Thành công và hạn chế của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

Lời nói đầu Trong một nền kinh tế không có cơ chế bảo hiểm tiền gửi (BHTG), khi một ngân hàng đổ bể sẽ làm ảnh hưởng đến các ngân hàng khác, khách hàng đồng loạt đến các ngân hàng rút tiền làm nhiều ngân hàng cùng lâm vào tình trạng vỡ nợ, gây thiệt hại đến nền kinh tế nói chung. Ví dụ như sự đổ vỡ một loạt các quỹ tín dụng ở Anbani đầu những năm 90 (thế kỷ XX) dẫn đến sự sụp đổ của chính phủ hay cuối năm 2001, Achentina đã thực sự hoảng loạn do sự biểu tình của người gửi tiền, hậu quả là chỉ

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1677 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thành công và hạn chế của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong một tuần lễ hai tổng thống bị mất chức. Nhận thấy rõ tầm quan trọng của việc phải có cơ chế BHTG để chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi khi các ngân hàng bị đổ vỡ, hơn 130 quốc gia (trong đó có Việt Nam) đã thực thi cơ chế BHTG. Tuy BHTG ở Việt Nam còn non trẻ nhưng cũng đã góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng (TCTD), bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Chính vì vậy mà em chọn đề tài "Thành công và hạn chế của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam qua 3 năm hoạt động". Kết cấu đề tài gồm: Chương1: Khái quát về bảo hiểm tiền gửi Chương 2: Thực trạng Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam Chương 1: Khái quát về Bảo hiểm tiền gửi 1.1. Sự cần thiết khách quan của Bảo hiểm tiền gửi Trong các hoạt động kinh tế thì tín dụng là một trong những hoạt động phát triển khá mạnh mẽ. Mặc dù hoạt động tín dụng đem lại lợi nhuận cao nhưng những "rủi ro tín dụng" như mất khả năng thanh toán, rủi ro lãi suất... có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào, gây tổn thất cho các quỹ tín dụng, làm cho các quỹ tín dụng bị thua lỗ, thậm chí bị phá sản. Rủi ro tín dụng xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân: do môi trường kinh tế chưa ổn định, do quản lý của nhà nước còn sơ hở, do trình độ quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp còn hạn chế... Cùng với những nguyên nhân trên, khách hàng cũng góp phần tạo ra những rủi ro tín dụng như khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, sản xuất kinh doanh thua lỗ hoặc khách hàng cố tình không trả nợ... Bản thân ngân hàng và các TCTD cũng gây ra những rủi ro như: không chấp hành nghiêm túc các thể lệ tín dụng và vi phạm quá trình xét duyệt cho vay; quá chú trọng về lợi nhuận, đặt tiêu chuẩn lợi nhuận lên trên các nguyên tắc, điều kiện của tín dụng; cho vay sai mục đích... Những rủi ro tín dụng xảy ra có thể để lại hậu quả khôn lường: - Đối với kinh tế: Hoạt động kinh doanh của các TCTD có liên quan trực tiếp đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, các doanh nghiệp, người gửi tiền. Nếu có rủi ro xảy ra sẽ tạo tâm lý không an tâm của người gửi đối với đối với ngân hàng và các TCTD, làm cho nhiều doanh nghiệp mất vốn và ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung. - Đối với ngân hàng và các TCTD: rủi ro tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh như giảm lợi nhuận, thua lỗ thậm chí dẫn đến phá sản. - Đối với khách hàng: có thể mất vốn dẫn đến khó khăn trong cuộc sống và sản xuất kinh doanh. Để đối phó với những rủi ro, tổn thất không lường trước được, có rất nhiều biện pháp khác nhau, nhưng biện pháp tốt nhất là bảo hiểm, nghĩa là chuyển những rủi ro mà mình có thể gặp phải cho các tổ chức bảo hiểm. Bảo hiểm tiền gửi đã ra đời nhằm bảo đảm an toàn tiền gửi cho những người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG, góp phần duy trì sự ổn định của các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của ngân hàng và các TCTD. 1.2. Khái niệm Bảo hiểm tiền gửi 1.2.1. Khái niệm Khái niệm Bảo vệ tiền gửi được nhiều quốc gia biết đến từ rất lâu. Khi hoạt động BHTG chưa ra đời, bảo vệ tiền gửi đã được nhiều quốc gia thực hiện dưới các hình thức "bảo vệ ngầm". Nguồn gốc ra đời của hoạt động BHTG xuất phát từ hoạt động "bảo vệ tiền gửi công khai". Bảo hiểm tiền gửi là một loại hình bảo hiểm mà theo đó khi các tổ chức nhận tiền gửi bị mất khả năng thanh toán , tổ chức BHTG sẽ đứng ra thanh toán một số tiền tối đa theo quy định của pháp luật cho người gửi tiền. 1.2.2 Mục đích của Bảo hiểm tiền gửi Dù mục đích cụ thể của mỗi hệ thống BHTG có khác nhau nhưng nhìn chung các hệ thống BHTG trên thế giới đều nhằm đạt được bốn mục tiêu sau: - Bảo vệ người gửi ít tiền, đối tượng mà có những hạn chế nhất định trong việc tiếp cận thông tin về điều hành của các TCTD. - Bảo đảm cho hệ thống tài chính ổn định và tạo điều kiện cho các giao dịch tài chính có hiệu quả hơn bằng cách phòng tránh đổ vỡ ngân hàng. - Cung cấp một thị trường có tính cạnh tranh và bình đẳng cho các TCTD có quy mô và trình độ phát triển khác nhau. - Quy định rõ trách nhiệm và quyền của người gửi tiền, tổ chức tài chính (TCTC), chính phủ và giảm thiểu gánh nặng tài chính cho người đóng thuế trong trường hợp có các ngân hàng đổ bể. 1.2.3. Đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi Đối tượng tham gia BHTG là các ngân hàng và các TCTC phi ngân hàng có hoạt động huy động tiền gửi. Các tổ chức này khi được tham gia BHTG có trách nhiệm đóng góp tài chính cho tổ chức BHTG và được quyền yêu cầu tổ chức BHTG chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại tổ chức đó trong trường hợp tổ chức này mất khả năng thanh toán và bị cơ quan có thẩm quyền chấm dứt hoạt động. 1.3. Vấn đề vốn dự trữ trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi 1.3.1. Vai trò của vốn dự trữ Vốn dự trữ của tổ chức BHTG là một phần rất quan trọng cần được bảo đảm đầy đủ để tổ chức BHTG duy trì bộ máy hoạt động có hiệu quả. Theo thông lệ, vốn dự trữ của tổ chức BHTG cần đạt được ở mức 5% tổng giá trị các loại tiền gửi thuộc đối tượng BHTG của một quốc gia. Tuy nhiên, không nhất thiết tổ chức BHTG nào cũng phải duy trì một khoản vốn ở mức như vậy, mà có thể căn cứ vào các yếu tố như tình hình phát triển của hệ thống tài chính, chính sách hỗ trợ vốn của chính phủ... để đề ra quy mô vốn dự trữ cho phù hợp. Ví dụ, BHTG Liên bang Mỹ có mức vốn dự trữ khoảng 1,25% tổng số dư tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm. Xác định mức vốn dự trữ chính xác là rất cần thiết, vì khi có rủi ro xảy ra mà BHTG không đủ khả năng tài chính để chi trả cho người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm thì sẽ gây ra hậu quả khôn lường. ở Mỹ, năm 1930 có tám hệ thống BHTG (Oklahoma, Kansas, Nebraska, Texas, Misissipi, South Dakota, North Dakota và Washington) đã phải chấm dứt hoạt động vì thiếu vốn cho trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người gửi tiền. 1.3.2. Các hình thức huy động vốn Chính phủ ở mỗi quốc gia thường cấp một khoản vốn nhất định cho tổ chức hoạt động BHTG của quốc gia đó (phổ biến là đối với các tổ chức hoạt động BHTG theo mô hình sở hữu nhà nước). Vốn dự trữ còn có thể huy động từ việc đóng góp của tổ chức tham gia BHTG cho tổ chức BHTG. Có ba hình thức đóng góp tài chính: - Đóng góp một khoản tiền khi được chấp nhận tham gia BHTG: Hình thức này thường ít được áp dụng. Trong 74 nước có hoạt động BHTG công khai thì có hệ thống BHTG ở Ireland áp dụng hình thức đóng góp ban đầu ở mức 0,20% tổng tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm. Còn hệ thống BHTG tư nhân của Đức do Hiệp hội ngân hàng Đức điều hành có áp dụng hình thức đóng góp ban đầu ở mức 0,09% tổng tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm. - Đóng góp phí BHTG thường xuyên theo định kỳ tháng, quý hoặc năm: Hình thức này được áp dụng phổ biến ở các hệ thống BHTG trên thế giới. Trong số 67 hệ thống BHTG được nghiên cứu có 58 hệ thống BHTG (chiếm 86,56%) áp dụng hình thức đóng góp phí thường xuyên và tỷ lệ đóng góp hằng năm dao động trong khoảng 0,00% đến 2,00% tổng giá trị các loại tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm tại mỗi tổ chức tham gia BHTG. - Đóng góp sau: Đây là hình thức đóng góp sau khi có một hoặc một số tổ chức tham gia BHTG bị mất khả năng thanh toán. Tổ chức BHTG sẽ phân bổ khoản chi phí cần chi trả này cho các các tổ chức tham gia BHTG trong toàn bộ hệ thống đang hoạt động và yêu cầu họ phải đóng góp để chi trả BHTG cho người gửi tiền tại các ngân hàng ngừng hoạt động. Hình thức này được một số hệ thống BHTG trên thế giới quan tâm và áp dụng. Trong số 67 hệ thống BHTG được nghiên cứu có 6 hệ thống áp dụng hình thức này, chiếm 8,95%. Tỷ lệ các hình thức đóng góp tài chính (biểu đồ hình tròn) - Đóng góp phí BHTG thường xuyên theo định kỳ tháng, quý hoặc năm (58-86,5%) - Đóng góp sau (6-8,95%) - Các hình thức khác (4,55%). 1.4. Cơ chế bảo hiểm tiền gửi ở một số nước trên thế giới Tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và hệ thống tài chính mà mỗi quốc gia đều xây dựng cho mình một cơ chế BHTG phù hợp. Có nhiều cơ chế BHTG, nhưng phân theo diện bảo hiểm thì hiện tại trên thế giới có 4 loại cơ chế BHTG công khai. 1.4.1. Bảo hiểm hoàn toàn Mọi người gửi tiền đều được bảo vệ hoàn toàn trong trường hợp ngân hàng bị đổ vỡ. Hiện có 9 quốc gia áp dụng cơ chế này khi có khủng hoảng tài chính xảy ra, trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc, Mêhicô, Thái Lan... Mặc dù cơ chế này ngăn chặn một cách hữu hiệu hiện tượng rút tiền ồ ạt, bởi lẽ người gửi tiền hoàn toàn tin tưởng vào việc BHTG sẽ thực hiện được các nghĩa vụ của mình khi ngân hàng gặp khó khăn. Nhưng thông qua đó, nó đã làm mất nguyên tắc của thị trường khi xét đến hiện tượng gia tăng tâm lý bất cẩn (vấn đề rủi ro đạo đức) từ phía các ngân hàng, khi chấp nhận các rủi ro lớn hơn trong kinh doanh và từ phía người gửi tiền, khi không lựa chọn thận trọng các ngân hàng, mà chỉ quan tâm đến mức lãi suất cao nhất trả cho tiền gửi của họ. Cơ chế này có khả năng sử dụng nhiều phương thức khác nhau để xử lý các ngân hàng bị đổ vỡ như trợ giúp tài chính cho việc sáp nhập và phục hồi, mua tài sản và nhận tài sản bổ sung cho việc thanh toán bảo hiểm, hoặc thực hiện việc chuyển tiền gửi trong trường hợp ngân hàng bị đóng cửa sang tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khác. 1.4.2. Bảo hiểm theo phạm vị hạn chế Các khoản tiền gửi được bảo hiểm đến một giới hạn tối đa. Hiện nay, có 67 quốc gia như: áo, Đạn Mạch, Braxin... đang áp dụng cơ chế này và thường tập trung vào những người gửi tiền nhỏ. Cơ chế này phần nào bảo vệ hệ thống ngân hàng, ngăn chặn việc lây lan hiện tượng rút tiền ồ ạt ra khỏi ngân hàng nhưng vẫn duy trì nguyên tắc của thị trường ở mức đáng kể, và nó giúp ngân hàng tránh phải chịu rủi ro quá mức. Đối với cơ chế bảo hiểm này, các quốc gia quy định nhà bảo hiểm tiền gửi không được quyền cung cấp, trợ giúp cho việc sáp nhập hoặc khôi phục lại những ngân hàng bị suy yếu, vì điều này có thể làm tăng việc bảo vệ thực tế cho những người gửi tiền không được bảo hiểm hoàn toàn. 1.4.3. Bảo hiểm theo phạm vị tuy chọn Cơ chế bảo hiểm này nằm giữa cơ chế bảo hiểm hoàn toàn và cơ chế bảo hiểm có giới hạn. Thông thường trong thời kỳ hệ thống tài chính ổn định thì các quốc gia áp dụng cơ chế bảo hiểm theo phạm vị hạn chế, nhưng khi có khủng hoảng tài chính thì chuyển sang cơ chế bảo hiểm toàn phần. Theo đó, tất cả những tài khoản tiền gửi được bảo hiểm đến một giới hạn tối đa và thường theo mức tiết kiệm của những người gửi tiền nhỏ. Tuy nhiên, trong những điều kiện đặc biệt, để bảo vệ hệ thống ngân hàng, nhà bảo hiểm tiền gửi có thể mở rộng phạm vi bảo hiểm cho cả những người gửi tiền không được bảo hiểm hoàn toàn, khi các cơ quan chức năng của chính phủ và nhà bảo hiểm xác định rằng thiệt hại của những người gửi tiền không được bảo hiểm hoàn toàn sẽ tác động đến lòng tin của công chúng, từ đó có thể gây ra hiện tượng rút tiền ồ ạt, lan rộng. Do đó, phạm vị bảo hiểm tuỳ ý có thể đưa ra sự bảo vệ hoàn toàn cho những người gửi tiền nhỏ và có thể bảo vệ hệ thống ngân hàng khỏi nguy cơ rút tiền ồ ạt thành hệ thống, nhờ đó bảo vệ tất cả những người gửi tiền. Cơ chế bảo hiểm tiền gửi này tương tự cơ chế bảo hiểm công khai có giới hạn khi hệ thống ngân hàng không bị đe doạ, nhưng có thể chuyển thành cơ chế bảo vệ hoàn toàn thực tế nếu chính phủ nhận thấy cần thiết và cho phép. 1.4.4. Cơ chế bảo hiểm đồng bảo hiểm Cơ chế này nhằm giảm thiểu các hành vi bất cẩn của người gửi tiền bằng cách đưa ra hình thức đồng bảo biểm. Người gửi tiền chịu một phần các khoản lỗ và nhà bảo hiểm tiền gửi bảo vệ phần còn lại. Đồng bảo hiểm có thể thực hiện dưới hình thức cắt giảm một tỷ lệ nhất định trong số tiền gửi được bảo hiểm. Hiện có 20 quốc gia áp dụng cơ chế bảo hiểm tiền gửi này, đó là Vương quốc Anh, Phần Lan, Bồ Đào Nha, Italy... Việc xây dựng và đưa vào thực hiện mức phí bảo hiểm tiền gửi mà mỗi tổ chức tham gia BHTG phải đóng cho nhà bảo hiểm, cũng như mức bảo hiểm tối đa mà nhà bảo hiểm phải thực hiện nghĩa vụ của mình khi ngân hàng phải đóng cửa, dù có sự khác biệt tại các quốc gia khác nhau, nhưng đều dựa vào điều kiện kinh tế cụ thể của mỗi quốc gia, đồng thời bảo đảm đủ bù đắp chi phí quản lý hợp lý và bảo vệ được quyền lợi của người gửi tiền và của nhà bảo hiểm tiền gửi. Thông thường, mức bảo hiểm tối đa mà nhà bảo hiểm trả cho một người gửi tiền tại ngân hàng bị đóng cửa bằng 2 lần GDP/đầu người của quốc gia đó (ở Việt Nam là 5,5 lần GDP/đầu người). Chương 2: Thực trạng Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam 2.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam Cách đây 9 năm, ngày 27/7/1994, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định 390/TTg về việc thực hiện Đề án thí điểm thành lập quỹ tín dụng nhân dân (QTDND). Hệ thống QTDND theo Đề án 390 là hệ thống được thiết kế trên cơ sở học tập kinh nghiệm của nhiều nước, trong đó chủ yếu là kinh nghiệm từ mô hình QTDND Desjardins Canada và được thực hiện trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên ngay từ đầu hệ thống mới này đã vấp phải trở ngại, đó là sự thiếu tin tưởng của người dân do dư âm đổ vỡ của hệ thống QTDND cũ (vào những năm 1989-1990) để lại còn rất nặng nề. Nhận rõ thực tế này, Chính phủ đã cho phép thí điểm nghiệp vụ BHTG tại hệ thống QTDND để tạo niềm tin với công chúng, từ đó các QTDND có thể thu hút tiền gửi từ người dân. Ngày 1/2/1994, Bộ trưởng tài chính có Quyết định số 101/TCQĐ-BH (gọi tắt là Quyết định 101) về việc ban hành quy tắc bảo hiểm trách nhiệm của QTDND đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn và giao cho Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) quản lý và thực hiện nghiệp vụ BHTG. Ngày 1/7/1994, Tổng giám đốc Bảo Việt có Thông tư số 991/BH/NVM/94 về hướng dẫn thực hiện quy tắc "Bảo hiểm trách nhiệm của QTDND đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn". Tuy nhiên, chỉ sau 3 năm triển khai, các văn bản trên đã bộc lộ một số hạn chế: sự không bình đẳng trong các quy định của Bảo Việt, hình thức bảo hiểm tự nguyện và đặc biệt là thiếu sự phối hợp thực hiện giữa Bảo Việt và Ngân hàng Nhà nước. Do vậy, các QTDND đã không hưởng ứng và việc thi thí điểm nghiệp vụ BHTG tại các QTDND do Bộ tài chính chủ trì đã không thành công. Rút kinh nghiệm từ thất bại trên, sau một thời gian khảo sát, học tập kinh nghiệm của quốc tế, Ngân hàng Nhà nước đã tham mưu để Chính phủ ban hành những văn bản về BHTG: Nghị định số 89/NĐ-CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ về BHTG, Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập BHTG Việt Nam, Thông tư số 03/2000/TT-NHNN ngày 16/3/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thi hành Nghị định số 89/NĐ-CP, Quyết định số 75/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của BHTG Việt Nam. Bằng sự nỗ lực của bản thân, được sự chỉ đạo, giúp đỡ và phối hợp của các ngành hữu quan, ngày 7/7/2000 BHTG Việt Nam đã chính thức khai trương hoạt động. 2.2. Tình hình hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là tổ chức tài chính nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, bảo đảm an toàn về vốn và tự bù đắp các chi phí. Vốn điều lệ được Nhà nước cấp là 1.000 tỷ đồng, được mở tài khoản tại các ngân hàng trong và ngoài nước. Qua 3 năm kể từ khi BHTG Việt Nam đi vào hoạt động, nguồn vốn huy động của các tổ chức thạm gia bảo hiểm tăng trưởng rõ rệt, một phần là do tạo lập được niềm tin của người gửi tiền. Do hoạt động BHTG là lĩnh vực mới nên trong thời gian đầu công tác tuyên truyền phổ biến về hoạt động BHTG được coi là một trong những nội dung hoạt động cơ bản của BHTG Việt Nam. Để các tổ chức tham gia BHTG, các đơn vị có liên quan và công chúng hiểu rõ về hoạt động BHTG, trụ sở chính và các chi nhánh BHTG Việt Nam khu vực đã tích cực phối hợp các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố tổ chức nhiều hội nghị khách hàng tại các tỉnh, thành phố nhằm tuyên truyền về hoạt động BHTG. Qua đó các cán bộ quản lý, các tổ chức đoàn thể, các tổ chức tham gia BHTG, các cộng tác viên tuyên truyền và công chúng hiểu rõ hơn về hoạt động BHTG, thấy được sự ra đời của BHTG Việt Nam là hoàn toàn cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần tạo điều kiện cho các TCTD trong việc huy động vốn, trên cơ sở đó góp phần duy trì sự ổn định của các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Hoạt động giám sát và kiểm tra của BHTG Việt Nam là một kênh để phối hợp cùng với hoạt động quản lý của Ngân hàng Nhà nước giúp các tổ chức tham gia BHTG thực hiện đúng các quy định của Nhà nước về BHTG, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng, tạo lập được nềm tin của người gửi tiền, góp phần làm tăng trưởng nguồn vốn huy động của các TCTD đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế trên địa bàn và bảo đảm được quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền. Tạo sự chuyển biến tích cực trong việc thực hiện Chỉ thị số 57/CT-TW ngày 10/10/2000 của Bộ chính trị về củng cố, hoàn thiện và phát triển hệ thống QTDND. Hiện nay mạng lưới hoạt động của BHTG Việt Nam gồm trụ sở chính và 6 chi nhánh: chi nhánh tại Hà Nội, khu vực Đông Bắc bộ, khu vực Bắc Trung bộ, tại Thành phố Hồ Chí Minh, khu vực đồng bằng sông Cửu Long, khu vực Nam Trung bộ và Tây Nguyên, trong đó BHTG tại TP HCM là chi nhánh đầu tiên đi vào hoạt động (23/12/2000). Địa bàn hoạt động của các chi nhánh BHTG Việt Nam. Chi nhánh Địa bàn hoạt động 1. Hà Nội Hà Nội, Hà Tây, Hoà Bình, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang 2. TP HCM Tp HCM, Đồng Nai, Lầm Đồng, Bình Thuận, Bình Dương, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vũng Tàu, Tây Ninh, Bình Phước 3. KV ĐBSCL Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang 4. KV Nam Trung bộ Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Định, Quảng Ngãi, Đak-Lak, Kontum, Gia Lai 5. KV Đông Bắc bộ Quảng Ninh, Hải Dương, Thái Bình, Hải Phòng 6. KV Bắc Trung bộ Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị 2.3. Đánh giá tình hình hoạt động của BHTG Việt Nam 2.3.1. Những thành tựu đã đạt được Kể từ khi đi vào hoạt động đến nay, tuy thời gian chưa được nhiều nhưng BHTG Việt Nam đã có nhiều cố gắng để đạt được những kết quả khả quan ban đầu. Thứ nhất, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi. Thời gian qua BHTG Việt Nam đã cấp giấy chứng nhận BHTG cho 1.034 tổ chức tín dụng và tổ chức không phải là TCTD được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của luật các TCTD, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, có huy động tiền gửi cá nhân bằng đồng Việt Nam. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam không bảo hiểm các loại tiền gửi bằng ngoại tệ. Quy định này được đặt ra nhằm bảo vệ chủ quyền tiền tệ quốc gia, giảm dần cái gọi là "đôla hoá", góp phần thực hiện cơ chế quản lý ngoại hối của Nhà nước. Tính đến thời điểm cuối năm 2002, BHTG Việt Nam đã chấm dứt bảo hiểm và thu hồi giấy chứng nhận bảo hiểm của 62 TCTD mất khả năng thanh toán và bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra văn bản chấm dứt hoạt động. Số lượng các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi (biểu đồ hình tròn). - Ngân hàng TM Nhà nước: 5 đơn vị (kể cả NH nhà ĐBSCL) - Ngân hàng TM cổ phần: 38 đơn vị - Ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài: 28 đơn vị - Công ty tài chính: 6 đơn vị - QTDND: 900 Thứ hai, thu phí bảo hiểm tiền gửi. Theo quy định hiện hành, tổ chức tham gia BHTG phải nộp phí BHTG với mức 0,15% mỗi năm tính trên số dư tiền gửi bình quân của cá nhân bằng đồng Việt Nam tại tổ chức tham gia BHTG. Nếu tổ chức tham gia BHTG nào vi phạm về thời gian nộp phí hoặc thiếu số phí phải nộp thì ngoài việc nộp đủ số phí còn thiếu, phải chịu nộp phạt mỗi ngày chậm bằng 0,1% số tiền chậm nộp. Nhìn chung thời gian qua các tổ chức tham gia BHTG chấp hành nghiêm chỉnh quy định về việc tính và nộp phí BHTG. Số phí BHTG Việt Nam thu được từ các tổ chức tham gia BHTG tăng ở mức 20% đến 25%/năm. Đây là nguồn tài chính quan trọng để BHTG Việt Nam tăng cường năng lực xử lý các rủi ro có thể xảy ra từ phía các tổ chức tham gia BHTG, hạn chế tới mức thấp nhất việc bao cấp từ ngân sách Nhà nước. Thứ ba, chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG, theo nguyên tắc: số tiền trả cho tất cả các khoản tiền gửi (cả gốc & lãi) của một số cá nhân tại một tổ chức được bảo hiểm có thể giải quyết số đông người gửi và phù hợp với điều kiện nguồn vốn ban đầu của BHTG Việt Nam. Mức chi trả bảo hiểm tối đa ở Việt Nam hiện nay là 30 triệu đồng (cả gốc & lãi). Sau 3 năm, BHTG Việt Nam đã chi trả cho 1.303 người gửi tiền với tổng số tiền trên 14 tỷ đồng tại 31 quỹ tín dụng. Trường hợp số tiền vượt quá mức tối đa nói trên, người gửi tiền được trả tiếp trong quá trình thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã thường xuyên phối hợp chặt chẽ với thanh tra Ngân hàng Nhà nước để giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ việc thực hiện các quy định của pháp luật về BHTG và thực hiện quy chế an toàn trong hoạt động ngân hàng đối với các tổ chức tham gia BHTG nhằm phát hiện sớm để có biện pháp ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm các quy định trên, đồng thời báo cáo Ngân hàng Nhà nước để có biện pháp chấn chỉnh, xử lý. Mặc dù số lượng các tổ chức tham gia BHTG rất lớn, nhưng thời gian qua BHTG Việt Nam về cơ bản đã thực hiện kiểm tra được phần lớn các tổ chức tham gia BHTG. Trong thời gian tới, BHTG Việt Nam sẽ tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các đơn vị yếu kém. Thứ năm, hỗ trợ tài chính đối với các tổ chức tham gia BHTG. Cơ chế hỗ trợ tài chính đối với tổ chức tham gia BHTG được áp dụng trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG có nguy cơ mất khả năng chi trả nhưng chưa đến mức đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, sau khi xác định việc tiếp tục hoạt động của tổ chức này có vai trò quan trọng đối với sự bảo đảm an toàn của toàn hệ thống thì BHTG Việt Nam thực hiện việc hỗ trợ tài chính thông qua các hình thức như cho vay, bảo lãnh... Ngoài những thành công trên, một thành công không thể không kể đến của BHTG Việt Nam đó là vào tháng 2/2003, BHTG Việt Nam được Hiệp hội BHTG quốc tế chính thức công nhận và kết nạp vào Hiệp hội này. * Những yếu tố tạo nên thành công: Có được những thành công nói trên, bên cạnh sự nỗ lực của BHTG Việt Nam là sự quan tâm, chỉ đạo của các ngành có liên quan. Ngoài ra còn có một số yếu tố sau: - Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã hoàn thiện bộ máy tổ chức, cơ sở pháp lý bằng những văn bản hướng dẫn triển khai và hơn ban hành được hơn 30 văn bản nghiệp vụ và quản trị điều hành. - Đa số các chi nhánh của GHTG Việt Nam tính và nộp phí BHTG, nộp báo cáo theo quy định, chấp hành việc niêm yết giấy chứng nhận BHTG tại địa điểm giao dịch, cố gắng nâng cao chất lượng hoạt động, nợ quá hạn có xu hướng giảm dần. - Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam mới ra đời nên học hỏi được kinh nghiệm của các nước đi trước, tránh những tổn thất không đáng có. 2.3.2. Những vấn đề còn tồn tại Ngoài những kết quả đã đạt được trong thời gian qua, BHTG Việt Nam không tránh khỏi những vướng mắc, tồn tại sau đây: Thứ nhất, về vấn đề thu hồi số tiền chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho BHTG Việt Nam. Thời gian qua, khi tổ chức tham gia BHTG bị bắt buộc giải thể, toàn bộ số tiền bảo hiểm đã được BHTG chi trả theo đúng quy định của pháp luật. Các đơn vị tham gia quá trình chi trả đều ký biên bản xác nhận về quyền chủ nợ của BHTG VN đối với số tiền đã chi trả bảo hiểm. Tuy nhiên đến nay không một tổ chức tham gia bảo hiểm nào thu hồi đủ số tiền đẻ trả nợ cho chủ nợ với lý do quy định hiện hành chỉ đề cập đến quyền chủ nợ của BHTG VN, khi tổ chức tham gia BHTG bị phá sản, không áp dụng đối với trường hợp tổ chức tham gia BHTG bị giải thể mặc dù thực chất việc giải thể tổ chức tham gia BHTG trong thời gian qua chính là phá sản. Thứ hai, vấn đề phạm vị tiền gửi được bảo hiểm. Theo quy định hiện hành, phạm vị tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam ghi danh của cá nhân tại tổ chức thạm gia BHTG. Do quy định này, nhiều tổ chức tham gia BHTG đã chuyển dần việc huy động vốn của các cá nhân từ hình thức ghi danh sang hình thức vô danh và tích cực huy động bằng vàng, ngoại tệ để không phải nộp phí BHTG. Những tổ chức thực hiện biện pháp này thường là những tổ chức có quy mô huy động tiền gửi lớn. Tình trạng này dẫn đến nguồn thu phí BHTG giảm sút, trong khi đó nguy cơ rủi ro về tiền gửi của cá nhân tăng lên do tiền gửi không thuộc đối tượng được bảo hiểm. Thứ ba, về quy chế trao đổi và cung cấp thông tin giữa NHNN và BHTG VN. Vấn đề này đã được bàn nhiều lần trong hai năm gần đây nhưng quy chế thì vẫn chưa được NHNN ban hành, vì vậy BHTG VN không nắm bắt kịp thời và đầy đủ thông tin về tổ chức tham gia BHTG như việc thành lập mới, thu hồi giấy phép hoạt động, giải thể... nên khó chủ động trong xử lý công việc. Những tồn tại nói trên có thể do một số nguyên nhân sau: - Một số chi nhánh BHTG VN gửi báo cáo chưa đều hoặc chậm, chưa gửi báo cáo khi có thay đổi hồ sơ pháp lý. - Do xác định số dư tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm chưa đúng nên việc tính phí BHTG chưa chính xác, thời gian nộp phí còn chậm. Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam 3.1. Giải pháp Để khắc phục những hạn chế nói trên, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cần phối hợp với các đơn vị chức năng của NHNN VN để trình Thủ tướng Chính phủ chỉnh sửa các văn bản quy phạm pháp luật về BHTG phù hợp với hoạt động thực tiễn, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động của BHTG VN trong thời gian tới. Cụ thể: - Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của các đơn vị tham gia BHTG. - Xây dựng các quy định có tính hiệu lực cao cho phép tổ chức BHTG có thẩm quyền từ chối không tiếp tục BHTG đối với các TCTD thành viên không chấp hành các quy định về BHTG. Nghiên cứu và sớm triển khai việc tính phí tham gia BHTG dựa trên mức độ rủi ro hoạt động của từng TCTD. - Cần phải phát triển và mở rộng thị trường tài chính (TTTC). Khi TTTCTT được mở rộng sẽ tạo ra sự đa dạng hoá các loại hình dịch vụ cho cung và cầu vốn trên thị trường, điều này sẽ góp phần làm giảm nguy cơ tiềm ẩn đối với sự khủng hoảng trong ngành ngân hàng. - Cần phải hoàn thiện cơ sở hạ tầng của TTTCTT. Đây là vấn đề rất quan trọng đối với việc tạo ra sự an toàn và phát triển vững chắc đối với TTTT. Để thực hiện điều này cần phải có một hệ thống đồng bộ các quy tắc và thông lệ pháp lý, từ đó sẽ tăng được những giám sát chặt chẽ đối với các chủ thể tham gia hoạt động trên TTTT. 3.2.Một số kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. - Nên triển khai hệ thống BHTG công khai để mọi người dân trong nước đều biết được trách nhiệm của các tổ chức BHTG đối với hệ thống ngân hàng. Điều này sẽ tạo tâm lý tích cực đối những người gửi tiền và sẽ góp phần tránh được hiệu ứng đổ xô đi rút tiền. - Chỉ nên áp dụng trách nhiệm bồi thường chi trả tiền bảo hiểm của tổ chức BHTG đối với mỗi người gửi tiền tiết kiệm ở một mức vừa phải, tương ứng với thu nhập và những khoản tiết kiệm của họ. Hiện nay ở nhiều nước số tiền bảo hiểm đối với mỗi cá nhân gửi tiền tiết kiệm được tính bằng khoảng 2 lần GDP bình quân/ người. Như vậy, ở Việt Nam số tiền bảo hiểm chỉ vào khoảng 12-15 triệu đồng Việt Nam là phù hợp (hiện nay mức chi trả bảo hiểm ở nước ta là 30 triệu đồng). - Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cần sớm ban hành đầy đủ quy chế hỗ trợ tài chính đối với các tổ chức tham gia BHTG. Theo đó hoạt động của BHTG có tính tích cực hơn đối với các tổ chức tham gia BHTG, đồng thời hoạt động giám sát, kiểm tra thực hiện quy chế hỗ trợ là nội dung kiểm tra mang tính bổ trợ cho công tác kiểm tra toàn diện đối với tổ chức tham gia BHTG (mang rõ màu sắc BHTG). - Đề nghị NHNN sớm ban hành các quy chế trao đổi thông tin giữa các đơn vị chức năng của NHNN, trước hết là thanh tra ngân hàng với BHTG VN. Theo đó BHTG VN có thể khai thác kết quả giám sát, thanh tra và các thông tin khác liên quan đến hoạt động BHTG và ngược lại BHTG VN cung cấp các thông tin liên quan đến chức năng quản lý nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát và kiểm tra của các cơ quan liên quan. Kết luận Sau quá trình học tập và nghiên cứu môn học LTTT&NH, cùng với sự giảng dạy của các thầy cô, em đã hoàn thành đề án "Thành công và hạn chế của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sau 3 năm hoạt động". Đề án đã đạt được một số kết quả sau: - Đã hệ thống hoá được các lý luận về BHTG. - Bằng hệ thống bảng biểu phong phú và những số liệu cập nhật, đề án đã phân tích một cách sâu sắc tình trạng hoạt động của BHTG VN. Tuy BHTG VN còn non trẻ, đánh giá về BHTG VN là hơi sớm nhưng ta cũng không thể phủ nhận những thành công của BHTG VN trong việc góp phần duy trì ổn định các TCTD và sự phát triển lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó BHTG VN cũng không tránh khỏi những vướng mắc cần sớm được khắc phục để phát triển ngày càng vững mạnh. - Đề án đã đưa ra được một số giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của BHTG VN. Với kết quả trên, em mong muốn rằng đề án sẽ góp một phần nhỏ bé trong việc thúc đẩy sự phát triển của BHTG VN. Do thời gian có hạn và kiến thức còn hạn chế nên đề án không tránh khỏi những thiếu sót, em mong được sự thông cảm và giúp đỡ của các thầy cô để đề án sau được đầy đủ và hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Tài liệu tham khảo TS Nguyễn Mạnh Dũng – Thành công ban đầu của BHTG VN sau 3 nãm hoạt động- Tạp chí ngân hàng- số 7/ 2003. 2. Đỗ Khắc Hải - Nhìn lại 3 năm hoạt động của BHTG VN – Thị trường tài chính tiền tệ – số1/2003 3. Bùi Đức Hạnh - Một số ý kiến về hoạt động giám sát và kiểm tra của BHTG VN đối với các tổ chức tham gia BHTG – Tạp chí ngân hàng- số 9/2003 4. Khải Hoàn – Cơ chế BHTG ở một số nước trên thế giới – Tạp chí ngân hàng – số 8 / 2002 5. TS Ngô Hướng, ThS Tô Kim Ngọc – Giáo trình lý thuyết tiền tệ và ngân hàng – Học viện ngân hàng . 6. Ths Nguyễn Thị Kim Oanh – Bàn về hạn mức chi trả BHTG – Tạp chí ngân hàng – số 8/ 2003. 7. PGS – TS Hồ Sĩ Sà- Giáo trình bảo hiểm - Đại học KTQD. 8. TS Lê Thị Kim Xuân- BHTG VN qua 3 năm hoạt động- Tạp chí ngân hàng- số 10/ 2003 Mục Lục LờI nói đầu Danh mục hình và bảng biểu Chương1: KháI quát về bảo hiểm tiền gửi Sự cần thiết của BHTG KháI niệm BHTG KháI niệm Mục đích của BHTG Đối tượng tham gia BHTG Vấn đề vốn dự trữ trong BHTG Vai trò của vốn dự trữ Các hình thức huy động vốn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV015.DOC
Tài liệu liên quan