Thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ BỘ MÔN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ ---@&?--- CHUYÊN ÐỀ TỐT NGHIỆP Tên đề tài: THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Họ và tên sinh viên: Đào Thị Ngát Chuyên ngành: Thương mại quốc tế Lớp: Thương mại quốc tế Khóa: 47 Hệ: Chính quy Giảng viên hướng dẫn: GS.TS Đặng Đình Đào HÀ NỘI, NĂM 2009 Lời mở đầu Trong những năm gần đây, nông nghiệp Việt Nam đã có bước tăng trưởng đáng kể về sản xuất, tiêu dùn

doc101 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1754 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g và đặc biệt là xuất khẩu nông sản. nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam có khối lượng đứng tốp đầu thế giới như mặt hàng gạo, cà phê, hạt điều … nhưng điều bất cập là kim ngạch xuất khẩu còn kém nhiều nước cùng xuất khẩu nông sản do hàng nông sản Việt Nam bị bất lợi về giá xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu cũng được mở rộng khắp thế giới: châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ và cả châu Úc nhưng mức độ thâm nhập sâu vào thị trường còn hạn chế. Tuy nhiên, kết quả đó so với tiềm năng ngành nông nghiệp Việt Nam và nhu cầu tiêu dùng của thế giới còn rất nhỏ bé, chưa tương xứng. Do đó cần phải khai thác và mở rộng hơn nữa thị trường xuất khẩu cho hàng nông sản Việt Nam. Bài chuyên đề xin tập trung đánh giá, phân tích thực trạng thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam thời gian qua, từ đó chỉ ra những xu hướng, hạn chế tồn tại cũng như triển vọng phát triển thị trường hàng nông sản Việt Nam thời gian tới. Ngoài phần mở đầu vào kết luận, bố cục bài chuyên đề chia làm ba phần chính, bao gồm: Chương 1: Xuất khẩu và thị trường xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Chương 2: Thực trạng phát triển thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam. Chương 3: Giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu nông sản của Việt Nam những năm tới. Em xin chân thành cảm ơn các anh chị cán bộ của Trung tâm thông tin - Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn thôn đã tận tình hướng dẫn và cung cấp cho em những tư liệu cần thiết trong quá trình làm đề tài. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo, GS.TS ĐẶNG ĐÌNH ĐÀO đã tạo điều kiện, chỉ dẫn, giúp đỡ em hoàn thành đề tài đề tài này. Tuy nhiên, do còn thiếu bề dày về kiến thức và kĩ năng phân tích tổng hợp nên bài viết chắc chắn sẽ còn có những thiếu sót, em rất mong nhận được những lời đóng góp, bổ sung góp ý để bài chuyên đề được hoàn chỉnh hơn.  CHƯƠNG 1 XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VÀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA–HIỆN ĐẠI HÓA CỦA VIỆT NAM CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA CỦA VIỆT NAM VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN. Công nghiệp hóa-hiện đại hóa của Việt Nam. Nội dung công nghiệp hóa và vai trò của công nghiệp hóa với phát triển kinh tế xã hội. Nội dung công nghiệp hóa. Có thể thấy công nghiệp hóa (CNH) là con đường tất yếu để phát triển kinh tế của các nước, nhưng cần hiểu như thế nào về CNH. Ngay từ năm 1963 Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) đã đưa ra khái niệm qui ước về CNH: “CNH là một quá trình phát triển kinh tế, trong đó một bộ phận nguồn lực ngày càng tăng của đất nước được huy động để phát triển một cơ cấu kinh tế đa ngành với công nghệ hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có khả năng đảm bảo tốc độ tăng trưởng cao cho toàn bộ nền kinh tế và sự tiến bộ về xã hội”. Từ khái niệm qui ước trên đây, có thể đưa ra khái niệm khái quát nhất về CNH như sau: “CNH là quá trình tác động của công nghiệp với công nghệ ngày càng hiện đại vào hoạt động kinh tế và đời sống xã hội, làm biến đổi toàn bộ nền kinh tế, đưa nền kimh tế từ nông nghiệp lạc hậu đến công nghiệp hiện đại” Có thể xác định CNH bao hàm hai nội dung cơ bản: Thứ nhất, CNH không chỉ là quá trình phát triển công nghiệp mà còn là quá trình tác động của công nghiệp vào tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động kinh tế-xã hội của đất nước, làm biến đổi toàn diện nền kinh tế, nhằm chuyển một nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu sang công nghiệp hiện đại, như vậy có thể nói CNH là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước Thứ hai, CNH là quá trình ứng dụng công nghệ mới, ngày càng hiện đại hơn vào hoạt động kinh tế và đời sống xã hội nhằm cải biến phương tức lao động từ thủ công lạc hậu tới tiên tiến hiện đại, tạo ra năng suất lao động ngày càng cao. Như vậy, có thể nói CNH là sự chuyển dịch cơ cấu công nghệ trong sản xuất. Vai trò của công nghiệp hóa với phát triển kinh tế xã hội. Công nghiệp hóa tạo điều kiện cho đô thị hóa Thông qua việc qui hoạch phát triển sản xuất công nghiệp, công nghiệp hóa thúc đẩy quá trình phân bố lại dân cư ở các vùng, tạo điều kiện đô thị hóa đất nước. Công nghiệp hóa với sự mở rộng sản xuất công nghiệp, theo đó là sự phát triển các ngành dịch vụ. Sự phát triển của các ngành này đã thu hút một lượng lao động ở nông thôn vào thành thị, dẫn đến yêu cầu phải mở rộng các khu vực thành thị vốn đã trở nên chật hẹp so với yêu cầu mới làm cho các vùng nông thôn ven các đô thị lớn trở thành các đô thị vệ tinh. Sự mở rộng sản xuất công nghiệp nhiều khi được thực hiện bằng việc xây dựng các khu công nghiệp mới ngay tại các vùng nông thôn, miền núi. Điều này đã thu hút lực lượng lao động tại chỗ cho yêu cấu sản xuất công nghiệp và một bộ phận dân cư khác lại tổ chức các hoạt động dịch vụ đáp ứng những yêu cầu mới của khu công nghiệp. Dần dần quá trình đô thị hóa được diễn ra ngay tại các vùng này. Công nghiệp hóa thúc đẩy các mối liên kết trong kinh tế. Để thực hiện quá trình sản xuất, ngành này phải sử dụng sản phẩm của ngành khác và ngược lại. Quá trình này tạo ra các liên kết xuôi, liên kết ngược giữa các ngành với nhau.Hoạt động sản xuất của công nghiệp chế biến yêu cầu đầu vào từ sản phẩm của công nghiệp khai thác, của nông nghiệp và của chính bản thân các ngành công nghiệp chế biến với nhau. Ngược lại hoạt động sản xuất nông nghiệp lại yêu cầu phân bón hóa học, thuốc trừ sâu và các công cụ sản xuất từ công nghiệp. Trong các quá trình trên, để đưa sản phẩm từ nơi này đến nơi khác lại phải có các dịch vụ vận chuyển, thương mại…công nghiệp hóa đã thúc đẩy các mối liên kết ngày càng phát triển sâu rộng. Đây chính là cơ sở tạo ra cơ cấu kinh tế ngày càng năng động cho đất nước. Công nghiệp hóa là con đường cơ bản nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Theo cách tiếp cận của “diễn đàn kinh tế thế giới” về đành giá khả năng cạnh tranh quốc gia thì khả năng cạnh tranh của quốc gia phụ thuộc vào sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế bao gồm cả hoạt động kinh tế vĩ mô và vi mô: từ các chính sách của chính phủ đến trình độ quản lý của doanh nghiệp, từ cơ sở hạ tầng của nền kinh tế đến khả năng huy động các yếu tố nguồn lực. Rõ ràng chỉ có công nghiệp hóa mới có thể thúc đẩy sự phát triển tổng lực của nền kinh tế. Thông thường khả năng cạnh tranh được thể hiện rõ nhất ở yếu tố giá cả, nhưng ngày nay điều đó chưa đủ. Do khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, tự động hóa và công nghệ mới đã làm tăng năng suất lao động và giảm các yếu tố chi phí trực tiếp trong giá trị sản xuất. Những chỉ tiêu như chất lượng sản phẩm, đổi mới sản phẩm đã được tạo ra nhờ yếu tố công nghệ. Do đó năng lực cạnh tranh phụ thuộc rất nhiều vào sự đổi mới công nghệ, khả năng áp dụng công nghệ mới trong sản xuất. Công nghiệp hóa-hiện đaị hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ 2001-2010 Mục tiêu công nghiệp hóa-hiện đaị hóa nông nghiệp, nông thôn. Mục tiêu tổng quát của CNH – HĐH nông nghiệp và nông thôn là xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học -công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; Xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng cao. CNH – HĐH nông nghiệp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường. Thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường. CNH – HĐH nông thôn nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp – dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức tái sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp Phương hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Phát triển sản xuất nông nghiệp và nông thôn. Phát triển các loại nông sản hàng hoá xuất khẩu có lợi thế của từng vùng, với qui mô hợp lý, tập chung nâng cao chất lượng hiệu quả, và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm này (như lúa gạo, thuỷ sản, cà phê, hạt điều, hồ tiêu, chè, cao su, rau quả nhiệt đới, thịt lợn…) trên thị trường trong nước và quốc tế. Nhà nước hỗ trợ phát triển mạnh mẽ các nghành công nghiệp ở nông thôn, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và các ngành sử dụng nguyên liệu tại chỗ, cần nhiều lao động như sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp khai mỏ, dệt may, da giày cơ khí lắp ráp, sửa chữa…để thu hút và thực hiện phân công lao động xã hội ngay trên địa bàn. Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp. Kinh tế nông dân tồn tại lâu dài trong quá trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại phát triển sản xuất hàng hoá với qui mô ngày càng lớn. Kinh tế tư nhân là lực lượng có khả năng thu hút vốn và nhiều lao động để phát triển sản xuất, kinh doanh ngành nghề đa dạng, tăng năng lực chế biến, tiêu thụ nông sản, làm dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn. Nhà nước có chính sách khuyến khích hỗ trợ, hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển. Khuyến khích hỗ trợ kinh tế hợp tác và hợp tác xã trên cơ sở liên kết, hợp tác tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi giữa các hộ, các trang trại bằng nhiều hình thức, qui mô, cấp độ để nâng cao hiệu quả kinh tế hộ và kinh tế xã hội nông thôn Doanh nghiệp nhà nước tập trung thực hiện những việc mà các thành phần kinh tế khác chưa làm được, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị hoá nông thôn. Ưu tiên phát triển hệ thống thuỷ lợi theo hướng sử dụng tổng hợp tài nguyên nước để cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, nước sinh hoạt và cải thiện môi truờng, hạn chế, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, xây dựng và quản lý công trình thuỷ lợi. Phát triển mạnh mẽ mạng lưới giao thông trong cả nước, nhà nước có chính sách hỗ trợ thỏa đáng, cùng với các địa phương và đóng góp của nhân dân để phát triển mạnh mạng lưới giao thông nông thôn. Phát triển hệ thống điện nhằm cung cấp có hiệu quả, chất lượng điện cao cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt ở nông thôn. Phát triển các thị tứ, thị trấn trên địa bàn nông thôn để thực hiện chức năng trung tâm công nghiệp, ngành nghề, dịch vụ, văn hoá-xã hội, hỗ trợ quá trình CNH-HĐH nông thôn. Đầu tư thoả đáng cho vùng nghèo, nhất là miền núi, vùng đồng bằng dân tộc thiểu số để đạt được mục tiêu công bằng xã hội. Xây dựng đời sống văn hóa – xã hội và phát triển nguồn nhân lực.Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, xã văn hoá, phục hồi và phát triển văn hoá truyền thống, duy trì tình làng, nghĩa xóm, sự giúp đỡ và hỗ trợ nhau phát triển trong cộng đồng dân cư nông thôn. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các thiết chế văn hoá, bảo vệ và tôn tạo các di tích lịch sử, di sản văn hoá, danh lam thắng cảnh, đáp ứng yêu cầu hưởng thụ và phát huy tiềm năng sáng tạo của nhân dân. Phát triển công tác thông tin đại chúng và các hoạt động văn hoá, khuyến khích động viên những nhân tố mới, kịp thời phê phán các hiện tượng tiêu cực trong xã hội, xây dựng lối sống lành mạnh, bảo vệ thuần phong mỹ tục ở nông thôn. Đổi mới và nâng cao hệ thống giáo dục, y tế phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ở nông thôn. Tăng ngân sách cho giáo dục – đào tạo, đặc biệt vùng sâu, vùng xa, tạo điều liện nguời nghèo ở nông thôn được học tập, phát triển trường nội trú cho con em dân tộc thiểu số có chính sách tuyển chọn người giỏi để đào tạo cán bộ, công nhân phục vụ CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn. Đánh giá quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa của Việt nam thời kỳ đổi mới. Những kết quả và thành tựu đạt được trong quá trình CNH, HĐH đó là: CNH, HĐH trở thành sự nghiệp của quần chúng. Từng bước đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với kinh tế thế giới và khu vực. Đảm bảo sự tăng trưởng khá cao và bước đầu có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Trong tổ chức thực hiện CNH, HĐH đã xác định đúng trọng tâm, áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ, phong phú để huy động mọi lực lượng tham gia. Tuy nhiên CNH, HĐH trong những năm đổi mới của nước ta còn một số tồn tại, khuyết điểm, yếu kém đó là: - Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập với thế giới mới chỉ đạt được kết quả bước đầu, chưa có chiến lược, chính sách cụ thể trong việc xác định mục tiêu, nội dung, bước đi trong phát triển các ngành có ý nghĩa quyết định tới trang bị kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân như: cơ khí, điện tử, hoá chất, luyện kim... - Nền kinh tế vẫn ở tình trạng nhập siêu. Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu chưa thể hiện đầy đủ mục tiêu xây dựng nền kinh tế tự chủ và hội nhập kinh tế, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là một số nông sản, hàng gia công, hàng thủ công mỹ nghệ. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị... - Nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao và liên tục trong những năm đổi mới vừa qua, nhưng sự phát triển kinh tế không bền vững, hiệu quả chưa cao, chất lượng phát triển thấp. - Về cơ cấu kinh tế, những ngành có sự tăng trưởng cao là những ngành có giá trị gia tăng thấp, chi phí lao động lớn, chủ yếu làm gia công cho nước ngoài, ví dụ giầy dép 86% nguyên liệu nhập. Công nghiệp chế biến phát triển còn ở trình độ thấp, công nghệ lạc hậu, chậm đổi mới. Với công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản thì chủ yếu là chế biến thô, chưa chế biến sâu, nhiều nông sản tỷ lệ chế biến còn thấp như chè 55%; rau quả: 5%; thịt: 1%. Với các ngành chế biến khác thì cơ cấu mặt hàng chế biến còn nghèo, trình độ và chất lượng sản phẩm chế biến còn thấp. - Khả năng cạnh tranh của sản phẩm do Việt Nam sản xuất còn kém. - CNH, HĐH ở Việt Nam trong những năm qua đã tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, nhưng chậm và hiệu quả chưa cao, chưa thúc đẩy sự liên kết kinh tế giữa trong nước với nước ngoài, giữa các ngành kinh tế, các địa phương, các doanh nghiệp. 1.1.2. Sự cần thiết phát triển thị trường xuất khẩu nông sản việt Nam. Để phát huy lợi thế tuyết đối và lợi thế so sánh của đất nước về sản xuất và xuất khẩu nông sản: Việt nam có nhiều lợi thế trong sản xuất và xuất khẩu nông sản. Cụ thể: Về đất đai: Việt Nam có diện tích đất nông nghiệp rộng lớn (khoảng 10-12 triệu ha), đất ở Việt Nam có tầng dầy, kết cấu tơi xốp, nhiều chất dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng, nhất là phù xa. Những điều kiện này kết hợp nguồn nhiệt đới ẩm dồi dào sẽ là điều kiện tốt để phát triển các loại cây trồng, thâm canh tăng vụ nếu chúng ta biết biết khai thác một cách khoa học và hợp lý. Về khí hậu: Việt Nam có khí hậu gió mùa do ảnh hưởng khá sâu sắc của chế độ gió mùa châu Á. Khí hậu Việt Nam có tính đa dạng, phân biệt rõ ràng từ bắc xuống nam. Đây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam đa dạng hóa các loại cây trồng nông nghiệp. Cũng nhờ đặc trưng đất đai và khí hậu riêng biệt mà chỉ Việt Nam mới vậy đã tạo cho các nông sản của Việt nam có các đặc trưng vượt trội về hương vị, chất lượng mà các loại nông sản này của quốc gia khác không thể có được. Về nhân lưc: Việt nam có cơ cấu dân số trẻ và chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp. Người dân Việt Nam cần cù, sáng tạo, có khả năng lắm bắt khoa học công nghệ nhanh chóng, lại có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp. Về địa kinh tế: Việt Nam có vị trí địa lý vô cùng thuận lợi khi nằm trên các đường hàng không, hàng hải quốc tế. Đó là nguồn lực vô hình tạo điều kiện thuận lợi cho xâm nhập, phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa nói chung, hàng nông sản nói riêng. Với những tiềm năng to lớn như vậy, Việt Nam có nhiều triển vọng phát triển sản xuất và phát triển thị trường xuất khẩu nông sản. Phù hợp với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa: Thực tế cho thấy không một quốc gia nào có thể tăng trưởng kinh tế cao và phát triển một cách cân đối khi đối nếu như thực hiện chính sách đóng cửa nền kinh tế. Ngày nay rất nhiều nền kinh tế trên thế giới đang mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới. Quá trình đó diễn ra khắp mọi nơi, tất cả các nền kinh tế trên thế giới đều gắn kết với nhau tạo thành một thị trường rộng lớn thong nhất.Sự biến động này tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh cho các quốc gia tham gia, nếu quốc gia nào nhanh nhạy biết nắm bắt tốt cơ hội này thì sẽ thu được rất nhiều lợi ích, từ đó nhanh chóng đưa nền kinh tế phát triển lên một tầm cao mới. Chính điều đó đòi hỏi các quốc gia phải mở cửa thị trường tạo điều kiện phát triển cho các doanh nghệp. Như vậy để tồn tại vững chắc trong sân chơi hấp dẫn nhưng cũng đầy thử thách này thì mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu là một yêu cầu tât yếu cho các quốc gia, các doanh nghiệp. Thu được lợi ích nhiều hơn do giai đoạn chu kỳ sống của sản phẩm ở nước ngoài khác thị trường nội địa Nông sản là mặt hàng mà việc sản xuất ra nó phụ thuộc nhiều vào đặc điểm và chu kỳ thời tiết. Mà ở các khu vực địa lý khác nhau cũng có điều kiện thời tiết khác nhau. Dẫn đến trong cùng một thời gian nhưng ở các nơi khác nhau chỉ sản xuất được một số loại nông sản nhất định; chu kỳ sản xuất cùng một nông sản của các quốc gia khác nhau không trùng khít nhau. Điều đó có nghĩa là khi đến vụ thu hoạch sản lượng nông sản cung ứng trên thị trường nội địa rất lớn, tại thơì điểm đó nông sản tại thị trưòng trong nước đang bước vào giai đoạn bão hoà và suy thoái, cầu nội địa về hàng nông sản đó giảm nhanh, kéo theo việc trượt giá nông sản. Tuy nhiên có thể khi đó trên thị trường quốc tế mới chuẩn bị bước vàoviệc thu hoạch nông sản nhất định. Khi đó cung nông sản trên thị trường còn nhỏ bé so với cầu nên thường đẩy giá lên cao. Nếu chúng ta biết nắm bắt cơ hội này, cho xuất khẩu nông sản trong nước ra thị trường quốc tế thì sẽ thu được nhiều lợi ích cho nhà sản xuất, nhà kinh doanh hơn nhiều khi không xuất khẩu ra thị trường thế giới. Thúc đẩy cạnh tranh: Khi các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa ra thị trường quốc tế thì họ không chỉ cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước mà còn phải cạnh tranh với tất cả các đối thủ xuất khẩu nông sản trên toàn hế giới và các nhà sản xuất nông sản tại thị trường nhập khẩu hàng nông sản Việt Nam. Để đứng vững trước các đối thủ dày dặn kinh nghiệm thị trường và công nghệ sản xuất, quản lý tiên tiến đó bắt buộc các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt nam, cũng như các nhà sản xuất nông sản Việt Nam cũng phải thay đổi cung cách sản xuất kinh doanh để năng cao sức cạnh tranh cho nông sản của mình và uy tin, vị thế của chính doanh nghiệp mình. Sử dụng khả năng dư thừa Do quá trình sản xuất nông nghiệp là quá trình sản xuất kinh tế gắn liền với quá trình tái sản xuất tự nhiên, thời gian hoạt động và thời gian sản xuất xen kẽ nhau, song lại không hoàn toàn trùng hợp nhau, sinh ra tính thời vụ cao trong nông nghiệp. Mặt khác do sự biến động về thời tiết, khí hậu mỗi loại cây trồng lại có sự thích nghi với điều kiện đó, dẫn đến những mùa vụ khác nhau. Vì vậy, hàng nông sản mang tính chất thời vụ cao. Thông thường khi đến vụ thu hoạch sản lượng nông sản tăng cục bộ, cung hàng nông sản trông nước vượt xa cầu nội địa. Tuy nhiên, hàng nông sản phần lớn là cơ thể sống cây trồng và vật nuôi nên chúng rất nhạy cảm với yếu tố ngoại cảnh, với mọi sự thay đổi thời tiết. Vì vậy việc bảo quản nông sản chờ tiêu thụ tại thị trường trong nước sẽ làm hao hụt lớn và giảm chất lượng nông sản. Việc phát triển thị trường xuất khẩu nông sản để tiêu thụ ngay lượng nông sản dư thừa không chỉ làm giảm hao hụt tự nhiên trong thời gian bảo quản, tránh giảm sút chất lượng nên không bị mất giá trên thị trường. Phân tán rủi ro. Bằng việc mở rộng thị trường tiêu thụ ra nước ngoài, các nhà kinh doanh có thể tối thiểu hóa các biến động về nhu cầu.Bởi vì khi mở rộng thị trường doanh nghiệp có thêm nhiều khách hàng và do đó họ có thể giảm được nguy cơ mất bất kỳ một khách hàng riêng rẽ nào hay một ít khách hàng. Họ trở nên chủ động hơn và không còn phụ thuộc nặng nề vào một khách hàng nào. VAI TRÒ XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM VÀ CÁC YẾU TỐ CỦA THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN. 1.2.1. Vai trò xuất khẩu nông sản với sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam. 1.2.1.1. Góp phần tạo nguồn vốn nhập khẩu phục vụ công nghiệp hóa đất nước. Công nghiệp hóa theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hóa nước ta trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có một số vốn lớn để nhập khẩu máy móc, tiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Nguồn vốn để nhập khẩu có thể hình thành từ các nguồn như: Xuất khẩu hàng hóa, mà đặc biệt với nước ta là xuất khẩu nông, lâm, thủy sản mang về lượng ngoại tệ chiếm tỷ trọng lớn. Đầu tư nước ngoài Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ. Xuất khẩu sức lao động… Các ngồn vốn từ đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ…tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này. Ngồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hóa đất nước là xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định qui mô và tốc độ nhập khẩu. Ở Việt Nam, thời kỳ 1986-1990 nguồn thu về xuất khẩu hàng hóa (một phần không nhỏ là hàng nông sản) đảm bảo trên 70%nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu, tương tự thời kỳ 1991-1995 là 66%, và 1996-2000 là 50%. Con số này tiếp tục tăng vào các năm sau đó. Trong tương lai nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên. Nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng xuất khẩu – nguồn vốn chủ yếu để trả nợ - trở thành hiện thực. 1.2.1.2. Góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Để đánh giá tăng trưởng kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường, người ta có thể sử dụng thước đo tăng trưởng kinh tế theo các chỉ tiêu của hệ thống tài sản quốc gia (SNA). Mà một trong số các chỉ tiêu quan trọng đó là chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) Theo cách tiếp cận từ chi tiêu, GNP là tổng chi cho tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình (C), chi tiêu của chính phủ (G), đầu tư tích lũy tài sản (I) và chi tiêu qua thương mại quốc tế, tức là giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu (X-M). GDP = C + G + I + (X – M) Từ công thức trên có thể thấy kim ngạch xuất khẩu (X), trong đó có kim ngạch do xuất khẩu nông sản mang lại, là một bộ phận trong kết cấu thu nhập quốc nội, nó tỷ lệ thuận với thu nhập quốc nội. Có nghĩa là khi khi kim ngạch xuất khẩu nông sản càng tăng sẽ góp phần làm tăng cao GDP, thể hiện được năng lực cạnh tranh của đất nước về xuất khẩu. Như vậy kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng cao sẽ nâng cao tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Bảng 1.1: Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo khu vực kinh tế (tỷ đồng) năm Tổng số Công nghiệp và xây dựng Dịch vụ Nông nghiệp Tổng số Nông nghiệp Lâm nghiệp Thủy sản 2001 481.295 183.515 185.922 111.858 87.861 6.500 17.904 2002 535.762 206.197 206.182 123.383 96543 6.500 20.340 2003 613.443 242.126 233.032 138.285 106.385 7.775 24.125 2004 715.307 287.615 271.698 155.993 119.107 10.052 27.474 2005 839.211 343.807 319.003 176.401 133.986 10.052 32.363 2006 973.791 404.344 370.771 198.676 149.643 10.781 38.252 2007 1.143.442 475.728 436.146 231.568 173.581 12.042 45.945 2008 1.478.695 590.075 563.454 325.166 251.028 15.933 58.205 Nguồn:Tổng hợp từ Báo cáo thường niên ngành nông nghiệp Việt Nam 2007, 2008 1.2.1.3. Đối với tăng trưởng nông nghiệp. Việt Nam là một nước nông nghiệp, vấn đề sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản giữ vị trí quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế nối cung và tăng trưởng nông nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, mức độ tác động của xuất khẩu nông sản đối với tăng trưởng nông nghiệp còn bấp bênh, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của của nó. Xuất khẩu nông sản tác động đến mở rộng qui mô sản xuất nông nghiệp. Khi xuất khẩu hàng nông sản tăng, điều tất yếu dẫn đến cần một nguồn hàng nông sản ngày càng tăng. Do dó người sản xuất phải mở rộng hoạt động sản xuất nông nghiệp để tăng lượng hàng nông sản đáp ứng nhu cầu thị trường. Vì khi xuất khẩu nông sản tăng sẽ tạo nguồn thu lớn cho nhà sản xuất nên họ hoàn toàn có thể tăng vốn để tái sản xuất mở rộng qui mô. Mặt khác do có nguồn thu lớn nên nhà sản xuất có điều kiện trang bị các thiết bị, các công nghệ khoa học kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất. Chính điều đó làm tăng năng suất, chất lượng, nâng cao giá trị hàng xuất khẩu, tăng trưởng ngành nông nghiệp. 1.2.1.4. Góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu. Nông sản hiện là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Hàng năm kim ngạch do xuất khẩu nông sản mạng lại chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản nói chung mang lại chiếm tỷ trọng không nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, trung bình trong giai đoạn 2001-2008 chiếm khoảng 22,64% tổng kim ngạch xuất khẩu. Riêng kim ngạch xuất khẩu nông sản (không bao gồm lâm sản và thủy sản ) chiếm khoảng 9,17% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả nước. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu nông sản về giá trị tuyệt đối vẫn có xu hướng tiếp tục tăng những năm tới. Bảng 1.2: Kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam một số năm gần đây (triệu USD) Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Trung bình 2001-2008 Tổng KN XK hàng hóa 15029,2 16706,1 20149,3 26485 32447,1 39605 48561,4 62906,0 32736,1 Trong đó KN xuất khẩu nông sản 883,3 755,3 981 3297,8 2194,3 2524 4797,3 8572,3 3000,7 Tỷ trọng so với tổng KN xuất khẩu hàng hóa (%) 5,88 4,52 4,87 12,45 6,76 6,37 9.88 13.63 9,17 Nguồn: Trung tâm thông tin-Viện chính sách và chiến lược phát triển NNNT 1.2.1.5. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là, Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ các sản phẩm dư thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta sản xuất nông nghiệp về cơ bản còn phân tán, nhỏ lẻ nếu thụ đọng chờ ở sự dư thừa của sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp. Sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp. Hai là, coi thị trường và đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm thứ hai chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều này có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Xuất khẩu nông sản tạo điều kiện phát triển một số ngành khác phát triển thuận lợi. Chẳng hạn khi phát triển nông nghiệp xuất khẩu sẽ tạo cơ hội phát triển ngành sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu; ngành công nghiệp chế biến; ngành vận tải, kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo ra thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp. 1.2.1.6. Xuất khẩu nông sản tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất nông nghiệp trên qui mô lớn, ổn định. Xuất khẩu tạo điều kiện mở khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất nông nghiệp: nhập khẩu phân bón, giống cây trồng mới, công nghệ sản xuất tiên tiến, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Thông qua xuất khẩu, hàng nông sản của Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường. Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sản xuất mở rộng thị trường. 1.2.1.7. Tác động tích cực tới giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Một trong những đặc điểm nổi bật của Việt Nam và môt số nước đang phát triển khác là tốc độ tăng lực lượng lao động nhanh,từ đó việc làm luôn là vấn đề nóng cần quan tâm của nền kinh tế. Tác động của xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng tới việc làm và đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Quan trọng hơn cả là việc xuất khẩu giải quyết đầu ra cho quá trình sản xuất. Do đó người sản xuất có thể thu hồi được vốn để tiếp tục tái đầu tư và mở rộng qui mô kinh doanh. Từ đó giải quyết công ăn việc làm cho thêm nhiều lao động. Mặt khác xuất khẩu nông sản kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Đó chính là nơi thu hút hàng triệu lao động và mang lại cho họ nguồn thu nhập ổn định, không nhỏ. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ trực tiếp đời sống và đáp ứng ngày một phong phù hơn nhu cầu của nhân dân. 1.2.1.8. Là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quam hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Có thể hoạt động xuất khẩu có sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác và tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn, xuất khẩu và công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy các qun hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế…Mặt khác chính các quan hệ kinh tế đối ngoại chúng ta vừa kể lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu. Các yếu tố của thị trường xuất khẩu nông sản. 1.2.2.1. Cung xuất khẩu hàng nông sản. a. Cung xuất khẩu hàng nông sản thế giới. Cung xuất khẩu hàng nông sản thế giới là lượng hàng hóa nông sản mà các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản của các quốc gia sẵn sàng xuất khẩu ở các mức giá khác nhau trong một thời điểm nhất định. Nhìn chung cung hàng nông sản thế giới phụ thuộc trực tiếp vào lư._.ợng cung theo mùa vụ của của các quốc gia và lượng dự trữ của các quốc gia. Mặc dù lượng dự trữ lương thực của các quốc gia biến động không nhiều nhưng sản lượng lương thực sản xuất của thế giới phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết nên cung xuất khẩu hàng nông sản thế giới hàng năm thường biến động. Tùy thuộc vào mức độ thuận lợi hay khó khăn cuả thời tiết và diện tích gieo trồng nông nghiệp hàng năm mà biên độ dao động cung xuất khẩu hàng nông sản thế giới qua các năm khác nhau. b. Khả năng cung ứng nông sản của Việt Nam ra thị trường thế giới. Cung hàng nông sản của Việt Nam là lượng hàng hóa nông sản mà các doanh nghiệp và các hộ sản xuất có khả năng sản xuất và sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau trong mỗi thời điểm nhất định. Phần lớn cung hàng nông sản của nông dân là ở dạng tươi hoặc sơ chế, chưa thể xuất khẩu ngay được. Khi xuất khẩu các lô hàng lớn thường nông dân không trực tiếp xuất khẩu ra nước ngoài mà thông qua các doanh nghiệp kinh doanh hàng nông sản xuất khẩu hoặc các doanh nghiệp chế biến hàng nông sản chế biến xuất khẩu, các doanh nghiệp này sẽ thu mua hàng của nông dân để chế biến hoặc xuất khẩu tươi. Cung hàng nông sản của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào điều kiện thời tiết, khả năng sản xuất hàng nông sản của nông dân, năng lực của từng doanh nghiệp kinh doanh hàng nông sản xuất khẩu về vốn, khoa học công nghệ, trình độ quản lý, tay nghề của lao động. Ngoài ra cung hàng nông sản còn phụ thuộc trực tiếp vào chính sách xuất khẩu hàng năm của chính phủ đối với từng mặt hàng nông sản xuất khẩu. Cung hàng nông sản càng lớn thì áp lực bảo vệ và phát triển thị trường xuất khẩu nông sản càng lớn. Các doanh nghiệp xuất khẩu và chính phủ càng cần tăng cường xuất khẩu hơn. Mặt khác khi cung hàng nông sản của Việt Nam lớn thì Việt Nam càng có nhiều cơ hội tác động đến giá cả thế giới hàng nông sản, khả năng cung lớn và ổn định sẽ thu hút các khách hàng lớn nên việc mở rộng thị trường cũng thuận lợi hơn. Bảng 1.3: Xuất khẩu một số hàng nông sản Việt Nam so với tổng nhập khẩu của thế giới năm 2007(USD) XK của Việt Nam Tổng NK của TG Tỷ trọng (%) Gạo 1001101017 6651179232 15,05 Cà phê 1890559044 16950526371 11,15 Cao su 684529989 15069687066 4,54 Điều 531043714 2372657013 22,38 Tiêu 142186958 671857610 21,16 Chè 83074129 2736090301 3,04 Nguồn: Trung tâm Thông tin-Viện Chnhs sách và Chiến lược Phát triển NNNT Hiện nay, Việt Nam cũng đã xây dựng được một số ngành hàng nông sản xuất khẩu có kim ngạch lớn và bước đầu tạo được vị thế cho mình trên thị trường quốc tế nhưng lượng xuất khẩu của Việt Nam so với tổng nhập khẩu của thế giới còn quá nhỏ bé. Có thể thấy đó là tiểm năng thị trường rất lớn mà Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa để đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng và phát triển hơn nữa thị trường hiện có còn hạn chế của mình. 1.2.2.2. Cầu hàng nông sản thế giới. Cầu hàng nông sản là lượng nông sản mà người mua có khả năng mua và sẵn sàng mua ở các mức giá khác nhau trong một thời điển nhất định. Bảng 1.4: Tổng nhập khẩu của thế giới một số mặt hàng (USD) 2004 2005 2006 2007 Gạo 4585316686 4524045530 5241265792 6651179232 Cà phê 9147879215 12365959234 14271032913 16950526371 Cao su 8606937819 9495498420 13765580160 15069687066 Hạt điều 1854827523 2226723693 2091898986 2372657013 Chè 2115896833 2217570334 2491980803 2736090301 Hạt tiêu 373016830 365618669 466813810 671857610 Nguồn: Báo cáo thương mại nông sản Việt Nam sau 2 năm gia nhập WTO. Cầu hàng nông sản phụ thuộc vào một số yếu tố cơ bản sau: Thay đổi cơ cấu thương mại nông sản: Nhu cầu nhập khẩu nông sản thô gắn với sự tăng lên về nhu cầu dinh dưỡng và tốc độ tăng dân số nhiều hơn so với các sản phẩm chế biến, Trong khi kim ngạch nhập khẩu nông sản thô ở các nước phát triển tăng không nhiều thì ở các nước đang phát triển tăng đáng kể. Tỷ trọng nhập khẩu nông sản thô của các nước đang phát triển trong thương mại nông sản thô toàn cầu từ 40% những năm 80 lên hơn 50% năm 1995 toàn thế giới. Vấn đề chất lượng và an toàn thực phẩm. Yêu cầu về chất lượng và nhận thức về vấn đề an toàn và sức khỏe tạo nên sự tiêu dùng đáng kể trong tiêu dùng lương thực ở các nước có thu nhập cao. Chẳng hạn, do lo ngại về vấn đề sức khỏe và giá cả, thị phần thịt đỏ trong tổng số thịt tiêu dùng giảm từ 79%/năm 1970 xuống còn 62% 30 năm sau đó. Tương tự, tiêu thụ rau quả tính theo đầu người ở Mỹ giai đoạn 1997-1999 tăng 25%. 1.2.2.3. Mức giá thế giới hàng nông sản. Việt Nam là một nền kinh tế qui mô nhỏ nên có đặc điểm là phải chấp nhận mức giá thế giới khi xuất khẩu hang hoá ra thị trường thế giới. Khi mức giá hàng nông sản thế giới biến động, ngay lập tức nó tác động tới hoạt động xuất khẩu nông sản của VIệt Nam. Trao đổi với báo giới, TS. Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược, cho rằng, nhìn chung, giá nông sản rất nhạy cảm. Khi cung thiếu thì giá tăng vọt và cung thừa giá cũng giảm rất nhanh chứ không co giãn như những mặt hàng khác. Khi mức giá thế giới tăng cao thì nhu cầu tiêu dung một số mặt hàng nông sản nhạy cảm với giá như: cà phê, chè, hạt tiêu… lượng tiêu thụ giảm theo sự tăng giá đó. Ngay cả những mặt hàng ít nhạy cảm với giá như lương thực cũng giảm xút do người tiêu dùng chi tiêu tiết kiệm hơn. Sự sụt giảm cầu thị trường này có thể thấy rõ ở các nước nhập khẩu nông sản mà dân cư có mức thu nhập thấp như các nước châu Phi, các nước Asean. Ngược lại, khi mức giá hàng nông sản xuống thấp thì dù cầu có lớn thì thị trường xuất khẩu nông sản cũng khó có thể mở rộng vì mức giá xuất khẩu thấp làm giảm lợi ích của nhà sản xuất và nhà xuất khẩu nên không khuyến khích họ sản xuất, xuất khẩu. Do đó lượng cung hàng nông sản của Việt nam giảm gây ảnh hưởng đến việc duy trì, phát triển thị trường xuất khẩu. Bảng 1.5: Giá của một số mặt hàng nông sản trên thế giới (USD/tấn) Trung bình 01/02-05/06 07/08 08/09 09/10 10/11 11/12 12/13 13/14 14/15 15/16 16/17 Lúa mỳ 152 204.5 197.5 191.8 186.1 184.6 184.5 183.1 181.7 182.4 183.2 Ngũ cốc thô 103.6 158.9 157.6 147.1 143.3 144 140.8 138.4 138.6 139.5 138.2 Gạo 238.4 352.1 360.3 347.8 331.9 331 336.3 336.3 330.2 326.2 326 Hạt có dầu 266 310.4 311.7 306.5 300.8 297.4 297.7 295.4 295.1 298.4 299.6 Đường Giá đường thô Giá đường tinh luyện 217.6 269.7 242.5 341.7 235.9 330.7 231.5 319.7 235.9 319.7 240.3 319.7 238.1 314.2 238.1 310.9 240.3 310.9 241.4 309.7 242.5 308.6 Nguồn: Báo cáo thường niên ngành nông nghiệp Việt Nam 2007 và triển vọng 2008 1.2.2.4. Yếu tố cạnh tranh trên thị trường nông sản Mặc dù hiện nay Việt Nam là một quốc gia xuất khẩu một số nông sản lớn trên thế giới nhưng khả năng cạnh tranh và khả năng tác động tới thị trường nông sản thế giới còn nhỏ. Việ duy trì và phát triển thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam phụ thuộc lớn vào sức cạnh tranh của các đối thủ. Các đối thủ có thể gây ảnh hưởng ở đây gồm các nhóm: Đối thủ tiền ẩm gia nhập ngành: Đó là các quốc gia hiện nay chưa xuất khẩu nông sản nhưng họ có thể trở thành nước xuất khẩu những mặt hàng nông sản giống của Việt Nam. Với những đột phá liên tục trong khoa học công nghệ, đặc biệt trong công nghệ sinh học thì việc đối thủ tiềm ẩn của Việt Nam gia nhập ngành hoàn toàn có thể có sức cạnh tranh hơn các doanh nghiệp Việt Nam nên chúng ta luôn luôn chủ động tăng sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp và sản phẩm của mình Khách hàng: Cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội thì nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng phong phú, đa dạng hơn và trình độ tiêu dùng sản phẩm cũng cao hơn. Do đó họ yêu cầu ngày càng cao đối với sản phẩm, các yêu cầu có thể về vệ sinh an toàn thực phẩm, về qui cách đóng gói, nhãn mác hoặc yêu cầu về sản phẩm liên quan tới các tiêu chuẩn và tác động tới môi trường. Bất kỳ một doanh nghiệp nào mà không đáp ứng đước yêu cầu của người tiêu dùng, của công chúng thì xâm nhập thị trường đã khó, nhiều khi là không thể thì nói chi đến cơ hội mở rộng và phát triển thị trường. Đồng thời, nhu cầu của con người luôn biến đổi nên để muốn có được thị phần lớn trên thị trường thì việc nghiên cứu và dự báo nhu cầu tương lai để chủ động sản xuất và nhanh chóng tung ra thị trường sản phẩm đáp ứng nhu cầu mới đó trước các đối thủ sẽ giúp doanh nghiệp thành công trên thị trường. Các quốc gia đang sản xuất và xuất khẩu nông sản: Mặc dù, hàng nông sản Việt Nam bước đầu đã tạo được chố đứng trên thị trường thế giới nhưng vị trí đó luôn bị các đối thủ đe dọa. Nếu cạnh tranh về giá thì hàng nông sản Việt Nam luôn phải nép vế trước đối thủ khổng lồ Trung Quốc (giá nông sản xuất khẩu của Trung Quốc thường thấp hơn 1/3 giá hàng nông sản Việt Nam) nên tại các thị trường doanh nghiệp Việt áp dụng chính sách giá thấp để giành thị phần thì ngay khi hàng của Trung Quốc vào thị rường đó thị phần của các doanh nghiệp Việt Nam sụt giảm rõ rệt. Hay Thái Lan và Việt Nam đều là nước xuất khẩu nông sản và là đối thủ cạnh tranh với nhau trong một số ngành hàng (gạo, cao su, rau quả…). Nhìn chung, hàng hóa nông sản Thái Lan có sức cạnh tranh lớn hơn hàng hóa nông sane của Việt Nam. Chẳng hạn, tại thị trường Mỹ vốn chiếm tới 22% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu và khoảng trên 3% tổng giá trị nông sản xuất khẩu của Việt Nam thì hàng hóa nông sản Thái Lan vẫn chiếm ưu thế: năm 2007, xuất khẩu nông sản của Thái Lan sang Hoa Kỳ đạt giá trị trên 2,7 tỷ USD, trong khi Việt Nam chỉ đạt khoảng trên 1,3 tỷ USD. Cạnh tranh của các sản phẩm thay thế: sản phẩm thay thế là sản phẩm khác loại có khả năng thỏa mãn cùng một nhu cầu với sản phẩm bị thay thế. Thông thường khi giá sản phẩm tăng cao thi người tiêu dùng có xu hướng chuyển sang hàng thay thế có giá rẻ hơn. Chẳng hạn khi giá gạo tăng cao thì người ta cắt giảm tiêu dùng gạo mà chuyển sang tiêu dùng bột mì đang có giá thấp hơn. Hay việc trước bối cảnh giá gạo và giá lúa mỳ thế giới tăng mạnh trong thời gian gần đây và vụ bội thu khoai tây ở Băngladesh, chính phủ nước này đang khuyến khích 140 triệu người nước này tiêu dùng khoai tây như một nguông cung cấp chất bột chính thay thế gạo và bột mỳ trong thực đơn hàng ngày. Ở Băngladesh, khoai tây có khả năng cạnh tranh về mặt kinh tế so với lúa mỳ trong trong việc sản xuất lớn với chi phí thấp. Do đó sản phẩm thay thế đe dọa tới thị trường ngành nông sản bị thay thế của tất cả các doanh nghiệp trong ngành. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CỦA MỘT SỐ NƯỚC. 1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam 1.3.1.1. Yếu tố kinh tế Thị trường tài chính thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính nặng nề tại các thị trường chủ chốt như Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản... chính là nguyên nhân khiến sức cầu sụt giảm mạnh. Rắc rối của hệ thống ngân hàng tại những thị trường lớn làm hạn chế khả năng thanh khoản của các doanh nghiệp (DN) nhập khẩu hàng từ Việt Nam. Chính điều này làm thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam tại nước khủng hoảng tài chính khó mà duy trì thậm trí còn có thể sụt giảm kim ngạch. Tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là giá của một đơn vị tiền tệ của một quốc gia được tính bằng tiền tệ của một quốc gia khác. Do đó, thông qua việc phản ánh tương quan giá trị đồng tiền của các nước khác nhau mà tỷ giá hối đoái có được vai trò nhất định đối với quá trình trao đổi ngang giá và cùng một loạt các nhân tố khác, nó tác động tương quan giữa giá cả xuất khẩu với giá cả nhập khẩu tới khả năng cạnh tranh của các công ty. Trong trường hợp tỷ giá hối đoái giảm xuống, có nghĩa là đồng bản tệ có giá trị thấp hơn so với đồng ngoại tệ, nếu như không có các nhân tố khác ảnh hưởng thì sẽ tác động khuyến khích xuất khẩu vì các nhà xuất khẩu sẽ nhận được lãi do đổi ngoại tệ lấy đồng bản tệ đã bị rẻ đi, đồng thời có khả năng bán hàng hóa theo giá thấp hơn giá thế giới, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng hóa của nhà xuất khẩu trên thị trường thế giới. Nhưng đồng thời, tỷ giá tăng lên sẽ gây nhiều bất lợi cho xuất khẩu, vì hàng xuất khẩu trỏ nên đắt khó bán ở thị trường nước ngoài. Việc đồng USD tăng giá mạnh so với đồng Euro cũng gây sức ép lên giá nông sản thế giới. Hiện nay so với tháng 5/2008, đồng USD lên giá đến 23% so với đồng Euro. Do Hoa Kỳ là nước xuất khẩu nông sản lớn, và các nước xuất khẩu nông sản khác chủ yếu cũng sử dụng đồng USD trong thương mại quốc tế, và thị trường EU là một thị trường nông sản quan trọng do đó giá hàng nông sản khi vào EU trở nên đắt tương đối, làm giảm cầu gây sức ép làm giảm giá nông sản. Thu nhập và tiêu dùng lương thực phẩm Sự tăng lên về thu nhập và tiếp theo là những thay đổi trong tiêu dùng lương thực là nhân tố chính dấn đến sự chuyển dịch cầu cũng như thương mại nông sản toàn cầu. Xu hướng tiêu dùng ở các nước khác nhau không giống nhau dựa trên tốc độ phát triển kinh tế. Tại các nước có thu nhập cao nhất, tiêu thụ ngũ cốc và các sản phẩm củ rễ (biểu hiện bằng sự sẵn có) giữa hai năm 1961 và 1998 giảm mạnh trong khi tiêu thụ thịt và các sản phẩm khác lại tăng liên tục. Ở những nước có thu nhập thấp nhất, nơi mà vấn đề an ninh lương thực vẫn là nhức nhối mặc dù đạt được vài bước tiến trong thời gian qua, sự sụt giảm của các loại củ quả được bù đắp bằng các sản phẩm khác. Sự khác biệt về sự sẵn có của lượng lương thực thực phẩm trên thị trường giàu các nước phát triển và đang phát triển cũng phản ánh trong thị phần chi tiêu cho thực phẩm. Ở các nước có mức thu nhập thấp, chi cho lương thực chiếm tỷ trọng lớn , khoảng 47% trong tổng chi tiêu của người tiêu dùng trong khi tại các nước giàu chỉ tiêu này chỉ vào khoảng 13%. Sự tăng lên về thu nhập bình quân đầu người ở các nước đang phát triển trong thập kỷ tới sẽ dẫn tới sự tăng lên về cầu các sản phẩm chất lượng cao còn cầu về các sản phảm thiết yếu sẽ giảm. Đô thị hóa và tiêu dùng thực phẩm: Ưu tiên cho lương thực thay đổi bởi tốc độ đô thi hóa cao. Do những khác biệt về lối sống, thời gian, sự sẵn có cuat lương thực phẩm và thu nhập ở nông thôn, thành thị, chế độ ăn của người dân ở hai khu vực này nhin chung không giống nhau. Ví dụ, số liệu thống kê của FAO trong những năm 70 và 80 chỉ ra rằng có sự tăng lên đáng kể trong tiêu thụ lúa mỳ ở các khu vực thành thị ở Trung Quốc và Ấn Độ trong khi tiêu dùng ngũ cốc thô và gạo giảm mạnh. Bên cạnh đó tiêu thụ lúa mỳ ở khu vực nông thôn tăng và tiêu thụ gạo vẫn ổn định. 1.3.1.2. Yếu tố văn hóa – xã hội Các yếu tố văn hóa xã hội như phong tục tập quán, trình độ dân trí, thị hiếu , lối sống... ảnh hưởng nhiều đến hoạt động phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Bất kỳ -doanh nghiệp nào khi muốn thâm nhập vào thị trường nước ngoài đều phải nghiên cứu kĩ vấn đề này bởi chúng có tác động sâu sắc và rộng rãi nhất đến nhu cầu, hành vi tiêu dùng của khách hàng. Nền văn hóa tạo nên cách sống của một cộng đồng sẽ quyết định cách thức tiêu dùng, thứ tự ưu tiên cho nhu cầu muốn được thỏa mãn và cách thức thỏa mãn nhu cầu của con người sống trong cộng đồng ấy. Các quốc gia khác nhau sẽ có nền văn hóa khác nhau, do đó để thành công trong việc phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu các doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ văn hóa – xã hội của từng thị trường. Qua đó sẽ phân đoạn thị trường, chọn ra những đoạn thị trường phù hợp và đưa vào đó cơ cấu mặt hàng xuất khẩu hợp lý nhằm thu lợi nhuận cao nhất. 1.3.1.3. Yếu tố chính trị, luật pháp Tình hình chính trị và pháp luật của chính quốc gia xuất khẩu sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu. Nó có thể tạo ra cơ hội kinh doanh, môi trường thuận lợi cho các nhà sản xuất và nhà xuất khẩu, nhưng nó có thể tạo ra các trở ngại cho họ. Về vấn đề bảo hộ hàng nông sản của các thị trường nhập khẩu nông sản của Việt Nam: Cung với vấn đề tự do hóa kinh tế đã xuất hiện nhiều hình thức mới trong bảo hộ mậu dịch tại các nước phát triển đối với hàng hóa nông, lâm, thủy sản - thường được coi là nhạy cảm đối với nền kinh tế. Các nước thường sư dụng một số biện pháp chủ yếu dưới đây để bảo hộ nông, lâm, thủy sản như: thuế quan, các hàng rào định lượng, các biện pháp quản lý giá, các hàng rào ký thuật, hỗ trợ trong nước trong nông nghiệp và trợ cấp xuất khẩu hàng nông sản xuất khẩu, các biện pháp phòng vệ thương mại tạm thời. Mức độ bảo hộ này của các thị trường nhập khẩu càng cao thì khả năng thâm nhập và phát triển tại thị trường này cang khó khăn. Về biện pháp quản lý hàng xuất khẩu: Hiện nay Việt Nam đang thực hiện chiến lược thúc đẩy xuất khẩu nên gần như tất cả các hàng nông sản được phép xuất khẩu trong khoảng cho phép của chính phủ đều không phải nộp thuế xuất khẩu. Các thủ tục hải quan đối với hàng xuất khẩu đã được đơn giản hóa và được tiến hành một cách nhanh chóng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên, để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia Chính phủ áp dụng hạn ngạch xuất khẩu với một số mặt hàng nông sản có liên quan trực tiếp đến an ninh lương thực quốc gia như mặt hàng gạo. Mặc dù biện pháp này là hoàn toàn cần thiết đối với nền kinh tế, nhưng nếu khâu dự báo sản xuất và dự báo nhu cầu không tốt thì dễ dẫn đến xác định mức hạn ngạch không hợp lý gây thiệt hại kinh doanh, bỏ lỡ cơ hội mở rộng và phát triển thị trường một cách thuận lợi. 1.3.1.4. Về Quan hệ chính trị ngoại giao Quốc gia muốn phát triển thị trường hàng xuất khẩu thì trước hết cần có đường lối chính trị mở cửa hội nhập với thế giới một cách nhất quán và ổn định lâu dài, đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới để mở đường cho các quan hệ kinh tế thương mại phát triển. 1.3.2. Kinh nghiệm phát triển thị trường xuất khẩu nông sản của một số nước. Phát triển thị trường xuất khẩu nông sản không phải là vấn đề mới nhưng nó không hề đơn giản. Nó đang là vấn đề mà chính phủ Việt Nam và rất nhiều các nhà sản xuất nông sản, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hàng nông sản Việt Nam quan tâm. Vì vậy, việc tham khảo kinh nghiệm thâm nhập, phát triển và bảo vệ thị trường xuất khẩu nông sản của các nước đã thành công là điều hết sức cần thiết đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Kinh nghiệm xây dựng, phát triển và bảo vệ thị trường của các quốc gia xuất khẩu nông sản lớn như: Trung Quốc, Thái Lan, Hoa Kỳ, Hà Lan chắc chắn sẽ mang lại những bài học quí báu cho các doanh nghiệp Việt Nam. 1.3.2.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc Con rồng Trung Quốc sau 3 thập kỷ mở cửa và cải cách, hiện nay đã là nển kinh tế lớn thứ 6 trên thế giới và thương mại lớn thứ 3 trên thế giới, trở thành công xưởng của thế giới không chỉ các mặt hàng dân dụng giá rẻ mà đã tiến dần vào các sản phẩm công nghệ cao.Năm 2007 kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc bằng 3 lần tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới năm 1990. Năm 2007, thay thế vị trí của Canada, Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu hàng hoá lớn nhất vào thị trường Mỹ. Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản và Hàn Quốc về kim nghạch xuất khẩu vào thị trường Châu Á. Xuất khẩu của Trung Quốc tăng trưởng nhanh chóng, năm 2004 vượt qua Nhật Bản, 2007 vượt qua Mỹ, năm 2008 Trung Quốc vượt qua Đức về xuất khẩu. Theo số liệu thống kê của imf.org năm 2008 Trung Quốc xuất khẩu ước đạt 1.358,07 tỷ USD, tăng 21,9%, tốc độ tăng giảm 11,5% so với năm 2007. Các yếu tố thúc đẩy thành công của Trung Quốc trong xuất khẩu hàng hóa nói và xuất khẩu nông sản nói riêng. Xây dựng hệ thống pháp lý và chính sách rõ ràng, đầy đủ để tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu: Chính phủ Việt Nam cần sớm định hình một hệ thống văn bản pháp qui đầy đủ và chi tiết để tạo lập cơ sở hoạt động cho các doanh nghiệp, bap gồm: chính sách thị trường, chính sách mặt hàng, hệ thống pháp lý hỗ trợ (tín dụng xuất khẩu, thông tin thị trường, hỗ trợ ngiên cứu…). Trung Quốc đã sớm xây dựng được “chính sách châu Phi” nên tạo được cơ sở pháp lý quan trọng để phát triển thị trường xuất khẩu tại châu lục này. Thường xuyên tổ chức các chuyến thăm cao cấp và trao đổi giữa các đoàn ngoại giao kinh tế, thương, mại để thúc đẩy thương mại, mở rộng thị trường: Một trong các biện pháp mà chính phủ Trung Quốc sử dụng tích cực để nhằm phát triển quan hệ ngoại giao kinh tế với châu Phi là tổ chức các đoàn lãnh đạo cao cấp nhằm tạo đà cho quan hệ song phương. Chính những chuyến thăm đó, hai bên đã đưa ra các sáng kiến hợp tác mới, khai thông bế tắc trong phát triển quan hệ thương mại và là cơ hội để các doanh nghiệp thác tùng các đoàn cao cấp tìm kiếm cơ hội thị trường và đối tác kinh doanh. Tổ chức các cuộc họp thượng đỉnh và thương mại: Trung Quốc sử dụng các cuộc họp thượng đỉnh và các cuộc gặp mặt chính thức để tiếp cận với các doanh nhân hàng đầu châu Phi. Hội thảo kinh doanh Trung Quôc-châu Phi lần đầu tiên được tổ chức vào 12/2003, có 250 nhà kinh doanh hàng đầu châu Phi và 150 doanh nhân Trung Quốc, đưa đến 20 dự án với tổng giá trị thương mại là 680 triệu USD. Tổ chức các cuộc hội trợ triển lãm, hợp tác quốc tế: Các cơ quan chức năng Trung Quốc như Bộ Thương mại, Bộ Ngoại giao, các hiệp hội và trung tâm xúc tiến thương mại đã tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng tại các thị trường xuất khẩu thường xuyên tổ chức các cuộc hội chợ triển nhằm giới thiệu thành tựu phát triển kinh tế, giới thiệu và quảng bá sản phẩm thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp toàn thế giới, tạo diễn đàn cho các doanh nghiệp thiết lập mối quan hệ kinh doanh, thương mại và khai thông các bế tắc trong kinh doanh Đa dạng hóa hàng xuất khẩu và nâng cao tính cạnh tranh: Muốn thâm nhập vào bất kỳ thị trường nào, điều cốt lõi là phải tạo ra được các sản phẩm phù hợp, có sức cạnh tranh cao về chất lượng và giá thành. Đây là bài học đặc biệt quan trọng từ các doanh nghiệp Trung Quốc. Các doanh nghiệp Việt Nam cần học tập đồng nghiệp Trung Quốc trong việc năng động, sáng tạo, nắm bắt được yếu tố tôn giáo, văn hóa của thị trường mà mình hướng tới để tạo cho sản phẩm có độ hấp dẫn khác biệt so với các sản phẩm cạnh tranh của các nước khác. Bên cạnh đó, cạnh tranh về giá sản phẩm đang là điểm yếu của các doanh nghiệp nước ta trước các đối thủ trong khu vực là Trung Quốc, Ấn độ... trên thị trường quốc tế Liên kết các doanh nghiệp Việt Nam cùng xuất khẩu nông sản và liên kết giữa doanh nghiệp Việt Nam với các đối tác: Các doanh nghiệp Việt Nam cần sớm hình thành và tạo lập được những liên kết với nhau trên cùng thị trường hoặc với các đối tác tại thị trường kinh doanh. Có thể sử dụng kinh nghiệm của Hoa kiều để hình thành những liên kết theo nhiều hình thức để tăng cơ hội và hợp tác lẫn nhau giữa các doanh nghiệp Việt Nam Coi trọng vấn đề chất lượng hàng xuất khẩu: năm 2007 là năm mà nhiều hàng Trung Quốc bị kêu ca về chất lượng ở nhiều mức độ khác nhau trên thị trường ngoài nước. Điều này làm ảnh hưởng đến vị thế là “công xưởng thế giới” của Trung Quốc. Để chấn an dư luận, chính phủ Trung Quốc đã bác bỏ cáo buộc ở nước ngoài cho rằng do lo sợ về sức ép về sự bành trướng cuả Trung Quốc, chủ nghĩa bảo hộ đã mượn danh an toàn sản phẩm để rùn beng lên, thổi phồng lên nhằm làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Trung Quốc. Trung Quốc trong một chừng mực nhất định đã có biện pháp trả đũa Mỹ về hành động Mỹ cáo buộc đồ chơi Trung Quốc xuất khẩu sang Mỹ có dùng loại sơn có độc hại đến sức khỏe người tiêu dùng mà thực chất lô hàng đó do phía đối tác Mỹ thiết kế cho Trung Quốc sản xuất. Họ đã cáo buộc một số nhà xuất khẩu Mỹ đã bán cho Trung Quốc đậu nành bị nhiễm độc qua phát hiện một số tạp chất có khả năng gây hại cho người tiêu dùng. Mặt khác Trung Quốc mạnh tay xử lý các vụ vi phạm an toàn sản phẩm khi có chứng cứ rõ ràng như việc tử hình nguyên Cục trưởng Cục an toàn thực phẩm và thuốc vì tội hối lộ và cấp giấy chứng nhận an toàn cho thuốc giả lưu hành trên thị trường. Hiện nay Trung Quốc đề ra 8 nhiệm vụ và 20 mục tiêu cụ thể cho vấn đề này, nhiều biện pháp kiểm tra gắt gao cơ sở sản xuất hàng thực phẩm xuất khẩu, kể cả thắt chặt thủ tục cấp phép, toàn bộ hàng thực phẩm xuất khẩu đều phải có chứng nhận kiểm dịch. 1.3.2.2. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là một trong những nước có hoạt động thương mại nông sản lớn nhất thế giới. Những kinh nghiệm sau đây của Hoa Kỳ trong phát triển nền nông nghiệp chắc chắn sẽ rất hứu ích cho Việt Nam . Mỹ mở rộng thị trường thông qua các hiệp định thương mại: Việc tiếp cận tốt hơn các thị trường nước ngoài đòi hỏi một hiệp định thương mại tích cực đối với việc giảm mức thuế và loại bỏ rào cản thương mại và trợ giá. Đảm bảo sự tương thích giữa chính sách thương mại và chính sách khuyến khích nông nghiệp, các hỗ trợ trong nước và chính sách thương mại phải luôn được giữ vững và bổ sung củng cố cho nhau để tăng cường được tính cạnh tranh cho các nhà sản xuất của mình. Mỹ đã thực hiện rất tốt tất cả các việc này, chính sách đối nội và xuất khẩu phải hỗ trợ cho trách nhiệm quốc tế hiện có mà Mỹ đã cam kết và cùng lúc có thể giúp Mỹ có phạm vi rộng rãi trong việc theo đuổi mục đích đề ra trong các đàm phán thương mại tương lai Mỹ xác định chính xác thị trường mục tiêu cho hàng nông sản xuất khẩu của mình: Nhận ra rằng có tới 96% dân số thế giới đang sinh sống bên ngoài lãnh thổ nước Mỹ, do đó Mỹ Tập trung vào phát triển thị trường các nước có mức thu nhập trung bình. Nhu cầu tại Mỹ và các nước phát triển khác sẽ tăng chậm không thể tăng nhanh hơn được mức tăng dân số. Nhu vậy cần phát triển thị trường xuất khẩu nông sản vào các nước đang phát triển cũng như các nước có mức thu nhập trung bình nơi mà nhu cầu về lương thực đang tăng mạnh. Với mức thu nhập đó người dân đã đạt tới mức tiêu dùng đa dạng hóa nhu cầu lương thực thông qua các sản phẩm chế biến, thực phẩm gia súc. Nếu không không quan tâm tói thị trường khách hàng có thu nhập trung bình thì sẽ kiềm chế việc mở rộng thị trường. Mỹ xác định rõ chiến lược xuất khẩu nông sản giá trị cao: hiện nay nhu cầu về hàng giá trị cao đang tăng nhanh, tổng giá trị mặt hàng này chiếm tới 2/3 so với mức 1/2 so với hồi đầu năm 1990. Sự phát triển của thị trường này đòi hỏi sự phối hợp giữa các nhà sản xuất nông nghiệp, chế biến lương thực để có thể đưa ra sản phẩm chất lượng cao với giá cả cạnh tranh hơn so với các nước khác, đáp ứng nhu cầu thị trường đang tăng. Việc xuất khẩu thịt gia súc và gia cầm tăng mạnh đã tăng việc tiêu thụ ngũ cốc và đậu nành nuôi gia súc. Như vậy Mỹ đã gián tiếp xuất khẩu được nhiều ngô và đậu nành hơn, thông qua các sản phẩm thịt. 1.3.2.3. Kinh nghiệm của Hà Lan Biết phát huy lợi thế so sánh của đất nước: Hà Lan thông qua chính sách lớn: “nhập lớn xuất lớn” để phát huy lợi thế so sánh, tăng cạnh tranh quốc tế. Trên thị trường thế giới, Hà Lan tập chung vào mặt hàng nông sản và thực phẩm có giá trị cao. Ngoài mặt hàng hoa cắt tươi và củ quả nổi tiếng thế giới, còn xuất khẩu chồi giâm và hạt hoa giống. Xuất khẩu cà chua, pho mát, bia đứng hàng đầu thế giới. Nâng cao sức cạnh tranh quốc tế cho sản phẩm: Trên thị trường thế giới, các mặt hàng nông sản của Hà Lan có sức cạnh tranh cao. Đầu tư vốn và công nghệ cao để tạo ra sản phẩm khác biệt đối thủ, phù hợp nhu cầu người tiêu dùng. Một ví dụ là về khoai tây, vốn là một loại “thực phẩm bình dân” của thế giới, giá cả bình thường nhưng do Hà Lan tạo được khoai tây có kích thước đều đặn , vỏ nhẵm bóng được thế giới ưa chuộng, từ đó thị trường xuất khẩu ổn định. Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng: động mạch lớn của nền kinh tế là mạng lưới giao thông hiện đại được hoàn chỉnh. Hiện Hà Lan có 2.800km đướng sắt, 110.000km đường bộ, trong đó có 2.400km đường cao tốc. Đường hàng không đứng thứ 9 thế giới, với 80 hãng hàng không có hơn 230 tuyến bay khắp các nước, nhờ đó hoa Hà Lan nhanh chóng có mặt tại các chợ hoa khắp thế giới. 1.3.2.4. Kinh nghiệm của Thái Lan. Coi trọng trợ cấp theo qui định của URAA: Trong tiến trình thực hiện từng bước tự do hoá thương mại nông sản, Thái Lan coi trọng trợ cấp trong nước, đặc biệt là trợ cấp theo “hộp xanh lơ” theo qui định của URAA, mức trợ cấp này có xu hướng tăn lên. Đây là một biện pháp hiệu quả mà chính phủ Thái Lan áp dụng để tăng sức cạnh tranh hàng nông sản của mình trên thị trường quốc tế. Tích cực tham gia các vòng đàm phán quốc tế về lĩnh vực nông nghiệp: Với vai trò là nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới, Thái Lan rất tíc cực tha gia vào vòng đàm phán Urugoay về lĩnh vực nông nghiệp bởi Hiệp định nông nghiệp (URAA) có lợi với Thái Lan. Ngay sau vòng đàn phán này, năm 1996 một nghien cứu của Viện nghiên cứu phát triển Thái Lan ước tính là Thái Lansex thu được một khoản lợi tức ròng khoảng 482 triệu USD do tăng được kim nghạch xuất khẩu. Một nghiên cứu khác của Văn phòng kinh tế nông nghiệp Thái Lan thì cho rằng dù sản xuất và xuất khẩu gạo có giảm chút ít, nhưng một số loại nông sản khác như thịt gia cầm, rau quả, sữa của nước này chắc chắn sẽ tăng đáng kể. Hỗ trợ xuất khẩu mạnh: Chính phủ Thái Lan có chiến lược hỗ trợ xuất khẩu rất mạnh, thể hiện qua hình thức hợp đồng “ Chính phủ với chính phủ” được ký kết giữa Thái Lan và các nươc đối với hai mặt hàng lúa gạo và cao su. Năm 1994 khi giá gạo ở Thái Lan giảm, Chính phủ đã lập tức áp dụng các biện pháp hỗ trợ thị trường gạo trong nước, thiết lập lại chế độ trợ cấp xuất khẩu gạo đã tạm dừng vào tháng 1.1993 đồng thời gia tăng đàm phán với Nga và Indônêxia để ký hợp đồng xuất khẩu gạo. Chính phủ còn xây dựng nhà máy xay sát gạo tại Brunei nhằm xuất khẩu gạo trực tiếp sang nước này. Ngoài ra Chính phủ còn dành một khoản ngân sách để quảng bá sản phẩm ra nước ngoài, hỗ trợ công tác thông tin thị trường, tiếp thị, xây dựng chợ nông sản tại các thị trường tiêu thụ lớn. Kết hợp công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại: Suy nghĩ của người dân Thái Lan đã thay đổi, giờ đây họ trồng lúa không chỉ để ăn mà để xuất khẩu. Tại Hội chợ gạo 2007, Thủ tướng Thái Lan Sarayud Chulanont nhấn mạnh, “Thái Lan sẽ đẩy mạnh công nghệ ứng dụng những công nghệ và kỹ thuật hiện đại đồng thời kết kinh nghiệm truyền thống để ổn định sản lượng. Có thể nói, chính việc đầu tư áp dụng công nghệ mới đã quyết định tốc độ tăng trưởng nông nghiệp nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng của quốc gia gia này trong thời gian qua CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM 2.1. PHÂN TÍCH KHÁI QUÁT THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2008. 2.1.1. Thị trường ngành hà._.đa. Đồng thời, trên cơ sở một số sàn giao dịch đã có (sàn gia dịch cà phê tại Đắc Lắc) tổng kết thành công, hạn chế để nghiên cứu khả năng vận dụng cho một số ngành hàng như: Lúa gạo (Cần Thơ), Hồ tiêu (Bình Phước), Cao su (Đắc Lắc), Rau quả (Vĩnh Long). Tăng cường áp dụng các chính sách thúc đẩy xuất khẩu truyền thống và phù hợp với thông lệ quốc tế như miễn, giảm và hoàn thuế, đồng thời chuyển sang đẩy mạnh thực hiện chính sách hỗ trợ xuất khẩu được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Chẳng hạn như chính sách cung cấp tín dụng cho người mua nước ngoài, cho vay ưu đãi theo hiệp định cấp chính phủ, bảo hiểm và bảo lãnh tín dụng, thưởng xuất khẩu thay vì trợ cấp, trợ giá. Đây là một hướng đi đúng đắn và có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo lập môi trường cạnh tranh năng động cho các hoạt động xuất khẩu, tạo động lực cho các nhà xuất khẩu, tránh bị cáo buộc trong các vụ kiện trợ giá quá mức. Cụ thể các biện pháp thưởng xuất khẩu được đề ra như sau Thưởng nếu kim ngạch xuất khẩu năm này cao hơn năm trước Thưởng cho mặt hàng mới vào thị trường mới Tốc độ tăng trưởng bình quân kim ngạch của doanh nghiệp cao hơn mức tăng trưởng bình quân của ngành. Doanh nghiệp nào có mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao hơn thì sẽ được hưởng mức thưởng cao hơn Các mặt hàng có hàm lượng chế biến cao hơn sẽ có mức thưởng cao hơn (ví dụ: mức thưởng cho sản phẩm nông sản chế biến hoặc giá trị gia tăng cao sẽ cao hơn mức thưởng cho sản phẩm nông sản thô, nguyên liệu) Quy định cụ thể về những ưu đãi để khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh nông sản mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường kinh doanh như: ưu đãi cho vay vốn hoặc cho giữ lại vốn khấu hao để các doanh nghiệp tái đầu tư, cho trích lại một phần thuế xuất khẩu để trợ giúp các doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất Áp dụng một số giải pháp tài chính, tín dụng khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu như: miễn hoặc giảm các loại thuế sản xuất và xuất khẩu cũng như nhập khẩu nguyên liệu đầu vào Tăng cường hoạt động tài trợ xuất khẩu như: tài trợ trước khi giao hàng, tài trợ trong khi giao hàng và tín dụng sau giao hàng. Lập quỹ hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu bởi vì những lý do như: hàng nông sản thuộc nhóm hàng mà nguồn cung phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thiên nhiên, có tính chất thời vụ, rủi ro rất lớn và giá cả biến động thất thường. Các chính sách hỗ trợ này rất có hiệu quả trong việc khuyến khích xuất khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vững chắc với thị trường xuất khẩu chủ yếu, đồng thời thâm nhập được các thị trường mới tiềm năng. Hỗ trợ doanh nghiệp trong tuyên truyền quảng bá, xúc tiến thương mại. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, ít vốn, lại chưa có nhiều điều kiện tiếp xúc với các phương tiện thông tin qua mạng toàn cầu, vì lẽ đó Nhà nước cần trợ giúp các doanh nghiệp trong hoạt động quảng bá thương hiệu nông sản Việt Nam ra thị trường nước ngoài, giúp các doanh nghiệp hội nhập thành công vào nền kinh tế thế giới. Các cơ quan chức năng cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đào tạo, huấn luyện, cung cấp thông tin, tư vấn xây dựng nhãn hiệu và quảng bá thương hiệu nông sản ở thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó, theo ý kiến các doanh nghiệp, Nhà nước cũng cần tăng cường công tác quản lý, thực hiện nghiêm các chế tài xử phạt đối với các trường hợp vi phạm về nhãn hiệu hàng hóa.       Hình thức phổ biến mà hiện tại các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam áp dụng để quảng bá cho thương hiệu của mình là tham gia hội chợ và triển lãm tại nước ngoài, theo chương trình của Cục Xúc tiến thương mại. Thông thường các doanh nghiệp tham gia đã được hỗ trợ tới 50% chi phí gian hàng, nhưng số tiền mà các doanh nghiệp phải bỏ ra để tham gia hội chợ vẫn còn rất cao (thậm chí đến 15.000 – 20.000 USD cho toàn bộ chi phí). Nếu cứ thực hiện chương trình hỗ trợ như vậy, e rằng sẽ có rất nhiều doanh nghiệp không bao giờ có thể tham gia hội chợ và triển lãm tại nước ngoài. Vì thế, đề xuất được đưa ra là Chính phủ nên thành lập Quỹ hộ trợ xúc tiến thương mại và phát triển thương hiệu. Quỹ này sẽ giúp các doanh nghiệp tham gia quảng bá hình ảnh thương hiệu tại nước ngoài trên những phương tiện khác nhau. Để giúp đỡ và hỗ trợ doanh nghiệp quảng bá hình ảnh ra nước ngoài, không thể tiến hành một cách đại trà mà cần phải xác định từng từng giai đoạn hai năm một để đầu tư quảng bá, hạn chế tình trạng quảng bá tràn lan không có trọng điểm để nâng cao hiệu quả trong tuyên truyền và quảng bá. 3.3.2. Ở cấp độ doanh nghiệp Trong quá trình thúc đẩy phát triển thị trường xuất khẩu nông sản thì bản thân doanh nghiệp là người quyết định. Thị trường là yếu tố kiên quyết quyết định sự tồn tại và phát triển cho chính bản thân doanh nghiệp đó và đảm bảo các mục đích kinh doanh của doanh nghiệp, do đó không thể ỷ lại hoặc trông chờ quá nhiều vào Nhà nước mà phải bằng chính khả năng của mình, dựa vào sức mình là chính để xây dựng, phát triển thị trường cho chính bản thân doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần xây dựng cho mình chiến lược tiếp cận và phát triển thị trường một cách rõ ràng và chiến lược nhằm khuếch trương thương hiệu của mình trên thị trường thế giới. Hoạt động chiến lược phải dựa trên kết quả của việc nghiên cứu, đánh giá thị trường và bản thân doanh nghiệp. Cơ hội và điểm mạnh phải được tối ưu hoá trong khi nguy cơ và điểm yếu phải biến thành điểm mạnh. Khi biến điểm yếu thành điểm mạnh, nguy cơ tự nó biến thành cơ hội. Ví dụ như các yêu cầu về môi trường của thị trường Châu Âu có thể là nguy cơ đối với các doanh nghiệp chưa biết đến yêu cầu đó hay không muốn thay đổi bao bì và quy trình sản xuất. Đối với các doanh nghiệp được cấp chứng chỉ ISO 14001, thì đây lại là cơ hội. Trong trường hợp điểm mạnh và cơ hội chiếm ưu thế so với điểm yếu và nguy cơ thì doanh nghiệp đã sẵn sàng hình thành chiến lược xuất khẩu đối với thị trường cụ thể và lập kế hoạch cho các sản phẩm xuất khẩu. Chú ý việc nghiên cứu thị trường cần tập trung vào một số điểm trọng tâm sau: Nghiên cứu xu hướng vận động của nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng nông sản của khách hàng mục tiêu, những xu thế phát triển hiện tại và trong tương lai của tình hình ngoại thương nông sản tại thị trường đó. Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp có những quyết định đầu tư sản xuất những mặt hàng mà thị trường cần, phát hiện ra những phân đoạn thị trường chưa được phủ đầy, từ đó có biện pháp tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu. Nghiên cứu hệ thống phân phối nông sản trên từng thị trường xuất khẩu. Nghiên cứu các kênh đưa hàng trực tiếp vào siêu thị, các kênh đưa hàng gián tiếp qua các trung gian thương mại... Nghiên cứu tâm lý khách hàng là một trong những khâu rất quan trọng quyết định đến sự thành bại của sản phẩm trên thị trường. Cần đặc biệt giải quyết vấn đề thiều hiểu biết về pháp luật thương mại và kinh doanh đối với mặt hàng nông sản tại các thị trường khó tính nhưng nhiều tiềm năng. Nhanh chóng thích nghi với văn hoá kinh doanh của thị trường mục tiêu. Văn hoá kinh doanh tại các thị trường khác nhau thì không giống nhau và không giống với ngay cả nét kinh doanh của người Việt. Do đó các doanh nghiệp cần hết sức quan tâm và chủ động tìm hiểu các nét văn hóa đó và nỗ lực tạo ra sự hòa hợp với các nét văn hóa đó để đem lại kết quả tốt đẹp trong giao dịch kinh doanh. Phát triển công nghiệp chế biến nông sản: Phát triển công nghiệp chế biến là cách thức nâng cao giá trị gia tăng của nông sản và thu hẹp tình trạng xuất khẩu sản phẩm thô. Việc phát triển công nghiệp chế biến còn tạo nên thị trường nội địa to lớn và ổn định cho sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, công nghiệp chế biến nông sản của Việt Nam còn nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, tỷ trọng nông sản chế biến trong tổng sản lượng sản xuất còn rất thấp (chè: 55%; rau quả: 55%, thịt: 1%...). Để phát triển mạnh công nghiệp chế biến, cần giải quyết nhiều vấn đề, trong đó chủ yếu là: Nâng cao chất lượng đầu vào Hiện tại chất lượng đầu vào của nông sản nguyên liệu Việt Nam còn rất thấp do dư lượng thuốc trừ sâu trong nông sản còn quá cao. Mặc dù vấn đề này được nói đến nhiều lần nhưng vẫn chưa hề có biện pháp cụ thể. Trong khi các thị trường nhập khẩu lớn của Việt Nam là EU và Mỹ đã áp dụng các tiêu chuẩn vệ sinh đối với nhiều nông sản Việt Nam . Do vậy, việc nâng cao hiệu quả khâu nhập nguyên liệu đầu vào mang tính cấp thiết. Trước hết doanh nghiệp cần phải giải quyết vấn đề tranh chấp nguyên liệu đầu vào dẫn đến chất lượng không đảm bảo thông qua một số biện pháp sau: Thứ nhất, qui hoạch vùng nguyên liệu cho chính doanh nghiệp mình: Cái khó của các doanh nghiệp chế biến hàng nông sản Việt Nam không phải là năng lực chế biến mà chính là vùng nguyên liệu. Vùng nguyên liệu đã manh mún rồi lại thường xuyên thay đổi cây trồng thâm canh trên cùng một vùng nguyên liệu. Trên một cánh đồng, khuyến nông dân trồng nhiều thứ quá không hiệu quả. Kết quả là vùng nguyên liệu không ổn định, giá nguyên liệu lên xuống bấp bênh. Người nông dân vẫn chưa có thói quen sản xuất theo kiểu công nghiệp, chăm sóc rau quả không đúng theo qui chuẩn kỹ thuật, phun thuốc hóa học tràn lan nên chất lượng nông sản không đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu. Một khó khăn nữa là các doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu thường xuyên bị ép giá cao khi giá trị trường lên. Điều đó ảnh hưởng lớn tới việc giao hàng theo quy định của hợp đồng. Vì vậy công tác qui hoạch vùng nguyên liệu là việc cần sớm giải quyết. Khi có quy hoạch tổng thể vùng nguyên liệu, công tác thu mua bảo quản sẽ diễn ra nhanh hơn, thuận lợi, hiệu quả hơn giảm bớt được chi phí trung gian, đồng thời doanh nghiệp có điều kiện tập trung đầu tư thâm canh và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới để đáp ứng tốt yêu cầu chế biến xuất khẩu. Cụ thể doanh nghiệp cần: Thứ nhất, Thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các chủ thế sản xuất nguyên liệu và chủ thể chế biến nguyên liệu nông sản. Các doanh nghiệp chế biến nên ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm với người nuôi trồng, giúp đỡ nông dân về kỹ thuật nuôi trồng, về giống và công tác bảo quản sau thu hoạch theo Quyết định số 80/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 về tiêu thụ nông sản hàng hoá qua hợp đồng. Vấn đề quan trọng là đề cao trách nhiệm và sự hợp tác của các bên trong việc thực hiện những điều đã cam kết. Trên cơ sở đó doanh nghiệp tạo vùng nguyên liệu cụ thể của mình. Doanh nghiệp có thể tự trồng hoặc kết hợp mua của nông dân, nhưng vùng nông sản của nông dân phải được địa phương qui hoạch, giao cho doanh nghiệp trực tiếp đầu tư và thu mua sản phẩm. Tuyệt đối không được xâm phạm, lấn chiếm vùng nguyên liệu của doanh nghiệp khác Thứ hai, xác định phương án sản phẩm cụ thể của từng cơ sở chế biến trên cơ sở thu thập thông tin về thị trường và khả năng đáp ứng của vùng nguyên liệu một cách cụ thể. Từ đó, đầu tư hoàn thiện thiết bị, nhà xưởng, công nghệ, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và công nhân với qui mô hợp lý, đáp ứng theo yêu cầu tạo ra sản phẩm theo yêu cầu của thị trường. Đồng thời, cần phải tiến hành xây dựng, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000/2000 và hệ thống phân tích, xác định, kiểm soát nguy cơ có khả năng nhiễm bẩn nông sản (hệ thống quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm) theo tiêu chuẩn HACCP. Thứ ba, các doanh nghiệp trên cùng một địa bàn, dưới sự chủ trì của Hiệp hội ngành hàng, cần hợp tác chia sẻ thông tin, trước hết là phẩm cấp, tiêu chuẩn kỹ thuật, phương thức đầu tư cho vùng nguyên liệu, thống nhất giá cả mua nguyên liệu… Các doanh nghiệp có thể tạo lợi ích kinh tế trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm như áp dụng chế độ thưởng phạt rõ ràng, nhằm phát huy tinh thần trách nhiệm của các cơ sở cung cấp nguyên liệu. Đầu tư phát triển và hiện đại hoá công nghệ. Đầu tư phát triển và hiện đại hoá công nghệ không những trực tiếp nâng cao giá trị gia sản phẩm, tăng năng lực sử dụng đầu vào trung gian để tạo khối lượng sản phẩm đầu vảo lớn hơn mà còn là yếu tố quan trọng tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao giá trị gia tăng ngoại sinh. Giải pháp hữu hiệu là kết hợp được qui mô vừa và nhỏ với qui mô lớn, hiện đại trong chế biến để có những sản phẩm chất lượng cao phục vụ chủ yếu cho xuất khẩu. Xã hội ngày càng văn minh thì đòi hỏi chè có chất lượng ngày càng cao. Các doanh nghiệp phải nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới, thiết bị mới, nhằm tạo ra sản phẩm có gía trị cao. Xây dựng, bổ sung và hoàn chỉnh công nghệ chế biến các loại nông sản để nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm. Đồng thời các doanh nghiệp phải cải tạo, nâng cấp các nhà máy chế biến hiện có. Việc lựa chọn dây truyền công nghệ phải phù hợp với vùng nguyên liệu, năng lực của doanh nghiệp, nhu cầu của thị trường. Nâng cao chất lượng khâu chế biến: Doanh nghiệp tăng cường thực hiện qui trình theo các tiêu chuẩn quốc tế như hệ thống tiêu chuẩn ISO 9000 hay HACCP, giám sát kỹ thuật công nghệ trên dây truyền chế biến, đảm bảo các thông số kỹ thuật chế biến, có chế độ chế biến thích hợp với điều kiện chế biến thích hợp từng loại nông sản, từng địa phương. Cán bộ kỹ thuật cần được tạo điều kiện để có phương tiện kiểm tra các thông số kỹ thuật trong cả quá trình chế biến ra sản phẩm cuối cùng. Cần tổ chức lại khâu hoàn thành sản phẩm Các doanh nghiệp cũng cần nghiên cứu và tổ chức sản xuất đa dạng hóa củng loại và mẫu mã cho các sản phẩm nông sản chế biến Các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản của ta trên cơ sở các nguồn nguyên liệu sẵn có, cần nghiên cứu kĩ thị hiếu, khẩu vị và sở thích cũng như chủng loại nông sản mà người tiêu dùng tại thị trường mục tiêu thường dùng thông qua mời các chuyên gia về từng ngàng hàng nông sản tại thị trường đó sang tư vấn để có thể chế biến các loại nông sản có hương vị, đặc tính tương tự những loại nông sản được ưa chuộng tại thị trường đó và xuất khẩu tới thị trường đó. Bao bì sản phẩm cũng phải phù hợp với tính chất của hàng hoá cũng như sự tiện dụng. Cho nên bao bì của sản phẩm xuất khẩu cần phải đảm bảo tuân thủ đúng theo tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế đã được nhiều nước thừa nhận. Chú trọng nghiên cứu thiết kế bao bì, nhãn hiệu hàng hoá cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng của khách hàng nước ngoài để tăng nhận biết của người tiêu dùng nước ngoài về thương hiệu của mình và phù hợp qui định luật pháp của thị trường nhập khẩu. Từng bước nâng cao mức độ chế biến sâu cho các nông sản: các hàng nông sản của Việt nam xuất khẩu chủ yếu ở dạng sơ chế nên giá trị gia tăng thấp và trải qua nhiều nhà nhập khẩu trung gian nên người tiêu dùng cuối cùng ở nước ngoài đa phần chưa biết đến các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Do đó các doanh nghiệp nên tập tâp trung vào xuất khẩu sản thành phẩm và giảm tỷ trọng hàng thô. Khi tăng được tỷ trọng này thì chẳng những thu được nhiều ngoại tệ hơn, sử dụng nhân công rẻ, khai thác lợi thế về thuế nhập khẩu, cho phép bảo quản chất lượng tốt hơn, hạ giá thành sản phẩm mà còn giảm thiểu được các nhà nhập khẩu trung gian, đến gần hơn người tiêu dùng cuối cùng của doanh nghiệp. Tăng cường áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động xuất khẩu: Cần nhận thức rõ vai trò to lớn của thương mại điện tử như một công cụ mới, hữu hiệu cho chiến lược xúc tiến đẩy mạnh xuất khẩu nông sản. Công nghệ thông tin và phương pháp tiếp cận thị trường thông qua thương mại điện tử đã mở rộng thị trường khách hàng, tiếp cận được thị trường hiện có tốt hơn cũng như việc tiếp cận thị trường mới trở nên thuận lợi hơn và nhanh chóng hơn. Chính điều này làm cho vấn đề khoảng cách và qui mô giảm đi phần quan trọng đối với thị trường và làm cho cùng một lúc các nhu cầu của khách hàng và cơ hội của nhà sản xuất, nhà xuất khẩu tăng nhanh hơn và chính xác hơn thông qua giao dịch thương mại điện tử. Ngay từ bây giờ, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam cần thích ứng nhanh chóng và vươn lên chiếm lĩnh xu thế kinh doanh mới mẻ này và phải chuẩn bị kỹ lưỡng về vốn, các cơ sở vật chất thông tin cũng như trình độ chuyên môn của nhân sự Tăng cường sử dụng các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh: như các dịch vụ tư vấn, dịch vụ nghiên cứu và thăm dò thị trường, dịch vụ pháp lý…để nâng cao tính chuyên nghiệp và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của chính doanh nghiệp mình, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hoàn thiện phương thức xuất khẩu và phát triển mạng lưới phân phối nông sản: Thực trạng cho thấy đa các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam xuất khẩu theo giá FOB cho các đối tác nước ngoài, cho nên toàn bộ việc giao hàng cho khách hàng là tại Việt Nam, toàn bộ hoạt động phân phối bán hàng ở thị trường nước nhập khẩu là do đối tác nắm giữ. Xuất khẩu thuần tuý như vậy về lâu dài khó duy trì và phát triển được một cách bền vững. Cần phải hoàn thiện phương thức xuất khẩu theo hướng từng bước tiến tới xuất khẩu trực tiếp, phân phối trực tiếp tại thị trường nhập khẩu. Bước đầu các doanh nghiệp nên mở văn phòng giao dịch đại diện tại các thị trường trọng điểm của mình, hoặc thực hiện liên doanh với các nhà phân phối đã có sẵn hệ thống phân phối tại nước nhập khẩu để học hỏi cách thức phân phối và hoạt động tại thị trường đó, đồng thời tranh thủ nắm bắt các thông tin để tìm hiểu thị trường như thói quen tiêu dùng của khách hàng, môi trường cạnh tranh, hệ thống luật pháp. Rồi dần dần tự mình thiệt lập kênh phân phối sản phẩn trực tiếp của riêng mình, có thể qua mở các chi nhánh đại diện hoặc xây dựng nhà máy chế biến ngay tại thị trường đó.Để làm được điều này, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nghiên cứu và nắm vững hệ thống phân phối hàng nông sản trên từng thị trường cụ thể, học tập kinh nghiệm của các nước xuất khẩu nông sản thành công như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Thái Lan…. Các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam cần nhanh chóng lĩnh hội và gia tăng những phương thức đưa hàng mới vào thị trường nước ngoài như bán hàng ký gởi. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại và phát triển thương hiệu: Xúc tiến thương mại là hoạt động hết sức đối với doanh nghiệp bởi nó giúp các doanh nghiệp phát triển mối quan hệ với các bạn hàng, nhất là khi các bạn hàng của chúng ta lại ở quốc gia khác với chúng ta, làm cho thông tin được trao đổi từ đó điều kiện phát triển buôn bán, quan hệ làm ăn và thâm nhập thị trường khu vực quốc tế một h nhanh chóng hiệu quả. Xúc tiến thương mại là công cụ hữu hiệu để chiếm lĩnh thị trường, duy trì và củng cố thị trường truyền thống của doanh nghiệp, tạo cơ hội chiếm lĩnh thị trường mới, khách hàng mới, cung cấp thêm thông tin cho khách hàng tiềm năng, tạo lòng tin cho khách hàng đối với doanh mghiệp và nâng cao vị thế của doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp (lợi nhuận, an toàn, vị thế), các doanh nghiệp phải làm tốt khâu tổ chức xúc tiến và xúc tiến tạo nên sự thay đổi trong kinh doanh thương mại. Doanh nghiệp tích cực triển khai các chương trình xúc tiến thương mại, sử dụng có hiệu quả kinh phí hỗ trợ từ ngân sách của chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm và hỗ trợ xuất khẩu từ Qũy hỗ trợ xuất khẩu để mở rộng thị trương đã có và tìm kiếm thị trường mới, nhất là thị trường thị trường có tỷ trọng xuất khẩ lớn. Các hình thức xúc tiến thương mại mà doanh nghiệp có thể áp dụng để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản là: Hội chợ triển lãm thương mại: Hình thức xúc tiến phù hợp nhất đối với ngành nông sản chính là tham gia hội trợ. Đây là nơi tập trung nhiều doanh nghiệp lớn, là cơ hội tiếp xúc với khách hàng. Xúc tiến thương mại qua hoạt động hội chợ triển lãm đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ càng trước khi trưng bày tại triển lãm. Gian hàng tại hội chợ sẽ tạo một giao diện thương hiệu thân thiện về sản phẩn công ty và vể hình ảnh của công ty. Quảng cáo: Trong điều kiện tài chính còn eo hẹp mà quảng cáo ở nước ngoài có chi phí cao các doanh nghiệp chưa nên quảng cáo sản phẩm mà nên chú trọng vào việc quảng bá về khả năng sản xuát ổn định về số lượng và chất lượng cho doanh nghiệp-tức là quảng cáo thương hiệu là doanh nghiệp. Một số phương tiện quảng cáo tỏ ra phù hợp với điều kiện tài chính các doanh nghiệp Việt Nam mang lại hiệu quả tốt mà các doanh nghiệp có thể xem xét, sử dụng như: Qua mạng Internet, đây là phương tiện tốn rất ít chi phí mà độ phủ lại rộng, với thời đại công nghệ thông tin xã hội hóa ngày nay thì rất nhiều khách hàng nước ngoài có thể tiếp cận và biệt đến sản phẩm của doanh nghiệp; hoặc các doanh nghiệp phối hợp với các ban ngành triển khai chiến dịch quảng cáo cho thương hiệu nông sản Việt Nam qua một số kênh đặc biệt như: quảng cáo trên các chuyến máy bay, kênh truyền thông quốc tế; hoặc quảng cáo các sản phẩm nông sản qua các chương trình ẩm thực quốc tế. Các hoạt động cộng đồng: Đây là những hoạt động rất đa dạng từ tham gia các hoạt động cứu trợ, chăm sóc cộng đồng đến các hoạt động từ thiện khác, tổ chức các tuần lễ văn hóa ở nước ngoài kết hợp giới thiệu các nông sản truyền thống Việt Nam để thâm nhập và củng cố thị trường đó Phát triển một thương hiệu và định vị hợp lý thương hiệu đó để chiếm lĩnh thị trường trong nước và quốc tế hiện đang là bài toán lớn đối với nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Theo các chuyên gia, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự chú trọng đến vấn đề này, nếu có quan tâm cũng chỉ dừng lại ở mức độ đăng ký nhãn hiệu để phân biệt sản phẩm này với sản phẩm khác. Trong khi đó, các doanh nghiệp nước ngoài chỉ cần bán hàng gắn thương hiệu nổi tiếng là có thể thu về phần giá trị gia tăng khổng lồ. Nếu chúng ta nắm trong tay một thương hiệu mạnh thì cũng đồng nghĩa với việc có được những khách hàng trung thành cũng như có sự hợp tác mạnh mẽ từ phía các đại lý. Mặt khác, từ thương hiệu mạnh sẽ là cơ hội để phát triển thương hiệu phụ dưới sự bảo trợ của thương hiệu chính, từ đó tạo đà thuận lợi để phát triển thi trường. Hơn bao giờ hết, trong bối cảnh hội nhập, chúng ta cần có sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề xây dựng thương hiệu. Bởi vì nếu chúng ta ngừng phát triển và bành trướng sẽ đồng nghĩa với việc bị tiêu diệt. Việc xây dựng thương hiệu mới chỉ dừng lại trong nội bộ thì chưa đủ, doanh nghiệp phải thực hiện các hoạt động quảng bá thương hiệu với thị trường thì thương hiệu mới được nhận biết và chấp nhận. Bên cạnh đó, một doanh nghiệp muốn bảo vệ được các thương hiệu của mình thì điều đầu tiên là phải tìm mọi cách ngăn chặn tất cả các xâm phạm từ bên ngoài (như sự xâm phạm của hàng giả, hàng nhái; sự tạo nhầm lẫn cố tình hay hữu ý; hiện tượng gây khó hiểu của các thương hiệu gần giống) và sự sa sút từ ngay bên trong thương hiệu (giảm uy tín do chất lượng hàng hoá suy giảm; không duy trì được mối quan hệ tốt với khách hàng làm giảm lòng tin của khách hàng với hàng hoá và doanh nghiệp). Do đó việc cần làm là các doanh nghiệp Việt Nam phải đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, chứng chỉ xuất xứ trên thị trường quốc tê. Việc đăng ký kịp thời nhãn hiệu hàng hóa trên thị trường quốc tế sẽ giúp cho các sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam đững vững trên thị trường quốc tế. KẾT LUẬN Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản nói riêng nhiều cơ hội phát triển thị trường nhưng cũng đẩy họ đối mặt với nhiều thách thức. Để nhanh chóng bắt kịp và hội nhập thành công với các nước trên thế giới, thì yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam là phải nhanh chóng năm bắt cơ hội thị trường để tăng cường xuất khẩu nông sản – một nguồn lớn thu nhập quốc dân. Đồng thời nhờ đó vị thế của nước ta trên trường quốc tế cũng được củng cố thêm. Thực tế thời gian qua cho thấy Việt Nam là quốc gia xuất khẩu nông sản có khối lượng lớn trên thế giới nhưng bất cập là kim ngạch xuất khẩu lại đứng thứ hạng thấp, thị trường xuất khẩu tập trung nên rất phụ thuộc vào một số thị trường nên nhiều khi gặp khó khăn, thua thiệt trong thương mại. Vấn đề đặt ra “Làm thế nào để phát triển thị trường xuất khẩu Việt Nam?” là câu hỏi không chỉ đặt ra với riêng các doanh nghiệp ngành xuất khẩu mà còn là câu hỏi đặt ra cho toàn bộ các cấp ngành lãnh đạo và toàn xã hội. Bài chuyên đề xin đưa ra một số giải pháp có tính chất đồng bộ nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển hơn nữa thị trường xuất khẩu mặt hàng nông sản Việt Nam. Đây là những giải pháp một phần dựa vào ý kiến chủ quan của người viết, do đó bài chuyên đề còn rất nhiều thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và bạn đọc để khoá luận hoàn thiện hơn, đặc biệt là có ý nghĩa thực tiễn hơn. Trong thời gian thực hiện khoá luận này, em đã nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện rất nhiều từ Trung tâm thông tin – Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT, từ phía nhà trường và thầy giáo hướng dẫn chuyên đề. Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới nhà trường và đặc biệt là thầy giáo, GS.TS Đặng Đình Đào đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình chỉ bảo, giúp em hoàn thành chuyên đề này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ công thương. Đề án phát triển xuất khẩu 2006-2010 (2005) và Đề án đẩy mạnh xuất khẩu và kiềm chế nhập siêu giai đoạn 2008-2010 (2008) Chu Khôi, Giám định chất lượng nông lâm thủy sản- nâng cao sức cạnh tranh cho nông sản, Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 68 ngày 20/3/2009 Chu khôi, Xuất khẩu hạt tiêu vẫn tăng mạnh, Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 103+104 năm 2009 Chung Nguyên, Thế mạnh nông nghiệp, báo Thế giới và Việt Nam, số 113 năm 2009 GS.TS Bùi Xuân Lưu và CN. Vũ Đức Cường. Chính sách bảo hộ nông nghiệp của Thái Lan trong quá trình hội nhập. Tạp chí kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương, số 3 năm 2003 GS.TS Nguyễn Văn Thường, Quan hệ thương mại Việt Nam-Châu Phi: thực trạng và giải pháp, (2007), NXB Đại học Kinh Tế Quốc Dân Hồng Thoan; Cơ hội gia tăng xuât khẩu vào châu Phi; www.vnEconomy Ngành cà phê Việt Nam trước yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế sau 2 năm gia nhập WTO, Đoàn Triệu Nhạn, Tham luận hội thảo đánh giá 2 năm gia nhập WTO đối với nền kinh tế Việt Nam ngành cà phê, ca cao, hồ tiêu, hạt điều. Quang Diệu, Giữ đà xuất siêu nông sản sang Trung Quốc, Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 90 ngày 15/4/2009 Tạp chí Kinh tế Việt Nam, Số 6, 10/2/2004 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, số 12, năm 2001 Tạp chí ngoại thương số 9, từ 21/3-31/3 năm 2009 Th.S Đoàn thị Mỹ Hạnh. Can thiệp của chính phủ vào thị trường nông sản Từ lý thuyết đến thực tiễn. Tạp chí phát triển kinh tế, 2003, số 158 TH.S Lê Tố Hoa, Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân. Giải pháp phát triển thị trường tiêu thụ nông sản. Tạp chí kinh tế và phát triển, 2002, số64. Th.S Vũ Hoàng Chương. Những định hướng diều chỉnh trong chính sách nông nghiệp của Mỹ, , Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, 2003, số 1 Thanh Niêm. Cạnh tranh quốc tế: Đâu là lợi thế Việt Nam .www.Vinatech.org.vn. tin ngày 18/10/2006 Thời báo kinh tế Việt Nam. Kinh tế 2007-2008 Việt Nam và thế giới, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng nóng. Thương mại Nông Lâm Thủy Sản Việt Nam – Hoa Kỳ năm 2009 – Sẽ còn nhiều khó khăn, tin ngày 19/3/2009; www.agro.gov.vn Trang web của Trung tâm xúc tiến thương mại hải phòng (HPTRADE). Doanh nghiệp cần biết lựa chọn thị trường xuất khẩu vào EU. Trung tâm thông tin-Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn. Bản tin phục vụ lãnh đạo (2003). Trung tân thông tin phát triển nông nghiệp nông thôn-Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT. Báo cáo thường niên ngành nông nghiệp Việt Nam 2007 và triển vọng 2008. Báo cáo thường niên ngành nông nghiệp Việt Nam 2008 và triển vọng 2009. Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân. Giáo trình Kinh tế phát triển (2006) Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân. Giáo trình Nguyên lý Kinh tế học vi mô (2006). Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội. Giáo trình Kinh tế ngoại thương, (2005) Vấn đề bảo hộ đối với sản phẩm nông, lâm, thủy sản ở thi trường Liên Minh Châu Âu, Đinh Công Tuấn, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, 2003-số 3 Viện chính sách và Chiến lược PTNNNT. Đề án phát triển nông-lâm-thuỷ sản đến năm 2015 và tầm nhìn 2020 www.agro.gov.vn www.imf.org www.irv.moi.gov.vn Xuất khẩu của Việt Nam sang châu Phi, tin ngày 9/2/2009; www.lefaso.org MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1: Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo khu vực kinh tế 13 Bảng 1.2: Kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam một số năm gần đây 14 Bảng 1.4: Tổng nhập khẩu của thế giới một số mặt hàng (USD) 18 Bảng 1.5: Giá của một số mặt hàng nông sản trên thế giới (USD/tấn) 20 Bảng 2.1. Khối lượng nhập khẩu cà phê Việt Nam của một số nước hàng đầu trong năm 2007- 2008 36 Bảng 2.2: Thị trường cà phê Việt Nam bình quân của niên vụ từ 2000/01 36 đến 2007/08 (tấn) 36 Bảng 2.3: Thị trường nhập khẩu cao su Việt Nam chính giai đoạn 2001-2008 38 Bảng 2.4: 5 thị trường xuất khẩu chè chính của Việt Nam năm 2008 44 Bảng 2.5: Giá chè xuất khẩu bình quân của Việt Nam và thế giới giai đoạn 2001-2008 (USD/tấn) 45 Bảng 2.6: 10 thị trường có kim ngạch nhập khẩu nông-lâm-thủy sản lớn nhất của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2008 46 Bảng 2.7: Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản vào ASEAN giai đoạn 2007-2010 46 Bảng 2.8: Tình hình xuất khẩu nông lâm thuỷ sản Việt Nam Sang Hoa Kỳ và thế giới 54 Bảng 2.9: Một số mặt hàng nông sản xuất khẩu lớn nhất sang Châu Phi năm 2008 55 Bảng 2.10: Tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu nông sản Việt Nam của một số quốc gia châu Phi 57 Bảng 2.14: Dự báo thương mại nông lâm thuỷ sản giai đoạn 2009-2020 (triệu USD) 58 Bảng 2.15: Dự báo xuất khẩu một số mặt hang nông sản giai đoạn 2010-2020 58 Bảng 2.11: Qui mô xuất khẩu nông sản thời gian 2001-2008 (triệu USD) 62 Bảng 2.12: Tăng trưởng xuất khẩu nông sản 2001-2008 (%) 63 Bảng 2.13: Giá trị xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu ( triệu USD) 63 Bảng 2.14: Các thị trường chính và thị trường tiểm năng của một số hàng nông sản Việt Nam 69 DANH MỤC HÌNH Hình 2.1: Kim ngạch xuât khẩu gạo của Việt Nam đi các thị trường năm 2007-2008 (%) 33 Hình 2.2: Thị trường chính nhập khẩu gạo Việt Nam ( USD) 34 Hình 2.3: Giá gạo 5% tấm 2001-2008 35 Hình 2.5: Kim ngạch nhập khẩu hạt tiêu Việt Nam của một số thị trường chính giai đoạn 2001-2008 (USD) 41 Hình 2.7: Kim ngạch nhập khẩu Điều Việt Nam của một số thị trường chính giai đoạn 2001-2008 (USD) 43 Hình 2.8: Thị phần bình quân của các nước nhập khẩu điều chính từ Việt Nam giai đoạn 2001-2008 43 Hình 2.10: Kim ngạch xuất nhập khẩu 49 Hình 2.11: Kim ngạch và tốc độ tăng trưởng kim ngạch (%) 5 mặt hàng nôngsản Việt Nam xuất sang Trung Quốc 2008 49 Hình 2.12: Dự báo về kim ngạch xuất khẩu 10 mặt hàng sang Hoa Kỳ năm 2009 54 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21559.doc
Tài liệu liên quan