song song với các kế hoạch trên thì kế hoạch trả nợ của các dự án cũng khá được coi trọng. Nó khá nhậy cảm với tình trạng tài chính của dự án, đặc biệt là khả năng cân đối nợ. Kế hoạch này được xây dựng trên cơ sở kế hoạch vay nợ và các điều kiện tài trợ của từng nguồn vay. Tuy nhiên, trong giai đoạn lập dự án nhiều điều kiện vay, trả cụ thể chưa được khẳng định mà chủ yếu dựa vào các điều kiện thông lệ của những nguồn dự định vay. Vì vậy kế hoạch trả nợ thường là những dự tính mang tính chủ quan. Ngược lại, kế hoạch trả nợ cũng cho thấy điều kiện tài chính cần phải đảm bảo để dự án khả thi. Những dự tính trước trong kế hoạch trả nợ cho phép chủ đầu tư xem xét các nguồn tài trợ thích hợp hoặc điều kiện cần phải đạt được khi đàm phán hợp đồng vay cụ thể nhà tài trợ (ngân hàng, quỹ,...) áp dụng đối với khoản vay, trong đó bao gồm các yếu tố cơ bản sau: - Định kỳ thanh toán (thời gian án hạn, thời gian trả nợ, thời gian của một kỳ thanh toán). - Cách thức trả nợ gốc (thời gian án hạn, thời gian trả nợ, thời gian của một kỳ thanh toán). Như vậy thời gian trả nợ dài sẽ có lợi cho người vay vốn số kỳ trả nợ càng nhiều thì tổng số tiền trả lãi càng ít và nếu phương án trả nợ phù hợp với khả năng của nguồn trả nợ thỉ rất thuận lợi cho dự án. Sau khi xem xét các yếu tố cơ sở để phân tích đánh giá về mặt tài chính của dự án. Ta thấy rằng phân tích tài chính luôn là điểm trọng yếu nhất của quá trình thẩm định đánh giá dự án đầu tư, nó đề cập đến việc đánh giá tính khả thi của dự án từ góc độ hiệu quả tài chính. Tuy các khía cạnh khác trong quá trình thẩm định dự án là rất cần thiết nhưng phân tích tài chính luôn tìm ra những con số cụ thể cho phép ta có cái nhìn bao quát, tổng thể về hoạt động và kết quả của dự án trong tương lai. Đây là giai đoạn mà các nhà thẩm định phải xem xét công phu, kỹ lưỡng nhằm hạn chế những sai sót ít nhất. Sau đây ta đi xem xét từng nội dung chính cụ thể của quá trình thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư. 2-/ Thẩm tra việc tính toán xác định tổng vốn đầu tư và tiến độ bỏ vốn đầu tư và tiến độ bỏ vốn: Vốn đầu tư cho dự án về cơ bản được chia ra làm hai loại vốn cố định và vốn lưu động 2.1-/ Vốn cố định gồm có 3 bộ phận cơ bản: a. Vốn đầu tư xây lắp: Vốn đầu tư xây lắp thường được ước tính trên cơ sở khối lượng công tác xây lắp và đơn giá xây lắp tổng hợp (Suất vốn đầu tư). Nội dung kiểm tra tập trung vào việc xác định nhu cầu xây dựng hợp lý của dự án và mức độ hợp lý của suất vốn đầu tư được áp dụng so với kinh nghiệm đúc kết các dự án khác hoặc loại công tác xây lắp tương tự. b. Vốn đầu tư thiết bị: Căn cứ vào những danh mục thiết bị, kiểm tra giá mua và chi phí vận chuyển, bảo quản, chạy thử theo các quy định của Nhà nước căn cứ vào danh mục các thiết bị. Đối với loại thiết bị có kèm theo chuyển giao công nghệ: mua bí quyết kỹ thuật, đào tạo, tiền thuê chuyên gia lắp đặt vận hành. Cần phân biệt giữa chi phí đầu tư thiết bị bao gồm cả chi phí đầu tư thiết bị khác chi phí lắp đặt thiết bị các chi phí đầu tư chung của dự án phân bổ cho phần đầu tư thiết bị. Chỉ tiêu này có ý nghĩa: dùng để xác định đúng đắn mức vốn khấu hao thiết bị trong chi phí sản xuất. c. Vốn kiến thiết cơ bản khác: được biết như chi phí đền bù hoa màu, nhà cửa, đất đai, chi phí di chuyển các nghĩa trang để giải phóng mặt bằng, chi phí san lắp mặt bằng, xây dựng lán trại cho công nhân, chi phí khảo sát thiết kế... Các khoản mục chi phí này cần được tính toán, kiểm tra theo các qui định hiện hành của Nhà nước. Ngoài các yếu tố về vốn đầu tư nêu trên thực tế cần kiểm tra một số nội dung sau: - Chi phí thành lập: gồm các chi phí để mua sắm các vật dụng cần thiết không phải là các tài sản cố định và các chi phí để hoạt động ban đầu (đối với các dự án du lịch dịch vụ). Người ta thường thu hồi chi phí này thông qua việc khấu hao chi phí này trong một số năm hoạt động của dự án. - Chi phí trả lãi vay Ngân hàng trong thời gian thi công của các dự án đầu tư xây dựng mới và chủ dự án không có nguồn trang trải thường được tính luôn là chi phí đầu tư để khi dự án đầu tư đi vào sản xuất mới hoàn trả. 2.2-/ Vốn lưu động Đóng góp một vai trò lớn đối với sự thành công của dự án. Trước đây chưa được các chủ dự án quan tâm nhiều nên khi dự án đi vào hoạt động đã thiếu vốn nghiêm trọng. Việc xem xét vốn lưu động một cách thực tế, rõ ràng dựa trên phương án huy động vốn của chủ dự án sẽ góp phần không nhỏ vào tính khả thi của dự án. Trong thực tế, nhu cầu vốn lưu động ban đầu (đối với dự án xây dựng mới) hoặc nhu cầu vốn lưu động bổ sung (đối với dự án mở rộng bổ sung thiết bị) để dự án sau khi hoàn thành có thể hoạt động bình thường: Tùy thuộc vào đặc điểm về chu kỳ sản xuất kinh doanh và lưu thông sản phẩm, khả năng thực tế cung ứng vật tư, nguyên nhiên vật liệu cũng như nhu cầu về hàng tồn kho hợp lý... mà người ta xác định được nhu cầu vốn lưu động. Từ đó có phương án thích hợp. Việc xác định đúng đắn chính xác mức vốn đầu tư là rất quan trọng đối với dự án. Trong đó cần tránh hai khuynh hướng : - Tính toán quá cao để tranh thủ vốn, gây lãng phí, ứ đọng vốn và giảm hiệu quả đầu tư. - Tính quá thấp để tăng hiệu quả vốn đầu tư một cách giả tạo dẫn đến quyết định đầu tư sai lệch. Bên cạnh đó, tiến độ bỏ vốn cùng cầu kiểm tra, đặc biệt đối với các công trình có thời gian xây dựng dài. Riêng đối với công trình đầu tư bằng phương thức tín dụng sẽ được phân bổ vốn theo từng quý để tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều hành vốn của Ngân hàng. Tiến độ bỏ vốn sẽ được xác định sao cho phù hợp với tiến độ thực hiện dự án. 3-/ Kiểm tra về cơ cấu vốn và nguồn vốn: Việc kiểm tra về cơ cấu vốn và nguồn vốn là việc xem xét rà soát lại vốn đầu tư cho dự án từ đó căn cứ vào các điều kiện cụ thể và tình hình kinh tế xã hội mà tăng lên hoặc giảm bớt đi quy mô của dự án. Về cơ cấu vốn, người ta thương chia làm hai cách: - Cách 1: Như trên đã trình bày, vốn đầu tư cố định chia làm ba loại: vốn xây lắp, vốn thiết bị và vốn kiến thiết cơ bản khác. Thông thường được coi là hợp lý nếu tỷ lệ đầu tư cho thiết bị cao hơn tỷ lệ vốn xây lắp. Riêng đối với các dự án chiều sâu phải đạt là 60%. Tuy nhiên, đây không phải là một đòi hỏi cứng nhẵc, cần phải hết sức linh hoạt theo tính chất và điều kiện cụ thể của dự án. - Cách 2: Vốn đầu tư được chia thành hai loại Nội tệ và Ngoại tệ. Những dự án có sử dụng ngoại tệ phải xác định những dự án có sử dụng ngoại tệ phải xác định những chi phí đầu tư và chi phí sản xuất bằng ngoại tệ để làm căn cứ quy đổi tính toán hiệu quả của dự án. Mặt khác việc phân định rõ các loại chi phí bằng ngoại tệ còn giúp xác định được nguồn vốn ngoại tệ thích hợp đáp ứng nhu cầu của dự án. Phân tích cơ cấu nguồn vốn và khả năng nguồn vốn. - Kiểm tra cơ cấu nguồn vốn nhằm xác định rõ mức đầu tư từng nguồn vốn là để có cơ sở tìm hiểu khả năng hiện thực của từng nguồn vốn, đồng thời cũng lấy đó làm căn cứ để xác định mức thuyết phục của dự án. - Một dự án có tính thuyết phục cao là chủ dự án chỉ phải huy động vốn từ bên ngoài không vượt quá 50% tổng số vốn cần thiết cho dự án. Nguồn vốn đầu tư cho dự án thường được hình thành từ các nguồn sau: - Vốn tự có của doanh nghiệp: Cần kiểm tra tình hình tài chính và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để xác định số vốn tự có của doanh nghiệp có thể dành để đầu tư cho dự án hiện tại cũng như trong thời gian thực hiện dự án sau khi đã trích ra để trang trải các hoạt động tài chính khác. Thông thường người ta căn cứ vào báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong hai năm gần nhất để có thông tin chính xác. - Vốn tự cấp của ngân sách: Bao gồm các dự án được nhà nước trợ cấp một phần vốn ngân sách. - Vốn vay ngân hàng và các tổ chức tài chính khác. - Vốn vay nước ngoài: cần quan tâm xem xét kỹ các điều kiện cho vay, lãi suất vay, chi phí vay vốn, thời gian cho vay và thời gian gia hạn, phương thức và kỹ thuật chuyển giao hoàn trả vốn và lãi vay,... có phù hợp với các điều kiện pháp lý - kinh tế của dự án hay không. Bên cạnh đó cần xem xét kỹ các cam kết và khả năng thực hiện các cam kết đó. - Vốn cổ phần, vốn liên doanh: kiểm tra kỹ các cam kết bỏ vốn của các bên tham gia vào dự án, tiến độ bỏ vốn có theo đúng các cam kết hay không. Sau khi tiến hành kiểm tra về tính thực tiễn các nguồn vốn phải xác định được tương đối chính xác lịch trình rót vốn từ các nguồn vốn khác để từ đó xác định được thời gian bỏ vốn của ngân hàng. 4-/ Kiểm tra việc tính toán giá trị và chi phí sản xuất. Phần tính toán này chủ yếu là ước tính dựa trên cơ sở thực tế của người lập dự án. Vì vậy khi xem xét người thẩm định cần phải có kinh nghiệm, các kỹ năng về nghề nghiệp và những căn cứ thực tế. Chi phí sản xuất của dự án bao gồm: - Chi phí vật chất bao gồm nguyên vật liệu (chính và phụ), nhiên liệu, năng lượng, phụ tùng bảo dưỡng, sửa chữa thiết bị,... - Chi phí nhân công gồm lương, phụ cấp Bảo hiểm xã hội trợ cấp và các khoản thu nhập khác của công nhân trực tiếp sản xuất. - Chi phí quản lý gồm toàn bộ các chi phí cho bộ phận quản lý doanh nghiệp. - Chi phí sử dụng vốn gồm các khoản tiền lãi vay. - Chi phí khấu hao tài sản cố định. Ngoài ra còn có các chi phí ngoài sản xuất như chi phí cho quảng cáo, lưu thông sản phẩm các khoản thiệt hại trong sản xuất kinh doanh và các chi phí khác. Để kiểm tra việc tính toán giá thành sản phẩm phải căn cứ vào bảng tính giá thành đơn vị sản phẩm. Cán bộ thẩm định sẽ đi sâu kiểm tra các vấn đề: - Tính đầy đủ của các yếu tố chi phí giá thành sản phẩm. Đối với các yếu tố giá thành quan trọng cần xem xét sự hợp lý của các định mức sản xuất, tiêu hao, đơn giá,... có so sánh các định mức và các kinh nghiệm từ các dự án đang hoạt động. - Kiểm tra cách tính và tỷ lệ khấu hao khấu hao và phân bổ khấu hao từ giá trị đầu tư vào trong giá thành sản phẩm phù hợp với các quy định và hướng dẫn của Nhà nước. - Kiểm tra chi phí nhân công trên cơ sở số lượng công nhân cần thiết cho một đơn vị sản phẩm, số lượng công nhân vận hành dự án và lương của mỗi người cho một đơn vị sản phẩm. - Kiểm tra việc tính toán, phân bổ chi phí về lãi vay ngân hàng vào giá thành sản phẩm, kể cả lãi vay ngắn hạn và dài hạn. - Đối với các loại thuế của Nhà nước được phân bổ vào giá bán sản phẩm tùy loại hình sản xuất mà có sự phân tích, tính toán. 5-/ Tính toán doanh thu và lợi nhuận của dự án: Doanh thu của dự án được xác định trên cơ sở tổng khối lượng sản phẩm dự kiến đưa vào lưu thông và giá bán một đơn vị sản phẩm. Nói cách khác, doanh thu của dự án chính là tổng giá trị của hàng hóa và dịch vụ tiêu thụ được trong theo dự kiến. - Lợi nhuận trước thuế của dự án: là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí sản xuất của các sản phẩm dịch vụ tiêu thụ. - Lợi nhuận sau thuế: là chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế sau khi đã trừ đi phần đóng thuế lợi tức theo tỷ lệ quy định. - Lợi nhuận dành để trả nợ: là phần lợi nhuận sau thuế được trích ra dành để trả nợ. Đối với những dự án mới đưa vào hoạt động, thời gian đầu công suất còn thấp hơn so với công suất thiết kế. Sau đó công suất mới được nâng dần lên. Vì vậy doanh thu của dự án những năm đầu còn thấp (có thể hòa hoặc lỗ). Trong trường hợp đặc biệt nếu dự án đầu tư chỉ là một công đoạn bổ sung cho quy định sản xuất chung của một xí nghiệp đang hoạt động rong đó sản phẩm của dự án chỉ là sản phẩm trung gian, không phải là sản phẩm cuối cùng thì mức doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp trước và sau khi đầu tư. Vì thế cần xem xét các yếu tố mà dự án tác động như: tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, nâng cao năng suất lao động tận dụng được thiết bị sẵn có,... để từ đó đánh giá đúng mức doanh thu và lợi nhuận tăng thêm được tạo ra từ dự án. 6-/ Kinh tế, thẩm định các chỉ tiêu và hiệu quả đầu tư: 6.1-/ Dùng phương pháp tài chính giản đơn: Theo phương pháp này đòi hỏi tính toán các chỉ tiêu và giả sử không tính đến thời gian của tiền: * Lợi nhuận ròng: là tổng lợi nhuận thu được trong thời gian hoạt động của dự án. Lợi nhuận ròng được tính bằng công thức: LN = SD - SC - ST Trong đó: SD: là tổng doanh thu của dự án. SC: là tổng chi phí của dự án. ST: là tổng thuế dự kiến phải nộp. Khi tính toán nếu LN > 0 kết luận dự án có lãi và ngược lại L N < 0 dự án lỗ. Tuy nhiên không tính đến yếu tố thời gian của tiền tệ cho nên chỉ tiều này không có tính chính xác cao thường áp dụng cho những dự án nhỏ, thời gian hoạt động ngắn và đồng tiền thanh toán ổn định. * Thời gian thu hồi vốn đầu tư được tính bằng công thức: T = Trong đó: T: là thời gian thu hồi vốn của dự án. SV: là tổng vốn đầu tư. LN: là lợi nhuận ròng trước thuế hàng năm của dự án. KH: là khấu hao hàng năm của dự án. * Tỷ số trả nợ của dự án (TSTN): chỉ tiêu này cho biết khả năng tạo vốn bằng tiền của dự án với nghĩa vụ hoàn trả vốn vay. TSTN = Dự án được coi là có khả năng trả nợ vững chắc khi TSTN ³ 1,5. * Tỷ suất lợi nhuận giản đơn (TSLNGĐ) TSLNGĐ = Dự án có hiệu quả khi TSLNGĐ > lãi xuất vay ngân hàng * Thời gian trả nợ của dự án (TTN) TTN = Nếu dự án không có nguồn trả lãi vay hàng năm, phần tử số của công thức trên được cộng thêm lãi suất vay phát sinh theo diễn biến của dự án. Ngoài ra trong trường hợp doanh nghiệp có khả năng tài chính vững vàng, có nhiều nguồn tích luỹ khác dùng để tham gia trả nợ cho dự án thì mẫu số được công thêm phần vốn này. * Khả năng sinh lời và mức độ an toàn của dự án thường được diễn đạt bằng phương pháp phân tích điểm hoà vốn. Cụ thể bằng các chỉ tiêu sản lượng hoà vốn và doanh thu hoà vốn. Điểm hoà vốn được tính cho một năm và thường ở năm đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định. Việc phân tích điển hòa vốn là phân tích mối quan hệ hữu cơ giữa chi phí bất biến, chi phí khả biến và lợi nhuận sẽ đạt được nhằm mục đích lập ra lợi nhuận thu được trên cơ sở thiết lập mối quan hệ giữa chi phí và thu nhập, luôn đảm bảo doanh thu cao hơn chi phí đã bỏ ra, khi thẩm định dự án người ta thường xác định điểm hoà vốn như sau: + Điểm hoà vốn lý thuyết (ĐLT) ĐLT = Trong đó: Đ: là chi phí cố định (chi phí bất biến). D: là doanh thu B: Biến phí (chi phí khả biến) - Sản lượng hoà vốn lý thuyết (SLHVLT): SLHVLT = Trong đó: p: giá bán một đơn vị sản phẩm b: Biến phí cho một đơn vị sản phẩm. - Doanh thu hoà vốn lý thuyết (DTHVLT): DTHVLT = - Điểm hoà vốn tiền tệ (ĐTT): Xác định mức doanh thu dự trù khả năng của dự án có tiền trả nợ vay . ĐTT = Trong đó: KH là khấu hao cơ bản hàng năm - Điểm hoà vốn trả nợ (ĐTN): Xác định mức sản lượng, doanh thu có thể trả nợ và đóng thuế. ĐTN = Trong đó: TLT là thuế lợi tức. Điểm hoà vốn càng thấp thì khả năng thu lợi nhuận của dự án càng cao, rủi do về thua lỗ càng thấp. Như vậy, việc phân tích điểm hoà vốn trên thường chỉ phù hợp với các dự án nhỏ. Còn đối với các dự án lớn, đầu tư theo chiều sâu thì không đảm bảo độ chính xác cao. 6.2-/ Dùng phương pháp giá trị hiện tại. Phương pháp này về nguyên tắc có tính đến yếu tố thời gian của tiền tệ. Do đó toàn bộ thu nhập và chi phí của dự án trong suốt đời hoạt động được quy đổi thành một giá trị tương đương ở hiện tại. Xét các chỉ tiêu cụ thể sau: a. Lãi kép và giá trị kép. Lãi kép là lãi sinh sôi qua các năm và lãi thu được ở năm trước gộp vào vốn để làm cơ sở tính lãi cho năm tiếp theo. Để tính giá trị lãi kép năm thứ n ta dùng công thức: Tn = V (1+r)n Trong đó: Tn: là giá trị lãi kép năm thứ n. V: Tổng vốn đầu tư hàng năm. r: là lãi suất/ năm. n: là số năm dự án đã hoạt động. Dùng chỉ tiêu này trong thẩm định dự án đầu tư có ý nghĩa rất lớn bởi đó chính là cái mốc đánh giá hiệu quả tối thiểu mà dự án phải đạt được khi bỏ vốn đầu tư. b. Giá trị hiện tại thuần. (NPV: Net present Value) NPV là tổng lãi ròng của đời dự án qui về thời điểm bắt đầu đầu tư. Nó được tính hiệu số giữa giá trị hiện tại của dòng lợi ích và giá trị hiện tại ròng chi phí đã được chiết khấu với một lãi suất thích hợp (tức là tất cả các luồng tiền mặt hàng năm được chiết khấu về năm 0- năm bắt đầu xây dựng) theo tỷ suất chiết khẫu đã được chọn trước. Mục đích của việc tính giá trị hiện tại thuần của dự án là để xác định xem việc sử dụng các nguồn lực (vốn) theo dự án đó có mang lại lợi ích lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng không? với ý nghĩa này NPV được xem là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá dự án. NPV được xác định theo công thức sau: NPV = Trong đó: Bt - Thu nhập của dự án năm t. Ct - Chi phí của dự án năm t. n - Thời gian phân tích dự án. r - Suất chiết khấu áp dụng cho dự án. Lợi ích là tổng lợi ích hay thu nhập của một dự án đầu tư gồm toàn bộ doanh thu từ việc bán sản phẩm và dịch vụ của dự án cùng với các khoản phụ cấp nhận được. ngoài ra trong năm cuối cùng dự án như máy móc, thiết bị, các công trình xây dựng, đất đai... vẫn còn có thể tiếp tục sử dụng hay đem bán tức là chúng vẫn có một giá trị nào đó sau khi dự án đã chấm dứt. Phần giá trị đó được tính như một khoản thu nhập vào năm cuối cùng của dự án. Chi phí là các khoản chi phí của dự án thông thường gồm có: chi phí đầu tư ban đầu, chi phí hoạt động và bảo dưỡng đầu tư thay thế và các chi phí sản xuất. Lợi ích thuần được xác định bằng cách lấy toàn bộ thu nhập trừ đi các khoản chi phí. Đánh giá dự án theo chỉ tiêu này cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây: - Chỉ chấp nhận các dự án có NPV > 0 với suất chiết khấu bằng chi phí cơ hội của vốn. - Trong giới hạn ngân sách, trong số các dự án có thể chấp nhận được chọn những dự án cho tổng NPV max. - Nếu các dự án loại trừ lẫn nhau (thực hiện dự án này sẽ không thực hiện dự án khác) thì cần phải dự án có NPV max. Tuy nhiên chỉ tiêu NPV chỉ xác định lợi nhuận thực của dự án mà chưa cho biết tỷ lệ và giá trị tuyệt đối đó trên tổnh vốn đầu tư cần phải bỏ ra để đạt được chúng. Người ta xác định thêm một chỉ tiêu vừa gọi là tỷ lệ giá trị tại ròng NPVR NPVR = Trong đó: SV là tổng vốn đầu tư của dự án qui về thời điểm bắt đầu đầu tư. Tỷ lệ này cho biết một đồng vốn đầu tư bỏ ra sẽ đem lại bao nhiêu đồng giá trị hiện tại khi thực hiện dự án. c. Chỉ tiêu hệ số hoàn vốn nội bộ IRR (Internal Rate of Return) Hệ số hoàn vốn nội bộ (tỷ suất dinh lợi nội bộ hay tỷ suất doanh lợi nội bộ) là suất chiết khấu mà với suất này giá trị hiện tại ròng của dự án bằng 0, được tính từ hệ thức sau: NPV = Sử dụng IRR có ưu điểm là có được tính toán chỉ dựa vào các số liệu của dự án mà không cần số liệu về chi phí cơ hội của vốn (suất chiết khấu). Tuy nhiên, tiêu chuẩn này có một số nhược điểm sau: * Không xác định được một xuất sinh lợi nội bộ trong trường hợp biến dạng của đồng tiền thay đổi và thay đổi nhiều lần từ (-) sang (+) hoặc từ (+) sang (-) vì có rất nhiều lời giải khi tính toán IRR. Được minh hoạ như sau: Bt -Ct * Sử dụng tiêu chuẩn IRR để lựa chọn dự án sẽ dẫn tới sai lầm khi các dự án là những giải pháp thay thế nhưng có những điều kiện khác nhau như các dự án có quy mô khác nhau, có thời gian tồn tại khác nhau, có thời gian đầu tư khác nhau. Có rất nhiều cách tính IRR. Trên thực tế người ta dùng phương pháp nội suy để tính dựa vào công thức tính NPV: IRR = r1 + Cách xác định trên được dựa trên cơ sở công thức hình học sau: NPV ` NPV1 0 r1 IRR r2 NPV2 Trong đó: r1: là lãi xuất ứng với NPVr1 >0 r2: là lãi xuất ứng với NPVr2 <0 và r2 - r1 < hoặc = 5% Ta thấy rằng IRR còn gặp rất nhiều khó khăn trong tính toán vì vậy sẽ có nhiều nhược điểm khi ta sử dụng nó để đánh giá dự án. d. Thẩm định về phương án trả nợ vay dài hạn của dự án. Dự án có vốn vay trung và dài hạn thì chủ đầu tư phải đưa ra kế hoạch trả nợ cho dự án như: Nguồn trả nợ cho dự án bao gồm khấu hao cơ bản, lợi nhuận dự án đem lại, các nguồn khác. Chủ đầu tư phải tính toán cụ thể từng nguồn và giải trình chi tiết trong hồ sơ vay vốn khi tính vay vốn. Công nợ phải trả của năm. Chủ đầu tư phải có kế hoạch trả gốc và lãi hàng năm dựa trên cơ sở báo cáo nghiên cứu khả thi và hợp đồng vay vốn cho dự án. Dựa vào đó mà các cán bộ thẩm định sẽ kiểm tra được độ an toàn vốn vay cho dự án nhằm có kế hoạch điều chỉnh đàm phán với chủ đầu tư. Chương II Thực trạng công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam I-/ Vài nét khái quát về ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 1-/ Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được thành lập ngày 01/04/1963 tại Hà Nội và là Ngân hàng đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ Cộng hào nay là nước Cộng hào xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trước năm 1993, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là trung tâm tín dụng quốc tế và thanh toán quốc tế của cả nước và được gao quản lý toàn bộ ngoại tệ của quốc gia, là một bộ phận của Ngân hàng Nhà nước làm công tác đối ngoại với tất cả các Ngân hàng nước ngoài, các tổ chức quốc tế có liên quan về tiền tệ mà không một tổ chức trong nước nào được phép làm. Trong giai đoạn đó Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình và có những đóng góp quan trọng trong quá trình đấu tranh, giải phóng đất nước. Khi tình hình viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa bị hạn chế mà thay vào đó là hiệp định vay nợ, Ngân hàng Ngoại thương đã được uỷ quyền của chính phủ ký các hiệp định vay nợ để giảm bớt khó khăn cho nền kinh tế đất nước. Chính vì thế, Ngân hàng Ngoại thương có một cơ sở rất vững vàng đó là đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm dầy dạn trong công tác đối ngoại, có uy tín tiếng tăm từ lâu trong nước và trên trường quốc tế. Sau năm 1993, từ khi có pháp lệnh về Ngân hàng (23/05/1993) chức năng quản lý của Ngân hàng và chức năng hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại được nhận định rõ ràng. Trên cơ sở đó Ngân hàng Ngoại thương đã thực sự trở thành một doanh nghiệp tự hạch toán kinh doanh độc lập, đổi mới trong nhiều lĩnh vực như: cơ cấu tổ chức, phương hướng hoạt động và chính sách kinh doanh, dần dần thích nghi với nền kinh tế thị trường và cách làm ăn mới. Hiện nay Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được biết đến như một Ngân hàng Thương mại Việt Nam có uy tín nhất. Được Nhà nước xếp hạng là một trong 23 doanh nghiệp đặc biệt được tạp chí Asiamoney - Tạp chí tiền tệ uy tín ở Châu á - bình chọn là Ngân hàng hạng nhất ở Việt Nam trong năm 1998 và là thành viên Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam. 2-/ Cơ cấu tổ chức hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 2.1-/ Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế chỉ có thể phát triển với tốc độ cao nếu có một hệ thống Ngân hàng vững mạnh. Không thể có nền kinh tế tăng trưởng trong khi hệ thống tổ chức và hoạt động Ngân hàng yếu kém. Nắm bắt được tầm quan trọng của hoạt động tổ chức, trong thời gian qua Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã triển khai mô hình tổ chức mới theo loại hình doanh nghiệp Nhà nước đặc biệt và sắp xếp lại tổ chức nội bộ, để thực hiện các đề án hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng. Bên cạnh đó Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam còn đề ra kế hoạch cụ thể về đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực điều hành của cán bộ quản lý, cán bộ kinh doanh và đội ngũ kỹ thuật viên ở trong và ngoài nước nhằm đáp ứng yêu cầu cao của công nghệ mới đang được áp dụng vào hoạt động tại Ngân hàng. Theo mô hình tổ chức mới Hội đồng quản trị Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thực hiện chức năng quản lý hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương chịu trách nhiệm về sự phát triển của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam theo nhiệm vụ Nhà nước giao, năm thành viên trong Hội đồng quản trị, một thành viên kiêm trưởng ban kiểm soát, một thành viên kiểm Tổng giám đốc và hai thành viên kiêm nhiệm. Tổng giám đốc là người điều hành hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, giúp việc cho Tổng giám đốc là các Phó Tổng giám đốc. Kế toán trưởng giúp cho Tổng giám đốc chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kế toán tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Bộ máy kiểm soát nội bộ giúp Tổng giám đốc kiểm soát hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và các đơn vị thành viên theo đúng quy định của pháp luật. Còn lại các phòng ban tại Trung ương có chức năng tham mưu giúp Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc trong việc quản lý, điều hành hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. 2.2-/ Hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong những năm qua. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường. Phát triển mạng lưới chi nhánh ở tất cả các thành phố chính, hải cảng quan trọng và trung tâm Thương mại phát triển duy trì quan hệ đại lý với hơn 1300 Ngân hàng tại 85 nước trên thế giới. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã được trang bị hệ thống máy tính hiện đại nhất trong ngành Ngân hàng, được nối mạng Swiff quốc tế và đặc biệt là có một đội ngũ luôn nhiệt tình và được đào tạo lành nghề. Nhờ vậy Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam có khả năng cung cấp cho khác._. vay nhiều tỉnh trong cả nước như : Hà Nội, Đã Nẵng, Cần Thơ, Quảng Ninh ... với các công trình đầu tư mở rộng mạng cáp trục chính, nhập cáp điện thoại, xây dựng mạng lưới nhắn tin xây lắp cáp sợi quang Hà Nội - Thành Phố Hồ Chí Minh, nhập các thiết bị tổng đài điện tư. Vốn vay trung hạn và dài hạn đó đã góp phần hiện đại hóc ngành bưu chính viễn thông Việt Nam. Tổng công ty đã có uy tín lớn đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. - Căn cứ theo đúng quy định hiện hành tại quyết định số 217 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và Thông tư liên bộ 01/TT Bộ Tài chính - Ngân hàng Nhà nước - Bộ Tư pháp, và quyết định số 07/NHNT (Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam) ngày 3/1/1998 của Tổng giám đốc Ngân hàng Ngoại thương về thế chấp, cầm cố tài sản bảo lãnh vay vốn Ngân hàng. b. Khả năng trả nợ của dự án Qua phân tích tỷ số trả nợ của dự án và kế hoạch trả nợ của chủ đầu tư. Các cán bộ thẩm định có nhận xét: - Dự án có khả năng trả nợ tốt - Dự án có khả năng trả nợ đùng kỳ hạn cam kết. Tuy nhiên để có thể bảo đảm khả năng trả nợ của dự án các cán bộ yêu cầu chủ đầu tư phải giải trình cụ thể kế hoạch vù đắp thiếu hụt, mức độ giao động của các số liệu tính toán trong báo cáo nghiên cứu khả thi tránh được những rủi ro bất khả khánh. III-/ Kết luận - đánh giá chung về dự án và công tác thẩm định 1-/ Kết luận chung về dự án Dự án: Mạng thông tin di động (GSM) toàn quốc (1998 - 2007) của Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam là một dự án xây dựng cơ sở hạ tầng - hệ thống thông tin với quy mô lớn. Dự án nhằm hiện đại hoá hệ thống thông tin, bằng loại hình mới đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đẩy nhanh tiến trình hội nhập với khu vực và thế giới. Dự án này mang lại việc làm cho gần 240 lao động ở ba miền Bắc - Trung - Nam, với mức lương ban đầu là 960.000 đ/người và tăng 10% mỗi năm phù hợp với các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của dự án. Qua tính toán thẩm định hiệu quả tài chính dự án này ta thấy rằng dự án có khả năng trả nợ cao, đùng thới hạn cam kết trong hợp đồng vay vốn tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Phòng dự án đề nghị Tổng giám đốc cùng ban lãnh đạo Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đồng ý cho Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam vay vốn khi đảm bảo các điều kiện sau : - Tổng công ty hoàn thiện hồ sơ pháp lý theo mẫu của Ngân hàng Ngoại thương. - Các phương thức đảm bảo tín dụng. - Hợp đồng uỷ thác nhập khẩu giữa Tổng công ty và các hãng cung cấp. 2-/ Đánh giá nhận xét về công tác thẩm định ở Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNTVN). Sau khi nghiên cứu, xem xét về công tác thẩm định tại phòng dự án NHNTVN ta thấy rằng : Nhìn chung phương pháp thẩm định hiệu quả tài chính các dự án đầu tư của NHNTVN (về cách tiếp cận, về hệ thống chỉ tiêu sử dụng, về phương pháp thẩm định, đàm phán ...) là phù hợp với điều kiện Việt Nam hiện nay và có nhiều điểm giống với các chỉ tiêu sử dụng khi thành lập và thẩm định hiệu quả dự án đầu tư trên Thế giới. Kết quả thẩm định đối với mỗi dự án xin vay vốn có ý nghĩa quyết định kế hoạch cho vay vốn cụ thể. Nó là bức tranh tổng thể về tình hình hoạt động của dự án sau này. Để đánh giá tính khả thi của dự án về mặt tài chính NHNTVN thường xem xét, kiểm tra tính toán ở các khâu và chỉ tiêu sau : Xác định vốn đầu tư và tiến độ bỏ vốn. Nguồn vốn đầu tư cho dự án Xác định các khoản chi phí Xác định doanh thu Xác định lợi nhuận Xác định nguồn trả nợ Điểm hoà vốn Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận giản đơn Chỉ tiêu tỷ số trả nợ của dự án. Kế hoạch trả nợ Điều kiện an toàn vốn vay và phân tích rủi ro cho dự án. Trong những năm qua công tác thẩm định đã góp phần không nhỏ vào việc giảm nợ quá hạn trong tổng dư nợ ở NHNTVN. Phần lớn các dự án mà NHNTVN đã thẩm định và cho vay vốn đều phát huy hiệu quả và ít xẩy ra rủi ro đối với chủ đầu tư. Bên cạnh những mặt mạnh trong công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư tại NHNTVN vẫn cón một vài hạn chế cần nghiên cứu khắc phục để công tác này ngày càng hoàn thiện hơn. Chưa đưa các chỉ tiêu NPV, IRR vào phân tích đánh giá hiệu quả tài chính dự án đầu tư. Hệ thống các chỉ tiêu tính toán chủ yếu dựa trên báo cáo nghiên cứu khả thi của chủ dự án. Chưa có kế hoạch sử lý thông tin và tư vấn đầu tư. Những tồn tại này, đòi hỏi NHNTVN cần nghiên cứu khắc phục để công tác thẩm định tại Ngân hàng ngày càng hoàn thiện hơn, góp phần không nhỏ vào công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Chương III Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chất lượng công tác thẩm định khía cạnh tài chính các dự án đầu tư tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam I-/ Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng công tác thẩm định của Ngân hàng trong đầu tư Những năm qua công tác thẩm định đã góp phần không nhỏ vào hoạt động đầu tư của nền kinh tế nói chung và các Ngân hàng nói riêng. Tuy nhiên vẫn còn những tồn tại chưa đáp ứng được yêu cầu của kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Vì vậy, nâng cao chất lượng công tác thẩm định là một yêu cầu cần thiết nhằm đáp ứng được những đòi hỏi của nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 1-/ Với vị trí là một ngân hàng thương mại quốc doanh Theo pháp lệnh Ngân hàng ra ngày 23/05/1993 “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Nhận thức được rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế. Đòi hỏi phải sử dụng các nguồn lực hạn chế một cách phù hợp theo các mục tiêu kinh tế xã hội và Đảng và Nhà nước đề ra. Các kế hoạch đầu tư cùng các dự án được đưa vào nhằm sắp xếp các nguồn lực theo các mục tiêu đã định. Để xác định được các nguồn lực này có được sử dụng một cách hợp lý mang lại hiệu quả như đã định không, thì chỉ có thông qua công tác thẩm định dự án. Đặc biệt là quá trình thẩm định để đưa đến quyết định đầu tư hay sửa đổi quyết định hoặc hoàn toàn bác bỏ là một khâu rất quan trọng trong chu kỳ của dự án. Do đó công tác thẩm định thực sự trở thành hữu ích phục vụ đắc lực các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước thì việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định trong ngân hàng luôn là vấn đề hết sức cần thiết. 2-/ Đảm bảo chất lượng công tác thẩm định nhằm đảm bảo an toàn vốn vay và nâng cao hiệu quả đầu tư Đất nước ta qua hơn 10 năm đổi mới đã có tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối nhanh chóng và mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ nay đến năm 2003 là 9,5%. Với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước đòi hỏi cần phải có một khối lượng đầu tư và nguồn vốn lớn để đáp ứng yêu cầu đặt ra. Nhưng để nguồn vốn đó thực sự có hiệu quả thì công tác thẩm định dự án trong đầu tư phải là bước đi tiên phong. Đặc biệt đối với các dự án đầu tư phát triển, đầu tư mở rộng theo chiều sâu bằng vốn vay trung và dài hạn tại ngân hàng phải chịu nhiều áp lực cho nền kinh tế như: giá cả, lạm phát, lãi suất, ... Do vậy, phải được xem xét kỹ, tính toán cụ thể có nghĩa là phải nâng cao chất lượng công tác thẩm định của ngân hàng góp phần hạn chế, phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Từ đó các doanh nghiệp cũng xác định được các cơ hội đầu tư của mình là có hiệu quả hay không hiệu quả để tìm một giải pháp kinh doanh phù hợp. 3-/ Quan điểm mới về thẩm định hiệu quả tài chính các dự án đầu tư tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam Từ sau khi có pháp lệnh Ngân hàng (1993), phân định rõ chức năng nhiệm vụ của ngân hàng thương mại, đã có nhiều văn bản pháp quy về quy chế cho vay đối với các tổ chức tín dụng. Trên cơ sở đó ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã xây dựng cho mình chiến lược hoạt động kinh doanh và mở rộng ở tất cả các thành phần kinh tế. Để đảm bảo an toàn về vốn ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã chú trọng đến công tác thẩm định hiệu quả tài chính các dự án xin vay vốn. Nhất là các dự án vay vốn trung và dài hạn để đầu tư cho sản xuất, mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng, ... đều phải qua khâu thẩm định về hồ sơ pháp lý và mặt tài chính của dự án. Các cán bộ thẩm định sau khi xem xét giải trình báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án sẽ đưa ra những ưu, nhược điểm cụ thể và các tính toán về mặt tài chính của dự án lấy cơ sở đó làm kết luận chung cho dự án. Đối với các dự án khả thi sẽ được trình xin ý kiến của Tổng giám đốc để quyết định cho vay. Đối với các dự án không khả thi về mặt tài chính, các cán bộ thẩm định sẽ tiến hành xem xét lại và đàm phán với chủ đầu tư, khuyên họ nên tìm một cơ hội đầu tư khác. Một phong cách phục vụ nhiệt tình cùng với nghiệp vụ vững vàng là ưu điểm số 1 của cán bộ thẩm định Ngân hàng ngoại thương Việt Nam . Nó đã góp phần không nhỏ vào việc hoàn thiện công tác thẩm định hiệu quả tài chính các dự án đầu tư. II-/ Một số biện pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chất lượng công tác thẩm định KHíA CạNH tài chính dự án đầu tư. Trong những năm qua, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã có những cố gắng và đổi mới không ngừng nhằm hoàn thiện công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư. Song qua phần nghiên cứu thực tế tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam tôi xin đề xuất một số biện pháp nhằm hoàn thiện chất lượng công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư như sau: 1-/ Tạo lập được những căn cứ và đưa ra các chỉ tiêu giá trị hiện tại thuần (NPV), hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR), phương pháp phân tích độ nhậy trong công tác thẩm định khía cạnh tài chính dự án đầu tư. 1.1-/ Chỉ tiêu giá trị hiện tại thuần (NPV) Hiện nay trong công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng ngoại thương Việt Nam chưa tính toán đến giá trị hiện tại thuần (NPV). Vậy giá trị hiện tại thuần có ý nghĩa như thế nào trong thẩm định dự án đầu tư và có nên đưa vào công tác thẩm định tài chính dự án hay không? Theo các nhà kinh tế thì giá trị hiện tại thuần được tính toán như sau: NPV = Trong đó: NPV: giá trị hiện tại thuần của dự án Bt: Lợi ích trong năm t Ct: chi phí trong năm t r: lãi suất n: Tuổi thọ của dự án (đời của dự án) Giá trị hiện tại thuần (NPV) có hai tiêu chuẩn sau: Với NPV > 0 các dự án được chấp nhận khi được chiết khấu ở lãi suất thích hợp. Lúc đó tổng lợi ích được chiết khấu lớn hơn tổng chi phí được chiết khấu và dự án có khả năng sinh lợi. Với NPV < 0 các dự án phải được xem xét lại cùng với các yếu tố khác. Song thường bị bác bỏ vì dự án không bù đắp được chi phí bỏ ra. Đây là hai tiêu chuẩn tốt nhất để lựa chọn các dự án loại trừ lẫn nhau, theo nguyên tắc dự án được lựa chọn là dự án mang lại giá trị hiện tại thuần lớn nhất. Mặt khác, chỉ tiêu NPV có tầm quan trọng trong việc đánh giá dự án bởi vì nó tính đến giá trị thời gian của tiền. Lợi ích được tính ở thời điểm hiện tại khác biệt với lợi ích được tính ở thời điểm tương lai. Do vậy khi đánh giá hiệu quả tài chính dự án thì việc chiết khấu của dòng lợi ích và chi phí về một mốc thời gian là vô cùng cần thiết và chỉ tiêu NPV đã thực hiện được điều đó. Nhưng trong thực tế cho thấy rằng chỉ tiêu giá trị hiện tại thuần (NPV) có nhược điểm chính là rất nhạy cảm với lãi suất được sử dụng. Thay đổi trong lãi suất có ảnh hưởng rất lớn đến giá trị hiện tại của các lợi ích và chi phí. Dự án thường phải chịu các khoản chi phí lớn trong những năm đầu, khi vốn đầu tư được thực hiện và các lợi ích chỉ xuất hiện trong những năm sau đó, khi dự án đi vào hoạt động. Bởi vậy, khi lãi suất tăng, giá trị hiện tại của dòng lợi ích sẽ giảm nhanh hơn giá trị hiện tại của dòng chi phí và giá trị hiện tại thuần của dự án sẽ giảm xuống. Khi lãi suất này vượt qua mọi mức nào đó, giá trị hiện tại sẽ chuyển từ dương sang âm. Trong khi đó việc xác định lãi suất thích hợp là một vấn đề khó khăn, đặc biệt trong phân tích kinh tế. Nhưng sẽ dễ dàng hơn trong phân tích tài chính dự án. Hầu hết các dự án đều lấy kinh phí từ các nguồn khác nhau như vốn cổ phần, vốn vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác... nên lãi suất sẽ là mức bình quân từ các nguồn và được tính bằng công thức: Trong đó: IVK: Số vốn vay từ mỗi nguồn rK: Lãi suất vay từ mỗi nguồn. m: Số nguồn vay. Bằng những phân tích và đánh giá nêu trên, chúng ta thấy rằng chỉ tiêu NPV có một ý nghĩa rất quan trọng trong công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư. Nó là căn cứ quan trọng để đánh giá tính khả thi của dự án về mặt tài chính. Như vậy, trong thời gian các cán bộ thẩm định nên nghiên cứu, hoàn thiện phương pháp tính NPV và đưa chỉ tiêu này vào trong công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư. Để từ đó đưa ra các quyết định đầu tư một cách chính xác và đầy đủ hơn. Tránh những sai lầm không đáng có và một quyết định đầu tư mơ hồ. 1.2-/ Chỉ tiêu hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR) Trong công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư thì việc xác định được chỉ tiêu IRR là vô cùng quan trọng. Tiêu chuẩn chính thức để đánh giá dự án đầu tư bằng chỉ tiêu IRR là chấp nhận mọi dự án có hệ số hoàn vốn nội bộ lớn hơn chi phí cơ hội của vốn. Ngược lại, loại bỏ các dự án có hệ số hoàn vốn nội bộ nhỏ hơn chi phí cơ hội của vốn. Như vậy, IRR giống như là một tiêu chuẩn hay được sử dụng để mô tả tính hấp dẫn của dự án đầu tư, vì đó là một tiêu chuẩn hữu ích để tổng kết doanh lợi của dư án và được các nhà kinh tế tính toán như sau: Trước hết, hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR) là suất chiết khấu với suất này giá trị hiện tại ròng của dự án bằng 0 được tính từ hệ thức sau: NPV = Trong đó: Bt: Lợi ích trong năm t Ct: Chi phí trong năm t n: Tuổi thọ của dự án IRR: được coi như ẩn số phải tìm, nó phản ánh mức sinh lãi của dự án sau khi hoà vốn. Tính toán chỉ tiêu IRR theo công thức trên là tương đối phức tạp vì ta phải chọn trước lãi suất, từ đó tính giá trị hiện tại của các lợi ích và chi phí hoặc giả sử NPV = 0 từ đó tìm ra hệ số hoàn vốn nội bộ. Mà thường sử dụng phương pháp nội suy. Theo phương pháp này thì IRR được tính theo công thức: IRR = r1 + Trong đó: r1, r2: là hai lãi suất được chọn sao cho r2 - r1 < hoặc = 5% NPV1: giá trị hiện tại thuần ứng với lãi suất r1 > 0 NPV2: giá trị hiện tại thuần ứng với lãi suất r2 < 0 * Ưu điểm của chỉ tiêu giá trị hiện tại thuần là: IRR được tính toán chỉ dựa vào các số liệu của dự án mà không cần số liệu về chi phí cơ hội của vốn (suất chiết khấu) IRR biểu thị sự hoàn trả vốn đã được đầu tư vì vậy nó chỉ rõ tỷ lệ lãi vay tối đa mà dự án có thể chịu đựng được. * Nhược điểm của chỉ tiêu IRR là: Không xác định được một suất sinh lợi nội bộ trong trường hợp biến dạng của đồng tiền thay đổi nhiều lần từ (-) sang (+) hoặc từ (+) sang (-) vì có rất nhiều lời giải khi tính toán IRR. Sử dụng chỉ tiêu IRR để lựa chọn dự án sẽ dẫn tới sai lầm khi các dự án là những giải pháp thay thế nhưng có những điều kiện khác nhau (qui mô khác nhau, thời gian tồn tại khác nhau, thời điểm khác nhau). Căn cứ vào phương pháp tính và những ưu khuyết điểm của chỉ tiêu này, các cán bộ thẩm định nên đưa chỉ tiêu này vào công tác thẩm định cùng kết hợp với các tính toán khác nhằm đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn nhất. 1.3-/ Độ nhậy của dự án Phân tích độ nhậy của dự án nhằm kiểm tra mức độ nhậy cảm của kết quả dự án đối với sự biến động của từng yếu tố, nói khác đi phân tích độ nhậy nhằm xác định kết quả của dự án (các chỉ tiêu đặc trưng) trong điều kiện biến động của các yếu tố xác định kết quả đó. Phân tích độ nhậy cho phép xác định mức độ quan trọng của các yếu tố (nguồn rủi ro) và chiều hướng tác động của các yếu tố đó tới kết quả dự án. Độ nhậy dự án được xác định như sau: E = Trong đó: E: Độ nhậy của dự án d Fi: Mức biến đổi của chỉ tiêu đánh giá dựa n (%) dxi: Mức biến đổi của nhân tố ảnh hưởng (%) Thông thường người ta kiểm tra độ nhậy của dự án theo từng yếu tố ảnh hưởng riêng biệt và đôi khi cũng tiến hành kiểm tra với sự biến đổi đồng thời của một vài yếu tố. Để đánh giá mức độ an toàn của dự án người ta thường tiến hành kiểm tra với điều kiện biến động của các yếu tố theo hướng bất lợi cho dự án (chẳng hạn như tăng các chi phí, giảm giá tiêu thụ). Điều quan trọng khi đánh giá dự án là phải ước lượng xu thế và mức độ thay đổi của các yếu tố đến trạng thái dự án rất khác nhau nên có thể lựa chọn mức biến động của các nhân tố khác nhau. Chẳng hạn, với nhân tố vốn đầu tư người ta có thể đưa vào mức biến động 5%-10% so với mức tính toán, nhưng đối với nhân tố giá tiêu thụ sản phẩm lại có thể lấy mức biến động từ 10%-5%. Phân tích độ nhậy có những hạn chế sau: Không thể xem xét đồng thời nhiều nhân tố Các trị số trong dãy biến thiên của các yếu tố không đại diện cho yếu tố đó (không phải là khả năng xẩy ra cao nhất). Dùng phân tích độ nhạy trong thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư nhằm đánh giá mức độ rủi ro của dự án liên quan đến an toàn vốn vay. Tuy nhiên, vì những nhược điểm nêu trên mà phân tích độ nhạy không cho phép đánh giá đầy đủ mức độ rủi ro của dự án. Như vậy, ba chỉ tiêu nói trên chưa được đưa vào công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam . Để xem xét quyết định của ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong hoạt động cho vay vốn trung và dài hạn có đúng hay không? Chúng ta trở lại vơi dự án: Mạng thông tin di động toàn quốc (GSM) của Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam. Thứ nhất: Ta đi tính chỉ tiêu NPV. Cơ sở để tính chỉ tiêu này ta căn cứ vào các yếu tố sau: Thời gian hoạt động của dự án là 10 năm, kể từ năm 1998 đến hết năm 2007. Lãi suất chiết khấu bằng lãi vay vốn ngân hàng mua sắm máy móc thiết bị của người nước ngoài. Các nguồn vốn khác không tính lãi. Bảng 25 - Tính giá trị hiện tại thuần của dự án Đơn vị tính: USD Năm Tiền dùng để chiết khấu Khấu hao + Lợi nhuận + Lãi vay Hệ số chiết khấu (r = 9%) Hiện giá thuần 1 2.302.832 0,917 2.111.697 2 11.149.454 0,842 9.387.840 3 16.059.900 0,772 12.398.243 4 16.855.370 0,708 11.933.602 5 16.874.530 0,650 10.968.444 6 16.127.530 0,6 9.682.518 7 15.637.690 0,547 8.553.816 8 13.628.770 0,501 6.828.014 9 6.029.880 0,46 2.773.745 10 10.931.580 0,422 4.613.127 Cộng 79.251.047 Nguồn- Tự tính toán NPV = 79.251.047 – 60.739.987 = 18.511.150 (USD) * Nhận xét: NPV của dự án > 0, kết luận dự án mạng thông tin di động toàn quốc (GSM) có khả thi về mặt tài chính. Thứ hai: Tính toán chỉ tiêu IRR. Căn cứ tính toán trên cùng với luận chứng kinh tế kỹ thuật của dự án, ta tính toán chỉ tiêu thu hồi vốn nội bộ (IRR) như bảng sau: ở đây ta chọn r1 = 12%. Khi đó NPV (r1) > 0 và gần 0 r2 = 15%. Khi đó NPV < 0 và gần 0. Bảng 26 - Hệ số hoàn vốn nội bộ Đơn vị tính: USD Năm Tiền chiết khấu Hệ số chiết khấu (r1=12%) Hiện giá thuần (1) Hệ số chiết khấu (r2=15%) Hiện giá thuần (2) 1 2.302.832 0,8929 2.056.198 0,8696 2.002.543 2 11.149.454 0,7972 8.888.345 0,7561 8.430.102 3 16.059.900 0,7118 11.431.437 0,6575 10.559.384 4 16.675.370 0,6355 10.597.426 0,5718 9.534.976 5 16.874.530 0,5674 9.574.608 0,4972 8.390.016 6 16.137.530 0,5066 8.165.590 0,4232 6.976.254 7 15.637.690 0,4523 2.549.927 0,3759 5.878.207 8 13.628.770 0,4039 5.504.660 0,3269 4.455.245 9 6.029.880 0,3606 2.174.375 0,2843 1.714.295 10 10.931.580 0,3220 3.519.969 0,2472 2.702.286 Cộng 64.462.226 60.643.308 Nguồn - Tự tính toán Từ bảng trên ta tính toán được các chỉ tiêu NPV1, NPV2. NPV1 = 64.462.226 - 60.739.987 = 3.722.239 NPV2 = 60.643.308 - 60.739.987 = - 96.979 Khi đó, hệ số hoàn vốn nội bộ được tính là: IRR = 12 + Nhận xét: Hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR) của dự án là 14,92% > 9%. Như vậy, tỷ suất nội hoàn của dự án lớn hơn chi phí cơ hội của vốn đầu tư. Do đó mức lãi suất của dự án cao hơn mức lãi suất thực tế phải trả cho vốn sử dụng trong dự án (9%). Kết luận dự án khả thi về mặt tài chính. Thứ ba: Tính độ nhậy của dự án Để tính toán độ nhậy của dự án, ta giả sử rằng giá thuê bao + cước phí gọi hàng năm giảm 5%, khi đó doanh thu hàng năm sẽ giảm 5%. Năm thứ nhất: Doanh thu là: 4.108.740 USD giảm 205.437 USD Năm thứ hai: Doanh thu là: 14.937.700 USD giảm 746.885 USD ........... Ta coi các nhân tố khác là không thay đổi trong suốt quá trình thực hiện dự án như lãi suất và các chi phí ... Do đó lợi nhuận ròng hàng năm của dự án cũng giảm tương ứng là 5%. Trong khi đó khấu hao và lãi vay vốn hàng năm của dự án không đổi. Sau khi tiến hành tính toán ta tính được giá trị hiện thuần của dự án trong trường hợp giá thuê bao cước gọi giảm 5% là: NPV (cũ) = 18.511.150 USD NPV (mới) = - 925.557,5 USD Khi đó: EPNPV = Trong trường hợp này có nghĩa là cứ giảm 1% giá thuê bao và cước gọi thì chỉ tiêu NPV sẽ giảm 21%. Nếu giới hạn khả thi của dự án theo NPV = 0 tức là NPV giảm 100 Y thì giá bán sản phẩm chỉ được phép giảm: 1% x Như vậy đối chiếu với bảng giá thuê bao và tính cước cuộc gọi ta thấy rằng: Tổng công ty đưa ra kế hoạch giá thành chưa phù hợp. Việc giảm giá thành theo các năm cần phải được tính toán lại để dự án có hiệu quả tốt hơn. Kết luận: Thông qua việc tính toán thêm một số chỉ tiêu cho dự án ta thấy dự án có tính khả thi cao về mặt tài chính, công tác tính toán này nhằm: + Hiệu chỉnh các thông số kinh tế kĩ thuật để đảm bảo mức đã được dự kiến trong báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án trên cơ sở phát hiện và tìm ra các biện pháp cần thiết để đảm bảo các thông số vận hành của dự án. + Tìm kiếm cơ hội phát triển, mở rộng dự án hoặc cần thiết phải điều chỉnh các yếu tố của dự án để dự án phù hợp với tình hình thực tế đem lại hiệu quả cao hơn. Vì vậy các cán bộ thẩm định - phòng dự án - Ngân hàng ngoại thương Việt Nam nên đưa các chỉ tiêu nói trên vào trong công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư. Tuy dự án được đánh giá là khả thi cao về mặt tài chính song sẽ không tránh khỏi những rủi ro khi vận hành khai thác dự án (như lạm phát, giảm giá bán, tăng chi phí ...) Cho nên trước khi đi đến quyết định cuối cùng Ngân hàng ngoại thương cần phải dự tính trước những rủi ro này và đàm phán với Tổng công ty để có những biện pháp giải quyết tốt nhất. 2-/ Bảo đảm khai thác xử lý thông tin kịp thời, đầy đủ nhằm phục vụ tốt tính toán trong công tác thẩm định. Thông tin trong công tác thẩm định xét duyệt hồ sơ cho vay vốn là vô cùng cần thiết, nó có vai trò quyết định tính khả thi của dự án xin vay. Việc nắm bắt được thông tin đầy đủ kịp thời và chính xác phục vụ cho nghiệp vụ của mình là vô cùng phức tạp song cũng rất cần thiết. Nó không những phục vụ trực tiếp cho các dự án xin vay vốn mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng thương mại. Như vậy để có nguồn thông tin kịp thời, đầy đủ và chính xác thì ngoài những thông tin được giải trình trong hồ sơ vay vốn, các cán bộ thẩm định còn phải triệt để thu nhập thông tin từ nhiều nguồn khác. Phải có sự kết hợp nhịp nhàng giữa thu thập và xử lý thông tin. 2.1-/ Thông tin do điều tra trực tiếp. Đối với mỗi dự án xin vay vốn Ngân hàng đều phải trình hồ sơ vay vốn bao gồm các thông tin về dự án và doanh nghiệp. Nhưng không tránh khỏi sự sai lệch giữa thông tin trình trong hồ sơ vay và thực tế. Bởi những thông tin này có lợi cho công tác thẩm định song lại gây bất lợi cho phía doanh nghiệp . Vì vậy Ngân hàng muốn nắm bắt được thông tin chính xác đòi hỏi phải điều tra trực tiếp từ phía doanh nghiệp. Một trong những hình thức điều tra trực tiếp là đàm phán hoặc phỏng vấn, từ đó bằng nghiệp vụ và tính linh hoạt cán bộ thẩm định có thể nắm bắt được những thông tin quí giá phục vụ cho công tác thẩm định tránh được những sai sót và gian lận thông tin trong hồ sơ vay vốn của doanh nghiệp. 2.2-/ Thu thập thông tin từ quan hệ khách hàng lâu dài. Quan hệ khách hàng lâu dài để lại chữ tín trong hoạt động kinh doanhgiữa hai bên. Hơn nữa có thể cung cấp những thông tin cần thiết cho hoạt động kinh doanh. Những khách hàng thường xuyên truyền thống có các quan hệ tín dụng với ngân hàng như vay vốn, nhờ thanh toán mở LC bảo hành ... sẽ là đối tượng cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác. Nhờ có quan hệ tín dụng này mà các cán bộ thẩm định biết được về tình hình công nợ, khả năng thanh toán, tài sản thế chấp của doanh nghiệp. Những thông tin này có tính chính xác cao và kết luận đúng đắn khi tiến hành cho vay vốn. 2.3-/ Thu thập thông tin từ bên ngoài. Thông tin thu thập từ bên ngoài bao gồm: Các ngân hàng tổ chức tài chính đã có mối quan hệ tín dụng với doanh nghiệp xin vay vốn. Các công ty kiểm toán: cung cấp những số liệu cần thiết về hoạt động tài chính của doanh nghiệp làm cơ sở để ngân hàng kiểm tra, tính toán những chỉ tiêu kinh tế cần thiết. Các quy định văn bản và chủ trương của nhà nước về báo cáo số liệu thống kê liên quan đến dự án. Báo chí, phát thanh, truyền hình cung cấp các thông tin về giá cả, thị trường, công nghệ máy móc thiết bị, ... Những nguồn thông tin trên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của công tác thẩm định. Ngân hàng phải tự mình xây dựng một hệ thống thông tin đầy đủ, kịp thời thông qua việc nối mạng máy tính với các chi nhánh trên toàn quốc để có thể truy cập thông tin một cách nhanh nhất. Mặt khác, ngân hang cần kết hợp với các tổ chức tư vấn nước ngoài để có nguồn cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời nhằm phục vụ tốt cho công tác thẩm định dự án nói chung và công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án nói riêng. Tuy nhiên giữa thu thập và xử lý thông tin đòi hỏi các cán bộ thẩm định phải có nghiệp vụ vững vàng, nhạy bén trong công tác của mình. 3-/ Tổ chức nâng cao, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ thẩm định: Đứng trước sự phát triển kinh tế đất nước-hội nhập với khu vực và trên thế giới đòi hỏi phải đổi mới hệ thống ngân hàng như trang thiết bị tổ chức hoạt động... Điều quan trọng nhất là phải đổi mới con người. Trong công tác thẩm định dự án đầu tư các cán bộ thẩm định phải có kiến thức, trình độ cao về kinh tế, pháp luật, công nghệ, kỹ thuật, sản xuất kinh doanh về thị trường, tài chính tín dụng, ngoại hối-thanh toán quốc tế, hải quan, bảo hiểm, kiểm dịch, giám định có liên quan đến các phương diện của dự án. Nắm bắt được vai trò quan trọng của mình đối với việc phát triển kinh tế xã hội nói chung và làm lành mạnh hệ thống ngân hàng nói riêng. Trong những năm qua ngân hàng ngoại thương Việt Nam đã có những đổi mới cần thiết trong đào tạo đội ngũ cán bộ toàn hệ thống nhưng vẫn còn mờ nhạt và hình thức. Vì vậy, trong thời gian tới ngân hàng phải dần dần nâng cao chất lượng cán bộ thẩm định bằng cách thường xuyên thực hiện đào tạo và đào tạo lại cán bộ, mở các cuộc kiểm tra cán bộ về trình độ và nghiệp vụ một cách thường xuyên, tổ chức các buổi trao đổi kinh nghiệm trong nội bộ ngân hàng và với các ngân hàng bạn, tìm các nguồn tài liệu tham khảo của nước ngoài ... Đây là những cách thức phù hợp với tình hình hiện nay và nằm trong khả năng thực hiện của ngân hàng ngoại thương Việt Nam. Về phía các cán bộ thẩm định cần phải tăng cường học hỏi các phương pháp, đi sâu nghiên cứu tìm tòi phát hiện, đổi mới từng bước nâng cao chất lượng công tác thẩm định phù hợp với tình hình thực tế. Như vậy, tổ chức nâng cao bồi dưỡng kiên thức cho đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên môn để nâng cao công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư là vô cùng cần thiết, phù hợp với xu thế hoà nhập của đất nước trong nền kinh tế thị trường. 4-/ Cần điều chỉnh mức lãi suất thích hợp với điều kiện hiện nay Nhìn chung mức lãi suất của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam cũng như của ngân hàng ngoại thương Việt Nam chư hợp lý. Lãi suất cho vay ngắn hạn lớn hơn lãi suất cho vay dài hạn. Điều đó là vô lý bởi vì: các ngân hàng phải huy động vốn dài hạn với chi phí lớn hơn vốn ngắn hạn. Mặt khác, với mức lãi suất như vậy sẽ nảy sinh việc các doanh nghiệp muốn sử dụng vốn trung và dài hạn cho các nhu cầu vốn ngắn hạn để giảm chi phí vốn. Tạo thế cho các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích. Và trong một chừng mực nào đó ngay từ khi trình hồ sơ vay vốn các doanh nghiệp đã tìm cách tính toán lợi dụng lấy vốn trung, dài hạn dùng vào đầu tư ngắn hạn. Đứng trước tình hình đó, để công tác thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư đạt kết quả tốt các cán bộ thẩm định phải đi sâu tính toán từng khoản chi phí phát sinh trong từng dự án, phải xác định được mức vốn tự có mà doanh nghiệp có thể sử dụng vào dự án để quyết định doanh số cho vay hợp lý nhất nhằm tránh những rủi ro không đáng đó cho dự án và ngân hàng. Kết luận Sau hơn ba tháng thực hiện công việc dưới sự hướng dẫn tận tình và chu đáo của cô giáo PTS. Nguyễn Bạch Nguyệt, cùng với sự nỗ lực của bản thân. Đến nay tôi đã hoàn thành đề tài: “Thẩm định khía cạnh tài chính nhằm nâng cao hiệu quả dự án đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư”. Trong đề tài này, những vấn đề được giải quyết bao gồm: Thứ nhất: Đánh giá được thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Thứ hai: Đưa dự án cụ thể “Mạng thông tin di động (GMS) toàn quốc vào thẩm định chi tiết. Thứ ba: Nêu ra các chỉ tiêu cần thiết khi tiến hành thẩm định khía cạnh tài chính dự án đầu tư. Thứ tư: Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Tuy nhiên do hạn chế về mặt thời gian và kiến thức nên còn một số vấn đề chưa được giải quyết trong đề tài là: Thứ nhất: Chưa xử lý được lạm phát khi tiến hành xem xét đánh giá tài chính dự án đầu tư. Thứ hai: Chưa phân tích được dòng tiền trong thẩm định tài chính dự án đầu tư. Vậy tôi đề nghị ban lãnh đạo Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cùng các ngành có liên quan cần đầu tư nghiên cứu nhiều hơn nữa để sớm đưa những vấn đề trên vào trong công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Một lần nữa, tôi xin được cảm ơn các cán bộ phòng dự án Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, các thầy cô giáo khoa Thống kê - Trường đại học kinh tế quốc dân - Hà Nội và đặc biệt là cô giáo PTS. Nguyễn Bạch Nguyệt đã đóng góp những ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thiện đề tài này. Tài liệu tham khảo 1. Tạp chí Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 2. Giáo trình kinh tế đầu tư 3. Báo cáo kinh nghiệm về công tác thẩm định Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 4. Các hồ sơ vay vốn 5. Hồ sơ vay vốn của Tổng Công ty Bưu chính viễn thông 6. Báo cáo hội thảo công tác thẩm định liên Ngân hàng ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0199.doc
Tài liệu liên quan