Theo quan điểm cá nhân bạn trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 VN nên thu hút nguồn FDI nhiều hơn hay ODA nhiều hơn

Tài liệu Theo quan điểm cá nhân bạn trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 VN nên thu hút nguồn FDI nhiều hơn hay ODA nhiều hơn: ... Ebook Theo quan điểm cá nhân bạn trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 VN nên thu hút nguồn FDI nhiều hơn hay ODA nhiều hơn

doc43 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1478 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Theo quan điểm cá nhân bạn trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 VN nên thu hút nguồn FDI nhiều hơn hay ODA nhiều hơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“Theo quan điểm cá nhân bạn trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 Việt Nam nên thu hút nguồn vốn FDI nhiều hơn hay ODA nhiều hơn.” Bài làm:. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN FDI VÀ ODA TẠI VIỆT NAM Tình hình thu hút và sử dụng vốn FDI tại Việt Nam Khái niệm FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là “một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chức trong nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu hút được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó” Theo Luật Đầu tư 2005 đã định nghĩa: “FDI là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”, trong đó nhà đầu tư nuo71c ngoài được hiểu là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Thực trạng thu hút và sử dụng vốn FDI tại Việt Nam Quy mô FDI tại Việt Nam Ngày 29 tháng 12 năm 1987, Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Hơn 20 năm qua (1988 – 2007) là một khoảng thời gian đủ dài để đánh giá một cách khách quan, có căn cứ thực tế hoạt động FDI ở Việt Nam. Từ năm 1988 –2007, hoạt động FDI trải qua các trạng thái khác nhau: Từ năm 1988 đến 1990: là 3 năm đầu triển khai Luật, được coi là một thời kỳ thử nghiệm, mò mẫm nên kết quả đạt được không nhiều, FDI chưa có tác dụng rõ rệt đến tình hình kinh tế – xã hội ở Việt Nam. Vào lúc này, ngoài việc có được Luật đầu tư nước ngoài khá hấp dẫn và môi trường khá tự do trong đầu tư và kinh doanh, thì các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương chưa có được kinh nghiệm cần thiết đối với hoạt động FDI. Các nhà đầu tư nước ngoài coi Việt Nam như “một vùng đất mới” cần phải thận trọng trong hoạt động đầu tư. Cả ba năm cộng lại, cả nước thu hút được 211 dự án với số vốn đăng ký là 1602.2 triệu USD và vốn pháp định 1279.7 triệu USD, còn vốn thực hiện thì không đáng kể, bởi vì các doanh nghiệp FDI sau khi được cấp giấy phép phải làm nhiều thủ tục cần thiết mới đưa được vốn vào Việt Nam. Bình quân 1 dự án có 7,4 triệu USD vốn đăng ký và 4,7 triệu USD vốn pháp định. Các lĩnh vực thu hút đầu tư chủ yếu là khách sạn, du lịch, khai thác thăm dò dầu khí, công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, xây dựng (xem bảng 2.2). BẢNG 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép từ năm 1988 đến năm 2007 Số dự án Vốn đăng ký (triệu USD) Tổng số vốn thực hiện (triệu USD) Tổng số Trong đó: Vốn pháp định Tổng số Chia ra Nước ngoài góp Việt Nam góp 1988 - 1990 211 1602.2 1279.7 1087.3 192.4 1988 37 341.7 258.7 219 39.7 1989 67 525.5 300.9 245 55.9 1990 107 735 720.1 623.3 96.8 1991- 1995 1409 17663 10759 8605.5 2153.5 6517.8 1991 152 1291.5 1072.4 883.4 189 328.8 1992 196 2208.5 1599.3 1343.7 255.6 574.9 1993 274 3037.4 1842.5 1491.1 351.4 1017.5 1994 372 4188.4 2539.7 2030.3 509.4 2040.6 1995 415 6937.2 3705.1 2857 848.1 2556 1996-2000 1724 26259 10921.8 8714.5 2207.3 12944.8 1996 372 10164.1 3511.4 2906.3 605.1 2714 1997 349 5590.7 2649.1 2046 603.1 3115 1998 285 5099.9 2474.2 1939.9 534.3 2367.4 1999 327 2565.4 975.1 870.5 104.6 2334.9 2000 391 2838.9 1312 951.8 360.2 2413.5 2001-2007 3935 20720.2 7310.1 6878.1 432 13852.8 2001 555 3142.8 1708.6 1643 65.6 2450.5 2002 808 2998.8 1272 1191.4 80.6 2591 2003 791 3191.2 1138.9 1055.6 83.3 2650 2004 811 4547.6 1217.2 1112.6 104.6 2852.5 2005 970 6839.8 1973.4 1875.5 97.9 3308.8 2006 833 12.003,8 3.956,3 2007 21.300,0 6.400,0 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và đầu tư Từ năm 1991 đến 1996 là thời kỳ FDI tăng trưởng nhanh, đạt kết quả cao nhất trong năm 20 năm và góp phần ngày càng quan trọng vào việc thực hiện kinh tế – xã hội. Trong kế hoạch 5 năm 1991- 1995 thu hút được 17663 triệu USD vốn FDI đăng ký, tốc độ tăng trưởng hàng năm rất cao; Vốn đăng ký năm 1991 là 1291.5 triệu USD thì vốn đăng ký năm 1995 là 6937.2 triệu USD gấp 5,4 lần. Vốn thực hiện trong cả 5 năm (1991 – 1995) là 17663 triệu USD, chiếm khoảng 32% tổng đầu tư toàn xã hội. Đã có khoảng 20 vạn người làm việc trong các doanh nghiệp FDI. Đây là thời kỳ hoạt động FDI rất sôi động, hàng nghìn đoàn khách quốc tế đến Việt Nam tìm kiếm cơ hội đầu tư, hàng trăm dự án mới chờ thẩm định, hàng chục nhà máy được khởi công cùng một lúc, bản đồ FDI thay đổi từng ngày ở Việt Nam. Giai đoạn 1997 – 2000 là thời kỳ suy thoái của dòng vốn FDI vào Việt Nam. Vốn đăng ký bắt đầu giảm từ năm 1997 và giảm mạnh trong 2 năm tiếp theo. Nếu như các doanh nghiệp FDI đã tạo việc làm trực tiếp cho khoảng 20 vạn người trong 5 năm 1991 – 1995, thì trong 5 năm 1996 – 2000 chỉ có thêm 149 nghìn người có việc làm trong khu vực FDI. Tình hình giảm sút FDI vào Việt Nam từ sau 1997 có nguyên nhân khách quan gắn với cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực và tiếp đó là sự suy giảm kinh tế của thế giới, nhất là của Mỹ, EU và Nhật Bản đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam, trước hết là xuất nhập khẩu, làm giảm rõ rệt lợi thế so sánh của Việt Nam trong đầu tư và thương mại quốc tế. Tuy vậy, cũng không thể phủ nhận một hiện thực “đáng buồn” đối với Việt Nam. Đó là khi cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực xảy ra, mặc dù nằm ngoài “tâm bão” nhưng Việt Nam lại là một trong những nước có FDI giảm sút mạnh nhất. Trong 5 nước trực tiếp xảy ra khủng hoảng kinh tế, chỉ có Indonesia, nước có cả bất ổn về chính trị là có tỷ lệ giảm FDI nhiều hơn Việt Nam. Còn Thái Lan, Philippin và Hàn Quốc sau khủng hoảng, FDI đều tăng hơn trước. Do vậy, tình hình giảm sút FDI trong những năm gần đây ở Việt Nam chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan từ hệ thống pháp luật thiếu minh bạch, nhất quán, cho đến việc thực thi pháp luật không nghiêm minh, thủ tục hành chính phiền hà, chi phí đầu tư và kinh doanh tương đối cao, đã làm cho môi trường đầu tư ở Việt Nam kém hấp dẫn hơn trước. Từ năm 2001 đến 2004 là thời kỳ hồi phục chậm của hoạt động FDI. Tính đến cuối năm 2004, tổng vốn đăng ký FDI ở Việt Nam là 4547.6 triệu USD và vốn thực hiện 2852.5 triệu USD. Con số này cho thấy, sau nhiều năm luồng vốn FDI vào Việt Nam bị chững lại, năm 2004 đã có dấu hiệu hồi phục rõ rệt. Những dấu hiệu lạc quan có thể minh chứng cho xu hướng phục hồi dòng vốn FDI vào Việt Nam, kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài đến hết năm 2005, đã có 7279 dự án FDI được cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký đạt 66,3 tỷ USD. Hết năm 2005 còn 6030 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký hơn 65 tỷ USD (kể cả tăng vốn). Tính riêng năm 2006, số dự án cấp mới là 833 dự án , chỉ bằng 86,1% so với năm 2005, với số lượng vốn đăng ký cấp mới là 7839 triệu USD bằng 166.6% so với năm 2005. Số lượt dự án tăng vốn năm 2006 là 486 dự án với số vốn tăng thêm là 2362.3 triệu USD. Như vậy, so với năm 2005, số dự án cấp mới tuy có giảm đi nhưng số lượng vốn đăng ký cấp mới lại tăng lên, chứng tỏ xu hướng dòng vốn FDI vào nước ta tiếp tục phục hồi và tăng trưởng, đạt mức kỷ lục kể từ sau khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997. Kế hoạch năm 2007 đặt ra là thu hút hơn 12 tỷ USD. Tuy nhiên, theo báo cáo mới nhất của Bộ Kế hoạch và đầu tư tính đến thời điểm tháng 4/2007 đã có 40 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn lên đến 35 tỷ USD đang chuẩn bị vào Việt Nam. Điều đáng nói là những dự án đầu tư nước ngoài này đều có số vốn khổng lồ từ 1 tỷ USD trở lên, điều mà Việt Nam chưa bao giờ có kể từ khi thu hút được những dự án FDI đầu tiên năm 1987. Đứng thứ nhất trong bảng xếp hạng vẫn là dự án xây dựng khu công nghệ kỹ thuật cao của Tập đoàn Foxconn (Hon Hai) Đài Loan, với số vốn lên đến 5 tỷ USD ở Bắc Ninh và Bắc Giang. Dự án thép với tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 3,75 tỷ USD tại Hà Tĩnh đang được nhà đầu tư như Posco - Hàn Quốc, Sunsteel - Đài Loan, Tata Steel và Essar (Ấn Độ), Bao Steel và Wuhan (Trung Quốc) quan tâm... Có thể nói, nếu như Việt Nam thu hút được một phần các dự án này thì đã hoàn thành mục tiêu thu hút hơn 12 tỷ năm nay. 1.1.2.2. Cơ cấu FDI theo lãnh thổ tại Việt Nam Trên địa phương, đến nay có 65 tỉnh thành trong cả nước đã có dự án FDI triển khai thực hiện. Cùng giống như tình hình thu hút FDI, vốn thực hiện chủ yếu được phân bổ tại các tỉnh, thành phố có điều kiện kinh tế – xã hội thuận lợi. Trong giai đoạn 1988-2005, thành phố Hồ Chí Minh là nơi có tổng vốn thực hiện cao nhất với 2057 dự án đầu tư chiếm 30.19% số dự án đầu tư trong cả nước, với tổng vốn đầu tư hơn 14 tỷ USD chiếm 23,40% ; vốn đầu tư thực hiện 6,37 tỷ USD chiếm 22,13%. Tiếp đến là Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu. Trong giai đoạn đầu tiên thu hút FDI (1988 – 1990), FDI thực hiện chủ yếu tập trung ở các tỉnh, thành phố thuộc Nam Trung Bộ để thăm dò, khai thác dầu khí và ở Đồng bằng sông Hồng. Giai đoạn 1991 – 1999, FDI thực hiện phân bố không đồng đều giữa các địa phương. Trong đó các tỉnh, thành phố có FDI thực hiện nhiều nhất là thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu và Hải Phòng, chiếm 68% tổng vốn FDI thực hiện cả nước. Giai đoạn tiếp theo (2000 – 2005), vốn FDI thực hiện chủ yếu tập trung vào các địa phương có điều kiện kinh tế thuận lợi, cơ sở hạ tầng phát triển. Tính đến hết năm 2005, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam chiếm khoảng 50% tổng vốn thực hiện cả nước, vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc chiếm 28,7% tổng vốn thực hiện. Về tình hình các dự án giải thể trước thời hạn, tính đến hết năm 2005, địa phương có số dự án buộc phải giải thể trước thời hạn lớn nhất là thành phố Hồ Chí Minh với 330 dự án và 3,23 triệu USD vốn đăng ký. Thứ hai là Bà Rịa – Vũng Tàu với 55 dự án và vốn đăng ký là 1,42 triệu USD. Rõ ràng nơi tập trung nhiều dự án nhất cũng là nơi có nhiều dự án giải thể trước thời hạn nhất. Về các dự án buộc phải chuyển đổi hình thức đầu tư, số dự án chuyển đổi hình thức đầu tư những năm qua tập trung chủ yếu vào thành phố Hồ Chí Minh chiếm 36% trong tổng số dự án bị giải thể, tiếp theo là Hà Nội với 11% tổng số dự án bị giải thể. Năm 2007, trong các địa phương thu hút được nhiều vốn FDI, Bà Rịa Vũng Tàu vươn lên vị trí thứ nhất, tiếp theo là Huế, Quảng Ngãi và Bình Dương. Điều này cho thấy 2 đầu tàu kinh tế Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh bị các tỉnh miền trung lấn lướt trong cuộc đua thu hút FDI năm nay. 1.1.2.3. FDI phân theo ngành tại Việt Nam BẢNG 2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành 1988-2006 (tính tới ngày 18/12/2006 – chỉ tính các dự án còn hiệu lực) STT Chuyên ngành Số dự án Tổng vốn đầu tư Đầu tư thực hiện Số lượng Tỷ trọng (%) Số vốn (tỷ USD) Tỷ trọng (%) Số vốn (tỷ USD) Tỷ trọng (%) I Công nghiệp 4,602 67.55 38.011 62.85 19.858 68.99 CN dầu khí 31 0.46 1.993 3.30 5.453 18.94 CN nhẹ 1933 28.37 9.702 16.04 3.484 12.11 CN nặng 2007 29.46 18.897 31.25 6.827 23.72 CN thực phẩm 275 4.04 3.252 5.38 1.959 6.80 Xây dựng 356 5.23 4.165 6.89 2.136 7.42 II Nông, lâm nghiệp 831 12.20 3.884 6.42 1.915 6.65 Nông – lâm nghiệp 718 10.54 3.558 5.88 1.749 6.08 Thuỷ sản 113 1.66 0.326 0.54 0.166 0.58 III Dịch vụ 1380 20.26 18.578 30.72 7.010 24.36 Dịch vụ 594 8.72 1.157 2.51 0.377 1.31 GTVT – Bưu điện 186 2.73 3.373 5.58 0.721 2.50 Khách sạn – Du lịch 164 2.41 3.289 5.44 2.317 8.05 Tài chính – NH 64 0.94 0.840 1.39 0.730 2.54 Văn hoá - y tế – GD 226 3.32 0.980 1.62 0.382 1.33 XD khu đô thị mới 6 0.09 3.078 5.09 0.051 0.18 XD Văn phòng – Căn hộ 120 1.76 4.433 7.33 1.860 6.46 XD hạ tầng KCX – KCN 20 0.29 1.067 1.76 0.573 1.99 Tổng số 6813 100 60.474 100 28.783 100 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và đầu tư Trong giai đoạn đầu thu hút FDI (1988-1990), vốn FDI thực hiện rất nhỏ, hầu như không đáng kể. Đến giai đoạn 1991- 1996, cùng với việc tăng vốn đầu tư thu hút vào Việt Nam tăng thì vốn FDI thực hiện cũng tăng theo, trong giai đoạn này FDI thực hiện đã có mặt ở hầu hết các ngành kinh tế nhưng chủ yếu vẫn tập trung vào ngành công nghiệp. Giai đoạn tiếp theo (1997-1999), vốn thực hiện tập trung vào ngành công nghiệp, đặc biệt là khai thác dầu thô, sản xuất lắp ráp ô tô, thiết bị văn phòng, hàng điện tử. Các doanh nghiệp FDI chiếm tới 35% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp. Cơ cấu vốn FDI thực hiện trong giai đoạn 2000 – 2005 chuyển biến tích cực theo hướng tăng tỷ trọng cả ngành công nghiệp và dịch vụ. Trong đó công nghiệp và xây dựng chiếm 69% tổng vốn thực hiện, dịch vụ chiếm 24,7% và nông – lâm – ngư nghiệp chiếm 6,3% tổng vốn thực hiện cả nước. Về tình hình các dự án giải thể trước thời hạn xét theo ngành kinh tế, tính đến hết năm 2005, ngành công nghiệp và xây dựng có nhiều dự án bị giải thể nhất và tỷ lệ vốn đầu tư bị giải thể cũng cao nhất, chiếm tới 43%. Trong đó, ngành công nghiệp là 570 dự án (chiếm 53% tổng số dự án cấp phép) với tổng số vốn đầu tư 5,4 tỷ USD (chiếm 43% tổng vốn đăng ký). Lĩnh vực dịch vụ có 54 dự án (chiếm tỷ lệ 5% tổng số dự án cấp giấy phép) với 10% tổng số vốn bị giải thể. Còn về tình hình các dự án buộc phải chuyển đổi hình thức đầu tư phân theo ngành kinh tế, trong các dự án chuyển đổi hình thức đầu tư thì ngành công nghiệp có nhiều dự án nhất với 102 dự án (chiếm 62% tổng số dự án chuyển đổi) và 68% tổng vốn đăng ký. Đứng sau công nghiệp là dịch vụ với 39 dự án chuyển đổi hình thức đầu tư, chiếm 24% số dự án và 24% trong tổng số vốn đầu tư chuyển đổi. Tính đến tháng 4 năm 2007, vốn FDI đạt 2,86 tỷ USD, vượt cùng kỳ năm ngoái gần 1 tỷ USD. Trong số này, có tới 146 dự án công nghiệp với giá trị hơn 1,6 tỷ USD, tiếp theo là lĩnh vực khách sạn, du lịch với số vốn gần 390 triệu USD đổ vào 8 dự án và thứ ba là dịch vụ, với 99 dự án trị giá 318 triệu USD. 1.1.2.4. Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư Trong giai đoạn đầu thu hút FDI vào Việt Nam (1988 – 1990), liên doanh vẫn là hình thức đầu tư nước ngoài chủ yếu vào Việt Nam, tiếp đến là hình thức hợp tác kinh doanh. Một trong những nguyên nhân là do trong thời kỳ đầu thu hút FDI, các nhà đầu tư nước ngoài còn chưa am hiểu về môi trường đầu tư của Việt Nam, về những thủ tục pháp lý cần thiết… vì thế họ lựa chọn hình thức liên doanh để tìm hiểu thêm về môi trường đầu tư của Việt Nam thông qua các đối tác liên doanh của mình. Tính tới tháng 12 năm 2006, hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm đến 76,18% số dự án; 40,13% tổng vốn đầu tư thực hiện Tiếp theo là hình thức liên doanh; các hình thức đầu tư khác đã xuất hiện như hình thức liên doanh kiểu công ty mẹ – con nhưng chiếm tỷ trọng rất nhỏ. (xem bảng 2.4). BẢNG 3 : Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo HTĐT 1988 – 2006 (tính tới ngày 18/12/2006 – chỉ tính các dự án còn hiệu lực) STT Hình thức đầu tư Số dự án Tổng vốn đầu tư Đầu tư thực hiện Số lượng Tỷ trọng (%) Số vốn (Tỷ USD) Tỷ trọng (%) Số vốn (tỷ USD) Tỷ trọng (%) 1 100% vốn nước ngoài 5190 76.18 35.145 58.12 11.543 40.13 2 Liên doanh 1408 20.67 20.194 33.39 10.952 38.08 3 Hợp đồng hợp tác KD 198 2.91 4.320 7.14 5.967 20.74 4 Hợp đồng BOT, BT, BTO 4 0.06 0.440 0.73 0.071 0.25 5 Công ty cổ phần 12 0.18 0.275 0.46 0.215 0.75 6 Công ty mẹ - con 1 0.01 0.098 0.16 0.014 0.05 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và đầu tư Sở dĩ mà doanh nghiệp có vốn 100% nước ngoài chiếm tỷ trọng cao như vậy là do nhà đầu tư đã hiểu thêm về chính sách, luật pháp và phong tục tập quán, cách thức hoạt động kinh doanh ở Việt Nam, hơn nữa, thực tế khả năng của các bên đối tác Việt Nam trong liên doanh thường yếu cả về vốn lẫn trình độ quản lý, dẫn đến hoạt động kinh doanh kém hiệu quả. Từ đó các đối tác nước ngoài có xu hướng rút dần ra khỏi liên doanh, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, đứng lên làm chủ toàn bộ doanh nghiệp mình bỏ vốn đầu tư. Thực trạng tình hình thu hút và sử dụng vốn ODA tại Việt Nam Khái niệm ODA Hỗ trợ phát triển chính thức (hay ODA, viết tắt của cụm từ Official Development Assistance), là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là Hỗ trợ bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát triển vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là Chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay. Thực trạng thu hút và sử dụng vốn ODA tại Việt Nam Để sử dụng nguồn vốn ODA đã cam kết, trong năm 2007. Chính phủ Việt Nam đã hợp tác chặt chẽ với các nhà tài trợ trong quá trình chuẩn bị các văn kiện của chương trình, dự án ODA dẫn đến kết quả ký kết được các điều ước quốc tế cụ thể về ODA với tổng giá trị ước đạt 3,6 tỷ USD, trong đó vốn vay 3,3 tỷ USD, viện trợ không hoàn lại 29,78 triệu USD, tăng khoảng 12% so với năm 2006.Tổng vốn ODA ký kết trong năm 2006-2007 đạt 6,53 tỷ USD tương đương 40% ODA dự kiến ký kết trong giai đoạn năm 2006-2010. Như vậy việc thực hiện hóa các cam kết thành các điều ước cụ thể về ODA đã đạt được tiến độ đề ra. Bảng 4: Tinh hình ODA cam kết và thực hiện ĐVT: Tỷ USD Năm Cam kết ODA (Triệu USD) Thực hiện ODA (Triệu USD) 1993 1.810 413 1994 1.940 725 1995 2.260 737 1996 2.430 900 1997 2.400 1.000 1998 2.200 1.242 1999 2.210 1.350 2000 2.400 1.650 2001 2.400 1.500 2002 2.520 1.527 2003 2.720 1.290 2004 2.840 1.340 2005 3.740 1.770 2006 4.450 2.110 2007 5.420 3.570      Nguồn: Bộ Kế hoạch và Ðầu tư Năm 2007 là năm thứ 3 liên tục tiến độ giải ngân đều đạt và vượt mức kế hoạch đề ra. Tổng vốn ODA giải ngân trong năm 2007 đạt 2 tỷ USD, vượt 5% kế hoạch đề ra và tăng 10% so với năm 2006. Nếu so với tốc độ giải ngân ì ạch của nguồn vốn trái phiếu chính phủ và vốn tín dụng đầu tư của nhà nước , thì giải ngân ODA đáng gọi là điểm sáng trong năm vừa qua . Tuy nhiên so với yêu cầu và nhiệm vụ giải ngân ODA thì trong 2 năm 2006-2007 mới giải ngân được 3,9 tỷ USD tương đương với 32% tổng vốn ODA dự kiên giải ngân trong thời kỳ 2006-2010. Thực tế này đặt ra nhiệm vụ 3 năm còn lại cần có biện pháp đẩy nhanh tốc độ giải ngân để đảm bảo nhiệm vụ giải ngân 11,9 tỷ USD vốn ODA đã đề ra. Tính đến năm 2007, cộng đồng tài trợ quốc tế đã cam kết dành cho Việt Nam nguồn vốn ODA khá lớn với tổng giá trị 36,97 tỷ USD, đã cam kết 26,2 tỷ USD và đã giải ngân 17,9 tỷ USD Trên thực tế việc thu hút và sử dụng ODA thời gian qua vẫn chưa được như mong muốn, có nơi có lúc chưa nhận thức đầy đủ và đúng đắn. Nhiều nơi coi ODA là nguồn vốn nước ngoài cho không, nếu là vốn vay thì Chính phủ có trách nhiệm trả nợ. Nhận thức sai lệch như vậy dẫn đến tình trạng một số chương trình, dự án kém hiệu quả. * Cơ cấu ODA theo lĩnh vực Bảng 5: Cơ cấu ODA theo lĩnh vực Ngành, lĩnh vực Cơ cấu ODA thực hiện 2001 – 2005 Dự kiến cơ cấu ODA kí kết 2006 – 2010 Tổng ODA kí kết (tỷ USD) Nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản và xóa đói, giảm nghèo 21% 21% 4,27 – 4,98 Năng lượng và công nghiệp 17% 15% 3,05 – 3,56 Giao thông, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước và đô thị 32% 33% 6,72 – 7,84 Y tế, giáo dục và đào tạo, môi trường, khoa học công nghệ và các ngành khác 30% 31% 6,31 – 7,37 Tổng 100% 100% 20,35 – 23,75 Ngoài ra phải kể đến việc chậm cụ thể hóa các chủ trương, chính sách và định hướng thu hút và sử dụng ODA. Điều đáng nói là khuôn khổ pháp lý về quản lý và sử dụng ODA còn nhiều bất cập.Giữa các văn bản pháp quy về quản lý và sử dụng ODA và các văn bản pháp qui chi phối nguồn vốn này còn thiếu đồng bộ. Quy trình và thủ thục thu hút và sử dụng ODA chư rõ ràng và thiếu minh bạch gây trở ngại cho quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án.Việc thi hành các văn bản pháp qui liên quan đến quản lý và sử dụng ODA chưa nghiêm. Các quy trình thủ tục quản lý ODA của Việt Nam và nhà tài trợ chưa hài hòa, nhất là các lĩnh vực di dân và giải phóng mặt bằng và đấu thầu.Chỉ tính rie61nng WB và ADB – 2 nhà tài trợ chia sẻ nhiều quan điểm chung với Việt Nam còn giữ 10 quan điểm khác nhau trong đấu thầu.Thực tế đó gây chậm trễ trong quá trình thực hiện các chương trình , dự án , hiệu quả đầu tư và tăng chi phí giao dịch. Bên cạnh đó tổ chức quản lý ODA, năng lực đội ngũ còn nhiều yếu kém, nhất là ở cấp địa phương. Những yếu kém này hiện là thách thức không nhỏ đối với các cơ quan chủ quản trong bối cảnh phân cấp mạnh công tác thẩm định và phê duyệt dự án cho cấp Bộ và UBND cấp tỉnh. Thực tế đã cho thấy hài hòa thủ tục giữa Chính phủ và nhà tài trợ là một trong những cách tiếp cận đúng đắn để đảm bảo chất lượng và tiến độ thực hiện. Trước tình hình đó, giữa năm 2007, nhóm 5 ngân hàng phát triển (ADB, AFD,JBIC, KFW, và WB) chiếm hơn 80 % nguồn vốn ODA tài trợ cho Việt Nam đã cùng ký tên vào bản kiến nghị gửi cho thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Bản kiến nghị chung này đề cập đến 12 giải pháp nóng và 3 nhóm vấn đề(bao gồm triển khai nghị định 131 về quản lý ODA , hợp lý hóa về thủ tục và luật đấu thầu) mà Việt Nam cần thực hiện ngay nhằm cải thiện tình hình thực hiện và đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA. Chưa đầy 1 tháng sau thủ tướng đã có thư phúc đáp. Theo đó một số giải pháp nóng đã được thủ tướng chấp thuận và cho phép áp dụng đối với chương trình,dự án ODA với mục tiêu tạo bước đột phá trong quá trình thực hiện dự án ODA. Cần nhấn mạnh rằng đây là lần đầu tiên có sự trao đổi giữa nhà tài trợ và người đứng đầu Chính phủ Việt Nam Trong bối cảnh hiện nay, khi nguồn ODA có khả năng gia tăng trong khi nhu cầu phát triển đòi hỏi nguồn lực này rất lớn, Chính phủ Việt Nam cam kết hợp tác chặt chẽ với các nhà tài trợ nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng ODA. Những yếu kém trên đang được khắc phục và tập trung giải quyết dứt điểm trong năm 2008 để tạo bước đột phá trong công tác thực dự án thúc đẩy giải ngân vốn ODA TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NGUỒN VỐN FDI VÀ ODA ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA Tác động của các nguồn vốn FDI đến phát triển kinh tế Việt Nam trong thời gian qua Tác động tích cực Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Trước hết, FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng vào tổng đầu tư xã hội và góp phần cải thiện cán cân thanh toán trong giai đoạn vừa qua. Các nghiên cứu gần đây của Bộ Kế hoạch và đầu tư rút ra nhận định chung rằng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp quan trọng vào GDP với tỷ trọng ngày càng tăng. Khu vực này góp phần tăng cường năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ của nhiều ngành kinh tế, khai thông thị trường sản phẩm (đặc biệt là trong gia tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá), đóng góp cho ngân sách Nhà nước và tạo việc làm cho một bộ phận lao động. Bên cạnh đó, FDI có vai trò trong chuyển giao công nghệ và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo sức ép buộc các doanh nghiệp trong nước phải tự đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất. Các dự án FDI cũng có tác động tích cực tới việc nâng cao năng lực quản lý và trình độ của người lao động làm việc trong các dự án FDI. - FDI đối với vốn đầu tư xã hội và tăng trưởng kinh tế Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới với xuất phát điểm rất thấp. Do vậy, xét về nhu cầu vốn, FDI được coi là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư trong nước, nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư cho phát triển. Đóng góp của FDI trong đầu tư xã hội biến động lớn, một phần phản ánh diễn biến thất thường của nguồn vốn này, một phần thể hiện những thay đổi về đầu tư của các thành phần kinh tế trong nước. Giai đoạn 1994 –1995, tỷ trọng của FDI trong đầu tư xã hội lên tới 30 – 31%, là mức cao nhất cho đến nay. Tỷ lệ này đã giảm dần và năm 2005, FDI thực hiện ước chiếm 16,3% trong tổng đầu tư xã hội. Trong suốt một thập kỷ qua, khu vực có vốn FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong GDP. Năm 2005, khu vực FDI đóng góp 15,9% vào GDP so với tỷ lệ đóng góp 6,4% của khu vực này năm 1994. Bên cạnh đó, khu vực có vốn FDI luôn dẫn đầu về tốc độ tăng giá trị gia tăng so với các khu vực kinh tế khác và là khu vực phát triển năng động nhất, tốc độ tăng giá trị gia tăng của khu vực này luôn cao hơn mức trung bình của cả nước. - FDI với việc nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp và xuất khẩu FDI vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, nhờ đó, trong hơn một thập kỷ qua Việt Nam đã cải thiện được nhiều ngành kinh tế quan trọng như thăm dò, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông, điện tử, xây dựng hạ tầng... Năm 2004, khu vực có vốn FDI đóng góp tới 35,68% tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước, trong khi tỷ lệ này chỉ là 25,1% năm 1995. Đến nay, khu vực có vốn FDI đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công nghiệp như dầu khí, ô tô, máy giặt, điều hoà, tủ lạnh, thiết bị máy tính; 60% cán thép; 28% xi măng; 33% máy móc thiết bị điện, điện tử; 76% dụng cụ y tế chính xác; 55% sản lượng sợi; 49% sản lượng da giày... Nhìn chung, tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn FDI luôn duy trì ở mức cao, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung toàn ngành trong suốt giai đoạn 1995 – 2003, trừ năm 2001. Năm 2004, giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực này tuy cao, đạt 15,7% nhưng thấp hơn mức chung toàn ngành, chủ yếu do tốc độ tăng rất cao của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nước (22,8%). Trong một thập kỷ trở lại đây, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI luôn cao hơn so với tốc độ tăng trung bình của cả nước. Năm 1991, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 2 tỷ USD, trong khi đó năm 2004 con số này đã là 26,5 tỷ đô la, tăng gấp 13,5 lần so với năm 1991. Khu vực FDI chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng giá trị xuất khẩu, từ 4% năm 1991 lên 54,6% năm 2004. Mặc dù FDI có tỷ trọng xuất khẩu cao song giá trị xuất khẩu ròng của khu vực có vốn FDI không cao. Sở dĩ như vậy vì các dự án FDI trong công nghiệp vẫn chủ yếu sử dụng các dây chuyền lắp ráp có quy mô nhỏ và sử dụng nguồn đầu vào từ nhập khẩu là chính. - FDI đối với việc làm và cải thiện nguồn nhân lực Hiện tại, các dự án có vốn FDI tại Việt Nam đang sử dụng khoảng 730 ngàn lao động, chỉ chiếm 1,5% tổng lao động có việc làm tại Việt Nam, so với tỷ trọng này năm 1996 là 0,7%. Điều đó cho thấy FDI vẫn xuất hiện chủ yếu trong các ngành tập trung vốn và sử dụng lao động có trình độ kỹ năng cao. Đó cũng là một cách lý giải cho mức thu nhập trung bình của lao động trong khu vực này cao gấp 2 lần so với các doanh nghiệp khác cùng ngành. Hơn nữa, số lao động này được tiếp cận với công nghệ hiện đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức lao động tiên tiến. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp FDI đã có thể thay thế dẫn các chuyên gia nước ngoài trong việc đảm nhiệm những chức vụ quản lý doanh nghiệp và điều khiển các quy trình công nghệ hiện đại. Bên cạnh số việc làm trực tiếp do FDI tạo ra nói trên, khu vực FDI còn gián tiếp tạo thêm việc làm trong lĩnh vực dịch vụ và có thể tạo thêm lao động trong các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước với điều kiện tồn tại mối quan hệ mua bán nguyên vật liệu hoặc hàng hoá trung gian giữa các doanh nghiệp này. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có số liệu thống kê chính thức về số lao động gián tiếp được tạo ra bởi khu vực FDI tại Việt Nam. - FDI với nguồn thu ngân sách Nhà nước và các cân đối vĩ mô Cùng với sự phát triển, khu vực có vốn FDI đóng góp ngày càng tăng vào nguồn thu ngân sách của Nhà nước. Theo tính toán của Tổng cục thuế, năm 2002, khu vực FDI đóng góp khoảng 480 triệu USD vào ngân sách Nhà nước, tăng 4,2 lần so với năm 1994. Tính riêng giai đoạn 1996-2002, khu vực này đóng góp vào ngân sách trung bình ở mức khoảng 6%. Tỷ trọng đóng góp nhỏ là do các doanh nghiệp FDI được hưởng chính sách khuyến khích của Chính phủ thông qua giảm thuế thu nhập trong những năm đầu hoạt động. Tuy nhiên, nếu tính cả thu từ dầu thô thì tỷ trọng này ước khoảng 20%. Bên cạnh đó, FDI đã góp phần quan trọng vào việc tăng thặng dư của tài khoản vốn, góp phần cải thiện cán cân thanh toán nói chung. Động thái của cán cân vốn trong thời kỳ 1994-2002 cho thấy có mối quan hệ khá rõ giữa số dư tài khoản vốn và dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam hàng năm. Tác động tiêu cực Tuy đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhưng về FDI cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký còn thấp, tính chung mới đạt khoảng một nửa. Trong tổng lượng vốn, có một nửa số vốn là vào các ngành khai thác tài nguyên, tận dụng bảo hộ, công nghiệp gây ô nhiễm và bất động sản. Đây là cơ cấu không mong đợi, bởi vì vốn đầu tư vào khai thác tài nguyên, thì không có tác dụng lan tỏa; vốn đầu tư vào các ngành bảo hộ không có sức cạnh tranh, thì chỉ làm cho chi phí của nền kinh tế gia tăng, kéo lùi khả năng cạnh tranh; vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp gây ô nhiễm thì lợi nhuận họ hưởng, còn hậu quả và chi phí khắc phục thì ta chịu; vốn đầu tư vào bất động sản thì có thể làm căng thêm "bong bóng", dễ gây ra bất ổn. Trong khi đó, đầu tư vào kết cấu hạ tầng, công nghiệp phụ trợ còn ít. Công nghệ được sử dụng thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm của khu vực kinh tế trong nước, nhưng do phần lớn là từ các nước châu Á (69%, riêng Đông Nam Á chiếm 19%), các nước châu Âu mới chiếm 24% (trong đó Euro 10%), châu Mỹ mới chiếm 5% (riêng Mỹ 3,6%), các nước G8 mới chiếm 23,7%, nên chưa thu hút được nhiều đầu tư từ các nước công nghiệp phát triển, công nghệ nguồn. Có một số trường hợp, nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong việc kiểm tra, giám sát tại các cửa khẩu, nên đã nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu, thậm chí là những phế thải của các nước khác. Cơ cấu đầu tư theo địa bàn cũng tập trung vào các tỉnh, thành phố có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, trong khi đó các vùng cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển như miền núi, vùng sâu, vùng xa... còn ít. Có một số người đã có sự nhầm lẫn giữa vốn đăng ký với vốn thực hiện. Vốn đăng ký mới là số vốn của các dự án mới được cấp giấy phép hoặc giấy chứng nhận đầu tư, mới chỉ là khả năng chưa phải là số vốn thực hiện, tức là chưa biến thành hiện thực. Số vốn FDI không hoàn toàn là vốn đầu tư của nước ngoài, bởi có một tỷ lệ (khoảng 30%) là sự góp vốn của các nhà đầu tư trong nước (chủ yếu bằng quyền sử dụng đất). Khi lũy kế số vốn đăng ký qua các năm, cần phải loại trừ số vố._.n của các dự án bị rút giấy phép và bị giải thể trước thời hạn (chẳng hạn, năm 2005, số vốn của các dự án bị rút giấy phép là 1,27 tỉ USD, chiếm gần 18,6% tổng vốn đăng ký trong năm đó; tính từ năm 1988 đến hết năm 2007, tổng số dự án là hơn 9.500, với số vốn đăng ký lên đến xấp xỉ 100 tỉ USD - kể cả vốn tăng thêm - nhưng nếu trừ những dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, thì chỉ còn 8.599 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký 83,1 tỉ USD). Nói như thế nhưng đầu tư trực tiếp từ nước ngoài cũng có những mặt trái. Các tập đoàn nước ngoài tràn vào thường đè bẹp các đối thủ cạnh tranh trong nước, bóp chết tham vọng của những doanh nhân nhỏ hy vọng phát triển nền công nghiệp bản địa. Có vô số thí dụ về chuyện này. Các nhà sản xuất đồ uống nhẹ khắp thế giới đã bị sự xâm nhập của Coca-Cola và Pepsi chèn ép trên chính quê hương họ. Các nhà sản xuất kem địa phương cũng thấy rằng họ không thể cạnh tranh nổi với các sản phẩm kem của Unilever. Một cách để nghĩ về vấn đề này là hồi tưởng lại những tranh cãi ở nước Mỹ về các hệ thống chuỗi cửa hàng thuốc và cửa hàng 24giờ. Khi Wal Mart xâm nhập một cộng đồng dân cư, các doanh nghiệp địa phương luôn phản đối mãnh liệt, lo ngại (một cách có lý) rằng họ sẽ bị loại khỏi cuộc chơi. Những cửa hàng địa phương sợ họ không đủ khả năng cạnh tranh với Wal Mart bởi sức mua khổng lồ của nó. Những người dân sống trong thành phố nhỏ thì lo ngại điều gì sẽ xảy ra với bản sắc của cộng đồng nếu tất cả các cửa hàng địa phương phải đóng cửa. Những lo lắng tương tự ở những nước đang phát triển còn mạnh hơn gấp nghìn lần. Mặc dù những lo ngại này là chính đáng, người ta cần phải hiểu là: lý do để Wal Mart thành công chính là ở chỗ nó cung cấp hàng hóa cho người tiêu dùng với giá cả thấp hơn. Việc cung cấp hiệu quả hàng hóa và dịch vụ đến cho dân nghèo ở những nước đang phát triển có ý nghĩa quan trọng nếu biết rằng nhiều người trong số họ sống ở ngưỡng nghèo khổ. Nhưng những nhà phê bình cũng đưa ra vô số lập luận. Nếu chưa có luật cạnh tranh hoặc có nhưng không được thực thi hiệu quả thì sau khi các hãng nước ngoài đánh bật sự cạnh tranh của các doanh nghiệp sở tại, chúng sẽ sử dụng sức mạnh độc quyền để tăng giá. Những lợi ích của giá hàng hóa rẻ sẽ chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Tác động của các nguồn vốn ODA đến phát triển kinh tế Việt Nam trong thời gian qua Tác động tích cực Tình hình thực hiện ODA đã có bước tiến triển khá, năm sau cao hơn năm trước và thực hiện tốt kế hoạch giải ngân hằng năm. Từ năm 1993 tới hết năm 2001 vốn ODA giải ngân khoảng 9,5 tỉ USD, tương đương với khoảng 54% tổng nguồn vốn ODA đã cam kết.  Nguồn vốn ODA đã được tập trung hỗ trợ cho các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội ưu tiên của Chính phủ, đó là: năng lượng điện (24%); ngành giao thông (27,5%); phát triển nông nghiệp, nông thôn bao gồm cả thuỷ sản, lâm nghiệp, thuỷ lợi (12,74 %); ngành cấp thoát nước (7,8%); các ngành y tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học - công nghệ - môi trường (11,87%).  Ngoài ra, nguồn ODA cũng hỗ trợ đáng kể cho ngân sách của Chính phủ để thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế và thực hiện chính sách cải cách kinh tế (các khoản tín dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế mở rộng, Quỹ Miyazawa, PRGF và PRSC).        Trong những năm qua, nhiều dự án đầu tư bằng vốn ODA đã hoàn thành và được đưa vào sử dụng, góp phần tăng trưởng kinh tế, xoá đói, giảm nghèo như Nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ 2 -1; nhà máy thủy điện sông Hinh;  một số dự án giao thông quan trọng như Quốc lộ 5, Quốc lộ 1A (đoạn Hà Nội - Vinh, đoạn thành phố Hồ Chí Minh- Cần Thơ, đoạn thành phố Hồ Chí Minh- Nha Trang), cầu Mỹ Thuận..; nhiều trường tiểu học đã được xây mới, cải tạo tại hầu hết các tỉnh; một số bệnh viện ở các thành phố, thị xã như bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), bệnh viện Chợ Rẫy (thành phố Hồ Chí Minh); nhiều trạm y tế xã đã được cải tạo hoặc xây mới;  các hệ thống cấp nước sinh hoạt ở nhiều tỉnh thành phố cũng như ở nông thôn, vùng núi. Các chương trình dân số và phát triển, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, tiêm chủng mở rộng được thực hiện một cách có hiệu quả. Ngoài ra, còn hàng loạt các công trình mới đầu tư bằng nguồn vốn ODA sẽ được đưa vào hoạt động trong thời gian tới.  Nhìn chung, việc sử dụng ODA trong thời gian qua là có hiệu quả, hỗ trợ tích cực cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam.  Nguồn vốn ODA đã được tập trung hỗ trợ cho các lĩnh vực phát triển kinh tế , xã hội ưu tiên của Chính phủ, đó là phát triển nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản(21%); phát triển hệ thống lưới điện và các trạm phân phối (15%); phát triển giao thông bưu chính viễn thông, cấp thoát nước và cơ sở hạ tầng đô thị (33%); các lĩnh vực y tế giáo dục và đào tạo, môi trường khoa học và công nghệ và các ngành khác (31%) Hơn nữa nguồn ODA đã góp phần đáng kể phát triển kinh tế , xã hội và xóa đói giảm nghèo của nhiều địa phương, bao gồm phát triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ( cấp nước, đường giao thông, trường học, trạm y tế, lưới điện phân phối, điện thoại nông thôn,…) và phát triển nông nghiệp, thủy lợi, thủy sản của nhiều địa phương, nhất là các tỉnh nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Giá trị ODA bình quân dầu người vùng trung du và miền núi Bắc bộ đạt 33,98 USD, vùng đồng bằng Sông Hồng đạt 18,42 USD, vúng Bắc trung bộ và duyên hải miền trung đạt 52,48USD, vúng Tây nguyên đạt 21,86USD, vùng đồng bằng Song Cửu Long đạt 11,19USD. Nhiều dự án đầu tư bằng vốn ODA đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, góp phần tăng trưởng kinh tế, xóa đói, giảm nghèo. Bên cạnh đó còn hàng loạt các công trình mới đầu tư bằng nguồn vốn ODA đang và sẽ được đưa vào hoạt động trong thời gian tới như phát triển hệ thống đường cao tốc Bắc Nam, các đường trục chính của các vùng kinh tế, phát triển các tuyến đường ở miền núi phía bắc, Tây Nguyên, ĐBSCL,…xây dựng một số cầu đường bộ lớn ở cả 3 miền, nâng cấp xây dựng một số tuyến đường sắt cao tốc Hà Nội – Hồ Chí Minh, xây dựng mới một sân bay quốc tế hiện đại tại thủ đô Hà Nội (cảng hàng không quốc tế T2), sân bay Long Thành - Biên Hòa, Đà Nẵng, Cam Ranh - Khánh Hòa và Phú Quốc – Kiên giang cũng sẽ được ưu tiên sử dụng nguồn vốn này. Tác động tiêu cực Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên thế giới). Ví dụ: Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế giới). Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất. Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia. Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên. Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án,… khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp,... có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần Những đóng góp của ODA cho phát triển kinh tế xã hội thời gian qua là rất đáng khích lệ, tuy nhiên việc thực hiện các chương trình dự án ODA còn chậm giải ngân vốn chưa đáp ứng yêu cầu đề ra đã làm lu mờ đi một phần những nỗ lực trên đây. NHU CẦU VỐN ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM TỪ NAY ĐẾN 2010 Nhu cầu vốn để tạo ra của cải cho xã hội Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Bên cạnh nguồn vốn đầu tư trong nước là đầu tư nước ngoài, trong đó có nguồn vốn đầu tư trực tiếp (FDI), chúng ta nhận thấy vai trò cơ bản của FDI Tác động trực tiếp Bæ sung vèn cho ®Çu t ph¸t triÓn Bổ sung vốn cho đầu tư phát triển Thúc đẩy tang trưởng kinh tế Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu,… Tác động gián tiếp Tạo kênh cạnh tranh Tạo kênh phổ biến và chuyển giao công nghệ Kênh di chuyển lao động Kênh liên kết sản xuất,… Từ 2006 đến năm 2010, Việt Nam có những mục tiêu chiến lược: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2006-2010: GDP tăng gấp 2,1 lần so với năm 2000 GDP bình quân đầu người: 1050-1100 USD Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm 7,5-8% à FDI cần huy động là trên 30 tỷ USD chiếm 60% nguồn vốn huy động từ nước ngoài, trên 20% tổng số vốn huy động. Như vậy vấn đề thu hút FDI là cần thiết đối với Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến 2010. Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO, cho nên Việt Nam có nhiều thuận lợi. Điều dễ nhìn thấy nhất là lượng vốn đầu tư đăng ký và thực hiện đạt mức khá qua các thời kỳ và gần đây tăng nhanh. Tính đến nay đã có hơn 100 tỉ USD đăng ký và trên 45 tỉ USD  vốn thực hiện; nếu tính theo đầu người thì Việt Nam đứng hàng đầu trong các nước hiện nay. Năm 2006 có 12 tỉ USD đăng ký và gần 4 tỉ USD thực hiện; năm 2007 tương ứng đạt 21,3 tỉ USD đăng ký và khoảng 8 tỉ USD thực hiện. Trong 83 nước và vùng lãnh thổ đầu tư, có 18 nước và vùng lãnh thổ đạt trên 1 tỉ USD. Tất cả 64 tỉnh, thành phố có vốn ĐTNN, trong đó có 15 địa bàn đạt trên 1 tỉ USD. Cơ cấu vốn đã chuyển dịch theo hướng tích cực cả theo nhóm ngành kinh tế, theo địa bàn, theo nhóm nước và vùng lãnh thổ có vốn đầu tư. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế Việt Nam, từ việc bổ sung vốn đầu tư, cải thiện cán cân thanh toán, tăng cường năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ, gia tăng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp ngân sách, đến việc tạo việc làm cho người lao động,... Nhu cầu vốn để phát triển cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng ở Việt Nam hiện nay rất yếu và thiếu, trong khi nhu cầu về cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam là rất lớn. Lĩnh vực về cơ sở hạ tầng ở Việt nam hiện nay là lĩnh vực tư nhân không muốn đầu tư và cũng chẳng đủ năng lực đầu tư. Chính vì thế cần đến vai trò của nhà nước. Ngân sách nhà nước Việt Nam hiện nay không đủ đáp ứng nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng và các lĩnh vực mà lợi ích mang tính xã hội. chính vì thế Việt Nam cần phải tranh thủ nguồn viện trợ, nguồn vốn vay lãi suất thấp ODA để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế. Vai trò của ODA trong giai đoạn 2006-2010 Bổ sung vốn cho phát triển kinh tế xã hội Tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, tăng cường năng lực R&D và phát triển nguồn nhân lực Xây dựng chiến lược, hoàn thiện hệ thống pháp lí theo tiêu chuẩn quốc tế, cải cách hành chính và tăng cường năng lực thể chế. Tăng khả năng thu hút vốn FDI vào Việt Nam và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển Cơ sở hạ tầng ở Việt Nam đang ở trong tình trạng quá tải, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới, vì thế Chính phủ Việt Nam đã có chủ trương như sau: Giai đoạn 2006-2010, Chính phủ sẽ dành 33% trong số 23,75 tỷ USD vốn ODA để phát triển giao thông, bưu chính viễn thông, cấp thoát nước và đô thị. Đầu tư trọng điểm vào phát triển cơ sở hạ tầng, là một trong những nội dung quan trọng nhất trong bản đề án "Định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) thời kỳ 2006 - 2010" vừa được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định phê duyệt số 290/2006/QĐ - TTg ngày 29/12/2006. Theo báo cáo mới nhất của Ngân hàng thế giới (World Bank) nhan đề “Việt Nam: Những thách thức đối với cơ sở hạ tầng” vừa được công bố ngày 15/5/2006 tại Hà Nội thì hơn 20 năm qua, Việt Nam đã thành công lớn trong đảm bảo lợi ích từ các đầu tư vào cơ sở hạ tầng được chia sẻ trên khắp đất nước. Và các đầu tư này đã hỗ trợ cho phát triển nhanh chóng, tăng tiếp cận đến các dịch vụ cơ bản và giảm nghèo. Số liệu từ báo cáo này cũng cho thấy, những thực tế đáng khen ngợi trong chiến lược cơ sở hạ tầng hiện tại của Việt Nam, trong đó, tổng đầu tư cho cơ sở hạ tầng của Việt Nam những năm gần đây đã đạt mức 10% GDP (tỷ trọng này là rất cao so với tiêu chuẩn quốc tế). Mạng lưới đường bộ Việt Nam đã tăng hơn gấp đôi chiều dài (so năm 1990) với chất lượng đường được cải thiện rõ rệt. Bên cạnh đó, tất cả các khu vực đô thị và 88% các hộ gia đình nông thôn đã có điện. Số người được dùng nước sạch tăng từ 26% dân số năm 1993 lên đến 49% dân số năm 2002. Tỷ lệ số người có hố xí vệ sinh tăng từ 10% lên 25% dân số. Tuy nhiên, báo cáo này cũng lưu ý những thách thức mới Việt Nam cần quan tâm là, sự cần thiết phải huy động nguồn vốn mới bởi hiện nay, nguồn tài chính quốc tế tài trợ chiếm gần 40% đầu tư cơ sở hạ tầng tại Việt Nam, đến khi giàu mạnh, hỗ trợ từ nguồn này sẽ chỉ còn được là vai trò thứ yếu. Do đó, việc nhanh chóng tìm kiếm nguồn tài chính thay thế là rất cần thiết. Bên cạnh đó là thách thức từ đô thị hóa tăng nhanh. Tại Việt Nam, mỗi năm có khoảng một triệu người từ vùng nông thôn chuyển đến các thành phố lớn, đòi hỏi Việt Nam phải nâng cao năng lực quản lý và lập kế hoạch đô thị. Đặc biệt, phải kiểm soát có hiệu quả những nhu cầu xây dựng nhà ở không theo quy hoạch và cơ sở hạ tầng cơ bản trước khi tiến hành xây dựng. Nên trao thêm trách nhiệm cho chính quyền địa phương và thông qua phương pháp lập kế hoạch linh động để đạt được yêu cầu. Ngoài ra việc cung cấp cơ sở hạ tầng nhìn chung đem lại những lợi ích xã hội cao, nhưng khi càng nhiều người được tiếp cận với các dịch vụ cơ bản thì lại càng khó tìm ra hình thức đầu tư có lợi nhuận cao. Do đó, cần cải thiện các quy trình lập kế hoạch để xác định các cơ hội đầu tư mang lại lợi ích lớn cho xã hội, để tối đa hóa lợi nhận cho những đầu tư đã lựa chọn, cũng như cần phải cải cách điều hành, giải quyết các vấn đề, đặc biệt là vấn đề tham nhũng. Mặt khác, do Việt Nam đã giảm nghèo, sự khác biệt giữa tỷ lệ nghèo thành thị và nông thôn đang thu nhỏ lại. Nhưng đây cũng là lúc khoảng cách giữa những người có thu nhập cao nhất và thu nhập thấp nhất lại tăng lên, nên vấn đề quan trọng là làm thế nào để tập trung nguồn hỗ trợ tài chính của Chính phủ cho cơ sở hạ tầng để mang lại lợi ích cho những người nghèo nhất. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, để thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu được xây dựng trên cơ sở đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững trong kế hoạch 5 năm 2006 – 2010 thì nhu cầu đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng là rất lớn. Trước mắt, Việt Nam cần tập trung nhiều hơn cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và xóa đói giảm nghèo; tiếp tục ưu tiên cho vùng còn khó khăn, các tỉnh thường bị thiên tai bão lũ; Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội nhằm tạo bước chuyển biến mạnh về xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo tiền đề cho phát triển đất nước. Ưu tiên phát triển hạ tầng giao thông Theo bản đề án, lĩnh vực phát triển hạ tầng giao thông tiếp tục là mối quan tâm hàng đầu của Chính phủ. Đặc biệt, đây cũng là lĩnh vực mà các nhà tài trợ vốn ODA như ADB, JBIC, WB... rất quan tâm từ trước tới nay cũng như trong nhiều năm tới. Cụ thể, nguồn vốn ODA cho lĩnh vực này trong 5 năm tới sẽ tiếp tục tăng mạnh để đầu tư cho các lĩnh vực phát triển hệ thống đường cao tốc Bắc - Nam, các đường trục chính của các vùng kinh tế; ưu tiên phát triển các tuyến đường ở miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, ĐBCSL; phát triển mạnh hệ thống đường cao tốc, nhất là tại các vùng kinh tế trọng điểm. Ngoài ra, nguồn vốn này sẽ phát triển các tuyến hành lang giao thông trong khuôn khổ hợp tác tiểu vùng Mê Kông mở rộng. Trong đó gồm có tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia và hai hành lang và một vành đai kinh tế Việt - Trung, xây dựng một số cầu đường bộ lớn ở cả 3 miền, trong đó có các cầu Cao Lãnh, Vàm Cống thuộc Dự án đường Hồ Chí Minh (giai đoạn II). Đồng thời, giao thông nông thôn cũng nằm trong phạm vi của nguồn vốn, gồm nâng cấp các tuyến đường huyện, bảo đảm đường thông suốt cả năm từ thôn bản đến trung tâm xã, đầu tư hỗ trợ bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ cũng như công tác duy tu bảo dưỡng đường bộ. Bên cạnh việc định hướng đầu tư cho các dự án giao thông cầu đường bộ, đối với lĩnh vực đường sắt, Chính phủ sẽ thu hút vốn ODA xây dựng một số tuyến đường sắt, kể cả tuyến đường sắt cao tốc Hà Nội - Tp. Hồ Chí Minh; tăng cường năng lực quản lý và điều hành ngành đường sắt. Lĩnh vực hàng không, các sân bay quốc tế sẽ được xây dựng ở một số tỉnh, thành phố phù hợp với quy hoạch phát triển hệ thống các sân bay của cả nước, trước mắt xây dựng mới một sân bay quốc tế hiện đại cho Thủ đô Hà Nội (Cảng Hàng không Quốc tế 2), Long Thành - Biên Hoà, Đà Nẵng (nhà ga), Cam Ranh - Khánh Hoà (nhà ga) và Phú Quốc - Kiên Giang. Trong giai đoạn này, Chính phủ cũng sẽ tập trung vốn ODA để xây dựng một số cảng nước sâu, trong đó có các cảng Vân Phong - Khánh Hoà, cảng Lạch Huyện - Hải Phòng, và các cảng trung chuyển. Ngoài ra sẽ hỗ trợ đầu tư phát triển hệ thống các tuyến đường thuỷ nội địa quan trọng ở Đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL. Thể chế, tăng cường năng lực con người trong lĩnh vực giao thông, nhất là an toàn giao thông, cũng sẽ là một hướng đầu tư. Chính phủ cũng định hướng cụ thể trong việc sử dụng nguồn vốn ODA. Đối với nguồn vốn ODA hoàn lại, đặc biệt là các khoản vay có ưu đãi cao (lãi suất thấp, thời gian trả nợ dài và có ân hạn) thì ưu tiên sử dụng để phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế. Các khoản vay ODA có điều kiện ưu đãi kém hơn (lãi suất cao, thời gian trả nợ và ân hạn ngắn) sẽ được sử dụng cho các chương trình, dự án có tính khả thi cao về mặt kinh tế và có khả năng trả nợ. Theo đánh giá của Bộ Giao thông Vận tải, thời gian tới vốn ODA dành cho phát triển hạ tầng giao thông về cơ bản vẫn sẽ đến từ các nhà tài trợ lớn, truyền thống JBIC, WB, ADB, AFD (Cơ quan Phát triển Pháp) và KFW (Ngân hàng Tái thiết Đức). Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA Theo nhận định của các chuyên gia, mặc dù nguồn cung cấp ODA trên thế giới vẫn còn hạn chế, nhưng nguồn vốn ODA dành cho Việt Nam trong giai đoạn tới sẽ vẫn tăng trưởng mạnh. Dự báo từ nguồn vốn ODA ký kết cho thấy, bên cạnh 8 tỷ USD vốn ODA thời kỳ 2001 - 2005 chuyển tiếp sang, trong giai đoạn từ 2006 - 2010, vốn ODA ký kết mới sẽ đạt khoảng từ 12,35 - 15,75 tỷ USD, đưa tổng nguồn vốn ODA được ký kết lên con số 23,75 tỷ USD. Dự báo tổng vốn ODA sẽ giải ngân thời kỳ 2006 - 2010 đạt khoảng 11,46 - 12,41 tỷ USD. Để sử dụng hiệu quả nguồn vốn này, trong bản đề án Chính phủ đã nêu rõ: "Trong giai đoạn 2006 - 2010, chủ trương thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam" là tiếp tục tranh thủ đi đôi với việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA, bảo đảm khả năng trả nợ để hỗ trợ thực hiện thành công kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2006 -2010". Bản đề án của Chính phủ cũng nêu rõ: "Chính sách thu hút và quản lý ODA trong thời gian tới cần tập trung cải thiện mạnh mẽ tình hình giải ngân các chương trình và dự án ODA đã ký kết, sớm đưa các công trình vào khai thác và sử dụng, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng ODA. Đồng thời, xây dựng các chương trình, dự án ODA gối đầu cho giai đoạn sau năm 2010, đặt trọng tâm vào chất lượng và hiệu quả". Mặc dù xác định ODA là nguồn vốn vô cùng quan trọng đối với việc phát triển cơ sở hạ tầng, nhưng từ những bài học chủ yếu được rút ra qua thực tế thu hút và sử dụng ODA trong giai đoạn 2001- 2005, Chính phủ đã nêu rõ rằng các cơ quan tiếp nhận nguồn vốn này cần nhận thức đúng đắn về ODA, coi ODA là nguồn lực bên ngoài có tính chất bổ sung chứ không thay thế nguồn lực nội sinh đối với quá trình phát triển ở cấp độ quốc gia, ngành, địa phương và đơn vị thụ hưởng. Vì xét cho cùng, ODA không phải là "thứ cho không" mà chủ yếu là vay nợ nước ngoài theo các điều kiện ưu đãi, gắn với uy tín và trách nhiệm quốc gia trong quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế. XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA CÁC NGUỒN VỐN FDI VÀ ODA TRÊN THẾ GIỚI Xu hướng vận động của FDI Sau ba năm suy thoái, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên toàn cầu năm 2004 đạt 648 tỷ USD, tăng 2% so với năm 2003, nhưng xu hướng không đồng nhất. Dòng chảy FDI đổ vào các nước đang phát triển tăng 40%, đạt 233 tỷ USD, trong khi FDI ở các nước phát triển giảm 14%, còn 380 tỷ USD. Xu hướng FDI toàn cầu Dòng FDI: Đầu 90s:100 tỷ USD/năm. Đầu những năm 2000: 1200 tỷ USD/năm Bảy trong số mười nền kinh tế đạt tăng trưởng lớn nhất về thu hút FDI năm 2004 là các nước đang phát triển hoặc có nền kinh tế chuyển đổi; trong khi mười nền kinh tế có sự sụt giảm lớn nhất trong lĩnh vực này lại rơi vào các nước phát triển. Năm điểm nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất trong số các nước đang phát triển là Trung Quốc, Hồng Công thuộc Trung Quốc, Brazil, Mexico và Singapore Khu vực châu Á và châu Đại Dương đạt tăng trưởng lớn nhất về thu hút FDI với mức tăng 46%, khu vực Mỹ Latinh và Caribe tăng 44%, trong khi dòng chảy FDI vào châu Phi không thay đổi. FDI vào các nước kém phát triển nhất đạt mức cao nhất từ trước đến nay với 11 tỷ USD. Báo cáo của UNCTAD cho thấy sự khác biệt lớn trong dòng chảy FDI tại các nước phát triển. FDI vào Mỹ tăng 62%, đạt mức 96 tỷ USD; FDI vào Anh tăng gấp ba lần với con số 78 tỷ USD. Australia thu hút mạnh FDI với mức kỷ lục 43 tỷ USD nhờ việc đầu tư cổ phiếu và tăng cường mua bán, sáp nhập các công ty lớn. Tuy nhiên, FDI vào Liên minh châu Âu (EU) giảm 38% trong năm 2004, xuống mức 216 tỷ USD Các nước EU có sự đối lập lớn về thu hút FDI giữa các thành viên cũ và mới. Tại 15 nước thành viên cũ của EU, dòng FDI giảm 40%, ở mức thấp nhất kể từ năm 1998. Tại Đan Mạch, Đức và Hà Lan, FDI giảm do việc trả các khoản nợ trong công ty và việc chuyển vốn về nước của các công ty mẹ. Trong khi đó, năm 2004 FDI vào tất cả các nước thành viên mới của EU tăng gần 70% so với năm 2003, đạt mức 20 tỷ USD. Ba Lan, Séc, Hungary là những nước thu hút phần lớn dòng đầu tư này. Châu Á đạt kỳ tích về thu hút FDI Báo cáo đánh giá khu vực châu Á và châu Đại Dương đạt mức kỷ lục về thu hút FDI trong năm 2004 với 148 tỷ USD, nhiều hơn 46 tỷ USD so với năm 2003. Đây là khu vực tiếp nhận nhiều FDI nhất trong số các nước đang phát triển nhờ tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, chính sách được cải thiện, các tập đoàn xuyên quốc gia có cam kết chiến lược về đầu tư vào thị trường này. Trung Quốc nổi lên như một nước tiếp nhận đầu tư nhiều nhất không chỉ so với các nước trong khu vực mà so với các nước đang phát triển trên toàn thế giới. Lượng FDI năm 2004 vào Trung Quốc đạt mức kỷ lục mới với 60,6 tỷ USD. Theo UNCTAD, Đông Á với mức tăng trưởng FDI 46% vẫn là điểm đến được ưa chuộng đối với dòng chảy FDI năm 2004, Tây Á đứng đầu với mức tăng trưởng FDI là 51%, đạt 9,8 tỷ USD. Lượng FDI vào khu vực Đông Nam Á tiếp tục tăng, từ 17 tỷ USD năm 2003 lên 26 tỷ USD năm 2004, mức tăng cao nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ năm 1997-1998. Khu vực Nam Á đạt tăng trưởng FDI là 31%, trong khi FDI vào châu Đại Dương giảm 54%, còn 67 triệu USD trong năm 2004. Báo cáo đánh giá nguyên nhân chủ yếu khiến FDI vào khu vực châu Á tăng là do số vụ sáp nhập và mua bán các công ty xuyên quốc gia tiếp tục gia tăng. Trong khi đó, FDI dành cho nghiên cứu và phát triển, một lĩnh vực tăng trưởng khá mới đối với các nước đang phát triển đã tăng lên nhanh chóng ở châu Á trong thời gian qua. Lượng FDI từ châu Á và châu Đại Dương ra bên ngoài trong năm 2004 tăng gấp bốn lần, lên tới 69 tỷ USD, trong đó có 40 tỷ USD từ Hồng Công (Trung Quốc). Các dòng đầu tư ra nước ngoài của Hàn Quốc, Singapore, Ấn Độ cũng tăng mạnh. Vì môi trường về FDI trong khu vực tiếp tục được cải thiện nên dòng FDI ra và vào khu vực vẫn có nhiều triển vọng Theo dự đoán, năm nay FDI vào Trung Quốc sẽ tăng, các dòng đầu tư vào khu vực Đông Nam Á cũng có chiều hướng gia tăng trong năm thứ ba liên tiếp. FDI vào khu vực Tây Á có thể tăng liên tục trong năm 2005, đặc biệt trong ngành công nghiệp dầu khí để đáp ứng nhu cầu nhiên liệu đang gia tăng trên thế giới Dự báo của UNCTAD cho thấy, năm nay các công ty Trung Quốc, Ấn Độ và Hàn Quốc sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong các dòng FDI từ khu vực ra bên ngoài thông qua các vụ sáp nhập và mua bán quy mô lớn giữa các công ty nội địa và công ty nước ngoài. Trung Quốc có khả năng sẽ trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn ở châu Mỹ Latinh. Chuyên gia kinh tế của UNDP tại Việt Nam Jonathan Pincus cho biết, năm 2004, FDI vào Việt Nam đạt 1,6 tỷ USD, tăng so với mức 1,45 tỷ USD năm 2003 và 1,2 tỷ USD năm 2002. Những lĩnh vực có tiềm năng thu hút FDI của Việt Nam là dầu khí, khai thác khoáng sản. Năm 2004 Việt Nam xếp hạng 50 theo chỉ số thực hiện dòng FDI từ bên ngoài vào. Ông Pincus đánh giá, tiềm năng thu hút FDI của Việt Nam rất lớn do Việt Nam có vị trí thuận lợi trong khu vực, đạt được nhiều tiến bộ, môi trường chính trị ổn định, các tập đoàn lớn quan tâm đến thị trường này. Tuy nhiên, những thách thức Việt Nam phải đối mặt đó là, thủ tục cấp phép đầu tư còn chậm, một số chi phí và dịch vụ vẫn ở mức cao, sự phối hợp giữa chính quyền các cấp chưa đồng bộ. Việt Nam cần nâng cao tính cạnh tranh trong việc thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhất là với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia Ngành dịch vụ càng ngày càng chiếm một thị phần lớn của thương mại toàn cầu.   Khu vực dịch vụ bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau từ du lịch, qua tài chính cho đến lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe... Trong những nền kinh tế thế giới phát triển, các dịch vụ này thường chiếm trên phân nửa các hoạt động kinh tế.   Dòng chảy đầu tư vào dịch vụ   Theo UNCTAD, tỷ trọng dịch vụ trong xuất nhập khẩu hiện chiếm khoảng 70% giá trị xuất nhập khẩu toàn cầu. Điều này có nghĩa là muốn thu hút đầu tư nước ngoài từ các nước phát triển, Việt Nam phải mở cửa khu vực dịch vụ và thu hút đầu tư, liên doanh trên các lĩnh vực dịch vụ.   Báo cáo đầu tư thế giới năm 2007 cũng chỉ ra rằng dòng vốn FDI trên thế giới đang có xu hướng tập trung vào lĩnh vực dịch vụ. Là một nước tiếp nhận đầu tư, Việt Nam có nhiều cơ hội để thu hút vốn FDI vào lĩnh vực này.   Việc mở cửa thị trường dịch vụ cho nhà đầu tư nước ngoài sẽ tạo điều kiện để đa dạng hoá và nâng cao chất lượng phát triển của các ngành dịch vụ, qua đó, góp phần tăng trưởng kinh tế, tạo thêm giá trị gia tăng và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Ngược lại, sự tăng trưởng và phát triển của các ngành dịch vụ cũng tạo điều kiện để Việt Nam tăng sức hấp dẫn và cạnh tranh thu hút FDI vào các ngành kinh tế khác.   Trong xu thế vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam ngày càng nhiều, dòng vốn đang có sự chuyển dịch cơ cấu “chảy” mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước trong năm 2007 vừa qua, trong đó tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn đầu tư nước ngoài trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%).   Trong số các ngành dịch vụ, lĩnh vực dịch vụ du lịch đang nổi lên là điểm sáng đáng chú ý của nền kinh tế Việt Nam với số lượng các dự án lớn đang tìm hiểu và xúc tiến đầu tư tăng mạnh.   Chỉ tính riêng năm 2007, số liệu thống kê của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch cho thấy: ngành du lịch Việt Nam đã thu hút 47 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký lên đến trên 1,86 tỷ USD, tăng 19,57% so với năm 2006. Xu hướng vận động của ODA Dòng ODA: Đầu 90s: mức luân chuyển 60 tỷ USD/năm Những năm 2000: mức luân chuyển là 38 tỷ USD/năm Hiện nay, trên thế giới có 2 nguồn cung cấp ODA chủ yếu là: các nhà tài trợ song phương (các nước thành viên của Ủy ban Hỗ trợ Phát triển – DAC, Trung – Đông Âu, một số nước Ả Rập và một số nước công nghiệp mới), các tổ chức tài trợ đa phương (chủ yếu WB, ADB, FDB, IMF), ngoài ra còn có các khoản tài trợ từ các tổ chức phi chính phủ (NGO). Trong số các nguồn này thì ODA từ các nước thành viên của DAC là lớn nhất. Hàng năm, dòng vốn này trung bình đạt khoảng 50.000 triệu USD, năm 1996 đạt 55.438 triệu USD, năm 1997 đạt 47.580 triệu USD, năm 1998 đạt 51.521 triệu USD, năm 1999 đạt 56.526 triệu USD, năm 2000 đạt 53.700 triệu USD và lượng vốn này chiếm một tỷ lệ đáng kể là từ GNP của các nước DAC. Tuy nhiên, theo tính toán của UNDP, để thực hiện mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, mỗi năm toàn thế giới cần 96 – 116 tỷ USD. So với con số hỗ trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển hiện nay là 54 tỷ USD thì khoản hỗ trợ này cần tăng gấp đôi và chiếm 0,5% GDP của các nước thuộc DAC của OECD. Hiện tại, trong số 22 nước thành viên của DAC có tới 17 nước dành dưới 0,5% GDP cho viện trợ nước ngoài, 11 nước dành dưới 0,3% GDP. Nhìn chung, trong những năm gần đây, viện trợ nước ngoài giảm mạnh. Song tại Hội nghị quốc tế về tài trợ phát triển của UN diễn ra vào tháng 3/2002 tại Môngtơrây (Mehico) cho thấy, xu hướng này sẽ thay đổi, một số nước đã cam kết mới về hỗ trợ, tổng OD._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24744.doc
Tài liệu liên quan