Thị trường ô tô Việt Nam trong những năm gần đây thực trạng và giải pháp

Lời mở đầu Việt Nam đang trên con đường hội nhập và phát triển vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Đảng và nhà nước ta đã khẳng định “Phát triển kinh tế hàng hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa”. Từ khi đổi mới tới nay thị trường hàng hoá Việt Nam phát triển khá đa dạng và phong phú nó góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Chính vì vậy thị trường hàng hoá có ý nghĩa rất lớn đối với mỗi doanh nghiệp vì nó vừa là chỗ để doanh nghiệp tồn tại và phát triển cũng như l

doc63 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1351 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thị trường ô tô Việt Nam trong những năm gần đây thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à nơI để doanh nghiệp đặt ra mục tiêu, vừa là nơI chi phối hoạt động của các doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát tiển của nhiều loại thị trường hàng hoá, đã nổi nên một loại thị trường đó là thị trường ôtô . Cho đến nay thị trường đó phát triển khá đa dạng và phong phú . Không những đa dạng về chủng loại , số lượng , chất lượng mà còn đa dạng về việc xuất hiện nhiều công ty hàng đầu trong nghành công nghiệp ôtô trên thế giới có mặt tại Việt Nam, thị trường này đã ngày càng trở nên quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Với mục đích chính là không chỉ góp phần vào mục tiêu CNH – HĐH đất nước mà còn góp phần vào công cuộc hội nhập nghành công nghiệp nước ta nói chung và nghành công nghiệp ôtô nói riêng vào thị trường các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính vì vậy để góp phần làm rõ hơn sự phát triển của thị trường ôtô nước ta. Em chọn đề tài “ Thị trường ôtô Việt Nam trong những năm gần đây thực trạng và giải pháp”. Trong khuân khổ đề tàI, Em xin được chia vấn đề làm 3 chương để nghiên cứu : Chương I : Những vấn đề cơ bản của thị trường hàng hoá . Chương II : Thực trạng thị trường ôtô nước ta hiện nay. Chương III : Những giảI pháp để phát triển thị trường ôtô nước ta. Do đề tài rất rộng và có nhiều vấn đề phức tạp. Vì vậy trong khuân khổ đề án này, do kiến thức còn hạn chế, không thể tránh khỏi những thiếu sót trong việc tìm hiểu và nghiên cứu. Vì thế em rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét chân thành của các thầy cô và bạn bè, để qua đó đề tàI của em được hoàn thiện hơn.Đặc biệt qua đây em xin chân thành cám ơn GS.TS Đặng Đình Đào và Th.S Nguyễn Anh Tuấn đã tận tình giúp đỡ em về mặt tài liệu, cũng như trực tiếp hướng dẫn em về phương pháp nghiên cứu và góp ý cho em để hoàn thành đề án nghiên cứu đề tàI đầu tay này của mình. Em xin chân thành cám ơn ! Chương i Những vấn đề cơ bản của thị trường hàng hoá I - Tổng quan về thị trường hàng hoá 1 - Khái niệm thị trường Thị trường là một phạm trù kinh tế của sản xuất hàng hoá . Thị trường được nhiều nhà kinh tế định nghĩa khác nhau . Có người coi thị trường là cái chợ, là nơi mua bán hàng hoá . Hoặc thị trường là tổng hợp các lực lượng và các điều kiện , trong đó người mua và người bán thực hiện các quyết định chuyển hàng hoá và dịch vụ từ người bán sang người mua. Có nhà kinh tế lại quan niệm thị trường là lĩnh vực trao đổi mà ở đó người mua và người bán cạnh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hoá ; hoặc đơn giản hơn : “ thị trường là tổng hợp các số cộng của người mua về một sản phẩm hay dịch vụ” .Gần đây có nhà kinh tế lại định nghĩa “thị trường là nơi mua bán hàng hoá , là một quá trình trong đó người mua và người bán một thứ hàng tác động qua lại nhau để xác định giá cả và số lượng, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán bằng tiền trong một thời gian và không gian nhất định” . Nhưng suy cho cùng người ta cũng đưa ra các khái niệm cụ thể sau : 1.1. Khái niệm cổ điển : Theo quan niệm cổ điển , thị trường là nơi diễn ra các quan hệ trao đổi , mua bán hàng hoá . Theo khái niệm này thì thị trường chỉ được thu hẹp trong phạm vi “cái chợ”. Nó bị giới hạn về không gian , thời gian và dung lượng của thị trường .Để khắc phục được những nhược điểm này thì ta xem xét khái niệm thị trường theo quan niệm hiện đại . 1.2. Khái niệm hiện đại : Thị trường là quá trình mà người mua , người bán tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và lượng hàng hoá mua bán . Qua đây ta thấy thị trường là tổng thể các quan hệ về lưu thông hàng hoá , lưu thông tiền tệ , các giao dịch mua bán và các dịch vụ . 1.3. Khái niệm thị trường ở tầm vĩ mô : Khái niệm này được các nhà nghiên cứu kinh tế sử dụng để vạch ra đường nối chính sách phát triển của đất nước . Nó không được sử dụng trong thị trường vi mô . Với định nghĩa này thì các yếu tố cấu thành của thị trường gồm có : * Tổng cung hàng hoá * Tổng cầu hàng hoá * Giá cả hàng hoá 1.4. Khái niệm thị trường ở tầm vi mô : ( hay còn được gọi là thị trường của doanh nghiệp ) Thị trường của doanh nghiệp được hiểu là một hay nhiều nhóm khách hàng có tiềm năng tượng tự nhau với việc bán cụ thể nào đó , mà doanh nghiệp có thể sản xuất ra hay mua hàng hoá để thoả mãn nhu cầu của nhóm khách hàng này . Các định nghĩa trên đây về thị trường nhấn mạnh ở địa điểm mua bán , vai trò của người mua(khách hàng), người bán hoặc chỉ của người mua, coi người mua giữ vai trò quyết định trong trường, chứ không phải người bán(nhà cung ứng), mặc dù không có người bán, không có người mua, không có hàng hoá và dịch vụ không thoả thuận thanh toán bằng tiền hoặc hàng thì không thể có thị trường, không thể hình thành thị trường. Cho dù thị trường hiện đại có thể một trong vài yếu tố trên không có mặt trên thị trường, thì thị trường vẫn chịu sự tác động của các yêú tố ấy và thực hiện việc trao đổi hàng hoá thông qua thị trường .Vì vậy đã nói đến thị trường phải nói đến những yếu tố sau: Một là : Phải có khách hàng (người mua hàng) không nhất thiết phải gắn với địa điểm xác định . Hai là : Khách hàng có nhu cầu chưa được thoả mãn. Đây chính là cơ sở thúc đẩy khách hàng mua hàng hoá dịch vụ . Ba là : Khách hàng phải có khả năng thanh toán, tức là khách hàng phải có khả năng trả tiền để mua hàng. 2 - Các yếu tố của thị trường hàng hoá. Các yếu tố của thị trường hàng hoá gồm : cung, cầu và giá cả thị trường. Tổng hợp các nhu cầu của khách hàng (người mua) tạo nên cầu về hàng hoá. Tổng hợp các nguồn cung ứng sản phẩm cho khách hàng trên thị trường tạo nên cung hàng hoá.Sự tương tác giữa cung và cầu, tương tác giữa người mua với người mua, giữa người bán với người bán hình thành giá cả thị trường . Giá cả thị trường là một đại lượng biến động do sự tương tác của cung và cầu trên thị trường của một loại hàng hoá, ở một địa điểm và thời điểm cụ thể. Có thể nghiên cứu các yếu tố của thị trường theo các quy mô khác nhau : nghiên cứu tổng cung ,tổng cầu và giá cả thị trường trên quy mô toàn nền kinh tế quốc dân. Nhưng cũng có thể nghiên cứu cung ,cầu hàng hoá,giá cả hàng hoá trên một địa bàn cụ thể xác định ( ở một tỉnh ,thành phố ,ở một vùng hoặc một khu vực ).Đối với doanh nghiệp thương mại có quy mô toàn quốc ,có hoạt động xuất khẩu chẳng những phải nghiên cứu tổng cung, tổng cầu trên quy mô toàn quốc mà còn phải nghiên cứu trên cả quy mô quốc tế . Đối với doanh nghiệp vưà và nhỏ, hoạt động trong phạm vi thị trường địa phương , có thể nghiên cứu các yếu tố của thị trường địa phương, tuỳ theo sự phát triển của doanh nghiệp mà từ nghiên cứu thị trường địa phương tiến lên nghiên cứu thị trường vùng ,toàn quốc. 3 - Các chức năng của thị trường hàng hoá. 3.1. Chức năng thừa nhận : Doanh nghiệp thương mại mua hàng hoá về để bán hàng hoá, có bán được hay không phải thông qua chức năng thừa nhận của thị trường, khách hàng, doanh nghiệp.Nếu hàng hoá bán được, tức là được thị trường thừa nhận, doanh nghiệp thương mại mới thu hồi được vốn có nguồn thu trang trảI chi phí và có lợi nhuận. Ngược lại, nếu hàng hoá và dịch vụ đem ra bán không có ai mua như vậy có nghĩa là thị trường không thừa nhận . Đ ể được thị trường thừa nhận, doanh nghiệp thương mại phảI nghiên cứu nhu cầu khách hàng. Hàng hoá phải phù hợp với nhu cầu khách hàng, phù hợp ở đây về số lượng, chất lượng sự đồng bộ ,quy cách ,cỡ loại, màu sắc, bao bì, giá cả, và thời gian địa điểm thuận lợi cho khách hàng. 3.2. Chức năng thực hiện : Chức năng này đòi hỏi hàng hoá và dịch vụ phải thực hiện giá trị trao đổi : hoặc bằng tiền hoặc bằng hàng ,hoặc bằng các chứng từ có giá trị khác . Người bán hàng cần tiền , còn người mua cần hàng . Sự gặp gỡ giữa người bán và người mua được xác định bằng giá cả hàng hoá . Hàng hoá bán được tức là có sự chuyển dịch hàng hoá từ người bán sang người mua . 3.3.Chức năng điều tiết và kích thích : Qua hành vi trao đổi và mua bán hàng hoá và dịch vụ trên thị trường , thị trường điều tiết và kích thích sản xuất và kinh doanh phát triển hoặc ngược lại .Đối với các doanh nghiệp thương mại , hàng hoá và dịch vụ bán hết nhanh sẽ kích thích doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động tạo nguồn hàng, thu mua hàng hoá để cung ứng ngày càng nhiều hơn hàng hoá và dịch vụ cho thị trường .Ngược lại, nếu hàng hoá và dịch vụ không bán được, doanh nghiệp sẽ hạn chế mua phải tìm khách hàng mới, thị trường mới, hoặc chuyển hướng kinh doanh mặt hàng khác đang , hoặc sẽ có khả năng có khách hàng. Chức năng điều tiết kích thích này luôn điều tiết ra nhập nghành hoặc rút ra khỏi nghành của một số doanh nghiệp.Nó khuyến khích các nhà kinh doanh giỏi và điều tiết hướng đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh có lợi, các mặt hàng mới, chất lượng cao, có khả năng bán được khối lượng lớn. 3.4. Chức năng thông tin : Thông tin thị trường là những thông tin về nguồn cung hàng hoá -dịch vụ , nhu cầu hàng hoá và dịch vụ. giá. Đó là những thông tin quan trọng đối vơí mọi nhà sản xuất kinh doanh, cả người mua và người bán, cả ngươì cung ứng lẫn ngươì tiêu dùng, cả những nhà quản lý và những người nghiên cứu sáng tạo. Có thể nói, đó là những thông tin được sự quan tâm của toàn bộ xã hội .Thông tin thị trường là những thông tin kinh tế quan trọng. Không có thông tin thị trường thì không có quyết định đúng đắn trong sản xuất kinh doanh ,cũng như các quyết định của các cấp quản lý. Việc nghiên cứu thị trường và tìm kiếm thông tin có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với việc ra quyết định đúng đắn trong kinh doanh. Nó có thể đưa đến thành công cũng như thất bại bởi sự xác thực của các thông tin được sử dụng. 4 - Các quy luật của thị trường hàng hoá. 4 .1 . Quy luật giá trị Đây là quy luật kinh tế của kinh tế hàng hoá . Khi nào còn sản xuất và lưu thông hàng hoá thì qui luật giá trị còn phát huy tác dụng .Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và lưu thông hàng hoá phải dựa trên cơ sở giá trị lao động cần thiết trung bình để sản xuất lưu thông hàng hoá hàng hoá và trao đổi ngang giá .Việc tính toán chi phí sản xuất và lưu thông bằng giá trị là cần thiết bởi đòi hỏi của thị trường,xã hội là với một nguồn lực có hạn phải làm sao sản xuất được nhiều của cải,vật chất cho xã hội nhất, hay là chi phí cho một đơn vị sản phẩm là ít nhất với điều kiện chất lượng sản phẩm cao. Người sản xuất kinh doanh nào có chi phí lao động xã hội cho một đơn vị sản phẩm thấp hơn trung bình thì người đó có lợi, ngược lại người nào có chi phí cao thì khi trao đổi sẽ không thu được giá trị bỏ ra,không có lợi nhuận và phải thu hẹp sản xuất kinh doanh. Đây là yêu cầu khắt khe buộc người sản xuất kinh doanh phải tiết kiệm chi phíkhông ngừng cải tiến kỹ thuật, công nghệ, đổi mới sản phẩm đổi mới kinh doanh dịch vụ để thoả mãn tốt nhu cầu khách hàng, để bán được nhiều hàng hoá dịch vụ. 4 .2 . Quy luật cung cầu hàng hoá. Cung ,cầu hàng hoá dịch vụ không tồn tại đọc lập, riêng rẽ mà thương xuyên tác động qua lại với nhau trên cùng một thời gian cụ thể.Trong thị trường, quan hệ cung cầu là quan hệ bản chất , thường xuyên lặp đi, lặp lại, khi tăng khi giảmtạo thành quy luật trên thị trường. Khi cung, cầu gặp nhau giá cả thị trường được xác lập(Eo).Đó là giá cả bình quân. Gọi là giá cả bình quân nghĩa là ơ mức giá đó cung và cầu ăn khớp với nhau. Tuy nhiên mức giá(Eo) lại không đứng yên nó luôn luôn giao động dưới sự tác động của lực cung, lực cầu trên thị trường Khi cung lớn hơn cầu, giá sẽ hạ xuống, ngược lại khi cầu lớn hơn cunggiá sẽ tăng lên. Việc giá ở mức (Eo) cân bằng chỉ là tạm thời, việc mức giá thay đổi là thường xuyên. Sự thay đổi trên là hàng loạt các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp tác động đến cung, cầu, cũng như kỳ vọng của sản xuất , người kinh doanh và của cả khách hàng. 4 . 3 . Quy luật cạnh tranh. Trong nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế, có nhiều người mua, người bán với lời ích kinh tế khác nhau thì việc cạnh tranh giữa người mua với người mua, người bán với người bán và cạch tranh giữa người mua với người bán tạo nên sự vận động của thị trường và trật tự thị trường. Cạnh tranh trong nền kinh tế la một cuộc đua không đích cuối cùng. Cạnh tranh trong nền kinh tế là một cuộc thi đấu không phải với một đôi thủ và đồng thời với hai đối thủ. Đối thủ thứ nhất là giữa hai phe của hệ thống thị trường và đối thủ thứ hai là giữa các thành viên của cùng phía với nhau. Tức là cạnh tranh giữa người mua và người bán, cạnh tranh giữa người bán với nhau. Không thể lẩn tránh cạnh tranh mà phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng sử dụng vũ khí cạnh tranh hữu hiệu. 5 - Vai trò của thị trường hàng hoá. Bảo đảm điều kiện cho sản xuất ngày càng phát triển liên tụcvới quy mô ngày càng mở rồng và đảm bảo hàng hoá cho người tiêu dùng phù hợp với thị hiếu( sở thích) và sự tự do lựa chọn một cách đầy đủ, kịp thời, thuận lợi với dịch vụ văn minh. Nó thúc đẩy nhu cầu, gợi mở nhu cầu, đưa đến cho người tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân những sản phẩm mới . Sản xuất ra sản phẩm chất lượng cao và gợi mở nhu cầu hướng tới hàng hoá chất lượng cao, văn minh hiện đại. Dự trữ các hàng hoá phục vụ sản xuất và tiêu dùng xã hội, giảm bớt dư trữ ở các khâu tiêu dùng ,đảm bảo việc điều hào cung cầu. Phát triển các dịch vụ phục vụ tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân ngày càng phong phú , đa dạng văn minh. Giải phóng con người khỏi những công việc không tên trong gia đình , vừa năng nề , vừa mất nhiều thời gian .Con người được nhiều thời gian tự do hơn. Thị trường hàng hoá dịch vụ ổn định có tác dụng to lớn để ổn định sản xuất và đời sống nhân dân. II - Nghiên cứu thị trường hàng hoá. 1 - Các hình thái thị trường hàng hoá. Thị trường trong đó người mua và người bán giao dịch với nhau khác biệt rất nhiều về mặt cơ cấu. Cơ cấu thị trường khác nhau không chỉ ảnh hưởng đến cung cách ứng xử của người mua và người bán mà còn dẫn đến giá cả và khối lượng giao dịch khác nhau. Cơ cấu thị trường chỉ khác nhau ở cấp độ rất nhỏ bé. Các cơ cấu này bao trùm một chuỗi thị trường tương tự như một quang phổ , đi từ một nghành có rất nhiều doanh nghiệp mà mỗi doanh nghiệp chỉ cung cấp một tỉ lệ nhỏ các hàng hoá đưa ra giao dịch cho đến trường hợp chỉ có một doanh nghiệp tạo ra thành cả một nghành. Khi xem xét trên góc độ cạnh tranh hay độc quyền tức là xem xét hành vi của thị trường , các nhà kinh tế phân loại thị trường như sau: thị trường cạnh tranh hoàn hảo ,thị trường độc quyền. Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo bao gồm thị trường cạnh tranh dộc quyền và độc quyền tập đoàn. Khi nói về cơ cấu thị trường bao giờ cũng có hai phía trong cùng một thị trường : phía mua và phía bán. Mỗi phía có thể tồn tại các cơ cấu thị trường khác biệt. Khi phân loại thị trường các nhà kinh tế thường chú ý tới các tiêu thức cơ bản sau: Số lượng người sản xuất : đây là tiêu thức rất quan trọng xác định cơ cấu thị trường . Trong các thị trường cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh độc quyền có rất nhiều người bán , mỗi người trong số họ chỉ sản xuất một phần rất nhỏ lượng cung trên thị trường .Trong thị trường độc quyền thì một ngành chỉ bao gồm một nhà sản xuất (người bán) duy nhất, còn thị trường độc quyền tập đoàn là một thị trường hợp trung gian ở đó có vài người bán kiểm soát hầu hết lượng cung trên thị trường . Chủng loại sản phẩm : thị trường cạnh tranh hoàn hảo sản xuất ra những sản phẩm đồng nhất như lúa ngô, còn trong ngành cạnh tranh độc quyền các hãng sản xuất ra các sản phẩm khác nhau một chút.Trong một ngành độc quyền tập đoàn các hãng sản xuất ra các sản phẩm khác nhau còn trong ngành độc quyền thì sản phẩm giống nhau. Sức mạnh của hãng sản xuất : một hãng sản xuất trong đièu kiện cạnh tranh hoàn hảo không có được khả năng trực tiếp ảnh hưởng đến giá cả thị trường. Trái lại một nhà độc quyền sẽ có khả năng kiểm soát giá rất lớn. Một hãng sản xuất trong điều kiện cạnh tranh độc quỳên sẽ có một mức độ kiểm soát nào đó đói với giá cả của hàng hoá và dịch vụ. Các trở ngại xâm nhập thị trường : Trong diều kiện cạnh tranh hoàn hảo các trở ngại này là rất thấp . Ngược lại trong độc quyền tập đoàn sẽ có những trở ngại đáng kể đối với việc gia nhập thị trường . Còn nếu trong điều kiện độc quyền thì việc xâm nhập thị trường là cực kỳ khó khăn. Nhà độc quyền luôn tìm mọi cách để duy trì vai trò độc quyền của mình. Bằng cáng chế là một trở ngại lớn đối với các hãng muốn xâm nhập thị trường Hình thức cạnh tranh phi giá cả : Trong cạnh tranh hoàn hảo không có sự cạnh tranh phi giá cả. Tring cạnh tranh độc quyền các nhà sản xuất sử dụng các hình thức cạnh tranh phi giá cả như quảng cáo.. Trong độc quyền tập đoàn cũng sử dụng nhiều hình thức phi giá cả để làm tăng lượng bán của mình. 2 - Nghiên cứu thị trường hàng hoá. 2.1. Trình tự nghiên cứu thị trường hàng hoá. Quá trình nghiên cứu thị trường được thực hiện qua ba bước: +Thu thập thông tin , +Xử lý thông tin + Ra quyết định . Trong giai đoạn thu thập thông tin nghiên cứu thị trường ở doanh nghiệp thương mại có thể theo trình tự sau: Nghiên cứu khái quát thị trường -> Nghiên cứu chi tiết thị trường. Tuy nhiên cũng có thể đi theo trình tự ngược lại. Trình tự trước sau này không cản trở lẫn nhau, mỗi giai đoạn đều có một yêu cầu nhất định về thông tin và đều cần cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp thương mại quy mô lớn khi mở rộng phát triển thị trường hoặc xâm nhập vào thị trường mới thường đi theo trình tự nghiên cứu khái quát thị trường rồi sau đó mới nghiên cứu chi tiết thị trường. Những doanh nghiệp thương mại nhỏ và vừa thì lại làm ngược lại. 2.2. Nội dung nghiên cứu thị trường hàng hoá. Nghiên cứu thị trường có thể nghiên cứu khái quát thị trường và nghiên cứu chi tiết thị trường .Ta đi từng nội dung 2.2.1. Nghiên cứu khái quát thị trường Thực chất là nghiên cứu vĩ mô, nghiên cứu tổng cầu hàng hoá và tổng cung hàng hoá , giá cả thị trường và chính sách của chính phủ về loại hàng hoá đó (kinh doanh tự do , kinh doanh có điều kiện , khuyến khích kinh doanh hoặc cấm kinh doanh). Nghiên cứu tổng cầu hàng hoá là nghiên cưú tổng khối lượng hàng hoá và cơ cấu loại hàng tiêu dùng thông qua mua sắm hoặc sử dụng với giá cả thị trường trong một khoảng thời gian. Tổng khối lượng hàng hoá chính là quy mô thị trường. Nghiên cứu quy mô thị trường phải nắm được số lượng người hoặc đơn vị tiêu dùng; với hàng tiêu dùng đó là dân cư có thu nhập , thu nhập của họ; với hàng tư liệu sản xuất thì số lượng đơn vị sử dụng, khối lượng hàng mỗi đơn vị tiêu dùng...Đối với loại hàng hoá có loại hàng thay thế cần nghiên cứu cả khối lượng hàng thay thế .Đối với loại hàng hoá có hàng hoá bổ xung cần nghin cứu loại hàng chính và từ đó suy ra loại hàng hoá bổ sung . Nghiên cứu tổng cầu và cơ cấu hàng hoá cũng cần nghiên cứu trên mỗi địa bàn, đặc biệt là thị trường trọng điểm . ở đó tiêu thụ hành hoá lớn và giá thị trường của hàng hoá đó trên địa bàn từng thời gian. Nghiên cứu tổng cung hàng hoá là để xác định xem khả năng sản xuất trong một thời gian( ví dụ một năm) các đơn vị sản xuất có đủ khả năng cung ứng cho thị trường tổng số bao nhiêu hàng , khả năng nhập khẩu bao nhiêu , khả năng dự trù (tồn kho) xã hội bao nhiêu. Giá cả bán hàng của nhà sản xuất , giá hàng nhập khẩu. Nghiên cứu giá cả thị trường phải tìm được chênh lệch giá bán(trên thị trường bán) và giá mua. Có thể ước chi phí vận chuyển và nộp thuế, để xác định thị trường mua hàng và quyết định khối lượng hàng cần đặt, hàng cần thu mua hoặc nhập khẩu. Nghiên cứu chính sách của chính phủ về loại hàng kinh doanh cho phép kinh doanh có tự do có điều kiện , khuyến khích kinh doanh hoặc cấm kinh doanh. Đó là chính sách thuế , giá các loại dịch vụ có liên quan như cước vận tải , giá thuê kho tàng, cửa hàng, lãi xuất , bên vay ngân hàng( nếu vốn kinh doanh phải vay). Ngoài những vấn đề trên , nghiên cứu khái quát thị trường cần phải nghiên cứu động thái của cung, cầu trênthị trường, trên từng địa bàn , thời điểm. Doanh nghiệp cũng phải xác định tỉ phần thị trường của các doanh nghiệp lớn và chính sách cung ứng hàng hoá của họ . 2.2.2. Nghiên cứu chi tiết thị trường . Nghiên cứu chi tiết thị trường hàng hoá thực chất là nghiên cứu đối tượng mua và bán loại hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh, cơ cấu thị trường hàng hoá và chính sách mua bán của các doanh nghiệp có nguồn hàng lớn. Nghiên cứu chi tiết thị trường phải trả lời được các câu hỏi sau: ai mua hàng ? Mua bao nhiêu ? cơ cấu hàng hoá; mua ở đâu ? mua hàng dùng để làm gi? Đối thủ cạnh tranh ? Nghiên cứu chi tiết thị trường phải nghiên cứu nhu cầu và yêu cầu của khách hàng về loại hàng mà doanh nghiệp kinh doanh. Đối với hàng tiêu dùng nhu cầu hàng phụ thuộc vào sở thích(thị hiếu) thu nhập , lứa tuổi nghề nghiệp, trình độ văn hoá, tập quán,thói quen, thời tiết , khí hậu ...Đối với hàng tư liệu sản xuất phụ thuộc vào công nghề ,định mức tiêu thụ nguyên vật liệu trong sản xuất và kế hoạch sản xuất mặt hàng của doanh nghiệp . Người quyết định mua hàng không phải là người đi mua hàng cụ thể (tiếp liệu) mà chính là yêu cầu của kỹ thuật, công nghệ sản xuất sản phẩm , khả năng vật tư của doanh nghiệp và khả năng thay thế bằng các loại nguyên vật liệu khác(hàng thay thế). Người mua hàng phải nắm được mua hàng để làm gì và không thể tự tiện đổi thứ này lấy thứ khác hoặc mua theo ý thích của mình .Như vậy nghiên cứu thị trường hàng tư liệu sản xuất phải nghiên cứu lĩnh vực tiêu dùng sản xuất .Đó là các doanh nghiệp sản xuất công nghiêp, tiểu thủ công nghiệp... Khi nghiên cứu chi tiết thị trường doanh nghiệp phải xác định tỉ trọng thị trường mà doanh nghiệp đạt được(thị phần của các doanh nghiệp). Mà thị phần của các doanh nghiệp khác cùng ngành , so sánh về chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm ,mẫu mã, mầu sắc và các dịch vụ khách hàng của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác..để thu hút khách hàng mua hàng của doanh nghiệp mình. iii - Các nhân tố ảnh hưởng tới thị trường hàng hoá. 1. Nhóm nhân tố chính trị , xã hội ,tâm sinh lý của con người Hoạt động của thị trường là hoạt động của con người. Bản chất của con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội . Quan hệ xã hội của con người được biểu hiện dưới rất nhiều hình thức như quan hệ quốc tế , quan hệ trong nước .Tình trạng hoà bình hay chiến tranh của một dân tộc hay các dân tộc với nhau có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường. Trong nền kinh tế thị trường các cá nhân và tổ chức có quyền hoạt động tự do kinh tế trong khuôn khổ luật pháp của một quốc gia. Do vậy, các yếu tố về tâm sinh lý của từng cá nhân thông qua nhận thức của họ cũng có ảnh hưởng tới thị trường và tình trạng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp . Một quyết định đúng đắn của một cá nhân có thể dẫn đến sự phát triển hoặc phá sản của một công ty. 2. Các nhân tố thuộc quản lý vĩ mô và vi mô Các nhân tố thuộc quản lý vĩ mô là sự tác động của Nhà nước đến thị trường. Dựa váo những chính sách và công cụ của mình Chính phủ sẽ điều chỉnh thị trường sao cho hợp lý nhất đối với các doanh nghiệp vá đối với một quốc gia. Một thị trường nếu không có sự quản lý của Nhà nước sẽ phát triển tự do và không có điểm dừng . Do vậy nó sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp do không xác định được mục tiêu sản xuất của mình . Ta thường thấy tuỳ theo từng điều kiện của từng quốc gia cũng như ở mỗi thời kỳ mà Chính phủ áp dụng các biện pháp sao phù hợp . Các biện pháp thường được sử dụng phổ biến là : chính sách thuế, chính sách đầu tư và phát triển , chính sách tiền tệ ... Các nhân tố thuộc quản lý vi mô là những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp doanh nghiệp hoặc những nhân tố trong nội bộ doanh nghiệp. Đối với một doanh nghiệp giá cả hàng hoá sản xuất ra có được công nhận trên thị trường hay không sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống còn của một doanh nghiệp . Mà đối với những doanh nghiệp lớn (tập đoàn) hay những công ty độc quyền thì sự ảnh hưởng do sự sống còn của các công ty này có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường. Chỉ một chính sách của các công ty này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường như việc tăng giá sản phẩm hay sa thải công nhân khi thu hẹp sản xuất... 3. Nhóm nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên. Điều kiện tự nhiên là nhân tố cực kỳ quan trọng đối với việc hình thành và phát triển thị trường . -Vị trí địa lý của mỗi quốc gia đối với các nước xung quanh , trong khu vực và trên thế giới cũng là một thuận lợi hay khó khăn trong việc hình thành và phát triển thị trường. Ví dụ Việt Nam có hơn một nghìn km bờ biển là nhân tố cực kỳ quan trọng trong việc phát triển vận tải đường thuỷ . - Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của mỗi quốc gia như đất đai khoáng sản , biển ,rừng, sông ngòi, kể cả thời tiết và khí hậu là những điều kiện cực kỳ thuận lợi cho phát triển kinh tế . CHƯƠNg II Thực trạng Thị trường ôtô ở nước ta Hiện nay I - Sự hình thành , phát triển , đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng tới thị trường ôtô ở nước ta. 1 - Các giai đoạn hình thành và phát triển. Sự ra đời của thị trường ôtô của nườc ta so với việc hình thành thị trường ôtô trên thế giới là muộn hơn rất nhiều. Cho đến trước cách mạng tháng 8 thì khái niệm ôtô vẫn còn là một khái niệm rất xa lạ với người Việt Nam. Vào những năm 30 ở nước ta chỉ có một số loại xe cổ như Citroen và Hotchikis. Trong khoảng kháng chiến chống Pháp 1945-1954, cùng với sự trở lại của mình các hãng xe của Pháp đã khống chế toàn bộ thị trường ôtô nước ta với các hãng hàng đầu của Pháp thời đó như: Renault , Citroen , Peugeot. Và các kiểu xe thông dụng thời đó như : Simca5 , Citroen11CV, Peugeot202,203...Và một số loại ôtô được nhập từ Anh qua Pháp vào Việt Nam như Austin. Tuy vậy các loại xe này phần lớn để cho người Pháp sử dụng , hoặc số ít người Việt Nam làm việc cho Pháp . Sau năm 1954 sau khi Pháp thất bại và Mỹ nhẩy vào Việt Nam . Thì các loại xe của Pháp cũng mất dần ưu thế trên thị trường và các loại xe của Mỹ lại là các loại chính trên thị trường Việt Nam, đặc biệt là ở Sài Gòn. Các hãng ôtô lớn của Mỹ đã xâm nhập như GM với các kiểu xe như Buick, Caddilac ; Hãng Forel với Vocor , Mercury , Lincon, Firebird ; Hãng Chrysler với Desoto , Dodge, Cherolet . Có thể nói các hãng ôtô này cũng đã phát triển tương đối ở Việt Nam được biểu hiện qua việc có rất nhiều trung tâm bảo trì xe ôtô xuất hiện ở Sài Gòn . Xe ôtô của Nhật Bản bắt đầu xuất hiện ở nước ta vào khoảng những năm 60-70. Các hiệu xe thông dụng lúc đó là: Toyota Corrolar1500, Corrolar1100SL , Crown ; NissanDutsun ; Mazda1000 , 1200 , 1500 ; Honda N360. Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng 1975 , mối quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước tư bản hoàn toàn bị cắt đứt. Do vậy thời điểm này không hề có các loại xe của các nước Tây âu mà chỉ có các loại xe của các nước Đông âu và Trung Quốc.Trong đó đặc biệt là xe của Liên Xô cũ chiếm phần lớn trong thị trường ôtô ở nước ta. Các loại xe chủ yếu trong thời kỳ này là: Lada, Volga, Moscovis,Uoat. Từ năm 1986 trở lại đây , do có quá trình đổi mới nền kinh tế mà mối quan hệ kinh tế của nước ta với tất cả các nước trên thế giới lại được nối lại mà thị trường kinh tế lại riễn ra rất sôi động ,đặc biệt là thị trường ôtô.Các loại xe ôtô của các hãng nổi tiếng trên thế giới lại tràn ngập thị trường nước ta như: BMW;Toyota; Ford;Meccerdes-benz; Fiat, Mazda, Suzuki, Isuzu, Mitsubishi, ... Với muôn vàn kiểu xe từ xe con , xe dulich , xe tải ,xe bus, xe cẩu ... Trong cả nước theo thống kê năm 1991 có tất cả khoảng 205000xe thì đến năm 1995 có khoảng 240780 tăng bình quân khoảng 34000xe/năm.Và nhu cầu tiêu thụ xe ôtô ngày một nâng cao , tới năm 2001 có khoảng 370000 xe ôtô lưu hành bình quân tăng 35000 xe/ năm. Đến hết năm 2003 có khoảng 450000 xe lưu hành( tăng bình quân 37000 xe/ năm ) . theo số liệu thống kê năm 2001 , các loại xe trong đó phần lớn được nhập khẩu từ nước ngoài như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Nga... chiếm khoảng 77%. Số còn lại là 14 liên doanh ôtô trong nước như :( VMC, Vinastar, Toyota Việt Nam...) . Từ năm 2001 tới nay do Chính phủ chỉ đạo để bảo vệ mạnh mẽ nghành công nghiệp sản xuất ôtô trong nước , nên tỷ lệ nhập khẩu ôtô giảm xuống còn khoảng 60% . Kết quả khảo sát thị trường của Bộ công nghiệp với sự trợ giúp của Missubishi, Corp Nhật Bản thì đến năm 2005 nhu cầu xe tăng dần đến cần khoảng 80800 xe(từ năm 2001 tới năm 2005). Và trong những năm tới sẽ tăng lên do quá trình phát triển và hội nhập đầy đủ và toàn diện vào APEC, AFTA, WTO. 2- Đặc điểm của thị trường ôtô ở nước ta Do thu nhập bình quân của phần người dân nước ta còn thấp và hơn nữa do quá trình đất nước mới bắt đầu quá trình đổi mới được hơn 15 năm do vậy cơ sở hạ tầng , giao thông kém phát triển . Do vậy thì trường ôtô nước ta còn khá nhỏ hẹp Trong thị trường ôtô ở Việt Nam thì phần lớn các loại xe đời mới , hiện đại có chất lượng cao thì chỉ bán được cho các cơ quan nhà nước và bộ phận nhỏ tư nhân còn tư nhân thì phần lớn ưa chuộng các xe cũ ( thường gọi là Secondhand) hơn . Phần lớn chi phí cho việc mua ôtô của các thương nhân ở Việt Nam là vào khoảng 20000 USD tới 25000 USD .Với khoảng tiền như vậy nếu mua xe mới lắp ráp tại Việt Nam thì chỉ mua được xe ở mức trung binh - khá độ bền không cao. Mà phần lớn người dân Việt Nam cũng như các thương nhân thường có tư tưởng “ăn chắc, mặc bền”nên lại rất ưa chuộng các loại xe cũ nhưng còn tốt như các xe của Nhật như Toyota , Nissan... Tuy nhiên giá các loại xe này trên thị trường nước ta lại rất đắt nó vào khoảng từ 33000USD tới 45000USD chính vì lý do đó mà các loại xe cũ lại được ưa chuộng ở nước ta như vậy. ở nước ta thị trường rất đa dạng và phong phú . Nói về xe mới thì nó bao gồm các loại xe của Nhật , Hàn quốc , Đức , Itali , Mỹ . Trong 5 nước này thì thị phần của Nhật và Hàn quốc là chiếm tỉ trọng lớn nhất do phần lớn giá của các loại xe này rẻ cũng như tính năng phù hợp với khí hậu Việt Nam . Còn nói về xe cũ thì thị trường ôtô cũng rất đa dạng và phong phú về chủng loại , giá cả . Ngoài các loại xe cũ nhập từ Nhật vầ Hàn Quốc ở thị trường nước ta còn có các nguồn nữa như là nguồn nhập lậu và nguồn xe “ xiết nợ ” và các xe đã lưu hành trong nước và sau đó đem ra mua bán trên thị trường . Tóm lại phần lớn giá cả các loại xe hiện tại đều rất cao. Theo thống kê thì người tiêu dùng ôtô nước ta chỉ hợp với những loại xe giá khoảng 200 triệu tới 300 triệu đồng VN và với loại xe như vậy thì chắc chắn đã phải qua sử dụng ít nhất là 5 năm và do vậy thì tình._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33657.doc
Tài liệu liên quan