Thống kê thất nghiệp và các vấn đề xã hội có ảnh hưởng đến tình trạng thất nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế- xã hội tồn tại trong mọi chế độ xã hội. Trước đây có quan niệm rằng trong xã hội cộng sản chủ nghĩa không có thất nghiệp, vì cho rằng dưới chủ nghĩa xã hội lao động được toàn dụng nghĩa là mọi lao động đều được thu hút vào nền kinh tế không có tình trạng thất nghiệp. Khi đó những người không tìm được việc làm được gọi là những người thiếu việc làm, những người bị buộc phải rời khỏi sản xuất gọi là những người bị thôi việc. Tuy vậy thất nghiêp l

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1718 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thống kê thất nghiệp và các vấn đề xã hội có ảnh hưởng đến tình trạng thất nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uôn luôn tồn tại mặc dù nó bị phủ nhận trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Cuối những năm 80, đặc biệt thời kỳ sau 1986 kinh tế nước ta chuyển dần sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, người ta mới sử dụng thuật ngữ thất nghiệp trong nghiên cứu kinh tế. Nghiên cứu thất nghiệp là một vấn đề quan trọng, bởi thất nghiệp không chỉ tác động đến phát triển kinh tế mà còn ảnh hưởng cả đến đời sống xã hội. Nghiên cứu thống kê thất nghiệp tìm ra những nguyên nhân ảnh hưởng đến tình trạng thất nghiệp từ đó đưa ra những phương pháp giảm thất nghiệp hoặc duy trì nó ở mức nhất định , đảm bảo cho phát triển kinh tế, xã hội. Đề tài này đề cập đến: "Thống kê thất nghiệp và các vấn đề xã hội có ảnh hưởng đến tình trạng thất nghiệp" như giáo dục, nhân khẩu học, sức khỏe, xóa đói giảm nghèo. Các vấn đề được trình bày theo nội dung khái niệm, hệ thống chỉ tiêu và tình hình thực tế trong xã hội Việt Nam, kèm theo các giải pháp cho vấn đề. Toàn bộ đề tài được chia thành 3 chương: *Chương I: Thất nghiệp và các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến thất nghiệp. Nội dung chính của chương gồm Lý thuyết lực lượng lao động, thất nghiệp, cách phân loại thất nghiệp theo các quan điểm kinh tế, và các quan điểm thống kê. Nhận định các yếu tố xã hội có ảnh hưởng đến thất nghiệp gồm giáo dục, nhân khẩu học, sức khỏe, xóa đói giảm nghèo. *ChươngII: Hệ thống chỉ tiêu phản ánh các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến tình trạng thất nghiệp. Bao gồm: Các chỉ tiêu phản ánh tình trạng thất nghiệp và các yếu tố xã hội được trình bày về khái niệm, phương pháp tính, ý nghĩa. Lý thuyểt các phương pháp thống kê được sử dụng trong đề tài, gồm phân tổ thống kê và hồi quy tương quan thống kê. *Chương III: Phân tích thống kê các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam Gồm: Đặc điểm tình hình xã hội và tình trạng thất nghiệp của Việt Nam trong thời kỳ mới. Số liệu thống kê thất nghiệp khu vực thành thị và các yếu tố xã hội có liên quan. Phân tích thống kê trên cơ sở số liệu thực tế Các giải pháp giảm thất nghiệp và tạo việc làm ở Việt Nam hiện nay. Để hoàn thành đề tài này, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của: Thầy giáo TS. Phạm Đại Đồng – Phó chủ nhiệm khoa Thống Kê. Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân Chú Nguyễn Phong – Vụ Trưởng Vụ Thống kê Xã hội và Môi trường. Tổng cục Thống Kê Chị Nguyễn Bùi Linh – Vụ Thống kê Xã hội và Môi trường. Em cũng xin cảm ơn Tổng cục Thống kê đã tạo điều kiện thuận lợi cho em thực tập và làm đề tài. CHƯƠNG I: THẤT NGHIỆP VÀ CÁC YẾU TỐ XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN THẤT NGHIỆP THẤT NGHIỆP – CÁC LOẠI THẤT NGHIỆP Thế nào là thất nghiệp Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế xã hội tồn tại trong nhiều chế độ xã hội. Những người thất nghiệp là một bộ phận của lực lượng lao động, chính vì vậy trước khi tìm hiểu về thất nghiệp chúng ta cần làm rõ khái niệm lực lượng lao động. Lực lượng lao động Lực lượng lao động (dân số hoạt động kinh tế) theo Bộ Lao động thương binh-xã hội là một bộ phận của nguồn lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động, đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và những người thất nghiệp, song có nhu cầu tìm việc làm. Định nghĩa trên cho thấy trong lực lượng lao động chỉ bao gồm những người trong độ tuổi lao động (nữ 15-55 tuổi, nam 15-60 tuổi). Những người ngoài độ tuổi lao động, tuy thực tế có lao động tạo ra sản phẩm cho xã hội nhưng không được tính vào lực lượng lao động. Thống kê kinh tế định nghĩa về lực lượng lao động là một bộ phận của nguồn lao động có khả năng huy động vào hoạt động kinh tế. Tuy nhiên nguồn lao động ở đây bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động và những người ngoài tuổi lao động nhưng thực tế đang tham gia lao động tạo ra sản phẩm xã hội. Số lượng và cơ cấu lực lượng lao động được xác định theo sơ đồ sau đây: Người ngoài độ tuổi lao động Nam > 60, Nữ > 55 Người trong độ tuổi lao động Nam 15-60, Nữ 15-55 Không làm việc Thực tế đang làm việc thường xuyên Có khả năng lao động Không có khả năng lao động Nguồn lao động của địa phương Đang làm việc Học sinh sinh viên Lực lượng lao động Thất nghiệp Bốn nhóm dân cư không thuộc dân số hoạt động kinh tế gồm: Người đang đi học: Những người trong 7 ngày trước thời điểm điều tra phần lớn dành cho đi học tại trường phổ thông, dạy nghề hoặc trường khác được nhà nước công nhận. Người nội trợ: Gồm những người trong 7 ngày trước điều tra không làm bất cứ việc gì do mất khả năng lao động (vì điều kiện sức khỏe hoặc tinh thần như ốm đau, tàn tật…) Dạng còn lại: Những người trong 7 ngày trước điều tra không làm bất cứ 1 việc gì và không có nhu cầu làm việc, họ sống nhờ vào các nguồn khác như lương hưu, trợ cấp, mất sức lao động, trợ cấp xã hội, người thân nuôi dưỡng. Lực lượng lao động theo hai cách hiểu ở đây rất khác nhau, nguyên nhân là do sự khác biệt trong định nghĩa nguồn lao động. Theo cách hiểu thứ nhất, khi tính tỷ lệ thất nghiệp chỉ bao gồm những người trong độ tuổi lao động, bỏ qua phần dân số hoạt động kinh tế ngoài tuổi lao động Theo cách hiểu thứ hai, tỷ lệ thất nghiệp được tính cho phạm vi những người từ 15 tuổi trở lên thuộc nguồn lao động, bao gồm cả những người ngoài tuổi lao động nhưng vẫn tham gia lao động. Thực tế trong điều tra mức sống hộ gia đình, Tổng cục Thống kê vẫn sử dụng cả hai định nghĩa, với hai phạm vi tính khác nhau, cho ra những chỉ tiêu khác nhau. Thất nghiệp Trong thực tế đã tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về thất nghiệp, đó là: Thất nghiệp theo đúng nghĩa của từ là mất việc làm hay sự tách rời sức lao động ra khỏi tư liệu sản xuất. Thất nghiệp là hiện tượng gồm những người mất thu nhập do không có khả năng tìm được việc làm, trong khi họ còn ở trong độ tuổi lao động, muốn làm việc và đã đăng ký ở cơ quan môi giới về lao động nhưng chưa được giải quyết. Có một quan niệm lại cho rằng thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc, nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công đang thịnh hành, còn những người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, trong tuần lễ tiến hành điều tra thu thập thông tin không có việc làm, đang có nhu cầu tìm việc và có đăng ký tìm việc làm theo quy định. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) định nghĩa Thất nghiệp là tình cảnh của người lao động không có việc làm vì những lý do ngoài ý muốn của họ dẫn đến không có thu nhập. Những người thất nghiệp là những người ghi tên vào danh sách thất nghiệp được các văn phòng thất nghiệp thừa nhận có tên trong danh sách thất nghiệp, được hưởng trợ cấp thất nghiệp Hiện tại ngành lao động dùng khái niệm người thất nghiệp được nêu trong cuốn “Thực trạng lao động – Việc làm 1998”. Người thất nghiệp là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế, mà trong tuần lễ trước điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc. Có hoạt động đi tìm việc trong 4 tuần qua; hoặc không có hoạt động đi tìm việc trong 4 tuần qua vì các lý do không biết tìm việc ở đâu hoặc tìm mãi mà vẫn không được; Tuần lễ trước điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 8 giờ, muốn làm thêm nhưng không tìm được việc làm. Trong thống kê, thất nghiệp (dân số không có việc làm) gồm những người trong 7 ngày qua không làm việc và thỏa mãn một trong hai điều kiện sau: Có đi tìm việc trong 7 ngày qua Không đi tìm việc trong 7 ngày qua vì lý do không biết tìm việc hoặc không có việc song có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc. Phạm vi tính của thất nghiệp cũng gồm 2 loại : Thất nghiệp của lao động trong độ tuổi lao động Thất nghiệp của lao động từ 15 tuổi trở lên. Phân loại thất nghiệp: Ứng với các bộ môn kinh tế khác nhau, chúng ta có những cách phân loại thất nghiệp rất khác nhau. Phân loại thất nghiệp theo quan điểm kinh tế lao động Nhà kinh tế học David Begg đã phân loại thất nghiệp gồm những loại sau: Thất nghiệp dai dẳng: đó là những người có tật về thể xác, thần kinh, hầu như không thể được thuê làm việc Thất nghiệp cơ cấu: những người tạm thời không có việc làm trong thời gian chuyển công tác trong nền kinh tế, nơi mà các công việc mời chào luôn luôn thay đổi. Thất nghiệp do thiếu cầu: đó là thất nghiệp theo lý thuyết Keynes, khi tổng cầu giảm mà tiền lương và giá cả chưa kịp điều chỉnh để tăng mức cầu về lao động. Thất nghiệp tự nguyện: dạng này xảy ra khi công nhân không chấp nhận tiền lương ở mức cân bằng, hoặc mức mà họ đã quen nhận Thất nghiệp không tự nguyện: ngược lại với thất nghiệp tự nguyện, người công nhân vẫn muốn làm việc ở mức tiền lương hiện hành nhưng không thể tìm được việc làm ở mức lương đó. Phân tích: Thất nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện là cách phân loại thất nghiệp theo tính chất. Cách phân loại này đã đề cập đến ba dạng thất nghiệp tồn tại phổ biến tại Việt Nam đó là thất nghiệp không tự nguyện, và thất nghiệp dai dẳng, thất nghiệp cơ cấu. Thất nghiệp không tự nguyện chủ yếu bao gồm những sinh viên mới ra trường muốn tìm được việc làm với mức tiền lương thấp những cũng không thể tìm được. Nguyên nhân thất nghiệp này có thể do thông tin giữa người cần việc và việc cần người chưa được thông suốt hoặc do sự không tương thích giữa giáo dục và việc làm. Thất nghiệp cơ cấu đây dạng thất nghiệp gây ra chủ yếu do sự chuyển đổi cơ chế. Một dạng thất nghiệp khá phổ biến xảy ra khi những xí nghiệp, nhà máy quốc doanh giải thể, một số lượng lớn lao động bị thôi việc. Thực tế số lao động này rất khó có thể tìm được việc làm tại nơi khác. Thất nghiệp dai dẳng phổ biến tại những quốc gia trải qua chiến tranh. Đó là những thương binh, những người bi ảnh hưởng chiến tranh…mà trợ cấp xã hội không đủ sống, họ phải tìm công việc làm nhưng không thể tìm được. Thực chất có thể đưa những người này vào số thất nghiệp hay không còn là một vấn đề, bởi thất nghiệp là một bộ phận của lực lượng lao động, gồm những người có khả năng lao động. Phân loại thất nghiệp tại những nước đang phát triển Đối với những nước đang phát triển, để biểu hiện tình trạng chưa sử dụng hết lao động người ta dùng khái niệm thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp trá hình. Thất nghiệp trá hình là biểu của tình trạng chưa sử dụng hết lao động ở các nước đang phát triển, họ là những người có việc làm, trong khu vực nông thôn hoặc thành thị không chính thức nhưng làm việc với mức năng suất rất thấp, họ đóng góp rất ít hoặc không đáng kể vào phát triển sản xuất. Thất nghiệp trá hình gồm bán thất nghiệp và thất nghiệp vô hình. Dạng Thất nghiệp Bán thất nghiệp Hữu hình Chủ yếu là lao động thành thị mới vào nghề Lao động nông thôn, theo mùa vụ Vô hình Chủ yếu là phụ nữ (những người lao động nản lòng) Lao động nông thôn và lao động thành thị không chính thức Phân tích: Cách phân loại của kinh tế phát triển dựa vào đặc điểm thất nghiệp, phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam. Nước ta có một lực lượng lao động lớn làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, và khu vực thành thị không chính thức vì thế mà dạng thất nghiệp trá hình khá phổ biến. 2.3. Phân loại thất nghiệp theo quan điểm kinh tế học Trong tác phẩm “Kinh tế học trong các vấn đề xã hội” tác giả nhận định có ba loại thất nghiệp chính là Thất nghiệp tạm thời: về cơ bản là loại thất nghiệp có tính chuyển tiếp ngắn hạn. Nó thường bắt nguồn từ phía cung lao động; có nghĩa là những dịch vụ lao động tự nguyện thường không được sử dụng. Một minh chứng là thất nghiệp xảy ra khi người ta thay đổi công việc hoặc tìm việc làm mới. Sự kết hợp giữa công việc cần người và người tìm việc không phải lúc nào cũng suôn sẻ trong nền kinh tế, do vậy có những người không có việc làm. Thất nghiệp tạm thời không kéo dài nhưng nó tồn tại mọi lúc, mọi nơi trong nền kinh tế. Cách để giảm thất nghiệp tạm thời đó là cải thiện dòng lưu chuyển thông tin liên quan đến việc làm từ nơi cần người đến người cần việc. Thất nghiệp có cấu trúc: là loại thất nghiệp dài hạn và thường bắt nguồn từ phía cầu lao động. Thất nghiệp có cấu trúc là kết quả của những thay đổi kinh tế tạo ra nhu cầu của một số loại hình lao động đặc biệt thấp hơn so với cung trong những thị trường và khu vực cụ thể của nền kinh tế. Thất nghiệp có cấu trúc là dạng thất nghiệp được gây ra bởi những thay đổi căn bản trong nhu cầu về một số loại hình lao động nhất định, như thay đổi công nghệ, hay thay đổi thị hiếu và sở thích của khách hàng. Thất nghiệp chu kỳ: là loại thất nghiệp do sự bất ổn định của nền kinh tế gây ra. Thất nghiệp theo chu kỳ là do việc giảm tổng cầu hàng hóa và dịch vụ trong toàn bộ nền kinh tế. Việc giảm tổng cầu trong nền kinh tế làm giảm tổng sản lượng và gây ra thất nghiệp chung trong toàn bộ nền kinh tế.Thất nghiệp theo chu kỳ thường đạt tỷ lệ thất nghiệp trên 6%. Phân tích: Sự phân loại của kinh tế học về thất nghiệp dựa vào nguồn gốc của thất nghiệp, có thể chia lại làm hai loại thất nghiệp, đó là thất nghiệp gây ra do cung-cầu lao động và thất nghiệp gây ra do cầu hàng hóa, dịch vụ. Quan điểm kinh tế học phân loại thất nghiệp xuất phát chủ yếu từ mối quan hệ giữa cung-cầu trong nền kinh tế. 2.4. Phân loại thất nghiệp theo quan điểm thống kê lao động. Khi nghiên cứu cơ cấu thất nghiệp, thống kê lao động phân loại thất nghiệp theo đặc điểm, tính chất, nguồn gốc của thất nghiệp. Cách phân loại tổng hợp của kinh tế học, kinh tế phát triển và kinh tế lao động. Theo đó, toàn bộ các dạng thất nghiệp đều được liệt kê đầy đủ. Phân loại theo đặc điểm: Thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp vô hình Phân loại theo tính chất: Thất nghiệp tự nguyện và thất nghiệp không tự nguyện Phân loại theo nguồn gốc: Thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp chu kỳ và thất nghiệp có tính chất cơ cấu. Ngoài ra thống kê lao động cũng đưa ra một cách phân loại thất nghiệp khác, chia thất nghiệp thành ba dạng. Thất nghiệp lưu động: là những người có việc làm nhưng không phải luôn luôn có việc làm, khi thì mất việc, khi thì lại tìm được việc làm. Thất nghiệp tiềm tàng: những người không có việc làm ở lĩnh vực cũ, mất việc làm ở lĩnh vực cũ nhưng lại tìm được việc làm ở lĩnh vực mới. Thất nghiệp ngừng trệ: đó là số người nửa thất nghiệp, tức là có việc làm thất thường hay có thời gian (tuần, ngày) làm việc không đầy đủ. Phân tích: Khái niệm về thất nghiệp ngừng trệ đồng nghĩa với bán thất nghiệp và có cả khái niệm thiếu việc làm. Đó là những người có việc làm nhưng không ổn định, hoặc thời gian làm việc không đủ 40 giờ/tuần (8 giờ/ngày). Dạng thất nghiệp này phổ biến ở Việt Nam, chính là những người làm việc trong khu vực thành thị không chính thức. 2.5. Phân loại thất nghiệp theo quan điểm thống kê xã hội. Thống kê xã hội cho rằng, với điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay thất nghiệp nên được phân thành các loại như sau: Thất nghiệp do không được đào tạo nghề: Đây là loại chiếm số đông trong những người không có việc làm. Thất nghiệp do không đến những nơi cần: Loại lao động sau khi được đào tạo đã ở lại thành phố lớn trong khi các nơi khác vẫn đang cần. Thất nghiệp do tổ chức lại lao động: dạng này gây ra do hậu quả thời kỳ bao cấp, những nơi quá thừa nhân lực, người lao động bị nghỉ không lương. Thất nghiệp do mất hoặc thiếu ruộng đất: thanh niên nông thôn, trong đó có một bộ phận lớn bị thất nghiệp trong thời kỳ nông nhàn. Thất nghiệp do phải về hưu trong khi vẫn có nhu cầu làm việc: dạng những người ngoài tuổi lao động song không có lương hưu hoặc lương hưu không đủ đáp ứng nhu cầu tối thiểu, cần tìm việc làm thêm. Phân tích: Cách phân loại trên là tổng hợp của các cách phân loại theo quan điểm kinh tế học, kinh tế phát triển, kinh tế lao động, đồng thời kết hợp với thực trạng Việt Nam. Cách phân loại này đã liệt kê đầy đủ những dạng thất nghiệp thực tế đang tồn tại trong xã hội nước ta. Tuy nhiên cách phân loại này có thể sẽ không còn phù hợp trong tương lai. CÁC YẾU TỐ XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÌNH TRẠNG THẤT NGHIỆP Giáo dục: Giáo dục là yếu tố đánh giá chất lượng nguồn nhân lực đồng thời cũng là yếu tố tác động đến vấn đề việc làm. 1.1. Giáo dục là điều kiện của lao động: Thực tế tình hình nguồn lao động trên thể giới nói chung và nước ta nói riêng đều cho thấy tầm quan trọng của yếu tố giáo dục trong vấn đề công ăn việc làm. Những người có trình độ đào tạo cao thường nhận được những mức lương hấp dẫn hơn, môi trường làm việc tốt hơn, có khả năng phát triển năng lực cao hơn. Chính vì vậy mà hàng năm có nhiều học sinh tốt nghiệp cấp III muốn thi vào các trường đại học hoặc cao đẳng, tất cả đều mong muốn có thể nhận được một công việc như ý sau khi ra trường. Trong khi đó quy mô các trường đại học, công lập không đủ đáp ứng nhu cầu người học, do vậy ngày càng nhiều các trường dân lập, bán công được mở ra. Thực tế cũng cho thấy những lao động thất nghiệp có một phần lớn là do thiếu hụt trong giáo dục. Những lao động làm những công việc tay chân như bốc vác, vận chuyển, thợ xây… phần lớn không tốt nghiệp cấp III, số lớn chưa học hết cấp II, và cả chưa học hết cấp I. Việt Nam đang trong thời kỳ mở cửa hội nhập, cơ hội có nhiều song cũng đặt ra những yêu cầu cho lực lượng lao động thời kỳ mới. Nhu cầu lao động tăng song là những lao động có tay nghề và trình độ chuyên môn cao. Nhiều lĩnh vực khoa học kỹ thuật mới phát triển đòi hỏi nhiều lao động như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học…Tuy nhiên số lao động cần đáp ứng nhu cầu cho phát triển chưa đủ trong khi đó vẫn tồn tại số lượng lớn những người thất nghiệp do thiếu hụt về đào tạo. Chính vì vậy giáo dục cần được coi là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng nguồn lao động đồng thời giải quyết tình trạng thất nghiệp. 1.2. Giáo dục với vấn đề phát triển kinh tế-xã hội: Chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo năm 2001-2002 nêu rõ: Nâng cao chất lượng dạy nghề gắn với nâng cao ý thức kỷ luật và tác phong lao động hiên đại. Gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng lao động, với việc làm trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, đáp ứng nhu cầu khu công nghiệp, khu chế xuất, các ngành mũi nhọn và xuất khẩu. Vai trò của giáo dục trong phát triển nguồn nhân lực đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế xã hội thời kỳ công nghiệp hóa, hiên đại hóa là không thể phủ nhận. Nguồn nhân lực là những người đang và sẽ bổ sung vào lực lượng lao động xã hội đa dạng, phong phú, bao gồm các thế hệ đang học tập ở các trường đại học cao đẳng, các trường phổ thông, dạy nghề. Khi nói đến nguồn lao động mới chỉ đề cập đến tiềm lực còn khi tiến hành đào tạo, sử dụng, phát huy nguồn nhân lực mới trở thành lực lượng phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển nguồn nhân lực được hiểu về cơ bản là gia tăng giá trị con người về trí tuệ, đạo đức, thể lực, thẩm mỹ, làm cho con người trở thành người lao động có năng lực và phẩm chất mới cao hơn. Phát triển nguồn nhân lực chịu tác động 5 nhân tố: giáo dục-đào tạo, sức khỏe, dinh dưỡng, môi trường làm việc và sự giải phóng con người. Trong đó giáo dục và đào tạo là nhân tố cốt lõi, cơ sở của những nhân tố khác và cũng là cơ sở quan trọng nhất cho phát triển kinh tế xã hội. Có thể thấy rằng, nếu giáo dục góp phần giải quyết được vấn đề thất nghiệp, chính là đã tác động lớn vào kinh tế và xã hội. Thêm vao đó bản thân giáo dục hướng con người đến đạo đưc và tình cảm cao đẹp, giúp con người tránh xa con đường tội lỗi, góp phân vào ổn định chính trị xã hội. Nhân khẩu học Những yếu tố về nhân khẩu học bao gồm giới tính, độ tuổi, nhân khẩu bình quân hộ…có tác động đến tình trạng thất nghiệp của người lao động. Nhận xét chung cho thấy phụ nữ thường tham gia lao động với mức độ thấp hơn so với nam giới, ngoài ra công việc còn bị gián đoạn do thiên chức làm mẹ và những công việc gia đình. Cũng chính vì lý do này mà việc thuê mướn lao động là nữ có phần hạn chế hơn so với lao động nam. Độ tuổi của người lao động cũng có những ảnh hưởng nhất định đến tình trạng thất nghiệp. Theo điều tra cho thấy, tỷ lệ thất nghiệp của lao động thuộc nhóm tuổi 15-24 cao hơn hẳn so với các nhóm tuổi khác. Tuổi của lao động cũng góp phần quyết định chất lượng lao động, thể hiện một phần thể lực người lao động. Nhân khẩu bình quân hộ là một chỉ tiêu xã hội phản ánh trình độ phát triển cũng như mức độ tập trung dân cư của vùng. Tuy nhiên không thể xem xét chỉ tiêu này một cách độc lập khi đánh giá trình độ phát triển kinh tế xã hội của một vùng. Giả sử ta có chỉ tiêu nhân khẩu bình quân vùng A lớn nhất trong cả nươc, nó có thể thể hiện A là vùng kinh tế phát triển, tập trung đông dân cư, song cũng có thể hiểu theo nghĩa khác, do trình độ phát triển xã hội thấp nên quy mô hộ gia đình lớn. Sức khỏe: Yếu tố sức khỏe là một trong những yếu tố phản ánh chất lượng lao động. Ngay trong định nghĩa lực lượng lao động đã nêu rõ, lực lượng lao động bao gồm những người có “khả năng lao động”, khả năng lao động gồm các yếu tố về cả thể lực và trí lực. Để phản ánh thực trạng tình hình sức khỏe của dân cư, cuộc điều tra mẫu mức sống hộ gia đình đưa ra một số chỉ tiêu như tỷ lệ người có khám chữa bệnh trong 12 tháng qua, chi tiêu y tế bình quân người có khám chữa bệnh trong 12 tháng qua. Cũng như giáo dục, yếu tố sức khỏe cũng ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề thất nghiệp. Thất nghiệp có thể do thiếu hụt về giáo dục nhưng cũng có thể do sức khỏe người lao động không đáp ứng được nhu cầu công việc đề ra. Xóa đói giảm nghèo Tỷ lệ hộ nghèo lương thực thực phẩm là chỉ tiêu khá chuẩn xác đánh giá trình độ phát triển kinh tế-xã hội của vùng. Chỉ tiêu tỷ lệ hộ nghèo còn phản ánh chính xác mức sống dân cư của vùng, một quốc gia. Nó cho biết khả năng đáp ứng nhu cầu tối tiểu của người dân. Vùng kinh tế phát triển thường có tỷ lệ hộ nghèo thấp. Những vùng dân trí thấp, kinh tế kém phát triển, lao động giản đơn là chủ yếu thường có tỷ lệ hộ nghèo cao. Các yếu tố xã hội thường đi kèm với nhau và tác động qua lại lẫn nhau, cùng tác động đến kinh tế. Ví dụ một vùng kinh tế kém phát triển, trình độ dân trí thấp, lao động chủ yếu giản đơn, tiền lương bình quân thấp, chi tiêu bình quân thấp (chủ yếu cho nhu cầu ăn, mặc, ở). Các yếu tố này lại tác động ngược lại đến phát triển kinh tế. Có thể nói mọi yếu tố xã hội đều liên quan đến kinh tế. Khung lý thuyết mô tả ảnh hưởng các yếu tố xã hội đến tình trạng thất nghiệp Thất Nghiệp Bằng cấp cao nhất Tỷ lệ giới tính Quy mô hộ Qui mô, tỷ lệ người trong, ngoài tuổi lao động Qui mô, tỷ lệ người có khám chữa bệnh trong 12 tháng Sức khỏe Nhân khẩu học Xóa đói giảm nghèo Tỷ lệ hộ nghèo lương thực, thực phẩm Giáo dục Tỷ lệ dân số 15 tuổi trở lên chia theo bằng cấp Tỷ lệ mù chữ của dân sô 15 tuổi trở lên ẢNH HƯỞNG CỦA THẤT NGHIỆP ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Thất nghiệp có ảnh hưởng to lớn đến đời sống con người cả về mặt kinh tế lẫn xã hội. Thất nghiệp và phát triển kinh tế Thất nghiệp gần với đói nghèo, điều này có thể thấy rất rõ ràng. Người thất nghiệp không tạo ra bất kỳ một khoản thu nhập nào, song vẫn có những nhu cầu tối thiểu của con người là ăn, mặc, ở…, họ vẫn tiêu dùng một lượng sản phẩm xã hội nhất định. Tỷ lệ thất nghiệp càng cao thì lượng sản phẩm xã hội mất đi do chỉ tiêu dùng mà không được tạo ra càng lớn, thu nhập bình quân đầu người giảm. Thu nhập bình quân đầu người chính là một cơ sở để đánh giá sự hưng thịnh của quốc gia. Thất nghiệp tác động đến đời sống kinh tế gia đình của từng người lao động. Những người thất nghiệp không có thu nhập và phải sống nhờ vào những người khác trong gia đình. Sẽ không có ảnh hưởng gì to lớn nếu như thu nhập của người đó chỉ đóng góp một phần nhỏ bé trong tổng thu của gia đình. Giả định rằng người thất nghiệp là chủ gia đình, thu nhập của anh ta ảnh rất lớn, và có tính quyết định đến đời sống kinh tế cả gia đình. Nếu vậy đời sống của gia đình sẽ gặp nhiều khó khăn khi mất đi khoản thu nhập chủ yếu. 2. Thất nghiệp và phát triển xã hội Những khó khăn trong kinh tế chính là nguyên nhân gây ra những bất ổn xã hội. Khi xem xét các nguyên nhân của tệ nạn xã hội người ta nhận thấy rằng những người thất nghiệp tham gia một cách đáng kể vào các tệ nạn đó. Để đem lại thu nhập dù ít hỏi, họ sẵn sàng tham gia tệ nạn như buôn bán ma túy, trộm cắp, mại dâm, đâm thuê chém mướn …Lý giải vấn đề này rất đơn giản, khi những con đường chính đáng đem lại thu nhập đều khép lại, trong khi đó những con đường đến với tệ nạn xã hội lại rộng mở, khó bị ngăn chặn. Người lao động thất nghiệp sẽ phải lựa chọn ngồi nhà chịu chết đói hay là tìm cách tham gia bất cứ công việc gì kể cả đó là các tệ nạn xã hội để có thu nhập. Thất nghiệp có thể đẩy con người đến bước đường cùng, phá hỏng giá trị đạo đức trong con người khi họ tìm mọi cách để sinh tồn. Thất nghiệp gây khó khăn phức tạp cho công tác quản lý xã hội, làm đảo lộn nhiều nếp sống lành mạnh, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Những hậu quả về xã hội này lại gây tác động ngược trở lại với phát triển kinh tế, chính chúng sẽ kìm hãm nền kinh tế. Hơn thế nữa, thất nghiệp còn đem đến những bất ổn về mặt chính trị. Người lao động ở những quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp cao thường có tâm lý bất an, luôn lo lắng tới tương lai, từ đó mất niềm tin vào nhà lãnh đạo. Đối với những thanh niên bước vào độ tuổi lao động, tâm lý này càng trở nên nghiêm trọng, dẫn đến những hành động quá khích hướng vào nhà lãnh đạo. Còn với những người đã từng cống hiến cho cách mạng như những thương binh, người có công… ảnh hưởng của thất nghiệp đến tâm lý họ càng trở nên nặng nề. Có thể thấy rằng thất nghiệp tác động mạnh đến phát triển kinh tế, cũng không kém trong phát triển con người và xã hội. Muốn xã hội ổn định, kinh tế phát triển thì phải giảm bớt thất nghiệp. Điều đó đồng nghĩa với việc duy trì thất nghiệp ở một tỷ lệ nhất định, và tiến tới giảm tỷ lệ đó. CHƯƠNG II HỆ THỐNG CHỈ TIÊU PHẢN ÁNH ẢNH HƯỞNG CÁC YẾU TỐ XÃ HỘI ĐẾN TÌNH TRẠNG THẤT NGHIỆP I. CHỈ TIÊU PHẢN ÁNH TÌNH TRẠNG THẤT NGHIỆP 1. Số người thất nghiệp Khái niệm: Số người thất nghiệp bao gồm dân số 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc. Số người thất nghiệp là chỉ tiêu tuyệt đối, thời điểm thường không gắn chặt với một con người cụ thể, đối tượng thất nghiệp cụ thể thường xuyên biến động. Một người được coi là có việc làm trong kỳ điều tra có thể trở thành thất nghiệp trong thời điểm khác. Ý nghĩa: - Chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh quy mô thất nghiệp - Cơ cở để tính chỉ tiêu tỷ lệ thất nghiệp 2. Tỷ lệ thất nghiệp: Khái niệm: Tỷ lệ thất nghiệp là chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ phần trăm của số người thất nghiệp so với dân số hoạt động kinh tế (lực lượng lao động) Phương pháp tính: Trong thực tế thường dùng hai loại tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ thất nghiệp chung và tỷ lệ thất nghiệp theo độ tuổi hay nhóm tuổi. Tỷ lệ thất nghiệp chung được xác định bằng cách chia số người thất nghiệp cho dân số hoạt động kinh tế Tỷ lệ thất nghiệp theo độ tuổi hoặc nhóm tuổi được xác định bằng cách chia số người thất nghiệp của mỗi độ tuổi hoặc nhóm tuổi nhất định cho toàn bộ dân số hoạt động kinh tế của độ tuổi hoặc nhóm tuổi đó. Trong đó i là nhóm tuổi được tính Ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết trong 100 người thuộc lực lượng lao động có bao nhiêu người bị thất nghiệp. Chỉ tiêu còn biểu hiện gánh nặng của nền kinh tế HỆ THỐNG CHỈ TIÊU PHẢN ÁNH CÁC YẾU TỐ XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN THẤT NGHIỆP Giáo dục: Bằng cấp cao nhất của chủ hộ Khái niệm: Bằng cấp cao nhất của chủ hộ là chỉ tiêu định tính quy định trình độ giáo dục mà chủ hộ đã đạt được (VD: cấp I,II,III, đại học…) Ý nghĩa: Đây là chỉ tiêu định tính, khi phân tích thống kê chúng ta phải tiến hành định lượng chỉ tiêu này Tỷ lệ dân số 15 tuổi trở lên chia theo bằng cấp cao nhất Khái niệm: Tỷ lệ dân số từ 15 tuôi trở lên chia theo bằng cấp x là tỷ lệ % dân số 15 tuổi trở lên tốt nghiệp cấp x trên toàn bộ dân số từ 15 tuổi trở lên. (x là cấp I, II, III, Cao đẳng-Đại học, công nhân kỹ thuật, Trung học chuyên nghiệp, trên đại học) Phương pháp tính: Chỉ tiêu này được tính cho vùng hoặc toàn quốc Ý nghĩa: Chỉ tiêu phản ánh trình độ giáo dục của vùng và quốc gia 1.3. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên mù chữ: Khái niệm: Tỷ lệ dân số 15 tuổi trở lên mù chữ là tỷ lệ phần trăm số người từ 15 tuổi trở lên không biết chữ so với dân số 15 tuổi trở lên Phương pháp tính: Chỉ tiêu tính cho hộ, vùng, toàn quốc. Công thức: là số người 15 tuổi trở lên mù chữ là tổng số người 15 tuổi trở lên Ý nghĩa: Chỉ tiêu phản ánh trong 100 người dân từ 15 tuổi trở lên có bao nhiêu người không biết chữ Chỉ tiêu dùng đánh giá trình độ giáo dục của một vùng hay một quốc gia Nhân khẩu học: Tỷ lệ giới tính nam: Khái niệm: Tỷ lệ giới tính nam là tỷ lệ phần trăm số nam trên tổng dân số Phương pháp tính: Phạm vi vùng Phạm vi toàn quốc Ý nghĩa: Chỉ tiêu phản ánh cứ trong 100 người dân thì có bao nhiêu người là nam Tỷ lệ giới tính nữ: Khái niệm: Tỷ lệ giới tính nữ là tỷ lệ phần trăm số nữ trên tổng dân số Phương pháp tính: - Phạm vi vùng - Phạm vi toàn quốc Trong đó: là tổng số nữ là tổng số nam là tổng dân số Ý nghĩa:Chỉ tiêu phản ánh cứ trong một trăm người dân thì có bao nhiêu người là nữ Quy mô hộ gia đình: Khái niệm:Quy mô hộ gia đình (số nhân khẩu 1 hộ) là số người sống trong một hộ gia đình và có tên trong hộ khẩu của gia đình Phương pháp tính: - Phạm vi 1 hộ: số người có tên trong hộ khẩu của hộ - Phạm vi 1 vùng: Khi tính cho vùng, chúng ta dùng chỉ tiêu nhân khẩu bình quân hộ. Ý nghĩa: Chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển xã hội vùng (toàn quốc), mức sống hộ gia đình Tỷ lệ người trong độ tuổi lao động: Khái niệm:Tỷ lệ người trong độ tuổi là tỷ lệ % số người trong độ tuổi lao động (nữ 15-55, nam từ 15-60) trên tổng dân số. Phương pháp tính: - Phạm vi vùng - Phạm vi hộ Công thức: Ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết trung bình trong 100 người có bao nhiêu người trong độ tuổi lao động. Chỉ tiêu phản ánh khả năng sản xuất của nền kinh tế 2.5. Tỷ lệ phụ thuộc: Khái niệm: Tỷ lệ phụ thuộc là chỉ tiêu phản ánh tỷ lệ phần trăm giữa số người từ 0 đến 14 tuổi và từ 60 tuổi trở lên trên số người từ 15 đến 59 tuổi Phương pháp tính: Ý nghĩa: Chỉ tiêu phán ánh cứ một người trong độ tuổi lao động trung bình phải nuôi bao nhiêu người ngoài tuổi lao động Phản ánh gánh nặng của cả nền kinh tế Sức khỏe Số người có khám chữa bệnh trong 12 tháng qua Khái niệm: Chỉ tiêu tuyệt._. đối phản ánh số người trong 12 tháng trước thời điểm phỏng vấn bị ốm đau, chấn thương đi khám và chữa bệnh Phương pháp tính: Chỉ tiêu được tính phạm vi hộ, vùng, toàn quốc Tỷ lệ người người có khám chữa bệnh trong 12 tháng qua Khái niệm: Tỷ lệ người người có khám chữa bệnh trong 12 tháng qua là tỷ lệ % số người có khám bệnh trong 12 tháng qua trên tổng dân số Phương pháp tính: Tính cho vùng và cho toàn quốc. Công thức: b là số người có khám chữa bệnh 12 tháng trước thời điểm điều tra. Ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết trong 100 người dân có bao nhiêu người có khám chữa bệnh trong 12 tháng qua. Chỉ tiêu phản ánh tình hình sức khỏe dân cư của vùng, toàn quốc 4. Xóa đói giảm nghèo: 4.1. Thế nào là hộ nghèo: Khái niệm hộ nghèo: Nghèo lương thực, thực phẩm được xác định bằng mức thu nhập tính theo thời giá đủ để chi mua lương thực, thực phẩm thiết yếu đảm bảo khẩu phẩn ăn duy trì với nhiệt lượng tiêu dùng một người là 2100 Kcal. Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới tiêu chuẩn nói trên thuộc vào diện nghèo Phương pháp xác định: Năm 2002 tiêu chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm ở thành thị là 146 000 VNĐ, nông thôn là 112 000 VNĐ 4.2. Tỷ lệ hộ nghèo lương thực, thực phẩm: Khái niệm: Chỉ tiêu tỷ lệ hộ nghèo là tỷ lệ phần trăm số hộ gia đình sống dưới mức chuẩn đói nghèo trên toàn bộ số hộ gia đình toàn vùng, hoặc cả nước. Phương pháp tính: Tính cho phạm vi vùng, phạm vi toàn quốc Công thức: a là số hộ sống dưới mức chuẩn đói nghèo A là tổng số hộ được điều tra Ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết trong 100 hộ gia đình thì có bao nhiêu hộ nghèo Chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã hội của vùng, quốc gia và hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC YẾU TỐ XÃ HỘI ĐẾN THẤT NGHIỆP Phương pháp phân tổ: 1.1. Thế nào là phân tổ thống kê: Khái niệm Phân tổ thống kê là căn cứ vào 1 hay 1 số tiêu thức nào đó để tiến hành phân chia các đơn vị của hiện tượng nghiên cứu thành các tổ, tiểu tổ có tính chất khác nhau Tiêu thức phân tổ là tiêu thức thống kê được chọn làm căn cứ tiến hành phân tổ thống kê. Để lựa chọn tiêu thức phân tổ cần căn cứ vào hai vấn đề: Dựa trên cơ sở phân tích lý luận để lựa chọn tiêu thức bản chất phù hợp mục đích nghiên cứu Căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể để lựa chọn tiêu thức thích hợp Nhiệm vụ của phân tổ thống kê: Phân chia các loại hình kinh tế-xã hội của hiện tượng nghiên cứu Biểu hiện kết cấu của hiện tượng nghiên cứu Biểu hiện mối liên hệ giữa các tiêu thức Ý nghĩa của phân tổ thống kê: Phân tổ thống kê được sử dụng phổ biến trong các giai đoạn của quá trình phân tích thống kê và là phương pháp quan trọng của phân tích thống kê. Trong tổng hợp thống kê thì phân tổ thống kê là phương pháp cơ bản để tổng hợp. 1.2. Các loại phân tổ thống kê: a. Phân tổ giản đơn Khái niệm: Phân tổ giản đơn theo một tiêu thức là xây dựng số phân bố của một tập hợp theo một tiêu thức. Cách phân tổ này đơn giản nhất và cũng thường được sử dụng nhất. Phương pháp thực hiện: Chọn tiêu thức phân tổ: Vấn đề chọn tiêu thức phân tổ là điều cốt lõi của phân tổ thống kê, phân tổ theo tiêu thức nào sẽ cho chúng ta một tần số phân bố theo tiêu thức ấy, và biểu hiện tính chất của hiện tượng theo tiêu thức phân tổ. Việc phân tổ theo mỗi một tiêu thức sẽ đáp ứng những mục đích khác nhau của tập hợp thông tin. Vì vậy phải căn cứ vào mục đích nghiên cứu và bản chất của hiện tượng để xác định tiêu thức phân tổ phù hợp. Khi chọn tiêu thức phân tổ cần xem xét đến điều kiện lịch sử của hiện tượng. Xác định số tổ và khoảng cách tổ: Số lượng tổ phụ thuộc vào số lượng thông tin và phạm vi biến động của tiêu thức nghiên cứu. Lượng thông tin càng nhiều, thì phạm vi biến động càng lớn, càng phải phân làm nhiều tổ. Việc xác định số tổ và khoảng cách tổ phụ thuộc vào tiêu thức phân tổ: • Khi phân tổ theo tiêu thức thuộc tính: sự khác nhau giữa các tổ được biểu hiện là sự khác nhau giữa các lọai hình. Nếu cac loại hình tương đối ít ta coi mỗi loại hình là một tổ. Vì vậy nếu có bao nhiêu loại hình, thì phân bấy nhiêu tổ. Trong trường hợp các loại hình quá nhiều, nếu phân tổ theo từng loại hình thì số tổ sẽ quá nhiều, không khái quát chung và không nêu được đặc điểm khác nhau giữa các tổ. Phải ghép những loại hìn giống nhau hoặc gần giống nhau vào cùng một tổ. • Khi phân tổ theo tiêu thức số lượng: Đối với tiêu thức số lượng việc xác định số tổ và khoảng cách tổ có nét phức tạp riêng. Làm sao để gom những đơn vị có tính chất, đặc điểm giống nhau về cùng một tổ. Trong trường hợp sự biến thiên về số lượng giữa các đơn vị không chênh lệch nhau nhiều như: Số lượng người trong gia đình, số điểm kết quả học tập, số máy do một công nhân phụ trách,..Vì lương biến thiên của tiêu thức phân tổ chỉ thay đổi trong phạm vi hẹp và biến động rời rạc nên việc xác định số tổ sẽ đơn giản. Mỗi lượng biến là cơ sở để hình thành một tổ, hoặc ghép một số lượng biến vào một tổ tùy theo đặc tính của hiện tượng và mục đích nghiên cứu. Trường hợp lượng biến của tiêu thức biến thiên lớn nếu mỗi lượng biến hình thành một tổ thì số tổ sẽ quá nhiều, không nói rõ được sự khác nhau về chất giữa các tổ. Trường hợp này chú ý đến mối liên hệ về lượng và chất trong phân tổ. Tức là xem sự thay đổi về lượng đến mức độ nào thì bản chất của hiện tượng thay đổi, làm nảy sinh tổ khác. Mỗi tổ bao gồm một phạm vi lượng biến, có hai giới hạn rõ rệt: giới hạn dưới là lượng biến nhỏ nhất để tổ được hình thành, giới hạn trên là lượng biến lớn nhất của tổ, nếu vượt qua giới hạn này thì chất lượng thay đổi và chuyển sang tổ khác. Tri số chênh lệch giữa giới hạn trên và dưới mỗi tổ gọi là khoảng cách tổ. Khoảng cách này có thể bằng nhau hoặc không bằng nhau. Khi phân tổ có khoảng các tổ bằng nhau, độ rộng của khoảng các được xác định theo công thức: Chọn các đơn vị vào các tổ tương ứng: Không có đơn vị nào được đặt vào nhiều hơn một tổ b. Phân tổ theo nhiều tiêu thức: Phân tổ kết hợp Khái niệm: là phân tổ lần lượt theo từng tiêu thức một ( đó là thứ tự sắp xếp tiêu thức nào trước, tiêu thức nào ít phụ thuộc ….) Cách phân tổ: Thông thường phân tổ theo 2 hoặc 3 tiêu thức, tuân theo nguyên tắc phân tổ giản đơn. Đầu tiên phải xác định xem phân tổ theo những tiêu thức nào. Cần căn cứ vào mục đích nghiên cứu, bản chất hiện tượng và mối liên hệ để chọn tiêu thức phân tổ cho phù hợp. Khi phân tổ quá nhiều tiêu thức thông tin sẽ bị chia nhỏ, khó xem, nên chỉ nên phân tổ theo 2, 3 tiêu thức là tốt nhất. Sau khi xác định được tiêu thức phân tổ, cần tiếp tục xác định xem mỗi tiêu thức nên được phân làm bao nhiêu tổ. Sau đó ta tiến hành phân chia tổng thể tài liệu theo tiêu thức thứ nhất. Tiếp đó mỗi tổ được chia thành các tiểu tổ theo tiêu thức thứ hai, tiếp tục cho đến tiêu thức cuối cùng. Cần chú ý trong việc chọn tiêu thức nào là tiêu thức thứ nhất, thứ hai…hợp lý và kêt quả dễ nhận xét. Cuối cùng chọn các đơn vị vào các tổ, tiểu tổ, tính tần số, tần suất tích lũy. c. Phân tổ nhiều chiều Khái niệm: Phân tổ nhiều chiều là cùng một lúc phân tổ theo nhiều tiêu thức khác nhau nhưng có vai tròn ngang nhau trong việc đánh giá hiện tượng Phương pháp thực hiện: Trong phân tổ nhiều chiều các tiêu thức nguyên nhân đồng thời là tiêu thức phân tổ vì vậy người ta phải đưa các tiêu thức phân tổ về một dạng tiêu thức tổng hợp. Căn cứ vào tiêu thức này để tiến hành phân tổ theo 1 tiêu thức. Cách xác định tiêu thức tổng hợp: ký hiệu các lượng biến của tiêu thức phân tổ là n là số lượng biến tiêu thức i là thứ tự các lượng biến j là thứ tự các tiêu thức k là số tiêu thức Bảng tổng quát: Số thứ tự Tiêu thức 1 Tiêu thức 2 Tiêu thức j Tiêu thức k 1 2 3 i n Ý nghĩa của tiêu thức tổng hợp: Tiêu thức tổng hợp xóa bỏ sự khác biệt về tri số và đơn vị tính toán của các tiêu thức khác nhau khi đưa chúng về dạng tỷ số. Các tiêu thức sẽ có vai trò như nhau trong việc biểu hiện hiện tượng. Tác dụng: Nghiên cứu tổng thể theo một số tiêu thức cơ bản có mối liên hệ với nhau Nghiên cứu mối liên hệ giữa nhiều tiêu thức mà khi dùng phân tổ kết hợp không giải quyết được Dùng xây dựng tài liệu đồng nhất của thông tin ban đầu làm cơ sở vận dụng các phương pháp thống kê toán. Được sử dụng trong những trường hợp khi dựa vào căn cứ chung về phân tổ ở các phần trên mà vẫn không phân tổ được. c. Phân tổ lại Khái niệm: Phân tổ trên cơ sở tài liệu đã phân tổ cũ không còn phủ hợp nhằm đáp ứng một mục tiêu nghiên cứu nào đó Trường hợp vận dụng: phân tổ lại được vận dụng trong các trường hợp sau: Tài liệu trước được phân tổ không thống nhất với nhau (không thống nhất về số tổ, khoảng cách tổ ..) Tài liêu trước được phân thành quá nhiều tổ nhỏ nên chưa phân biệt các loại hình kinh tế xã hội khác nhau Tài liệu phân tổ cũ không hợp lý và không phản ánh đúng tình hình thực tế Phương pháp thực hiện: tạo lập các tổ mới bằng cách thay đổi khoảng cách các tổ cũ. Khi phân tổ lại thường vẫn sử dụng những tiêu thức phân tổ cũ. Trong trường hợp muốn so sánh một vài phân tổ cũ với nhau mà các phân tổ lần đầu nay lại không giống nhau về số tổ và khoảng cách tổ thì ta có thể chọn một trong các phân tổ khác cho phù hợp với loại đó. Trường hợp các phân tổ cũ đều không phù hợp, không thỏa mãn mục đích nghiên cứu thì phải phân tổ lại tất cả theo mẫu thống nhất.Có hai cách phân tổ lại: Cách 1: Lập các tổ mới bằng cách thay đổi khoảng cách tổ của phân tổ cũ Cách 2: Lập các tổ mới theo tỷ trọng của mỗi tổ chiếm trong tổng thể Tác dụng: Phương pháp phân tổ lại tương đối phức tạp, phải dựa trên một số tính toán giả thiết. Tuy nhiên, trong những trường hợp tài liệu nghiên cứu bị hạn chế, phương pháp này sẽ giúp chúng ta nghiên cứu được vấn đề. Phương pháp hồi quy - tương quan Thế nào là hồi quy - tương quan trong thống kê: Để trả lời cho câu hỏi “Các sự vật, hiện tượng của thế giới ở trạng thái cô lập, tách rời nhau hay có liên hệ với nhau, tác động qua lại chuyên hóa lẫn nhau” trong triết học đã tồn tại hai quan điểm khác nhau, đó là phép biên chứng và phép siêu hình. Phép biện chứng cho rằng mọi sự vật hiện tượng của thế giới cũng như những hình ảnh tinh của chúng có quan hệ qua lại với nhau, không ngừng vận động và phát triển. Vì vậy việc nghiên cứu mối liên hệ là một trong những nhiệm vụ quan trọng của thống kê. Xét theo trình độ chặt chẽ của mối liên hệ chúng ta có thể chia ra thành hai loại liên hệ là liên hệ hàm số và liên hệ tương quan. Mối liên hệ hàm số là mối liên hệ hoàn toàn chặt và được biểu hiện dưới dạng hàm số. Mối liên hệ tương quan là mối liên hệ không hoàn toàn chặt được biểu hiện ở chỗ khi một hiện tượng biến đổi thì làm cho hiện tương có liên quan biến đổi theo nhưng nó không có ảnh hưởng hoàn toàn quyết định đến sự biến đổi này. Thuật ngữ hồi quy đã được Francis Galton sử dụng vào năm 1886. Trong một bài báo nổi tiếng của mình, ông đã cho rằng có một xu hướng về chiều cao của những đứa trẻ do cha me cao không bình thường hoặc thấp không bình thường sinh ra. Người ta gọi xu hướng này là luật Galton. Trong bài báo của mình Galton cũng dùng cụm từ “quy về trung bình”. Từ đó vấn đề hồi quy được nhiều người quan tâm và hoàn thiện. Hồi quy và tương quan khác nhau về mục đích và kỹ thuật. Phân tích tương quan trước hết là đo mức độ kết hợp tuyến tính giữa hai biến. Nhưng phân tích hồi quy lại ước lượng hoặc dự báo một biến trên cơ sở giá trị đã cho của biên khác. Về mặt kỹ thuật phân tích hồi quy các biến không có tính chất đối xứng. Biến phụ thuộc là đại lượng ngẫu nhiên. Các biến giải thích giá trị của chúng đã được xác định. Trong phân tích tương quan không có sự phân biệt giữa các biến. Nhiệm vụ của hồi quy - tương quan: Hồi quy tương quan là phương pháp toán học vận dụng trong thống kê để biểu hiện và phân tích mối quan hệ tương quan giữa các hiện tượng Kinh tế-Xã hội. Nhiệm vụ của phương pháp này đó là: Xác định tính chất và hình thức mối liên hệ Đánh giá trình độ chặt chẽ mối liên hệ và sự phù hợp của mô hình Bốn bước xây dựng mô hình hồi quy *Bước 1: Giải thích sự tồn tại thực tế của mối liên hệ bằng phân tích lí luận Ví dụ: Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lao động có trình độ PTTH có quan hệ tỷ lệ với nhau. Tỷ lệ lao động có trình độ PTTH càng cao thì tỷ lệ thất nghiệp càng thấp *Bước 2: Sau khi khẳng định mối liên hệ thăm dò mối liên hệ bằng phương pháp thống kê đồ thị , quan sát các dãy số song song Ví dụ: Sau khi chứng minh tiêu thức nguyên nhân X tiêu thức kết quả Y Giả sử mối liên hệ đó là thuận : X tăng Y tăng nghịch X giảm Y giảm *Bước 3: Lập phương trình hồi quy a. Phương trình hồi quy đơn giữa hai tiêu thức số lượng a.1. Phương trình hồi quy hàm tuyến tính: Phương trình hồi quy hàm tuyến tính biểu diễn mối quan hệ giữa hai tiêu thức số lượng có dạng Trong đó x là gía trị tiêu thức nguyên nhân là trị số điều chỉnh của tiêu thức kết quả a, b là các tham số của phương trình hồi quy các tham số a, b được xác định sao cho đường hồi quy lý tuyết mô tả gần đúng nhất mối liên hệ thực tế. a, b thỏa mãn hệ phương trình: hoặc tính bằng công thức sau: Ý nghĩa các hệ số hồi quy a, b: a là tham số tự do nói lên ảnh hưởng của các nguyên nhân khác ngoài x tới sự biến động của y b hệ số hồi quy, biểu hiện ảnh hưởng cụ thể của tiêu thức nguyên nhân x tới tiêu thức kết quả y cụ thể là khi x tăng lên 1 đơn vị thì y thay đổi trung bình b đơn vị a.2. Phương trình hồi quy hàm phi tuyến: • Phương trình hàm Parabol: phương trình này được vận dụng khi tiêu thức nguyên nhân tăng hoặc giảm một lượng đều nhau thì tiêu thức kết quả biến động với một lượng không đều nhau Phương trình hồi quy: a, b, c là các tham số của phương trình hồi quy, được xác định theo phương pháp bình phương nhỏ nhất, do đó a, b, c thỏa mãn hệ phương trình: • Phương trình hàm Hypebol: vân dụng khi tiêu thức nguyên nhân tăng thì tiêu thức kết quả tăng với tốc độ không đều. Phương trình dạng a, b là các tham số của phương trình hồi quy xác định bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất, theo đó a, b thỏa mãn hệ phương trình sau: • Phương trình hàm mũ: thường vận dụng khi trị số tiêu thức kết quả thay đổi theo cấp số nhân. Phương trình hồi quy có dạng như sau: a, b cũng được tính theo phương pháp bình phương nhỏ nhất: b. Phương trình hồi quy tuyến tính bội giữa nhiều tiêu thức số lượng Khi phân tích mối liên hệ tương quan giữa nhiều tiêu thức số lượng, trước hết phải căn cức vào mục đích nghiên cứu để chọn ra những tiêu thức nào có liên hệ với nhau, trong đó chỉ có 1 tiêu thức kết quả. Chỉ chọn những tiêu thức có ý nghĩa ảnh hưởng đến tiêu thức kết quả. Đặc biệt số đơn vị điều tra phải nhiều hơn từ 5 – 10 lần số tiêu thức nguyên nhân thì kết quả phân tích mới có ý nghĩa. Xác định phương trình hồi quy để biểu hiện mối liên hệ: Phương trình: Xác định hệ số hồi quy b bằng phương pháp hồi quy nhỏ nhất để thỏa mãn điều kiện đó các phải: Ý nghĩa các hệ số hồi quy: - phản ánh mức ảnh hưởng của các nhân tố ngoài xi tới sự thay đổi của tiêu thức kết quả y - phản ánh mức ảnh hưởng của các nhân tố xi tới sự thay đổi của tiêu thức kết quả y. Cụ thể là khi tiêu thức xi tăng thêm 1 đơn vị thì tiêu thức kết quả y thay đổi trung bình đơn vị. Các hệ số hồi quy không phản ánh được nhân tố nào tác động mạnh hay yếu hơn khi các xi có đơn vị khác nhau. (Bước 4: Xác định các tham số thống kê, giải thích ý nghĩa của chung a. Hệ số tương quan: Định nghĩa: Hệ số tương quan là chỉ tiêu đánh giá trình độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan tuyến tính. Hệ số tương quan được ký hiệu bằng chữ r Trong mô hình hồi quy tuyến tính hai tiêu thức số lượng: Cách tính: Hệ số tương quan được tính bằng công thức:  EMBED Equation.3   EMBED Equation.3  Tính chất: Hệ số tương quan nằm trong khoảng [-1;1] Nếu r>0 thì mối quan hệ là tuyến tính thuận Nếu r<0 thì mối quan hệ là tuyến tính nghịch Nếu thì mối quan hệ đó là quan hệ hàm số Nếu thì không hề tồn tại mối quan hệ tương quan tuyến tình giữa x và y Nếu càng gần 1 thì mối liên hệ càng chặt chẽ Trong mô hình hồi quy tuyến tính nhiều tiêu thức số lượng: Hệ số tương quan trong mô hình hồi quy tuyến tính bội gồm hai loại: Hệ số tương qua bội: dùng đánh giá trình độ chặt chẽ mối liên hệ giữa tiêu thức kết quả y với các tiêu thức nguyên nhân được nghiên cứu R nằm trong khoảng [0,1] : Nếu R=0 không có mối liên hệ tương quan tuyến tính bội Nếu R=1 có mối liên hệ tương quan tuyến hoàn toàn chặt chẽ Nếu R càng gấn 1 mối liên hệ tương quan càng chặt chẽ Hệ số tương quan riêng: chỉ tiêu đánh giá trình độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan riêng giữa tiêu thức kết quả với từng tiêu thức nguyên nhân với điều kiện loại trừ ảnh hưởng của những tiêu thức nguyên nhân khác hệ số tương quan riêng giữa y và x1 loại trừ ảnh hưởng của x2. b. Hệ số xác định: hệ số này dùng để đánh giá sự phù hợp của mô hình. Ký hiệu là thực chất cũng chính là bình phương của hệ số tương quan. c. Tỷ số tương quan: c.1. Định nghiã: Tỷ số tương quan là chỉ tiêu đánh giá trình độ chặt chẽ của mối liên hệ tương quan phi tuyến. c.2. Cách tính: Việc tính tỷ số tương quan gồm hai bước Bước 1: Tính các phương sai gồm + Phương sai chung: Phản ánh độ biến thiên của y do ảnh hưởng của tất cả các nguyên nhân + Phương sai phản ánh độ biến thiên của y do ảnh hưởng riêng của tiêu thức nguyên nhân x + Phương sai phản ánh độ biến thiên của y do ảnh hưởng các nhân tố khác ngoài x Ta có: Bước 2: Tính tỷ số tương quan eta c.3. Tính chất: Tỷ số tương quan có 4 tính chất Tỷ số tương quan nằm trong khoảng [0,1] Tỷ số tương quan bằng 0, không có mối quan hệ giữa tiêu thức nguyên nhân và kết quả Tỷ số tương quan bằng 1, mối quan hệ hoàn toàn chặt Tỷ số tương quan gần tới 1, mối quan hệ càng chặt chẽ c.4. Mô hình sử dụng: Tỷ số tương quan dùng cho hàm phi tuyến và tuyến tính. Tỷ số tương quan luôn luôn dương nên chỉ có thể đánh giá được trình độ chặt chẽ của mối liên hệ, không nói được chiều hướng mối liên hệ. d. Hệ số hồi quy chuẩn hóa: Trong nghiên cứu hồi quy nhiều biến số, một vấn đề cần quan tâm là các biến độc lập có mức độ ảnh hưởng đến biến phụ thuộc y như thể nào. Không thể so sánh các hệ số hồi quy b bởi đơn vị tính của biến độc lập x là khác nhau. Người ta dùng hệ số hồi quy chuẩn hóa để nghiên cứu mức ảnh hưởng của từng biến độc lập x với biến phụ thuộc y. Nhận xét: Giá trị tuyệt đối của các càng lớn thì càng có ảnh hưởng lớn hơn so với các nhân tố khác. Dấu cùng dấu với b nói lên chiều hướng của mối liên hệ CHƯƠNG III: PHÂN TÍCH THỐNG KÊ ẢNH HƯỞNG CÁC YẾU TỐ XÃ HỘI ĐẾN TÌNH TRẠNG THẤT NGHIỆP I. ĐẶC ĐIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Việt Nam đang trong giai đoạn mở cửa hội nhập với thế giới, đặc biệt gần đây là việc xin gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO. Mở cửa đem lại nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn trên mọi lĩnh vực trong đó có cả lao động và việc làm. Những thuận lợi và khó khăn đó thể hiện trên mọi mặt của đời sống xã hội. 1. Về Giáo dục 1.1. Trình độ học vấn của lực lượng lao động thường xuyên Nhìn chung cả nước, trình độ học vấn của người lao động thường xuyên được nâng cao. Biểu hiện rõ rệt là tỷ lệ số người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp I không ngừng giảm. Năm 1996 tỷ lệ người này là 26,67%; năm 1997 là 25,36% đến năm 2002 là 9,27% ở thành thị và ở nông thôn. Bên cạnh đó số người đã tốt nghiệp cấp II và III cũng không ngừng tăng, trong đó tăng nhanh nhất về quy mô và tốc độ là số người tốt nghiệp cấp III. Năm 1996, số người tốt nghiệp cấp III là 4833,1 ngàn người; năm 1999 là 6457 ngàn người; năm 2002 là 7447,084 ngàn người. Những chuyển tích cực về trình độ học vấn như đã nêu trên sẽ tạo không ít thuận lợi mang tính nội sinh trong việc đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nghề cũng như giải quyết những vấn đề việc làm, tạo thêm việc làm mới cho lực lượng lao động trong tương lai. 1.2. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động thường xuyên Tính đến ngày 1/10/1999 cả nước có 5241,7 ngàn người thuộc lực lượng lao đọng thường xuyên có trình độ chuyên môn kỹ thuật (công nhân, sơ cấp, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, thạc sĩ và tiến sĩ) chiếm 13,87% so với tổng số, so với 1996 tăng bình quân hàng năm 5,9%, với mức tăng tuyệt đối là 275,9 ngàn người. Trong đó tăng mạnh nhất là lao động có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học, bình quân hàng năm tăng thêm 159,5 ngàn người, với tốc độ tăng là 16,42%, tiếp đến là công nhân kỹ thuật (bao gồm có bằng cấp và không có bằng cấp) 66 ngàn người, với tốc độ tăng là 4,03%. Khu vực thành thị có tốc độ tăng số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật lớn hơn hẳn so với khu vực nông thôn. Năm 1999, số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở nông thôn là 2337,7 ngàn người chiếm 7,8% so với lực lượng lao động của cả khu vực nông thôn. Năm 2002 tỷ lệ này là 11,89% ở nông thôn và 44,6% ở thành thị. Tuy tăng nhưng cơ cấu đào tạo nghề cho lao động còn bất hợp lý.Điều này được thể hiện rõ ràng khi đem so sánh cơ cấu đào tạo của nước ta với một số nước khác. Thực tế cho thấy số lao động có trình độ chuyên môn còn thiếu so với yêu cầu. Không những thế, phân bố lao động nước ta còn chưa đồng đều. Những lao động có trình độ chuyên môn cao chủ yếu tập trung ở những thành phố và khu đô thị lớn (như thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh và một số thành phố trung tâm công nghiệp khác). Trong khi đó ngành nông nghiệp chiếm 60,5% tổng số lực lượng lao động của cả nước thì chỉ có 3,85% số người được đào tạo. Những năm gần đây công tác đào tạo nghề được chú ý. Các trường đào tạo nghề và các cơ sở đào tạo nghề xuất hiện ngày một nhiều và phát huy tác dụng. Các địa phương, bộ ngành đều xúc tiến đào tạo, đào tạo lại nâng cao trình độ kỹ thuật, chuyên môn cho người lao động. Chỉ trong năm 2001-2002 các trường đào tạo nghề thuộc các địa phương đã đào tạo được 32163 công nhân kỹ thuật. 1.3. Những hạn chế còn tồn tại trong giáo dục ở Việt Nam Chương trình giáo dục và đào tạo hiện đang bị yếu kém ở một số mặt quan trọng. Thứ nhất, chương trình giáo dục có xu hướng cung cấp, áp đặt tri thức sách vở chạy theo mục tiêu số lượng người học, lớp học sinh thu động trong tiếp nhận và hình thành tri thức. Giữa hai quan hệ “học” và “hành” thì thực hành bị coi nhẹ. Chính sự mất cân bằng này đã tạo ra lớp người chỉ có lý thuyết suông, có tri thức nhưng không đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Hiện nay nhiều người học chỉ để chạy theo bằng cấp, chứng chỉ chứ không phải học để nhận được tri thức thực sự. Điều này gây ra một sự phí tổn trong xã hội cả về nguồn lực tài chính đồng thời tiếm ẩn thiệt hại lớn trong tương lai khi có một đội ngũ nguồn nhân lực kém kỹ năng và không trung thực. Tình trạng trên gây ra bởi hai nguyên nhân chính đó là hệ thống giáo dục nước ta còn nặng về mục tiêu phúc lợi, xem nhẹ mục tiêu đầu tư thực sự vào con người và sự kém phát triển của thị trường lao động. Hệ thống giáo dục còn nặng về mục tiêu phúc lợi, xem nhẹ mục tiêu đầu tư thực sự vào con người: Giáo dục hướng tới mục tiêu toàn diện nhưng thực chất đang gây ra sự quá tải cho học sinh, mặt khác những tri thức công cụ vấn thiếu hụt. Học sinh học với tâm lý nhồi nhét để vượt qua các kỳ thi, qua tải với nhiều môn học trong khi đó ngoại ngữ, tin học là những môn cần thiết cho xã hội hiện đại lại chưa được chú ý đúng mức hoặc có chú ý thì cũng chỉ chạy theo số lượng mà chưa chú ý đến chất lượng. Đội ngũ giáo viên đào tạo chưa đảm bảo và theo kịp các đòi hỏi của hệ thống giáo dục. Vấn đề này gây ra bởi chương trình học chưa hợp lý, phần là do lương quá thấp nên sự quan tâm đến việc nâng cao trình độ bị coi nhẹ. Cơ sở vật chất cho việc dạy và học mặc dù đã được nâng cấp trong thời gian qua song vẫn còn thiếu thốn. Tại các trường phổ thông, đại học còn thiều các phương tiện học tập và thiết bị thí nghiệm bình thường. Chỉ một phần những trường học ở thành phố có điều kiện sử dụng những phương tiện hiện đại. Nguồn kinh phí cấp cho trường quá eo hẹp và chương trình giáo dục nặng dạy chữ, coi nhẹ thực nghiệm giải thích cho tình hình trên. Thị trường lao động chưa phát triển: Thu nhập người lao động thấp, đa số người dân Việt Nam chưa có điều kiện để cải thiện nhanh chóng trình độ văn hóa. Vì thu nhập nên ưu tiên hàng đầu của họ vẫn để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu như ăn, mặc, ở, biết chữ và dự phòng rủi ro. Đa số các gia đình sử dụng tới 70-80% thu nhập để đáp ứng nhu cầu tối thiểu, phần thu nhập cho sách báo, điện thoại, máy tính, internet… hay để cho con cái học ngoại ngữ nói chung vẫn là nhỏ. 2. Nhân khẩu học Theo kết quả điều tra mức sống hộ gia đình 2002, tình hình nhân khẩu học nước ta như sau: Nhân khẩu bình quân chung cả nước 2001-2002 là 4,4 người. Theo KSMS 1993, ĐTMS 1998, và ĐTMS 2002, nhân khẩu bình quân 1 hộ chung cả nước năm 1993 là 4,97 người và năm 1997 là 4,7 người. Như vậy nhân khẩu bình quân 1 hộ giảm trong thời kỳ 1993-2000. Xu hướng này diễn ra với cả khu vực thành thị và nông thôn. Nhân khẩu bình quân 1 hộ vùng nông thôn vẫn cao hơn thành thị, hộ nghèo cao hơn hộ giàu, hộ vùng núi cao hơn đồng bằng và hộ dân tộc khác cao hơn người kinh. Theo kết quả ĐTMS 2002, nhân khẩu bình quân 1 hộ nông thôn là 4,5 người, cao gấp 1,05 lần so với hộ thành thị. Các vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên có số nhân khẩu bình quân cao hơn so với các vùng khác. Điều đáng chú ý là hộ nghèo có đông con hơn hộ giàu nhưng lại có ít lao động hơn. Theo ĐTMS 2002, số người 0-19 tuổi ở nhóm các hộ nghèo nhất chiếm tỷ lệ cao từ 18-28% trong khi nhóm các hộ giàu nhất chiếm 15-18%. Ngược lại số người từ 20-49 tuổi trong nhóm các hộ giàu nhất lại chiếm 23-27% trong khi các hộ nghèo nhất chiếm 13-15%. Kết quả nhân khẩu học phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng vùng. Đồng thời góp phần lý giải nguyên nhân tỷ lệ thất nghiệp của nhóm hộ nghèo cao hơn nhóm hộ giàu, nhóm 15-19 tuổi cao hơn các nhóm còn lại. 3. Y tế và chăm sóc sức khỏe Theo ĐTMS 2002, trong 12 tháng trước thời điểm phỏng vấn trong năm 2001-2002, số người bị ốm đau, chấn thương đi khám bệnh là 18,87% so với tổng dân số, trong đó điều trị nội trú là 5,74%, điều trị ngoại trú là 14,17%. Số người ốm đau, chấn thương được điều trị ở thành thị là 20,35% cao hơn ở nông thôn (18,42%). Người có trình độ bằng cấp cao đi khám bệnh nhiều hơn người có trình độ thấp. Tình trạng ốm đau tập trung ở nhóm 0-4 tuổi và người từ 40 tuổi trở lên. Khi ốm đau nhóm hộ giàu có điều kiện hơn so với nhóm hộ nghèo trong việc khám chữa bệnh. Năm 2001-2002, có 22% số người giàu đến khám ở các cơ sở y tế, trong khi con số này của người nghèo chỉ là 16,5%. Đối với vấn đề lao động, các chỉ tiêu về sức khỏe góp phần đánh giá chất lượng nguồn lao động theo các độ tuổi, theo vùng và theo trình độ học vấn. Kết quả ĐTMS 2002 cho thấy, nhóm tuổi từ 15-39 có chất lượng lao động tốt nhất. II. ĐẶC ĐIỂM CỦA THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Đặc điểm chung về thất nghiệp ở các nước đang phát triển Việt Nam là một nước đang phát triển, do đó thất nghiệp ở Việt Nam mang những đặc điểm chung của các nước đang phát triển. Đó là: Cung lao động lớn do dân số tăng nhanh và cầu lao động thấp do kinh tế kém phát triển, thường gây nên tình trạng thất nghiệp cao. Hậu quả của bung nổ dân số những năm trước để lại, dẫn đến tỷ lệ tăng nguồn lao động khá cao, bình quân hàng năm trên 3,5%, mỗi năm có khoảng hơn 1,5 triệu người đến tuổi lao động. Mặt khác, cầu lao động tăng chậm do thiếu vốn đầu tư để phát triển sản xuất, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, khả năng thu hút lao động không cao. Đây là đặc điểm nổi bật của những nước đang và chậm phát triển, dân số tăng nhanh, cơ sở hạ tầng yếu kém. Người thất nghiệp có trình độ chuyên môn thấp do thiếu hụt về giáo dục. Điều này rất rõ ràng, những nước đang phát triển thường có số lượng lao động phổ thông giản đơn khá lớn, hơn nhiều lần so với số lao động kỹ thuật. Cũng do thiếu vốn đầu tư mà hệ thống giáo dục ở những nước đang phát triển chủ yếu làm nhiệm vụ giáo dục phổ thông, còn giáo dục công nghệ, kỹ thuật, kiến thức tiên tiến cho lao động còn hạn chế. Những đặc điểm riêng thất nghiệp ở Việt Nam: Bên cạnh những đặc điểm chung của những nước đang phát triển, thất nghiệp Việt Nam còn mang những đặc điểm riêng. Nó phản ánh quá trình lịch sử phát triển của dân tộc, những đặc điểm của một đất nước nông nghiệp. 2.1. Thất nghiệp do chuyển đổi cơ chế: Theo quá trình phát triển của lịch sử chính trị Việt Nam, ở nước ta hình thành dạng thất nghiệp cơ cấu, đây là dạng thất nghiệp phát sinh trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế. Dạng thất nghiệp này hình thành là do sự mất cân bằng giữa cung và cầu lao động trong một thời kỳ dài. Sự mất cân bằng này được sinh ra do sự điều chỉnh chính sách kinh tế, làm thay đổi cơ chế sản xuất, tiêu thụ của doanh nghiệp, các ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Một số ngành kinh tế truyền thống bị suy thoái, một số ngành kinh tế mới lại xuất hiện, tuy nhiên kỹ năng và tay nghề cũ của những người lao động chưa được điều chỉnh để kịp thích ứng. Do đó xã hội xuất hiện một lượng người thất nghiệp do buộc phải thôi việc hoặc mất việc làm trong một thời gian để đào tạo lại. Dạng thất nghiệp này còn gây ra bởi sự giải thể của một loạt các xí nghiệp quốc doanh tồn tại từ cơ chế kế hoạch tập trung, sang cơ chế mới, để giảm bớt gánh nặng chính phủ đa tiến hành cổ phần hóa, hoặc giải thể một số xí nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Bị giải thể, hiển nhiên số công nhân của những xí nghiệp đó sẽ trở thành những người thất nghiệp, một số được hưởng trợ cấp mất việc song đều không thể đủ sống dưới tác động của lạm phát trong nền kinh tế thị trường. Một số xí nghiệp sau khi chuyển sang hình thức cổ phần, công nhân không đáp ứng được yêu cầu người chủ mới, có một bộ phận vẫn giữ tư duy thời bao cấp, nên đã bị đào thải. 2.2. Thất nghiệp do tăng trưởng kinh tế thấp Loại thất nghiệp này phát sinh do tăng trưởng kinh tế thấp không đạt được ngưỡng việc làm, không thể đảm bảo được công ăn việc làm cho toàn bộ lực lượng lao động. Tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta thuộc loại cao song gốc tăng trưởng lại thấp, nguyên nhân chính là do nước ta mới hoàn toàn giải phóng từ 1975, cơ sở hạ tầng đều bị chiến tranh tàn phá, mặt khác chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, là giai đoạn chính cho tíc._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNKT397.doc
Tài liệu liên quan