Thông tin cho các Doanh nghiệp ở Trung tâm Thông tin Thương mại thuộc Bộ Thương mại - Hiện trạng và phương hướng phát triển

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA THƯƠNG MẠI ------o 0 o------ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Thông tin cho các doanh nghiệp ở Trung tâm Thông tin Thương mại thuộc Bộ Thương mại - Hiện trạng và phương hướng phát triển. Sinh viên: Trịnh Thị Bảo Linh Lớp : QTKD Thương Mại 45A Khóa : 45 Hệ : Chính Qui GVHD : GS.TS Hoàng Đức Thân Hà Nội – 2007 LỜI NÓI ĐẦU Trải qua 20 năm đổi mới, đất nước ta đã có rất nhiều biến chuyển và đạt được nhiều thành tựu. Trong suốt 20 năm ấy, chúng ta luôn cố gắ

doc108 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1135 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thông tin cho các Doanh nghiệp ở Trung tâm Thông tin Thương mại thuộc Bộ Thương mại - Hiện trạng và phương hướng phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực nhưng vẫn giữ đặc thù riêng của kinh tế Việt nam là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Năm 2006 qua đi, đánh dấu một bước ngoặt lớn cho nền kinh tế Việt nam với nhiều thành tựu đạt được trong lĩnh vực ngoại giao cũng như kinh tế: chúng ta tổ chức thành công hội nghị APEC, ứng cử thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) khi được Đại hội đồng WTO phê chuẩn tư cách thành viên của Việt nam ngày 7/11/2006 và chính thức kết nạp vào ngày 11/1/2007. Chúng ta đã thực sự tham dự vào sân chơi chung của thế giới. Bước vào sân chơi chung ấy, chúng ta có được nhiều điều kiện thuận lợi mới để phát triển nền kinh tế nhưng cũng đồng thời đối mặt với muôn vàn khó khăn. Trong khi đó, chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng trình độ kinh tế nước ta vẫn còn thua kém nhiều nước ngay cả các nước trong khu vực Đông Nam Á. Nguyên nhân của những tồn tại đó của nền kinh tế Việt nam thì có nhiều và một phần là do hệ thống thông tin nước ta đã có những bước tiến đáng kể nhưng thông thông tin vẫn còn rời rạc, thiếu đồng bộ, kém hiệu quả, chưa thật kịp thời để nắm bắt các cơ hội nên chưa phát huy được hết vai trò của nó trong thúc đẩy phát triển nền kinh tế. Nếu hệ thống thông tin Việt nam cũng như của các tổ chức chuyên tin đầy đủ hơn, kịp thời hơn, chính xác hơn và cung ứng đúng đối tượng phục vụ hơn, hiệu quả hơn thì chắc chắn nền kinh tế của chúng ta sẽ còn tiến những bước xa và nhanh hơn trong quá trình phát triển. Trong khi đó, với thời đại ngày nay thì thông tin chính là công cụ hiện đại và là một tài sản vô hình nhưng tạo nên sức bật cho các nước đang phát triển rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. Về phương diện thương mại, công nghiệp dịch vụ thông tin đã trở thành một nền công nghiệp mới mẻ mang tính toàn cầu. Nó trở thành một công cụ và là một vũ khí sắc bén trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, giao lưu thương mại và hòa nhập với thị trường quốc tế. Nhận thức được tình hình đó cùng với sự nghiên cứu xâm nhập vào môi trường thực tiễn tại Bản tin Thông tin Thương mại của Trung tâm Thông tin Thương mại thuộc Bộ Thương mại em đã chọn đề tài: “Thông tin cho các doanh nghiệp ở Trung tâm Thông tin Thương mại thuộc Bộ Thương mại – Hiện trạng và phương hướng phát triển”. Mục tiêu của luận văn: Đi sâu phân tích thực trạng tình hình cung cấp thông tin nói chung và chủ yếu là tình hình cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp nói riêng của Trung tâm Thông tin Thương mại thuộc Bộ Thương mại để rút ra các mặt mạnh và các mặt yếu trong quá trình hoạt động của Trung tâm. Từ đó đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm phát triển hệ thống thông tin cho các doanh nghiệp ở Trung tâm. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp biện chứng, tổng hợp, phân tích, so sánh các số liệu thực tế trong hoạt động của Trung tâm Thông tin Thương mại thuộc Bộ Thương mại và trên cơ sở các kết quả để đưa ra các kết luận và các giải pháp. Kết cấu của luận văn: Nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về thông tin trong hoạt động của doanh nghiệp và nền kinh tế. Chương 2: Thực trạng về hoạt động cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp của Trung tâm Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại Chương 3: Phương hướng và biện pháp phát triển hệ thống thông tin cho các doanh nghiệp ở Trung tâm Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại. Mặc dù đã rất cố gắng song do tính chất phức tạp của vấn đề, sự hạn chế về thời gian và kiến thức nên bản luận văn không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo của thầy cô và các bạn. Qua đây, em xin chân thành cảm ơn GS.TS Hoàng Đức Thân - người đã trực tiếp tận tâm hướng dẫn em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Đồng thời, em cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú, anh chị Ban biên tập Bản tin Thông tin Thương mại trong suốt quá trình thực tập. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THÔNG TIN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP VÀ NỀN KINH TẾ 1.1. THÔNG TIN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN Thông tin (Information) là khái niệm cơ bản của khoa học cũng là khái niệm trung tâm của xã hội trong thời đại ngày nay. Mọi quan hệ, mọi hoạt động của con người đều dựa trên một hình thức giao lưu thông tin nào đó. Mọi tri thức đều bắt nguồn bằng một thông tin về những điều đã biết, đã nói và đã làm. Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ kết hợp với sự ảnh hưởng ngày càng sâu rộng của truyền hình và internet vào đời sống của loài người, thông tin đã trở thành nguồn tài nguyên đặc biệt và là nguồn lực phát triển của mỗi quốc gia. Nếu biết cách sử dụng thì thông tin sẽ trở thành công cụ điều hành sản xuất và quản lý xã hội rất hiệu quả cho Nhà nước nói chung và từng tổ chức nói riêng. 1.1.1. Khái niệm, phân loại vai trò của thông tin: a) Khái niệm thông tin: Thông tin theo tiếng La tinh là “informatio” chính là gốc của từ hiện đại “information” có hai nghĩa. Thứ nhất, nó chỉ một hành động rất cụ thể là tạo ra một hình dạng (forme). Thứ hai, tùy theo tình huống, nó có nghĩa là sự truyền đạt một ý tưởng, một khái niệm hay một biểu tượng. Tuy nhiên, xã hội ngày càng phát triển thì khái niệm về thông tin cũng phát triển theo; mỗi ngành, mỗi lĩnh vực lại có cách hiểu thông tin theo những cách khác nhau. Theo nghĩa thông thường thì Thông tin là tất cả các sự việc, sự kiện, ý tưởng, phán đoán làm tăng thêm sự hiểu biết của con người được con người thu thập, xử lý và bảo quản, truyền đạt cho nhau nhằm thực hiện các mục đích nhất định. Theo quan điểm triết học: thông tin là sự phản ánh của tự nhiên và xã hội (thế giới vật chất) bằng ngôn từ, ký hiệu, hình ảnh v.v…hay nói rộng hơn bằng tất cả các phương tiện tác động lên giác quan của con người. Theo quan điểm quản lý thì thông tin là các dữ liệu phản ánh thế giới khách quan được tập hợp, trình bày dưới một hình thức cụ thể và cung cấp cho người nhận tin để họ có thể ra một quyết định hoặc đảm trách một công việc cụ thể Còn theo quan điểm tin học thì thông tin được phân biệt ở hai mức độ: dữ liệu và thông tin. Dữ liệu là các số liệu, sự kiện, hình ảnh ban đầu thu thập được qua điều tra, khảo sát. Và khi dữ liệu đã qua xử lý, phân tích, tổng hợp và được cho là có ý nghĩa cho một đối tượng, một công việc nào đó thì chúng sẽ trở thành thông tin. Như vậy, có rất nhiều quan niệm khác nhau về thông tin và mỗi khái niệm đều có cách giải thích riêng của mình tùy thuộc vào lĩnh vực mà quan điểm đó nghiên cứu. Và từ các quan điểm này, chúng ta có thể nhận thấy: - Trước hết, thông tin là tri thức bởi nó được rút ra từ các sự kiện, sự việc cụ thể của tự nhiên và xã hội của thế giới khách quan. - Thứ hai, thông tin là kết quả của một quá trình thông tin như thu thập, xử lý, điều tra, khảo sát, phân tích, tổng hợp, bảo quản và truyền đạt… - Thứ ba, thông tin chỉ phát huy đựơc sức mạnh khi nó có một ý nghĩa nhất định đối với người nhận tin. Tóm lại, thông tin là tri thức được hình thành qua quá trình thông tin để tạo thành các dữ liệu phù hợp và có ý nghĩa đối với người nhận tin. Xác định nhu cầu thông tin NGƯỜI NHẬN TIN Xử lý thông tin: phân tích, tổng hợp,… Truyền tin Thu thập thông tin Lưu trữ thông tin Nhiễu Nhiễu Nhiễu Nhiễu Một quá trình thông tin có thể biểu diễn dưới dạng sơ đồ sau: Sơ đồ 1: Quá trình thông tin b) Phân loại thông tin: Có rất nhiều cách để phân loại thông tin: - Theo giá trị và quy mô sử dụng, thông tin được phân thành: + Thông tin chiến lược + Thông tin tác nghiệp + Thông tin thường thức - Theo nội dung của thông tin: + Thông tin khoa học và kỹ thuật: là các kết quả nghiên cứu phát minh, các phương pháp, các sản phẩm, các tính chất công nghệ, các tiêu chuẩn, các trang thiết bị,… + Thông tin kinh tế: tài chính, giá cả, thị trường, quản lý, cạnh tranh,… + Thông tin pháp luật: luật, quy định, quy tắc,… + Thông tin văn hóa và xã hội: giáo dục, y tế, nghệ thuật, thể thao, … - Theo đối tượng sử dụng: + Thông tin đại chúng: dành cho mọi người. + Thông tin khoa học: dành cho người dùng tin (khách hàng). - Theo mức độ xử lý nội dung: + Thông tin cấp một: thông tin gốc + Thông tin cấp hai: thông tin tín hiệu và chỉ dẫn + Thông tin cấp ba: tổng hợp các thông tin cấp một - Theo hình thức thể hiện thông tin: + Thông tin nói + Thông tin viết + Thông tin bằng hình ảnh + Thông tin điện tử hay thông tin số + Thông tin đa phương tiện (multimedia) 1.1.2. Đặc điểm thông tin trong lĩnh vực kinh tế: Thông tin kinh tế là những dữ liệu phản ánh lĩnh vực hoạt động kinh tế của xã hội được thu thập, xử lý và cung cấp cho những chủ thể trong quá trình quản lý và thực hiện các hoạt động kinh tế của họ. Nó phản ánh các hiện tượng, các quá trình kinh tế diễn ra ở cả 3 lĩnh vực: sản xuất, lưu thông và tiêu dùng. Thông tin kinh tế bao gồm những thông tin kinh tế - xã hội và kinh tế - kỹ thuật. Đó là những số liệu, những sự kiện, tin tức và các tài liệu khác trên cơ sở nhận thức ban đầu về chất lượng và sự ưu thế về mặt số lượng, phản ánh những quan hệ kinh tế - xã hội và được dùng để phân tích, quản lý, lập kế hoạch và dự báo sự phát triển kinh tế xã hội. Thông tin kinh tế phản ánh các hiện tượng kinh tế khách quan . Nó khác với các thông tin khoa học tự nhiên, thiên văn, sinh học là những thông tin về các hiện tượng tự nhiên trong thế giới khách quan. a) Đặc điểm của thông tin trong lĩnh vực kinh tế: Thứ nhất, thông tin kinh tế là thông tin trong lĩnh vực hoạt động kinh tế giúp các chủ thể kinh tế ra quyết định thực hiện các hoạt động kinh tế của mình. Thông tin kinh tế trước hết và chủ yếu phục vụ quá trình ra quyết định về các hành vi kinh tế trong nền kinh tế. Đồng thời thông tin cũng là công cụ truyền đạt các ý đồ của các chủ thể quản lý tới các đối tượng quản lý Thứ hai, sự phát triển của thông tin kinh tế gắn liền với sự phát triển của hoạt động kinh tế . Các hoạt động kinh tế càng diễn ra sôi động và mau lẹ thì sự phát triển của thông tin kinh tế càng nhanh hơn và cũng khó kiểm soát hơn. Đây chính là nguyên nhân của hiện tượng bùng nổ thông tin và gây ra các nhiễu thông tin đặc biệt với các nước đang phát triển. Thứ ba, giá trị của thông tin kinh tế gắn liền với mức sinh lợi của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp hiện đại rất cần thiết và bắt buộc phải coi thông tin kinh tế là một điều kiện, tiền đề của xây dựng chiến lược kinh doanh, chiến lược thị trường. Thứ tư, có thể dễ dàng chuyển đổi thông tin từ phương tiện này sang phương tiện khác. Điều này đặt ra vấn đề bảo vệ quyền sở hữu các thông tin cũng như bảo vệ bí mật thông tin, đồng thời có cơ chế trao đổi chuyển giao sở hữu thông tin như các loại tài sản khác. Ngoài ra, với tính thời điểm, giá trị của thông tin chỉ tồn tại trong khoảng thời gian nhất định, trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Nếu không còn tính thời sự nữa thì các thông tin cũng vô giá trị, không còn sử dụng được nữa. Vì vậy, tài sản này phải được trao đổi, được đưa vào sử dụng đúng lúc, đúng chỗ và đúng người có nhu cầu. Điều này đòi hỏi chủ sở hữu các thông tin không chỉ quan tâm đến việc thu thập, xử lý các thông tin mà cần phải tìm được khách hàng khai thác các thông tin đó một cách kịp thời, hiệu quả, cũng như cách thức truyền tin kinh tế hợp lý. Các thông tin kinh tế mà bị bưng bít, cất dấu ở các cơ sở dữ liệu quá thời hạn sẽ trở thành vô giá trị, không còn là tài sản, sức mạnh hữu hiệu của người chủ chúng nữa. b) Đặc trưng của một thông tin tốt: Thứ nhất, thông tin phải thích hợp (pertinence). Điều đó có nghĩa là thông tin phải đáp ứng được với yêu cầu của người sử dụng, thông tin phải giúp người dùng tin giải quyết được vấn đề mà họ đang đặt ra trong công việc của họ. Thứ hai, thông tin phải kịp thời (timeliness). Điều đó có nghĩa là thông tin phải được cung cấp đúng lúc mà người dùng tin cần. Ví dụ thông tin về giá cả của một mặt hàng nào đó sẽ mất hết ý nghĩa nếu nó không đến kịp thời, vì giá cả luôn thay đổi từng ngày, thậm chí từng giờ. Thứ ba, thông tin phải chính xác (accuracy). Tính chính xác là yêu cầu bắt buộc đối với mọi thông tin. Nếu các số liệu trong một bản thống kê mà không chính xác, thì mọi kết luận rút ra từ các số liệu đó có thể dẫn đến sai lầm hoặc có hại. Ngoài ra, thông tin tốt còn là thông tin chứa đựng yếu tố bất ngờ (element of surprise). Điều đó thể hiện tính mới của thông tin. 1.1.3. Chức năng của hệ thống thông tin kinh tế: a)Khái niệm hệ thống thông tin kinh tế: Hệ thống là một tập hợp các phần tử (các thành phần) có liên hệ với nhau, hoạt động để hướng tới mục đích chung theo cách tiếp nhận các yếu tố vào, sinh ra các yếu tố ra, trong một quá trình xử lý có tổ chức. Hệ thống thông tin kinh tế là hệ thống liên kết các yếu tố, các phân hệ theo một cấu trúc nhất định để thực hiện các hoạt động thu thập, xử lý và cung cấp các thông tin về các hoạt động kinh tế cần thiết cho quá trình quản lý các hoạt động của một hệ thống kinh tế. Hệ thống thông tin kinh tế là bộ phận của hệ thống kinh tế mà nó phục vụ. b) Các yếu tố của hệ thống thông tin kinh tế: Yếu tố con người: Mỗi hệ thống thông tin kinh tế trước hết là một hệ thống xã hội, được tạo bởi những cá nhân con người khác nhau để thực hiện các mục tiêu của hệ thống Trong một hệ thống thông tin kinh tế, con người có thể độc lập thực hiện một hay một số chức năng nhiệm vụ nhất định hoặc được ghép vào các nhóm, mỗi nhóm có ít nhất 2 thành viên trở lên để thực hiện nhiệm vụ chung của nhóm. Trong các hệ thống thông tin hiện đại, các nhóm được hình thành theo nhiều cách thức, tiêu chuẩn khác nhau. Các nhóm có thể tạo thành các cấp khác nhau theo tuyến dọc hoặc phân hệ theo chiều ngang. Các cá nhân trong nhóm có sự phân công trong công việc, quyền hạn và trách nhiệm nhất định. Trong nhiều trường hợp, các nhóm công tác trong hệ thống thông tin có thể bao gồm nhiều cá nhân với các chuyên ngành khác nhau để thực hiện một số mục tiêu nào đó Yếu tố con người đóng vai trò cốt lõi trong một hệ thống thông tin kinh tế. Yếu tố này là nguồn gốc để tạo ra và sử dụng các yếu tố khác trong hệ thống thông tin kinh tế Yếu tố công nghệ thông tin: Trong một hệ thống thông tin, công nghệ thông tin là phần cơ bản thực hiện các quá trình thông tin. Các thành phần cấu thành nên Công nghệ thông tin gồm có: phần kỹ thuật (đặc trưng cho trình độ), phần năng lực con người, phần thông tin của công nghệ, phần tổ chức. Còn theo giới chuyên môn thì công nghệ thông tin bao gồm có phần cứng và phần mềm Yếu tố thông tin: Nếu như yếu tố con người là cốt lõi và yếu tố công nghệ là thành phần cơ bản tạo nên hệ thống thông tin thì yếu tố thông tin lại đóng vai trò vừa là nguyên liệu vừa là sản phẩm của hệ thống thông tin. Chất lượng, tính thời sự, tính hữu dụng và số lượng thông tin là cơ sở để đánh giá quá trình hoạt động của hệ thống thông tin Tuy nhiên, yếu tố thông tin không tồn tại độc lập mà trong mối quan hệ biện chứng với các yếu tố khác của hệ thống thông tin. Yếu tố thông tin dù tốt đến đâu cũng trở thành vô nghĩa nếu như yếu tố con người và công nghệ thông tin không tương ứng với yếu tố thông tin. Ngược lại, dù nguồn lực con người và công nghệ thông tin rất tốt mà không có nguồn thông tin tốt thì cũng không thể có được một hệ thống thông tin hiệu quả được. c) Chức năng của hệ thống thông tin kinh tế: Ngoài các chức năng thông thường của hệ thống thông tin nói chung, hệ thống thông tin kinh tế còn có những chức năng riêng có của nó như: Hệ thống thông tin kinh tế có chức năng hướng dẫn hoạt động kinh tế thực tiễn. Chức năng này rất quan trọng và giữ vai trò số một bởi vì nó trực tiếp phục vụ cho các hoạt động kinh tế, phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Việc hướng dẫn thực tiễn bao gồm: giúp cho các nhà doanh nghiệp, các tổ chức hoặc nhà nước xây dựng các chương trình, kế hoạch sản xuất – kinh doanh định hướng cho những hoạt động kinh tế lâu dài hoặc điều chỉnh hoạt động hàng ngày về sản xuất – kinh doanh, xử lý nghiệp vụ. Chức năng cung cấp tư liệu khoa học cho nghiên cứu khoa học. Thông tin khoa học kinh tế là kết quả nghiên cứu khoa học kinh tế bởi vì nghiên cứu là cỗ máy sản xuất ra tư liệu, vật liệu, phương tiện cho thông tin. Nhưng đồng thời thông tin kinh tế lại tạo ra tiền đề mới, vật liệu mới để cho nghiên cứu kinh tế sáng tạo ra các nội dung mới. Chức năng góp phần hình thành tư duy kinh tế lành mạnh. Trong quá trình hoạt động kinh tế, tư duy kinh tế ngày càng được nâng lên, được phát triển từ chỗ vô thức, từ chỗ chỉ thấy được lợi ích vụn vặt dần dần trở thành tư duy có ý thức, mang tính tự giác, tính khoa học. Tư duy kinh tế được hình thành theo phương pháp khoa học, trải qua nhiều nấc thang khác nhau: tư duy triết học giúp các nhà kinh tế bao quát được thế giới lợi ích; tư duy xã hội là nấc thang giúp các nhà kinh kết hợp với lợi ích xã hội. Tư duy xã hội là một yêu cầu cần thiết đối với mọi hoạt động kinh tế. Thông tin kinh tế giúp con người từ chỗ nhận thức thế giới lợi ích và xã hội tiến tới nhận thức mối quan hệ lợi ích giữa cá thể với cộng đồng, đồng thời nó cung cấp những kiến thức cho các đối tượng tham gia vào các quá trình kinh tế, giúp họ hiểu biết được mục đích, phương pháp, đối tượng khai thác các lợi ích 1.1.4. Vai trò của hệ thống thông tin trong quá trình kinh tế và kinh doanh: Thông tin hiện nay được coi là loại tài sản quan trọng nhất đối với bất kỳ tổ chức nào . Nó là tài sản tạo nên sức mạnh của mỗi tổ chức, của mỗi quốc gia. Thông tin kinh tế nói riêng và thông tin nói chung là sản phẩm của lao động trí tuệ của con người. Nó được tạo ra, được lưu giữ và sử dụng nhằm làm tăng năng lực tạo ra của cải vật chất của con người. Vì vậy, trong nền kinh tế và đặc biệt là nền kinh tế thị trường thì thông tin giữ vai trò động lực chính của quá trình sản xuất và kinh doanh. Điều này được thể hiện qua các vai trò trong quá trình kinh tế và kinh doanh mà hệ thống thông tin đảm nhận Hệ thống thông tin kinh tế trước hết và chủ yếu phục vụ cho quá trình ra quyết định về các hành vi kinh tế của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế. Các chủ thể đó bao gồm: Nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức và các hộ gia đình. Nói một cách khác, mọi chủ thể tham gia vào nền kinh tế cho dù là người sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng, người chủ nguồn lực hay quản lý vĩ mô trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh tế đều phải sử dụng các thông tin kinh tế. Thêm vào đó, hệ thống thông tin kinh tế còn có vai trò thông báo, phê phán những mặt trái của các hoạt động kinh tế. Đồng thời nó góp phần đấu tranh để hình thành các mối quan hệ kinh tế cộng đồng, góp phần tạo ra một môi trường kinh tế lành mạnh Hệ thống thông tin kinh tế là tiền đề, là cơ sở và công cụ của quản lý kinh tế. Thông qua hệ thống này, tất cả các chủ thể kinh tế đều tìm thấy trong đó lượng thông tin thiết thực cho công việc của họ. Thông qua việc thu thập xử lý thông tin các chủ thể quản lý phải nắm được các quy tắc ứng xử, các thông lệ, các kinh nghiệm, các quy luật kinh tế, các mối quan hệ, các quá trình vận động kinh tế được tổng kết trong các lý thuyết kinh tế làm tăng năng lực, kỹ năng của người ra quyết định đồng thời giúp các chủ thể quản lý kinh tế tránh được những sai lầm, chủ quan khi ra quyết định. Thông qua hệ thống thông tin kinh tế, các chủ thể kinh tế có thể tăng sự hiểu biết và thích ứng lẫn nhau trong hoạt động kinh tế bao gồm cả sản xuất, trao đổi và tiêu dùng trong toàn bộ nền kinh tế trong nước cũng như nền kinh tế quốc tế. Ngoài ra, với xu hướng quốc tế hóa, sự phát triển hệ thống thông tin kinh tế còn giúp cho nền kinh tế mỗi nước hội nhập nhanh hơn với nền kinh tế khu vực và thế giới. Sự hạn chế về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của quan hệ sản xuất ở các nước có nền kinh tế kém phát triển trong đó có nước ta, có thể khắc phục bằng nhiều con đường khác nhau như: tiếp thu các thành tựu khoa học và công nghệ góp phần rút ngắn quá trình từ nghiên cứu đến sản xuất trong chu trình “Khoa học-Kỹ thuật-Sản xuất”, thu thập thông tin về tình hình thị trường, về khả năng cạnh tranh, về khách hàng, về môi trường tự nhiên, về chính trị, xã hội,… trong nền kinh tế quốc tế. Như vậy, hệ thống thông tin kinh tế là tài sản quý giá, là sức mạnh, là quyền lực của mỗi tổ chức, mỗi chủ thể kinh tế, mỗi quốc gia bởi nó là một tài sản đặc biệt – tài sản để tạo ra các tài sản khác. Hệ thống thông tin kinh tế nói chung và thông tin kinh tế nói riêng chính là đặc trưng cho sức mạnh, tạo nên nguồn lực phát triển cho người sở hữu và sử dụng chúng. 1.2. HOẠT ĐỘNG CUNG CẤP THÔNG TIN CHO CÁC DOANH NGHIỆP CỦA CÁC TỔ CHỨC CHUYÊN NGHIỆP: Cùng với sự phát triển của xã hội, ngày nay hoạt động thông tin và tư liệu ngày càng phát triển, đòi hỏi phải có những người hoạt động chuyên nghiệp trong lĩnh vực thông tin và tư liệu. Từ đó trong xã hội xuất hiện nghề mới, nghề thông tin hay các tổ chức tìm kiếm, xử lý, sản xuất, cung cấp thông tin chuyên nghiệp. Các tổ chức này thực hiện quá trình thông tin và cung cấp cho các chủ thể kinh tế: nhà nước, gia đình, doanh nghiệp. Qua đó, hình thành nên thị trường thông tin hoạt động ngày càng sôi động. Tuy nhiên, bản luận văn này xin phép chỉ đề cập đến đối tượng dùng tin là các doanh nghiệp bởi đây là đối tưọng chủ yếu của Bản tin Thông tin Thương mại nói riêng và Trung tâm Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại nói chung. Với đối tượng này, hoạt động cung cấp thông tin bao gồm các quá trình: 1.2.1. Nghiên cứu yêu cầu thông tin của các doanh nghiệp: Nhu cầu thông tin là một nhu cầu tất yếu của đời sống xã hội, vì vậy việc xác định nhu cầu thông tin là khâu quan trọng đầu tiên. Nhu cầu thông tin phát sinh từ các hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là từ các quá trình ra quyết định kinh doanh Trong mỗi doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ có rất nhiều loại quyết định phải được đề ra và thực hiện. Mỗi cấp, mỗi thời điểm cần phải ra những quyết định khác nhau đòi hỏi các nhu cầu thông tin khác nhau. Vì vậy, trong quá trình thông tin hay tham gia vào thị trường thông tin, các tổ chức chuyên tin cần phải xác định nhu cầu thông tin một cách cụ thể, rõ ràng để có thể cung cấp cho các doanh nghiệp những thông tin thích hợp và sử dụng có hiệu quả. Để xác định được nhu cầu thông tin, các tổ chức chuyên tin phải xác định được những yếu tố khách quan tác động đến các doanh nghiệp cũng như các yếu tố chủ quan của chính bản thân doanh nghiệp. Thêm vào đó, thực hiện việc tiếp nhận các phản hồi về hiệu quả các thông tin đã cung cấp cho các doanh nghiệp một cách thường xuyên để có sự điều chỉnh hợp lý. 1.2.2. Tổ chức hệ thống thu thập và xử lý thông tin và cung cấp thông tin: Đây là khâu thứ hai rất quan trọng trong quá trình thông tin của các tổ chức chuyên tin. Dựa trên cơ sở nhu cầu thông tin đã được xác định, các tổ chức này sẽ tổ chức hệ thống thu thập và xử lý thông tin để tạo ra các sản phẩm thông tin đúng với nhu cầu của các doanh nghiệp. Trong quá trình thu thập thông tin, cần giải quyết tốt các yếu tố sau: xác định hệ thống thước đo, các mặt của sự vật hay hiện tượng cần nghiên cứu và phương pháp thể hiện các sự vật hay hiện tượng này trên các sản phẩm thông tin; xác định phương pháp thể hiện thông tin; xác định, sử dụng các phương pháp thu thập thông tin như quan sát, thử nghiệm, phỏng vấn,… để tiếp cận, tìm hiểu các mặt của đối tượng thông tin. Bên cạnh khâu thu thập thông tin, xử lý thông tin lại là khâu biến đổi cần thiết để cung cấp thông tin thích hợp cho đối tượng sử dụng tin. Chất lượng của thông tin được cung cấp được đánh giá qua rất nhiều yếu tố: độ chính xác, tính thời sự, giá trị của thông tin mang lại và cả trình độ của đối tượng tiếp nhận thông tin nữa. Chính vì vậy, các dữ liệu thông tin thu thập được chưa phải là thông tin mà chúng phải được xử lý cho một mục đích nhất định cho phù hợp thì mới thực sự trở thành thông tin. Quá trình đó chính là quá trình xử lý thông tin gồm rất nhiều nội dung: phân loại, chọn lọc các dữ liệu; mô hình hóa để giảm bớt độ phức tạp của thông tin cho người nhận tin dễ dàng hiểu và lý giải các vấn đề; trên cơ sở các dữ liệu thu thập được phải sử dụng các kỹ thuật dự đoán để xác định xu hướng phát triển của chúng từ đó tạo ra các thông tin sẵn sàng cho người sử dụng. Vấn đề mô hình hóa và dự đoán trở nên đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực thông tin kinh tế, đòi hỏi phải có đội ngũ nhân viên chuyên tin phải có năng lực, trình độ và kiến thức nhất định. 1.2.3. Ký kết và thực hiện hợp đồng cung cấp thông tin: Sau khi xác định nhu cầu thông tin của các doanh nghiệp, thu thập đồng thời xử lý các thông tin để cho ra những sản phẩm phù hợp thực sự cần thiết và có giá trị đối với các doanh nghiệp, các tổ chức chuyên tin phải tổ chức ký kết và thực hiện các hợp đồng cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp có nhu cầu. Đây là bước quan trọng đảm bảo giá trị pháp lý cho các sản phẩm thông tin mà các tổ chức chuyên nghiệp này cung cấp. Hợp đồng cung cấp thông tin cũng phản ánh mối quan hệ ràng buộc giữa tổ chức cung cấp thông tin và doanh nghiệp sử dụng tin. Nó thể hiện rằng, các sản phẩm thông tin đã thực sự trở thành hàng hóa, trở thành đối tượng kinh doanh và đảm bảo doanh thu cũng như sự tồn tại của các tổ chức kinh doanh thông tin chuyên nghiệp. 1.2.4. Tổ chức xuất bản và cung cấp thông tin: Sau khi đã ký kết hợp đồng cung cấp thông tin, các tổ chức chuyên tin phải thực hiện hợp đồng này bằng việc cung cấp các sản phẩm thông tin cho các doanh nghiệp. Việc cung cấp này có rất nhiều dạng khác nhau, tùy thuộc vào yêu cầu sử dụng tin của doanh nghiệp có hình thức cung cấp hợp lý. Cụ thể các hình thức đó có thể là: xuất bản thành các tài liệu bằng giấy, cung cấp đĩa CD-Rom, cung cấp thông tin online qua mạng internet,… Đây cũng là khâu quan trọng bởi nó thể hiện việc thực hiện hợp đồng cung cấp thông tin đã được ký kết trước đó. Đây cũng là quá trình đưa các sản phẩm thông tin của tổ chức chuyên tin ra thị trường thông tin. Thông qua các sản phẩm được xuất bản hay cung cấp ra thị trường này, các tổ chức chuyên tin sẽ khẳng định vị trí của tổ chức trên thị trường thông tin và có thể đánh giá một cách khái quát quá trình thông tin đã thực hiện. 1.2.5. Quản lý và đánh giá hiệu quả hoạt động cung cấp thông tin: Khâu cuối cùng của quá trình thông tin đối với các tổ chức chuyên tin là khâu quản lý và đánh giá hoạt động cung cấp thông tin của mình. Khác với các sản phẩm hữu hình khác, thông tin là một sản phẩm đặc biệt mang hàm lượng chất xám rất cao. Chính vì vậy, để hoạt động cung cấp thông tin của mình được đảm bảo ngoài việc luôn chú ý tới cơ sở vật chất, trình độ và năng lực của đội ngũ lao động các tổ chức chuyên tin còn phải thường xuyên đánh giá hiệu quả của các sản phẩm tạo ra từ hoạt động của mình. Một đặc điểm vô cùng quan trọng của thông tin đó là nó có quan hệ mật thiết với sự phát triển kinh tế. Trong khi đó, một nền kinh tế thì không lúc nào đứng yên mà nó luôn biến động không ngừng. Vì vậy, hoạt động cung cấp thông tin của các tổ chức chuyên tin phải vô cùng linh hoạt. Để hoạt động cung cấp thông tin luôn luôn đạt hiệu quả cao, các tổ chức này phải tổ chức quản lý chặt chẽ và đánh giá hiệu quả hoạt động của quá trình thông tin một cách thường xuyên và liên tục. Có như vậy, các sản phẩm thông tin của tổ chức mới đảm bảo và ngày càng gia tăng gía trị các sản phẩm này trên thị trường thông tin đang rất sôi động. 1.3. TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG THÔNG TIN HIỆN NAY: 1.3.1. Bối cảnh kinh tế thế giới và vị thế mới của Việt nam: 1.3.1.1. Bối cảnh kinh tế thế giới: Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ thông tin trong những năm gần đây đã mang lại những tác động to lớn và những biến đổi sâu sắc trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội ở khắp các nước trên thế giới. Chúng ta đang sống trong một thời đại mà nền kinh tế thế giới chuyển biến từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên hạn hẹp của thiên nhiên sang nền kinh tế của thông tin và trí tuệ. Trước kia, sản xuất được phân bổ dựa trên lợi thế so sánh tự nhiên với hai yếu tố là các nguồn nguyên liệu và các yếu tố sản xuất như vốn và lao động. Ngày nay, các ngành tăng trưởng mạnh nhất đều dựa vào sức mạnh của trí tuệ. Đó là các ngành vi điện tử, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, vô tuyến viễn thông, máy tính điện tử (phần cứng, phần mềm), máy công cụ và robot, chế tạo máy bay dân dụng,… Các tài nguyên thiên nhiên bị gạt ra ngoài chương trình cạnh tranh. Trong thời đại ngày nay, chỉ duy nhất có tri thức và kỹ năng là các nguồn lực tạo ra lợi thế so sánh bền vững. Điều đó đã nâng cao vị thế của thông tin trong các nguồn lực phát triển. Ở mọi ngành sản xuất, các hoạt động sản xuất có lợi nhuận cao nhất trong mỗi ngành là các hoạt động sản xuất có hàm lượng tri thức cao. Các hoạt động này đã tạo ra các sản phẩm chính xác, chất lượng cao, phục vụ cho các mục đích chuyên môn hóa cụ thể và có giá trị gia tăng. Các cơ sở kinh doanh cố gắng làm cho hàng hóa của mình “thông minh” hơn để kiếm lợi nhuận. Việc tìm tòi phát minh ra sản phẩm mới, đem lại lợi nhuận cao trở nên quan trọng. Xu thế sản xuất mới chuyển từ khối lượng lớn sang giá trị cao ra đời và ngày càng phát triển. Ngày nay, tri thức là nguồn duy nhất tạo ra lợi thế so sánh dài hạn, nhưng tri thức chỉ có thể áp dụng thông qua kỹ năng cá nhân. Tuy nhiên, nhiều kỹ năng mới chưa được đưa vào dạy trong nhà trường, mà chúng chỉ có thể được học tập trong môi trường sản xuất. Trước sự thay đổi chóng mặt của công nghệ, người lao động phải liên tục phải học tập, trao đổi thông tin, tri thức và kỹ năng. Để sử dụng các sản phẩm thông minh, khách hàng cũng phải có một tiến trình học tập. Để tồn tại và phát triển các công ty phải xây dựng cách làm mới để thúc đẩy việc phổ biến thông tin, kỹ năng và tri thức cho người lao động và khách hàng. Doanh nghiệp trở thành một tổ chức học tập là một thay đổi lớn về tư duy trong kinh doanh. Một đặc điểm lớn của nền kinh tế thế giới hiện nay là xu thế toàn cầu hóa. Theo Coitrep (Tạp chí Xã hội và Kinh tế Nga) toàn cầu hóa là giai đoạn mở rộng về chất của xu hướng tăng cường sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước. Toàn cầu hóa bao quát toàn bộ đời sống xã hội, trong đó mắt xích trung tâm là toàn cầu hóa về kinh tế, tiếp theo là văn hóa. Toàn c._.ầu hóa về kinh tế thể hiện ở sự phân công lao động và phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, trong đó vai trò của các công ty đa quốc gia, các mạng thông tin liên lạc toàn cầu, các tổ chức kinh tế quốc tế ngày càng tăng; tự do thương mại, đầu tư tài chính ngày càng mở rộng; tính độc lập kinh tế của mỗi quốc gia chỉ còn là tương đối. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự giao lưu văn hóa giữa các nước là điều tất yếu, là điều kiện để tồn tại và phát triển. Mỗi quốc gia phải biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại. Trong bối cảnh của nền kinh tế thế giới, vai trò của thông tin, nhất là thông tin khoa học công nghệ và thông tin kinh tế ngày càng nâng cao. Ở nhiều nước thông tin thực sự trở thành hàng hóa và một thị trường thông tin, một nền kinh tế thông tin ra đời là một điều tất yếu. 1.3.1.2. Vị thế mới của Việt nam: a) Thông tin đối với các nước đang phát triển: Một thực tế hiện nay là sự sản sinh ra thông tin và tình hình phát triển khoa học phân phối không đều trên thế giới. Các nước đang phát triển chỉ sản sinh ra chưa đầy 1% thông tin khoa học của thế giới. Trong khi đó phần lớn thông tin tập trung ở các nước công nghiệp phát triển. Ở đây họ giành một phần quan trọng trong thu nhập quốc dân cho hoạt động nghiên cứu, giáo dục và thông tin. Các nước này có một hệ thống cơ sở thông tin hùng mạnh, có các chuyên gia và cán bộ thông tin được đào tạo, các kênh chuyển giao thông tin với nguồn tin phong phú và số lượng người dùng tin đông đảo, có chính sách thông tin quốc gia nhất quán. Trong khi đó ở các nước đang phát triển tình hình hoàn toàn khác. Các phương tiện giành cho việc sản sinh ra thông tin và mạng lưới thông tin còn rất thiếu thốn. Hầu hết các nước này chỉ có cơ sở hạ tầng về thông tin yếu kém, thiếu trang thiết bị hiện đại gây nên sự chậm trễ trong việc chuyển giao và tiếp cận thông tin. Vấn đề đặt ra với những nước này là phải nhanh chóng thu hẹp những lỗ hổng về thông tin sẵn có ở các nước công nghiệp phát triển. Điều này đặt ra hai điều kiện với các nước đang phát triển: Thứ nhất, các nước này phải nhanh chóng đào tạo cán bộ thông tin xây dựng hệ thống thông tin quốc gia. Thứ hai, phải có sự tham gia của các nước công nghiệp phát triển vào hệ thống chuyển giao thông tin cho các nước đang phát triển. b) Vị thế mới của Việt nam: Công cuộc đổi mới kinh tế trong những năm qua ở nước ta đã đem lại những thay đổi to lớn trong hệ thống kinh tế cũng như cơ chế vận hành nền kinh tế nước ta. Hệ thống thông tin kinh tế trong những năm gần đây đã có những bước phát triển vượt bậc, kể từ phương tiện thông tin đại chúng cho đến các tổ chức cung cấp thông tin chuyên ngành. Bước đầu đã cải thiện một cách đáng kể chất lượng hệ thống cung cấp thông tin. Về cơ bản, hệ thống thông tin kinh tế ở dạng phản ánh thực trạng đã đến được với đa số quần chúng nhân dân, một số thông tin kinh tế chuyên ngành đã đảm bảo được tính trung thực, kịp thời và có xử lý ở mức độ nhất định. Thêm vào đó, năm 2006 đi qua đánh dấu một sự kiện quan trọng khẳng định Việt nam đã thực sự tham gia vào sân chơi kinh tế chung của thế giới. Đó là sự kiện Việt nam ra nhập vào tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Sự kiện trọng đại này giúp Việt nam có thể giao lưu tự do thương mại với các nước là thành viên của WTO. Nhờ vậy, chúng ta có thể nhanh chóng đáp ứng nhu cầu thứ hai để phát triển thông tin đối với các nước đang phát triển: giao lưu thông tin với các nước đang phát triển nhằm thực hiện nhanh chóng việc chuyển giao thông tin từ các nước phát triển. Có phát triển hệ thống thông tin kinh tế chúng ta mới có thể nhanh chóng xây dựng nền kinh tế tri thức, nhờ vậy mà thu hẹp những lỗ hổng với các nước phát triển về tất cả mọi mặt. Không chỉ tham gia vào WTO, Việt nam ngày càng tỏ ra cố gắng giữ mối quan hệ tốt với các nước trong khu vực Đông Nam Á, châu Á,…bằng việc tham gia các tổ chức như: Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế Á-Âu (ASEM), Hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC), khu vực tự do mậu dịch Đông Nam Á (AFTA)… Chính vì vậy, cơ hội chuyển giao thông tin đối với Việt nam ngày càng rộng mở. Và thực tế cho thấy rằng hệ thống thông tin kinh tế của Việt nam đang ngày càng hoàn thiện, mở rộng và hiệu quả hơn. 1.3.2. Thị trường thông tin: a) Sự ra đời của thị trường thông tin: Trên thế giới, Thập kỷ 1980 – 1990 của thế kỷ XX có thể coi là thập niên của thông tin mà sự kiện đáng chú ý là một “thị trường thông tin” hay một nền “công nghiệp thông tin” bắt đầu được hình thành. Hàng loạt các ngân hàng dữ liệu lưu trữ thông tin với khối lượng lớn và chất lượng cao ra đời. Nhiều tổ chức môi giới và dịch vụ thông tin được hình thành, thỏa mãn nhu cầu đa dạng của người dùng tin. Những số liệu về thị trường thông tin (số ngân hàng dữ liệu, số cơ quan sản xuất thông tin, số cơ quan dịch vụ thông tin,…) trở thành chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước. Những cường quốc thông tin cũng đồng thời trở thành các cường quốc kinh tế. Có đến 80% bằng phát minh của thế giới được công bố trong 12 nước phát triển. Đối với Việt nam, sự phát triển nền kinh tế thị trường, sự mở cửa và từng bước hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới làm cho hoạt động thông tin kinh tế phục vụ cho quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp và quản lý kinh tế của chính phủ trở nên cực kỳ phức tạp và tốn kém. Nó đòi hỏi phải phát triển các tổ chức chuyên tin. Trước đây, chúng ta đã có hệ thống thông tin thống kê phục vụ cho nhu cầu thông tin của Chính phủ cũng như của các đơn vị kinh tế. Nhu cầu thông tin kinh tế hiện nay đã vượt ra ngoài khả năng đáp ứng của hệ thống thông tin thống kê. Hơn nữa, cơ cấu tổ chức tương đối của hệ thống này không thể thực hiện được toàn bộ chức năng thông tin về một nền kinh tế phức tạp, năng động và có nhiều mối liên hệ với bên ngoài như hiện nay. Xuất phát từ những đặc điểm tình hình trên, đã có nhiều tổ chức chuyên tin xuất hiện và hoạt động bắt đầu từ cuối thập niên 80 và phát triển mạnh bắt đầu từ cuối thập niên 90 của thế kỷ 20 Khác với hệ thống thông tin của các doanh nghiệp và của Chính phủ, đáp ứng nhu cầu thông tin của chính hệ thống kinh tế mà nó phục vụ, hệ thống thông tin của các tổ chức chuyên tin này đáp ứng các nhu cầu thông tin của xã hội dưới hình thức mua bán các sản phẩm thông tin hay các dịch vụ liên quan đến cơ chế thị trường. Từ đó, hình thành bộ phận thị trường thông tin trong hệ thống thị trường nước ta. Sự hình thành và phát triển hệ thống thị trường thông tin đã tạo ra các mối quan hệ thông tin mới trong nền kinh tế. Đó là các quan hệ thị trường về thông tin (sở hữu, cung - cầu, giá cả, cạnh tranh,..). b) Các thành viên của thị trường thông tin: Thị trường thông tin bao gồm nhiều thành viên, mỗi thành viên đảm nhiệm một chức năng xác định. Các thành viên này có thể phân chia theo bốn lĩnh vực sau: - Người sản xuất ra thông tin: thu thập thông tin trong các lĩnh vực từ các nguồn tin, xử lý, biên tập tạo ra các sản phẩm thông tin, sản xuất ra các cơ sở dữ liệu.. Đó là các cơ quan thông tin tư liệu quốc gia, các tổ chức xã hội, kinh tế và nghề nghiệp, các hội khoa học, các công ty, xí nghiệp lớn. - Người làm dịch vụ phân phối thông tin: tích nhập các cơ sở dữ liệu của người sản xuất trên máy tính điện tử và cung cấp cho người dùng tin các thông tin này nhờ một phần mềm chuyên dụng. - Mạng lưới chuyển giao thông tin: có nhiệm vụ chuyển thông tin đến người sử dụng nhờ một mạng lưới viễn thông. Các mạng lưới này có thể là: mạng lưới điện thoại công cộng, mạng thuê bao, mạng truyền dữ liệu, mạng internet,… - Người dùng tin: có thể là người dùng tin cuối cùng hay qua khâu trung gian (người làm môi giới trung gian hay các cán bộ thông tin tư liệu). Có thể khái quát quá trình dịch chuyển của thông tin trong thị trường thông tin như sau: Nguồn tin Người sản xuất thông tin Người làm dịch vụ thông tin Mạng lưới thông tin Người dùng tin (Khách hàng) Người đào tạo thúc đẩy sử dụng thông tin, người dùng tin trung gian. Sơ đồ 2: Hệ thống thông tin trực tuyến của thị trường thông tin 1.3.3. Nền kinh tế thông tin và hiện tượng bùng nổ thông tin: 1.3.3.1. Kinh tế thông tin: Các hoạt động của thị trường thông tin trong thập niên 80 - 90 đã kích thích làm nảy sinh những nhu cầu thông tin mới, đòi hỏi phải tạo ra các sản phẩm và dịch vụ thông tin có chất lượng cao hơn. Đó là con đường tự nhiên dẫn đến sự hình thành một khu vực thông tin trong nền kinh tế. a) Các thành viên của nền kinh tế thông tin bao gồm chủ yếu các ngành hoạt động sau đây: - Các hoạt động sản xuất ra thông tin: các hoạt động quản lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp, nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo trong văn hóa và nghệ thuật, hoạt động tư vấn,… Đặc điểm của các loại sản phẩm của các hoạt động này là giá trị của thông tin tạo ra không hề suy giảm khi nó được đem ra sử dụng, trái lại nó có thể gia tăng do được bổ sung thêm các thông tin mới. Chi phí cho việc sản xuất ra thông tin rất cao, nhưng giá trị sao chép lại rất thấp - Các hoạt động dịch vụ thông tin bao gồm: giáo dục và đào tạo, bưu điện, điện thoại, truyền tin, phát thanh truyền hình, xuất bản, quảng cáo, tiếp thị, dịch vụ thông tin từ các trung tâm thông tin tư liệu, các cơ quan công cộng, các tổ chức văn hóa, trên các mạng máy tính,… - Công nghiệp công nghệ thông tin và viễn thông: sản xuất ra các sản phẩm như máy vi tính, các thiết bị tin học và viễn thông, phần mềm máy tính, các dịch vụ lắp đặt và tích hợp hệ thống,… b) Đặc trưng của nền kinh tế thông tin: - Nội dung thông tin bao trùm khắp các hoạt động sản xuất và kinh doanh. - Nội dung thông tin chiếm tỷ trọng lớn trong sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. - Khu vực thông tin đóng góp một tỷ trọng lớn (40% hoặc hơn) phần giá trị gia tăng trong thu nhập quốc dân của một nền kinh tế phát triển. c) Trong nền kinh tế thông tin, công nghệ thông tin và truyền thông có vai trò động lực, thể hiện trên các mặt sau: - Cuộc cách mạng công nghệ thông tin và truyền thông là nguyên nhân quan trọng của việc hình thành và phát triển kinh tế thông tin. - Công nghệ thông tin và truyền thông phát huy vai trò của thông tin và tri thức là nguồn gốc và động lực phát triển kinh tế - Công nghệ thông tin và truyền thông là nên tảng của hội nhập và toàn cầu hóa. - Bản thân công nghiệp và công nghệ thông tin và truyền thông là bộ phận chủ đạo và năng động nhất trong nền kinh tế thông tin Vì vậy, xây dựng và phát triển hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông phải là ưu tiên quan trọng của mỗi quốc gia để phát triển kinh tế thông tin. 1.3.3.2. Bùng nổ thông tin: “Bùng nổ thông tin” là thuật ngữ đặc trưng cho sự gia tăng mạnh mẽ các sản phẩm thông tin tư liệu trên thế giới trong mấy chục năm gần đây. Khái niệm này được đưa ra chính thức vào năm 1986 bởi Derek de la Solla Price, với ý nghĩa là sự phát triển bùng nổ của các tạp chí khoa học. Hiện tượng này gây ra chủ yếu bởi sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật hiện đại và sự đổi mới công nghệ. Sự phát triển nhanh của khoa học kỹ thuật và công nghệ thể hiện ở chỗ ngày nay những thành tựu của khoa học và công nghệ ngày càng nhanh chóng đi vào đời sống. Khoảng thời gian từ lúc xuất hiện các ý tưởng khoa học, phát minh ra một công nghệ mới đến khi áp dụng rộng rãi vào sản xuất ngày càng được rút ngắn. Lực lượng những người làm khoa học cũng gia tăng nhanh chóng. Số lượng các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nguồn chủ yếu của tri thức và thông tin khoa học không ngừng tăng nhanh. Ngoài ra, cộng đồng khoa học còn được bổ xung thêm nhiều loại người dùng tin: các nhà quản lý, các giám đốc xí nghiệp, các nhà công nghệ, luật gia, các cán bộ chính trị, các nhà giáo dục,… Họ không chỉ là những người dùng tin mà còn là những người sản sinh ra những thông tin mới. Tất cả những ai, bằng cách này hay cách khác, tham gia vào nền “công nghiệp sản xuất tri thức”, tức là sản xuất, phổ biến và tiêu thụ thông tin, đều thuộc vào những nhóm người dùng tin trên đây. Về nguyên tắc, người ta có thể nói rằng “mọi sự chuyển giao tri thức tương đương với sự chuyển giao thông tin và ngược lại” và nền công nghiệp sản xuất tri thức khoa học, mà cơ sở của nó là truyền tri thức thông tin, tiếp tục tăng nhanh trong một thế giới xây dựng trên cơ sở của tiến bộ khoa học và công nghệ. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG CUNG CẤP THÔNG TIN CHO CÁC DOANH NGHIỆP CỦA TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯƠNG MẠI -BỘ THƯƠNG MẠI 2.1. KHÁI QUÁT VỀ TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯƠNG MẠI - BỘ THƯƠNG MẠI: 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Trung tâm: Trung tâm Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại có tên giao dịch bằng tiếng Anh là Vietnam Trade Information Center (VTIC) ra đời vào năm 1989. Trung tâm là tổ chức trực thuộc Bộ Thương Mại, được thành lập theo quyết định số 764/KTĐN – TCCB ngày 20/11/1989 của Bộ Kinh tế đối ngoại và Quyết định số 473-TMDL/TCCB ngày 30/5/1992 của Bộ Thương Mại và Du lịch (nay là Bộ Thương Mại) trên cơ sở hợp nhất Trung Tâm thông tin Khoa học kỹ thuật Vật tư và phòng Thông tin Khoa học kỹ thuật Thương nghiệp, tạo ra những bộ phận nòng cốt ban đầu của Trung tâm Thông tin Thương mai - Bộ Thương mại. Hoàn cảnh ra đời có vẻ rất bình thường đó của trung tâm lại nằm trong một thời điểm rất đặc biệt. Đó là năm 1989, khi mà tư tưởng “đổi mới” của Đại hội Đảng VI khi đó đang tác động đến mọi mặt đời sống kinh tế xã hội, nhất là trong lĩnh vực Thương Mại và Du lịch. Hơn thế nữa tư duy của những người làm báo, làm thông tin phục vụ kinh tế thị trường đang có sự chuyển đổi. Sự chuyển đổi đó ban đầu chưa rõ nét nhưng khao khát đổi mới lại cháy bỏng trong khi môi trường tâm lý và pháp lý cho hoạt động báo chí, thông tin mới đang dần hình thành. Hoàn cảnh đặc biệt đó tạo ra thuận lợi nhưng cũng tạo ra đầy dãy những khó khăn và thách thức trong quá trình phát triển và trưởng thành của trung tâm. Hình thành trong những năm đầu đất nước đổi mới và trưởng thành khi nền kinh tế đất nước làm quen với cơ chế thị trường, Trung tâm đã phải nỗ lực rất nhiều, luôn đổi mới và thử nghiệm nhiều sáng kiến mới có thể đứng vững được trên thị trường cho đến ngày hôm nay. Trong suốt khoảng thời gian đó, thành công đến không ít nhưng thất bại cũng nhiều. Và chính nhờ những thành công và thất bại đó mà Trung tâm Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại mới khẳng định được vị trí của mình và ngày càng phát triển. Tính đến nay, Trung tâm đã bước sang tuổi thứ mười tám với sự trưởng thành về nhiều mặt: Ban đầu, các ấn phẩm của Trung tâm hoặc là xuất phát từ một sản phẩm thông tin bao cấp cho các doanh nghiệp hoặc là ấn phẩm đặc biệt dùng riêng cho lãnh đạo…để lột xác thành một sản phẩm hàng hóa trong lĩnh vực thông tin (Bản tin Ngoại thương, Thương nghiệp Thị trường, Thị trường Giá cả Vật tư, Bản tin A…). Một số bản tin ban đầu còn được làm theo mô hình của các tạp chí, bản tin nước ngoài sau đó điều chỉnh dần cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện Việt Nam như: Bản tin Thị trường, Bản tin VE và VB bằng tiếng Anh; BTD Report bằng tiếng Nhật… Quá trình phát triển của các bản tin luôn chứa đựng cái cũ và cái mới, cái bản địa và cái ngoại lai đan xen nhau để rồi dần dần định hình và có được những bước đi hướng về doanh nghiệp, hướng về phục vụ yêu cầu quản lý Nhà nước về thương mại.. Đây cũng là quá trình loại bỏ dần cách làm ăn tùy hứng, chụp dựt để trở về với sự bài bản trong khuôn khổ hợp tác, cùng chia sẻ và tuân thủ luật pháp. Mặc dù với nguồn nhân lực ít ỏi ban đầu nhưng công nghệ thông tin cũng đã được chú ý ứng dụng ngay từ buổi đầu thành lập. Công nghệ thông tin được sử dụng để phục vụ cho chế bản các bản tin; in ấn cùng một lúc ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, khai thác tin qua chảo bắt song vệ tinh, mua tin của Reuteur, khai thác Internet và xây dựng mạng diện rộng Vinanet ngay từ năm 1992. Hoạt động của Vinanet từ chỗ mò mẫm, phụ thuộc vào chuyên gia nước ngoài hoặc bên ngoài, nguồn tin từ chỗ chủ yếu chép lại ở các báo chí…nay về cơ bản đã chủ động được Kỹ thuật và công nghệ, nguồn tin phong phú, được các doanh nghiệp đón nhận. Gần đây, Nhà nước lại tin tưởng giao cho Trung tâm quản lý và vận hành trang chủ quốc gia trên mạng ASEMCONNECT và mạng WTO. Các bộ phận dịch vụ từ chỗ sinh ra chỉ để giải quyết nhu cầu nội bộ như in ấn, phát hành các ấn phẩm của Trung tâm nay đã phát triển thành Xí nghiệp In, phòng Xuất bản, bộ phận phát hành…đủ sức phục vụ nhu cầu của xã hội, doanh thu ngày càng tăng. Quan hệ cộng tác từ chỗ chỉ khai thác mối quan hệ sẵn có để triển khai công việc, nay đã tạo lập được một hệ thống cung cấp và nhận tin trong phạm vi toàn quốc. Mạng lưới chi nhánh tại Tp.HCM, Tp Đà Nẵng, Cần Thơ; các Văn phòng Đại diện ở Móng Cái, các cộng tác viên ở các cửa khẩu cũng như các Cục, Vụ, Viện trong và ngoài Bộ đang tạo thành một guồng máy tốt phục vụ công tác cung cấp thông tin. Đặc biệt từ năm 2003, Trung tâm đã nối mạng với hầu hết các tỉnh, thành trong cả nước và đăng tải nhiều Website cho các đia phương trên mạng ASEMCONNECT. Cơ chế quản lý từ chỗ cứng nhắc theo lối hành chính bao cấp dần chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, tuân thủ nguyên tắc lấy thu bù chi, tự hạch toán…Đây là sự chuyển mình quyết định, mang tính sống còn. Chính vì vậy bên cạnh sự bùng phát còn có nhiều bỡ ngỡ, vụng dại trong thủa ban đầu, dần được điều chỉnh để vượt lên chính mình, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thông tin. Nhờ vậy, đến nay thông tin đã là hàng hóa, các Doanh nghiệp là bạn hàng, là “thượng đế” của người làm tin. Đội ngũ cán bộ của Trung tâm từ chỗ chưa đầy 20 người đã được phát triển cả về lượng và về chất. Nhiều cán bộ có kinh nghiệm từ các Thương vụ, các Cục, Vụ, Viện, doanh nghiệp thuộc Bộ được điều chuyển về Trung tâm và nay đã trở thành cán bộ chủ chốt. Nhiều con em trong ngành Thương mại lựa chọn Trung tâm như là cánh cửa đầu tiên bước vào đời và nhiều người đã trưởng thành từ đây. Hôm nay, sau 17 năm nhìn lại, hơn 400 cán bộ công nhân viên của Trung tâm Thông tin Thương mại Việt Nam đang cố gắng hoàn thiện mình để hoàn thành nhiệm vụ của Bộ Thương mại giao cho, xứng đáng là một trong 13 đầu mối cung cấp tin trực tiếp cho Văn phòng Trung ương Đảng, vận hành tốt trang chủ quốc gia của Việt Nam trên mạng ASEMCONNECT và WTO, đặc biệt đang cố gắng xứng đáng là người bạn đường không thể thiếu được của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Bước sang tuổi 18, Trung tâm đã có được sức lực, hình hài cường tráng của tuổi trưởng thành, kinh nghiệm của người đã từng trải qua nhiều thành công và thất bại, thế nhưng ước mơ vẫn luôn cháy bỏng ở cáí tuổi đầy ý nghĩa này. Kỷ nguyên mới đã mở ra với đất nước ta, nền thương mại của nước nhà đã ra nhập vào sân chơi chung của thế giới, trào lưu thương mại điện tử đã và đang khơi dậy trong các mối quan hệ kinh tế…đòi hỏi Trung tâm Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại ngày càng phải tiếp tục tự hoàn thiện mình, bắt nhịp cùng thời đại. 2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Trung tâm: a) Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Trung tâm: Trung tâm có chức năng chính như sau: Cung cấp thông tin thuộc lĩnh vực kinh tế thương mại nhằm phục vụ lãnh đạo Bộ Thương Mại, các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại, các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có nhu cầu dùng tin nhằm phục vụ xúc tiến phát triển thương mại và đầu tư. In ấn và xuất bản, phát hành các tạp chí, bản tin, sách luận văn, đĩa CD… bằng tiếng Việt nam và tiếng nước ngoài, theo các giấy phép xuất bản được cấp. Cung cấp thông tin bằng tiếng Việt nam và tiếng nước ngoài qua Mạng máy tính của Trung tâm và qua mạng Internet khi được phép của các cơ quan quản lý Nhà nước Tư vấn thương mại và đầu tư… Để thực hiện chức năng trên, VTIC có nhiệm vụ và quyền hạn như sau : Thu thập, xử lý các nguồn Thông tin về Kinh tế, Thương mại trong nước và Quốc tế, tư liệu về quan hệ Kinh tế Quốc tế, Thị trường, Giá cả hàng hóa cũng như mọi vấn đề liên quan đến phát triển Thương mại, Đầu tư và hợp tác Kinh tế Quốc tế. Cung cấp Thông tin cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước trên cơ sở ký kết hợp đồng cung ứng dịch vụ hoặc hợp đồng Hợp tác trao đổi Thông tin trong lĩnh vực nói trên với các tổ chức trong và ngoài nước theo đúng quy chế hiện hành của Nhà nước cũng như Luật pháp Quốc tế. Tư vấn, giúp đỡ các tổ chức Kinh tế và cá nhân của Việt nam và của người nước ngoài trong việc lựa chọn và khai thác các nguồn thông tin phục vụ công tác nghiên cứu, sản xuất, hợp tác kinh doanh cũng như hợp tác đầu tư. Tổ chức, tham gia các hội nghị, hội thảo, hội chợ nhằm sử dụng thông tin phục vụ xúc tiến thương mại, đầu tư, tổ chức các đoàn ra của các doanh nghiệp trong nước và thu xếp đưa, đón, bố trí chương trình làm việc, tiếp xúc cho các đoàn của các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt nam khảo sát, tiếp xúc với các đối tác của Việt nam để tìm kiếm cơ hội hợp tác kinh doanh và hợp tác đầu tư, tiến hành các dịch vụ Tư vấn xúc tiến thương mại. In ấn, xuất bản và phát hành các ấn phẩm theo chức năng được giao theo đúng Luật xuất bản, Luật báo chí cũng như mọi quy chế khác liên quan đến việc xuất bản, in ấn và phát hành báo chí, ấn phẩm mà Nhà nước đã quy định Trung tâm được thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học và tổ chức các khóa đào tạo về thông tin Thương mại. Trung tâm xây dựng và ban hành các quy chế, quy định cụ thể phù hợp với đặc điểm hoạt động của Trung tâm và theo quy định hiện hành của Nhà nước và Bộ Thương mại. b) Tổ chức bộ máy của Trung tâm: Trung tâm do một Giám đốc lãnh đạo và các Phó Giám đốc giúp việc và chịu trách nhiệm từng lĩnh vực công tác được Giám đốc Trung tâm phân công. Hiện nay, công việc được phân chia cho 3 Phó Giám đốc gồm: Phó giám đốc thứ nhất phụ trách bản tin Doanh nghiệp thương mại, bản tin Thị trường, bản tin Thương nghiệp thị trường, bản tin Thị trường – Giá cả - Vật tư, bản tin Ngoại thương, văn phòng phát triển thương mại, xí nghiệp in và phòng xuất bản. Phó giám đốc thứ hai chịu trách nhiệm Bản tin Thông tin thương mại, các chi nhánh và văn phòng đại diện của Trung tâm. Phó giám đốc thứ ba chịu trách nhiệm hai trang mạng và sàn Thương mại điện tử Các thời kỳ lãnh đạo trước đây của VTIC gồm có: Giám đốc: Lê Tiến (từ 11/1989 đến 12/1997) TS Phạm Ngọc Thúy (từ 1/1998 đến 8/1998) Phó Giám Đốc: Võ Quý Văn (từ 4/1995 đến 12/1998) Trần Vệ (từ 10/1998 đến 11/1999) Hiện nay, các chức vụ này do các đồng chí sau phụ trách: Giám đốc: PGS.TS Phạm Tất Thắng (từ tháng 9/1998 đến nay) Phó Giám đốc: Phạm Việt Tường (từ tháng 1/1999 đến nay) Phó Giám đốc: TS Phạm Ngọc Thúy (từ tháng 7/1993 đến nay) Phó Giám đốc: Đỗ Văn Chiến (từ tháng 6/2003 đến nay) GĐ PGS.TS PHẠM TẤT THẮNG (từ 09/1998 đến nay) PGĐ Phạm Việt Tường (từ 1/1999 đến nay) PGĐ. TS Phạm Ngọc Thúy (từ 7/1993 đến nay) PGĐ Đỗ Văn Chiến (từ 6/2003 đến nay) LÃNH ĐẠO VTIC HIỆN NAY Cơ cấu tổ chức bộ máy của Trung tâm bao gồm: Các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực báo chí (các Tạp chí, các bản tin thông tin chuyên ngành xuất bản bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài) theo các giấy phép xuất bản do cơ quan quản lý Nhà nước về thông tin cấp. Trung tâm hiện có 6 bản tin trực thuộc là: Thông tin thương mại, Ngoại thương, Thị trường, Thị trường - Vật tư – Giá cả, Doanh nghiệp thương mại và Thương nghiệp thị trường. Trong đó, bản tin Thông tin thương mại gồm có 10 bản tin chuyên ngành; bản tin Ngoại thương phát hành thêm bản tin Quản lý thị trường; bản tin Thị trường – Giá cả - Vật tư phụ trách phụ trách thêm việc xuất bản phụ san Văn bản pháp quy. Các đơn vị hoạt động trong toàn bộ hệ thống Mạng máy tính thương mại. Hệ thống mạng máy tính gồm có các đơn vị: mạng Vinanet, mạng Asem, phòng thông tin kinh tế thương mại, phòng khách hàng và phòng thương mại điện tử. Các cơ sở dịch vụ tư vấn, xưởng in sự nghiệp, xuất bản, phát hành. Trong đó có: Xí nghiệp in, phòng xuất bản, phòng đối ngoại và khai thác dự án, văn phòng phát triển thương mại (BTD) Các đơn vị quản lý tài chính, nhân sự, hành chính. Các chi nhánh tại các địa phương trong cả nước. Hiện nay Trung tâm có các chi nhánh tại Đà Nẵng và Tp Hồ Chí Minh và một văn phòng liên lạc ở Móng Cái. Với cơ cấu tổ chức bộ máy như vậy ta có thể khái quát sơ đồ tổ chức của Trung tâm Thông tin Thương mại thuộc Bộ Thương mại như sau: SƠ ĐỒ 3: BỘ MÁY TỔ CHỨC CỦA TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯƠNG MẠI – BỘ THUƠNG MẠI GIÁM ĐỐC PHÓ GĐ PHÓ GĐ PHÓ GĐ Phòng Đối Ngoại Phòng Kế Toán Phòng Tổ chức hành chính Ban Quản lý Dự án Bản tin Doanh nghiệp Thương mại Bản tin Ngoại Thương Bản tin Thị trường Bản tin Thương nghiệp Thị trường Bản tin Thị trường – Giá cả - Vật tư Giá cả Vật tư Phòng Xuất Bản Xí nghiệp In Văn phòng Phát triển Thương mại Bản tin Thông tin Thương mại Văn phòng liên lạc Móng Cái Chi nhánh Tp. HCM Chi nhánh Đà Nẵng Sàn TMĐT Asemconnect Vinanet 2.1.3. Các lĩnh vực hoạt động của Trung tâm : Lĩnh vực hoạt động của Trung tâm Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại rất đa dạng: các bản tin, các mạng thông tin, các hoạt động dịch vụ. Trong đó, các bản tin phục vụ cho các doanh nghiệp là hoạt động chính của trung tâm, là phương hướng phát triển trọng tâm trong quá trình kinh doanh. Lĩnh vực bản tin là lĩnh vực hoạt động chính của Trung tâm bao gồm có: - Bản tin Thông tin Thương mại (gồm có 10 bản tin chuyên ngành xuất bản hàng tuần và một bản tin tổng hợp hàng tháng) - Bản tin Ngoại thương - Bản tin Thị trường - Bản tin Thị trường – Giá cả - Vật tư - Bản tin Doanh nghiệp Thương mại - Bản tin Thương nghiệp Thị trường Bên cạnh lĩnh vực bản tin, trung tâm còn hoạt động ở một số mạng thông tin: - Mạng Vinanet của Trung tâm: - Mạng ASEMCONNECT là trang chủ quốc gia của Việt nam trên mạng ASEM và mạng của WTO: www.asemconnectvietnam..gov.vn và www.wto.org Ngoài ra, trung tâm còn một số lĩnh vực hoạt động khác như: - Tham gia sàn Thương mại điện tử Hà nội - Văn phòng phát triển thương mại (BTD) - Phòng xuất bản - Xí nghiệp in 2.1.4. Đặc điểm các nguồn lực của Trung tâm: Nói đến một hệ thống thông tin kinh tế là nhắc đến các yếu tố nguồn lực của hệ thống đó. Đó chính là yếu tố nguồn lực con người, yếu tố công nghệ thông tin hay cơ sở vật chất và yếu tố thông tin. Mỗi một tổ chức hoạt động trong lĩnh vực thông tin đều có những đặc điểm riêng phụ thuộc vào các nguồn lực này. Và Trung tâm Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại cũng vậy. Những đặc điểm riêng này cũng góp phần tạo nên những thành công trong quá trình hoạt động của trung tâm a) Nguồn nhân lực Khi mới thành lập, nguồn nhân lực của trung tâm chỉ vỏn vẹn chưa đến 20 người, nhưng con số ấy nhanh chóng phát triển cả về lượng và về chất. Sự gia tăng ấy chính là nhằm đáp ứng cho nhiệm vụ ngày càng nặng nề mà trung tâm được giao phó. Đến nay, tổng số nhân viên của Trung tâm đã lên tới 403 người đáp ứng được nhiệm vụ và các hoạt động của Trung tâm. Về số lượng nhân viên So với thời điểm khi bắt đầu thành lập trung tâm và trải qua quá trình phát triển, lĩnh vực hoạt động của trung tâm đã đa dạng hơn rất nhiều. Mặt khác, hiện tượng bùng nổ thông tin làm thị trường thông tin ngày càng cạnh tranh gay gắt hơn. Chính vì vậy, để đáp ứng nhu cầu của các lĩnh vực hoạt động và gia tăng năng lực cạnh tranh, trung tâm rất chú trọng đến việc tuyển chọn nhân viên nhằm gia tăng đội ngũ lao động phục vụ cho quá trình phát triển của trung tâm. Do đó, số lượng nhân viên của Trung tâm không ngừng tăng lên qua từng năm đặc biệt là trong những năm gần đây. Số lượng nhân viên của Trung tâm từ con số 20 người khi thành lập thì tính đến năm 2006 đã là 403 người và sẽ còn tăng trong năm 2007. Điều này được thể hiện qua bảng sau: Bảng 1: Số lượng lao động của Trung tâm qua các năm Năm Tổng số lao động (người) Trưởng phó phòng (người) Số lượng Biến động Số lượng Biến động 2003 284 --- 32 --- 2004 316 32 32 0 2005 383 67 40 8 2006 403 20 41 1 Qua bảng số liệu thống kê, có thể thấy số lượng cán bộ của Trung tâm ngày càng gia tăng phản ánh quy mô hoạt động ngày càng lớn. Lúc mới thành lập năm 1989, số cán bộ chưa đầy 20 người nhưng đến năm 2003 con số ấy đã lên đến 284 người, năm 2004 là 316 người (tăng 32 người so với năm 2003), năm 2005 là 383 người (tăng 67 người so với năm 2004) rồi đến năm 2006 sau 17 năm hoạt động, nhân viên của Trung tâm đã lên tới 403 người (tăng 20 người so với năm 2005). Với chức năng là cung cấp thông tin cho mọi đối tượng, đặc biệt là cho các doanh nghiệp có nhu cầu. Trung tâm luôn chú trọng tới việc kiện toàn bộ máy tổ chức, công tác lãnh đạo và điều hành của các đơn vị trực thuộc, đã chú trọng đào tạo, đề bạt và bổ nhiệm một số cán bộ trẻ, có năng lực, tinh thần trách nhiệm và khả năng quả lý vào một số vị trí lãnh đạo còn thiếu ở các phòng và các bản tin, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tại các đơn vị trực thuộc. Ngoài ban giám đốc có 4 người gồm 1 Giám đốc và 3 Phó Giám đốc, số lượng cán bộ trưởng phó phòng không ngừng tăng lên đáp ứng nhu cầu hoạt động trong những năm qua. Năm 2003, Trung tâm có 32 cán bộ trưỏng phó phòng, sang năm 2005 đã lên 40 ngưòi. Và đến hết năm 2006, Trung tâm có 41 cán bộ cấp trưởng phó phòng và các bản tin, nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tại các đơn vị trực thuộc. Tuy nhiên, việc gia tăng về số lượng nhân viên có thể đáp ứng cho các lĩnh vực hoạt động ngày càng đa dạng của trung tâm nhưng không thể đảm bảo sức cạnh tranh cho các sản phẩm thông tin của trung tâm cũng như hiệu quả hoạt động của từng lĩnh vực. Chính vì vậy, song song với việc phát triển về số lượng trung tâm cũng luôn chú trọng đến việc nâng cao chất lượng của đội ngũ công nhân viên. Ngày nay, yêu cầu đối với nguồn nhân lực trong lĩnh vực thông tin trong thời đại công nghệ thông tin và bùng nổ thông tin ngày càng cao. Họ không chỉ cần có kỹ năng và kiến thức về kinh tế mà còn phải có kỹ năng tìm tin, phân tích vấn đề và trình bày các thông tin ở dạng thích hợp. Và quan trọng hơn, ngoài các kỹ năng cơ bản về sử dụng máy tính , người làm nghề thông tin hiện nay còn cần phải biết sử dụng các phần mềm để lưu trữ và tìm kiếm tài liệu, các kiến thức cơ bản về mạng máy tính và khai thác mạng cục bộ, kiến thức về internet, web,… Trong thời đại nền kinh tế đang được toàn cầu hóa, hệ thống thông tin kinh tế cũng phải đáp ứng được yêu cầu đó. Vì vậy, các cán bộ ._. cầu thật sự của các doanh nghiệp hiện nay là gì, tại sao các đối thủ lại hoạt động hiệu quả, sản phẩm của Trung tâm còn thiếu sót gì so với các sản phẩm thông tin được ưa chuộng khác,… Phương pháp tổ chức các buổi họp mặt gặp gỡ với người dùng tin: đây là phương pháp có hiệu quả cao nhất. Bởi chỉ những khách hàng đã sử dụng sản phẩm của Trung tâm mới hiểu sản phẩm của Trung tâm có ưu điểm nào và khuyết điểm nào và còn nhu cầu thông tin nào của họ mà sản phẩm của Trung tâm chưa thể đáp ứng hay không. Biện pháp này cũng là biện pháp có thể áp dụng cho quá trình quản lý và đánh giá hiệu quả cung cấp thông tin của đơn vị. Dựa trên những kết quả hu được từ phỏng vấn trực tiếp, từ phiếu điều tra, quan sát thực tế, phân tích biểu ghi và các mẫu thống kê cũng như từ các buổi họp mặt với các doanh nghiệp, Trung tâm sẽ biết được doanh nghiệp ưa thích hình thức thông tin nào?, họ cần những thông tin trên những lĩnh vực và chuyên môn nào?, hướng phân tích trên những sản phẩm thông tin được ưa thích nhất là gì?,… Trên cơ sở đó, Trung tâm sẽ có những điều chỉnh cần thiết trong kết cấu của các đơn vị trực thuộc nói chung và kết cấu của từng bản tin cung cấp cho doanh nghiệp nói riêng. 3.2.2. Phát triển hệ thống thu thập và xử lý thông tin: Nhưng chỉ hiểu nhu cầu thông tin của khách hàng không thôi mà nếu không có khả năng thu thập và xử lý thông tin để cho ra sản phẩm phù hợp nhu cầu khách hàng thì coi như quá trình tìm hiểu nhu cầu thông tin của khách hàng cũng trở nên vô nghĩa. Chính vì vậy, bên cạnh việc tăng cường nghiên cứu nhu cầu khách hàng, Trung tâm cũng cần phải phát triển hệ thống thu thập và xử lý thông tin. - Phát triển hệ thống thu thập thông tin gồm có: Phát triển nguồn nhân lực: người cán bộ thông tin phải biết xử lý các yêu cầu tin và đưa ra một chiến lược tìm tin thích hợp. Vì vậy, người làm thông tin phải sử dụng thành thạo các phương tiện tra cứu truyền thống cũng như các phương tiện tra cứu hiện đại, ngoài ra còn phải có khả năng tổng hợp, bao gói kết quả tìm tin và chuyển chúng thành các sản phẩm phù hợp đồng thời đánh giá mức độ phù hợp và giá trị sử dụng của các thông tin tùy theo yêu cầu của người dùng tin. Do đó, trình độ của những cán bộ làm trong lĩnh vực thông tin phải đáp ứng ở một mức độ nhất định và thường xuyên phải bồi dưỡng những kiến thức và kỹ năng tìm tin để ngày càng có khả năng tìm được những nguồn tin có giá trị. Cụ thể, đối với Trung tâm Thông tin Thương mại-Bộ Thương mại, mặc dù số lượng nhân viên có trình độ học vấn từ đại học trở lên là 88.34% nhưng số lượng người đạt trình độ thạc sỹ và tiến sỹ vẫn còn thấp. Chính vì vậy, trong thời gian tới, ngoài việc bồi dưỡng kiến thức cho những người có trình độ từ trung cấp trở xuống, trung tâm nên tạo điều kiện để những người có khả năng khác có điều kiện để trau dồi trình độ và mở những lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ thường xuyên cho các nhân viên trong trung tâm. Bên cạnh đó, thời đại ngày nay là thời đại của công nghệ thông tin. Đặc biệt, lĩnh vực thông tin là lĩnh vực tỏ ra nhạy cảm nhất với sự phát triển của công nghệ thông tin. Chính vì vậy, bên cạnh việc tuyển chọn những nhân viên có kỹ năng, nghiệp vụ về kinh tế, thương mại, Trung tâm nên chú trọng đến việc bổ xung đội ngũ kỹ thuật viên tin học và chuyên viên công nghệ thông tin. Bởi có chú trọng phát triển đội ngũ này thì hoạt động của Trung tâm mới có thể cạnh tranh được với những tổ chức chuyên tin khác đang ngày càng “công nghệ hóa”, “vi tính hóa, “internet hóa”,…Có đội ngũ những nhân viên giỏi về lĩnh vực chuyên môn kinh tế chỉ là điều kiện “cần” để hoạt động trong lĩnh vực thông tin, còn đội ngũ những nhân viên ngành công nghệ thông tin chính là điều kiện “đủ” để sản phẩm và hoạt động cung cấp thông tin của Trung tâm có chỗ đứng trên thị trường thông tin hiện nay. Phát triển cơ sở hạ tầng thông tin: Ngày nay, trang thiết bị sử dụng trong hoạt động thông tin ngày càng hiện đại hơn. Để hoạt động và các sản phẩm thông tin của Trung tâm không bị tụt hậu so với những sản phẩm thông tin khác trên thị trường thông tin, Trung tâm cần chú ý đổi mới, hiện đại hóa công nghệ thông tin, trang thiết bị, sắp xếp cải thiện môi trường làm việc, lựa chọn và sử dụng có hiệu quả các thiết bị xử lý thông tin hiện đại như: máy tính, máy quét, các thiết bị đọc, thiết bị mạng, các phần mềm hệ thống và phần mềm chuyên dụng,… Mặc dù hiện nay, điều kiện trang thiết bị sử dụng trong hoạt động thông tin của Trung tâm trong thời gian qua đã có bước chuyển biến đáng kể nhưng vẫn còn những đơn vị chưa thực sự được hiện đại hóa thiết bị, cơ sở vật chất đã cũ không đáp ứng được nhu cầu hoạt động trong thời đại ngày nay. Đây là yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp thu thập và xử lý cũng như tìm đối tác ký kết hợp đồng nhanh chóng nhất. Chính vì vậy, việc hiện đại hóa thiết bị làm việc và cải thiện môi trường làm việc hiện nay là vấn đề sống còn, quyết định tới khả năng hoạt động cho Trung tâm và có thể là động lực vững chắc giúp vượt qua quãng thời gian khó khăn hiện nay của Trung tâm Môi trường làm việc hiện nay của một số đơn vị như Bản tin Thông tin Thương mại, Bản tin Thị trường vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu chung. Đây là vấn đề mà Trung tâm cũng đã đặt ra giải quyết trong năm 2007, bởi môi trường làm việc có thoải mái, phù hợp thì nhân viên mới phát huy và cống hiến hết được năng lực vốn có. Về cơ sở vật chất thì hiện nay hầu như các đơn vị của Trung tâm đều đã được “vi tính hóa” và “internet hóa”. Tuy nhiên, đối với yêu cầu hoạt động của một tổ chức chuyên tin thì như vậy là chưa đủ mà cần nhiều yếu tố công nghệ khác như: máy quét, các thiết bị đọc, thiết bị phần mềm hệ thống và phần mềm chuyên dụng,… Ngoài ra, Trung tâm cũng rất chú trọng áp dụng các dự án Thương mại điện tử với việc ưu tiên triển khai và xây dựng khu nhà của dự án Thương mại điện tử. Đây là tín hiệu tốt thể hiện nỗ lực trong việc cải thiện cơ sở vật chất của Trung tâm. Phát triển và mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức chuyên tin trong và ngoài nước khác: để có những nguồn tin độc đáo, triệt để và toàn diện. Ngoài những mối quan hệ đã xây dựng được với các tổ chức hợp tác trước đây (Trung tâm Thông tin Kinh tế Quảng Tây của Trung Quốc, Cục Quản lý Thị trường, Cục Công nghệ thông tin và thống kê Hải quan,…), Trung tâm cần có sự hợp tác với các tổ chức chuyên tin cả ở trong nước và quốc tế chẳng hạn như: Tổng cục Thống kê, ban Vật giá chính phủ, các tổ chức chuyên tin quốc tế như BBC,… Biện pháp này tương ứng với nghiệp vụ tạo nguồn và mua hàng ở các doanh nghiệp Thương mại. Đối với Trung tâm Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại thì sản phẩm là thông tin, và tạo nguồn và mua hàng chính là thiết lập các mối quan hệ lâu dài với các tổ chức chuyên tin khác để làm phong phú và bảo đảm nguồn tin. Để việc tạo mối quan hệ với các tổ chức chuyên tin khác được hiệu quả, Trung tâm cần chú ý: Phải nắm được khả năng của các bạn hàng cung cấp tin; số lượng và chất lượng của nguồn tin; cần kiểm tra tính xác thực, uy tín, chất lượng của nguồn tin và chủ thông tin,…Lựa chọn bạn hàng là khâu quyết định đối với sự chắc chắn và ổn định đối với nguồn thông tin cho Trung tâm. Thiết lập mối quan hệ truyền thống, trực tiếp và lâu dài tạo được sự ổn định trong nguồn cung ứng thông tin cho các doanh nghiệp của Trung tâm. Việc xác lập các mối quan hệ này thì ngoài hình thức thiết lập mối quan hệ kinh tế - thương mại bằng hợp đồng kinh tế còn có thể sử dụng liên doanh, liên kết với các tổ chức chuyên tin trong nước cũng như đối với các tổ chức chuyên tin quốc tế. - Phát triển hệ thống xử lý thông tin gồm: Phát triển năng lực, kỹ năng xử lý thông tin của cán bộ công nhân viên: đó là các kỹ năng về tin học, truyền thông, khả năng về ngoại ngữ, khả năng chuyên môn nghiệp vụ, khả năng phân tích và trình bày thông tin,… Những năng lực và kỹ năng này có thể được tạo thành do trình độ của chính cán bộ công nhân viên công với quá trình rèn luyện và đào tạo. Vì vậy, Trung tâm cần chú ý đến vấn đề đào tạo, đào tạo lại và nâng cao năng lực, trình độ của các nhân viên thông tin một cách thường xuyên và định kỳ. Phát triển cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho việc xử lý thông tin: Cũng giống như yêu cầu cho phát triển hệ thống thu thập thông tin, hệ thống xử lý thông tin cũng rất cần đến những thiết bị hiện đại và trang thiết bị phù hợp cho quá trình xử lý thông tin. Đây là yêu cầu không thể thiếu cho các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực thông tin trong thời đại công nghệ thông tin và bùng nổ thông tin. 3.2.3. Đảm bảo cung cấp những thông tin có chất lượng cao: Sau quá trình thu thập và xử lý thông tin, sản phẩm thông tin sẽ ra đời. Muốn sản phẩm thông tin thật sự tạo ấn tượng tốt cho người sử dụng thông tin đó phải là thông tin chất lượng cao phù hợp với đối tượng sử dụng tin. Để có thể cung cấp những sản phẩm thông tin chất lượng cao, Trung tâm cần chú ý để sản phẩm thông tin của mình đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu sau: + Tính chính xác: nghĩa là thông tin không bị sai lệch mà phải chính xác các quá trình, các hoạt động, các hiện tượng kinh tế. Đây là yếu tố không thể thiếu đối với những sản phẩm thông tin của một tổ chức chuyên tin. + Tính kịp thời: thông tin phải được thu thập vào các thời điểm có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình, hoạt động, hiện tượng kinh tế. Đối với lĩnh vực thông tin và đặc biệt là thông tin kinh tế thì tính kịp thời đóng vai trò vô cùng quan trọng. Bởi nền kinh tế luôn biến động không ngừng, nếu một thông tin dù quan trọng đến đâu đi chăng nữa mà bị bưng bít hay “ém” quá lâu thì cũng sẽ trở nên vô giá trị khi không đến tay người sử dụng đúng thời điểm. + Tính triệt để: thông tin không được bỏ xót các dữ liệu quan trọng mà người sử dụng thông tin dự kiến phải có trong các thông tin. + Tính hữu ích: thông tin phải bổ sung hiểu biết cho người sử dụng nó như: Giảm bớt độ bất định, tăng khả năng dự đoán, hoặc khẳng định, sửa chữa những dự đoán hoặc khẳng định trước đó,… Đối với các sản phẩm thông tin cung cấp cho doanh nghiệp, yếu tố này càng trở nên quan trọng. Bởi các doanh nghiệp tìm đến những sản phẩm của Trung tâm là tìm đến những dự đoán, những dự báo, những phân tích chuyên sâu về chuyên môn để có thể đưa ra những quyết định kinh doanh đúng đắn. Chính vì vậy, để tính hữu ích của sản phẩm thông tin ngày càng gia tăng, Trung tâm phải thường xuyên bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cho đội ngũ cán bộ để họ thật sự có được những hiểu biết chuyên sâu về chuyên ngành mình phụ trách và có thể đưa ra được những phân tích đúng, đầy đủ và hữu ích đối với các doanh nghiệp. + Tính dễ hiểu: thông tin được diễn đạt dưới hình thức hữu dụng và dễ hiểu. Việc trình bày các thông tin không phải phụ thuộc và người làm tin mà phụ thuộc vào đối tượng nhận tin bao gồm các yếu tố: trình độ, kiến thức, quy mô, mục tiêu kinh doanh,… của những đối tượng nhận tin. + Tính kiểm tra được: thông tin về cùng một sự kiện do hai người thu thập và xử lý độc lập với các phương pháp khác nhau phải có kết quả hoàn toàn giống nhau. Xuất phát từ việc đảm bảo được các yếu tố này trong sản phẩm thông tin cung cấp cho doanh nghiệp của Trung tâm, mỗi bản tin của Trung tâm phải có cách thể hiện độc đáo riêng, phản ánh được chuyên môn mà Bản tin đó phụ trách. Ở Trung tâm Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại hiện nay có 6 bản tin trực thuộc thì yêu cầu của từng bản tin phải là: Đối với Bản tin Thông tin Thương mại: bản tin gồm có 10 bản tin chuyên ngành trực thuộc chủ yếu phục vụ cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ở từng ngành và đặc biệt là phục vụ thúc đẩy cho hoạt động kinh doanh xuất - nhập khẩu của các doanh nghiệp. Vì vậy, các sản phẩm của Bản tin không chỉ phải cung cấp các thông tin kiến thức về các sản phẩm và lĩnh vực kinh doanh chuyên ngành mà còn phải cung cấp được các mối kinh doanh xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp mà Bản tin phục vụ. Theo đó, cơ cấu của các bản tin chuyên ngành của Bản tin có thể bao gồm các nội dung: + Bản tin Ngân hàng-tài chính-tiền tệ gồm: Diễn biến thị trường Ngân hàng-tài chính-tiền tệ trong kỳ (trong nước và quốc tế); các kiến thức về nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng-tài chính-tiền tệ; các dự báo; danh sách các doanh nghiệp tiêu biểu hoạt động có hiệu quả cao; các thông tin về các dự án đầu tư trong lĩnh vực Ngân hàng-tài chính-tiền tệ; dự báo trước các xu hướng vận động của thị trường; các kiến thức pháp luật; hướng dẫn thi hành và giải quyết các vấn đề rắc rối mà các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Ngân hàng-tài chính-tiền tệ hay gặp phải; các thông tin hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước,… +Bản tin Tổng hợp: Những thông tin đáng chú ý trong tuần trong lĩnh vực kinh doanh Thương mại (đặc biệt là Thông tin thị trường xuất nhập khẩu); những biến động lớn trên thị trường trong nước và thế giới; các phân tích đánh giá về hoạt động của các doanh nghiệp Thương mại; thông tin về khối lượng xuất nhập khẩu trong kỳ; các dự báo về xu hướng hoạt động của thị trường,… +Bản tin dệt may: các thông tin đáng chú ý ngành dệt may; số lượng và hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu ngành dệt may; kiến thức pháp luật trong nước và quốc tế trong việc kinh doanh xuất nhập khẩu lĩnh vực dệt may; danh sách và giới thiệu các doanh nghiệp có uy tín trong lĩnh vực dệt may; những phân tích và dự báo xu hướng hoạt động của thị trường dệt may; các hạn ngạch và các điều kiện mới của các nước và lãnh thổ trong việc nhập khẩu các mặt hàng dệt may Việt nam; các thông tin về các đối tác tìm bạn hàng xuất nhập khẩu trong nước và quốc tế,… + Bản tin Dược phẩm và trang thiết bị y tế: Thông tin đáng chú ý trong tuần; diễn biến của thị trường dược phẩm và trang thiết bị ý tế trong kỳ; các kiên thức cần thiết trong lĩnh vực dược phẩm và trang thiết bị y tế; giá cả thị trường về nguyên vật liệu và sản phẩm trong lĩnh vực dược phẩm và trang thiết bị y tế; tham khảo và giới thiệu các đơn vị tiêu biểu; các chính sách quy định và các điều ước, luật lệ quốc tế về dược phẩm và trang thiết bị y tế, danh sách các đối tác kinh doanh cần tìm bạn hàng,… + Bản tin Thủy sản: các thông tin đáng chú ý ngành Thủy sản; tình hình xuất nhập khẩu; các thị trường xuất nhập khẩu tiềm năng; thông tin về thị trường thủy sản quốc tế; giá cả các nguyên liệu và sản phẩm ngành thủy sản trong nước và quốc tế; giới thiệu các đối tác,… + Bản tin Giao thông vận tải và Vật liệu xây dựng: các thông tin đáng chú ý về Giao thông vận tải và vật liệu xây dựng đáng chú ý trong kỳ; tin về thị trường trong nước và quốc tế; giá cả các nguyên vật liệu và sản phẩm trong lĩnh vực Giao thông vận tải và vật liệu xây dựng; các doanh nghiệp tiêu biểu; các phân tích đánh giá về những mặt ưu điểm và mặt khuyết điểm còn tồn tại của ngành; giới thiệu các kiến thức chuyên môn về ngành; tham khảo tình hình thị trường các nước; các đối tác;… +Bản tin Đồ gỗ và Thủ công mỹ nghệ: một số thông tin đáng chú ý trong tuần; tình hình xuất nhập khẩu của thị trường trong và ngoài nước; giá cả các nguyên vật liệu và các sản phẩm đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ trong và ngoài nước; những kiến thức cần thiết trong kinh doanh Đồ gỗ và Thủ công mỹ nghệ; các nguyên liệu mới trong ngành; các đối tác doanh nghiệp;… + Bản tin Linh kiện điện tử và máy tính: thông tin thương mại ngành Linh kiện điện tử và máy tính; thông tin về thị trường xuất nhập khẩu; giới thiệu các doanh nghiệp trong lĩnh vực Linh kiện điện tử và máy tính; các ứng dụng mới trong lĩnh vực Linh kiện điện tử và máy tính; các văn bản, chính sách cần biết; phân tích và đánh giá xu hướng biến động của thị trường Linh kiện điện tử và máy tính trong kỳ; giới thiệu các đối tác đang tìm bạn hàng;… + Bản tin Giày dép và đồ da xuất khẩu: một số thông tin thương mại ngành Giày dép và đồ da xuất khẩu đáng chú ý; thông tin về thị trường xuất nhập khẩu (phân tích và đưa ra các giải pháp nhằm phát triển thị trường); giá cả các nguyên vật liệu và các sản phẩm trong lĩnh vực Giày dép và đồ da xuất khẩu; các diễn biến của các thị trường liên quan; các văn bản pháp quy cần biết giới thiệu các doanh nghiệp có uy tín; các đối tác doanh nghiệp;… + Bản tin Nhựa - Hóa chất: thông tin đáng chú ý ngành Nhựa-Hóa chất trong kỳ; tình hình thi trường xuất nhập khẩu ngành nhựa hóa chất (phân tích và đưa ra các biện pháp thúc đẩy phát triển); tình hình sản xuất kinh doanh ngành Nhựa - Hóa chất; giá cả nguyên vật liệu và sản phẩm ngành Nhựa - Hoá chất trong nước và quốc tế; chính sách và quy định cần biết; giới thiệu các doanh nghiệp tiêu biểu; tham khảo các thị trường liên quan; tin tức về các đối tác đang tìm bạn hàng;… Tuy nhiên, yêu cầu chung đối với nội dung của các bản tin chuyên ngành vẫn là phải chính xác, hữu ích, dễ hiều và đáng tin cậy và kịp thời đối với các doanh nghiệp giúp các doanh nghiệp đưa ra các quyết định kinh doanh chính xác và đúng thời điểm. Đối với bản tin Ngoại thương: phải cung cấp được cho các doanh nghiệp thị trường hàng hóa quốc tế hiện tại và các thị trường triển vọng; các thị trường xuất nhập khẩu trọng điểm của Việt nam (phân tích và đưa ra được các dự báo, phương hướng phù hợp); các chính sách kinh tế xuất nhập khẩu của Việt nam và của các nước trên thế giới; nhận định kinh tế thế giới và dự báo;… Đối với Bản tin Thị trường: ra được các chuyên đề kinh tế về từng thị trường cụ thể; các bài đánh giá về tiềm năng và dự báo về từng thị trường; phản thị trường xuất nhập khẩu của Việt nam hiện tại và thị trường, lĩnh vực tiềm năng trong tương lai; thông tin về các doanh nghiệp tiêu biểu trên thị trường;… Đối với Bản tin Thị trường - Giá cả - Vật tư: Thông báo kịp thời các tin tức kinh doanh của từng ngành hàng trên thị trường; cập nhập các tin tức giá cả các nguyên liệu - Vật tư của các ngành hàng một cách thường xuyên và toàn diện; phân tích mối tương quan tương quan giữa các thị trường để đưa ra các khuyến cáo và biện pháp phòng tránh rủi ro cũng như lời khuyên cho các doanh nghiệp trên thị trường; … Đối với Bản tin Doanh nghiệp Thương mại: thông tin về các tin tức nổi cộm trong lĩnh vực thương mại; các thông tin về các doanh nghiệp hoạt động trong nước và quốc tế; giới thiệu về kinh nghiệm các doanh nghiệp có uy tín trong lĩnh vực thương mại; các chính sách cần biết trong lĩnh vực thương mại; các hiểu biết khi kinh doanh thương mại trên thị trường thế giới như châu Âu, châu Mỹ, Nhật Bản,…; các đối tác uy tín trong lĩnh vực thương mại quốc tế,… Đối với Bản tin Thương nghiệp thị trường: cung cấp thông tin về các ngành hàng trong nước và quốc tế; thông tin về chất lượng thị trường; thông tin về các dự án đầu tư; các thông tin về hợp tác phát triển; thông tin về các đối tác tìm bạn hàng trong và ngoài nước,… Tóm lại, yêu cầu chung đối với các bản tin vẫn là các thông tin phải kịp thời và sát với thực tế. Các thông tin đưa ra phải qua quá trình kiểm định tính chính xác và tin cậy để đảm bảo các sản phẩm thông tin của Trung tâm thật sự là sản phẩm hữu ích đối với các doanh nghiệp. 3.2.4. Phát triển các loại hình cung cấp thông tin: Đất nước chúng ta là đất nước có nền kinh tế thị trường, chính vì vậy cạnh tranh là một yếu tố tất yếu. Thêm vào đó, chúng ta đang bước vào kỷ nguyên công nghệ thông tin nên việc đa dạng hóa các sản phẩm thông tin là rất cần thiết để Trung tâm duy trì và phát triển hoạt động cung cấp thông tin của mình trên thị trường thông tin. Đa dạng hóa ở đây nghĩa là đa dạng hóa hình thức biểu đạt thông tin, hình thức trình bày thông tin và hình thức cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp. Với hình thức biểu đạt thông tin, Trung tâm có thể đa dạng hóa bằng cách cho ra các sản phẩm ở nhiều hình thức như: thông tin bằng các ấn phẩm tạp chí, thông tin bằng đĩa quang CD-ROM, thông tin bằng các cơ sở dữ liệu trực tuyến, thông tin bằng bản tin điện tử qua mạng Intranet hoặc Internet, thông tin qua các website, phát hành các sách chuyên ngành… Cách thể hiện thông tin cũng cần được đa dạng hóa như được mô hình hóa, các thông tin bằng âm thanh, thông tin bằng hình ảnh tĩnh và động, thông tin bằng đa phương tiện. Còn về hình thức cung cấp thông tin, Trung tâm có thể thực hiện việc cung cấp qua các hợp đồng ngắn hạn hay dài hạn bằng nhiều hình thức biểu hiện được pháp luật công nhận như: hợp đồng bằng tay được ký kết, hợp đồng qua thư điện tử, hợp đồng bằng các thỏa thuận hay cam kết từ trước đó, hợp đồng bằng thỏa thuận miệng,… Ngoài ra, bên cạnh phương thức phát hành bản tin truyền thống, Trung tâm cũng nên phát triển loại hình cung cấp theo đơn đặt hàng riêng cụ thể của các doanh nghiệp. Bởi trong thời buổi cạnh tranh gay gắt như hiện nay, bảo mật thông tin, sở hữu những thông tin “độc” và phù hợp với doanh nghiệp là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với các doanh nghiệp. Không có hai con người nào hoàn toàn giống nhau và cũng không có hai doanh nghiệp hoàn toàn giống nhau. Vì vậy, việc Trung tâm phát triển loại hình này là Trung tâm mới thực sự đáp ứng đúng nhu cầu của từng doanh nghiệp, biết được cụ thể đối tượng nhận tin là ai, thông tin cần thiết là gì, cách thu thập và xử lý thông tin như thế nào. 3.2.5. Tăng cường hiệu quả của bộ phận Marketing Tuy nhiên, dù sản phẩm của Trung tâm có tốt đến đâu đi chăng nữa mà doanh nghiệp không hề biết đến thì cũng không thể những sản phẩm đó được. Chính vì vậy, bên cạnh nâng cao chất lượng sản phẩm thông tin của Trung tâm bằng nhiều biện pháp thì Trung tâm cũng cần tăng cường hiệu quả hoạt động của bộ phận Marketing của Trung tâm. Bộ phận này có hoàn thành tốt nhiệm vụ thì các doanh nghiệp mới biết đến các sản phẩm của Trung tâm và sử dụng các sản phẩm đó. Chiến lược marketing ở đây không chỉ đơn thuần là quảng cáo hình ảnh Trung tâm mà là có sự nghiên cứu tổng hợp các yếu tố như: nghiên cứu khách hàng và nhu cầu khách hàng, định hướng phát triển các sản phẩm của Trung tâm, giá cả và chiến lược giá cả cho các sản phẩm, hình thức nhận đơn đặt hàng và phân phối hàng hóa, môi trường của thị trường thông tin ở thời điểm hiện tại và chỗ đứng của Trung tâm trên thị trường thông tin hiện nay. Trên cơ sở của những nghiên cứu thu thập được từ các tham số này, bộ phận marketing mới có thể đưa ra được những biện pháp hiệu quả để hình ảnh của Trung tâm được quảng bá rộng rãi và có ấn tượng tốt đối với các doanh nghiệp có nhu cầu dùng tin. Ngoài ra, Trung tâm có thể tăng cường tham gia các hội thảo, hội nghị, tăng cường liên kết với các cơ quan, hội nghị, tổ chức và thực hiện các chương trình nhằm quảng bá hình ảnh của Trung tâm tới các doanh nghiệp. Hoạt động này giúp Trung tâm có cơ hội giới thiệu với nhiều đối tượng doanh nghiệp khác nhau về sản phẩm của mình, về các hình thức sản phẩm để thúc đẩy phát triển số lượng các hợp đồng cung cấp thông tin cũng như khả năng cung cấp thông tin của từng bản tin, từng đơn vị dịch vụ sản xuất và toàn bộ trung tâm. KẾT LUẬN Trong xu thế chung của thời đại, thông tin khoa học và công nghệ ngày càng giữ vai trò quan trọng trong các nguồn lực phát triển kinh tế. Việc phát triển hệ thống thông tin trong đó có hệ thống thông tin kinh tế không những huy động được sức mạnh tiềm lực thông tin, khoa học và công nghệ vốn có trong nước mà còn tranh thủ được các cơ hội, sự hỗ trợ của các nước và tổ chức khác trên thế giới để phát triển kinh tế đất nước. Không phải ngẫu nhiên mà ở xã hội văn minh ngày nay, trong thời đại kinh tế thị trường, thông tin được coi là thứ hàng hóa đắt giá nhất, thậm chí còn quý hơn cả vốn liếng. Thời đại ngày nay là thời đại “Ai nắm được thông tin, coi như nắm được thành công trong tay”. Chính vì vậy, với các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam hiện nay, nguồn thông tin vô cùng quan trọng và cần thiết. Điều quan trọng đối với các tổ chức phục vụ trong lĩnh vực cung cấp thông tin là làm sao thu thập, xử lý và cung cấp được những sản phẩm phù hợp nhu cầu và thật sự giá trị đối với đối tượng dùng tin, tạo nên sức mạnh mới cho những đối tượng mà tổ chức cung cấp thông tin. Với nhiệm vụ đó, Trung tâm Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại cần phát triển hơn nữa hệ thống cung cấp thông tin cho doanh nghiệp nói riêng và cho thị trường thông tin nói chung để có thể tồn tại và phát triển trong thời đại bùng nổ thông tin và vượt qua quãng thời gian khó khăn hiện tại của Trung tâm. Qua phân kết quả hoạt động của Trung tâm nói chung, của khối bản tin và của Bản tin thông tin thương mại cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp nói riêng trong những năm gần đây, có thể nhận thấy Trung tâm luôn chủ động vươn lên tự hoàn thiện và khẳng định vị trí và uy tín của mình trên thị trường thông tin và đã đạt được những kết quả nhất định. Năm vừa qua, với sự bùng nổ xuất hiện các bản tin, các website và sách chuyên ngành của nhiều bộ và ban ngành và cạnh tranh tương đối gay gắt, giành giật thị phần của Trung tâm nên phần nào hạn chế hoạt động tạo nguồn thu của Trung tâm. Tuy nhiên, bằng kinh nghiệm vốn có và sự nỗ lực cố gắng Trung tâm vẫn đảm bảo được doanh thu đạt tới 88.7% so với kế hoạch. Tuy rằng năm 2006, doanh thu của Trung tâm không đạt được sự tăng trưởng cao như năm 2004 và 2005 nhưng Trung tâm vẫn đảm bảo được xu hướng tăng dần của doanh thu trong quá trình hoạt động. Đồng thời, Trung tâm luôn nỗ lực cố gắng tìm hướng đi mới tạo công ăn việc làm cho người lao động và cải thiện thu nhập cũng như điều kiện làm việc của cán bộ công nhân viên. Đây là những thành quả không thể phủ nhận mà Trung tâm thực sự đã thu được trong quá trình cung cấp thông tin nói chung và cung cấp cho các doanh nghiệp nói riêng. Qua quá trình phân tích hoạt động cung cấp thông tin, có thể nhận thấy Trung tâm cũng vẫn còn có rất nhiều ưu điểm và bên cạnh đó là những hạn chế vẫn còn tồn tại. Trên cơ sở nghiên cứu nhận định về những thuận lợi và những hạn chế trước mắt, phương hướng phát triển trong thời gian sắp tới của Trung tâm, luận văn đã đưa ra một số biện pháp nhằm đóng góp một phần nhỏ bé vào việc phát triển hệ thống thông tin cho doanh nghiệp cũng như vào sự phát triển chung của toàn Trung tâm. Với sự nỗ lực không ngừng và luôn tìm tòi hướng đi mới, nhất định Trung tâm sẽ vượt qua mọi khó khăn và sẽ tiến xa hơn trong việc phát triển thị trường cung cấp thông tin cho doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ thị trường thông tin nói chung, đưa Trung tâm Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại thành một trong những tổ chức chuyên tin hàng đầu của Việt nam. NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (năm 2003, 2004, 2005, 2006) của Trung tâm Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại 2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (năm 2004, 2005, 2006) của Bản tin Thông tin Thương mại thuộc Trung tâm Thông tin Thương mại . 3. Điều lệ tổ chức và hoạt động của Trung tâm Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại. 4. Điều lệ tổ chức và hoạt động của Bản tin Thông tin Thương mại thuộc Trung tâm Thông tin Thương mại. 5. Một số kỳ phát hành của 10 bản tin chuyên ngành của Bản tin Thông tin Thương mại. 6. Hoàng Minh Châu. Tại sao các doanh nghiệp cần quan tâm đến Internet. Tạp chí Thế giới vi tính, tháng 5/1998. 7. GS.TS Đặng Đình Đào, GS.TS Hoàng Đức Thân. Giáo trình Kinh tế Thương mại, Nhà xuất bản Thống kê, 2003. 8. PGS.TS Hoàng Minh Đường, PGS.TS Nguyễn Thừa Lộc. Giáo trình Quản trị Doanh nghiệp Thương mại, Nhà xuất bản Lao động - xã hội, 2005 8. Lê Xuân Hoa. Điều tra và xử lý thông tin trong quản lý, NXB Thống kê, 1999. 9. Nguyễn Mạnh Hùng. Vai trò của Thông tin kinh tế đối với các xí nghiệp ngành dệt may xuất khẩu, Tạp chí Thông tin kinh tế kế hoạch, số 8/1998, tr.28. 10. PGS.TS Nguyễn Thừa Lộc, TS Trần Văn Bão. Giáo trình Chiến lược Kinh doanh của Doanh nghiệp Thương mại, Nhà xuất bản Lao động-xã hội, 2005. 11. Thế Hùng, Trà My biên dịch. Sức mạnh của tin tức truyền thông – Michael Schudson, NXB Chính trị Quốc Gia, 2003. 12. Trần Thanh Phương. Tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, thông tin đối với thế giới, khu vực và Việt nam, Chuyên san Sự đột phá của khoa học thông tin trước thế kỷ XXI, NXB Thông tin khoa học xã hội, 1998. 13. Trần Thanh Phương. Tri thức Thông tin và phát triển, Việc Thông tin khoa học xã hội, 2000. 14. PGS.TS Nguyễn Xuân Quang. Giáo trình Marketing Thương mại, Nhà xuất bản Lao động - xã hội, 2006. 15. Đường Vinh Sường. Thông tin kinh tế với việc quản lý nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, NXB Thống kê, 2004. 16. Đào Duy Tân. Mấy suy nghĩ về hiệu quả kinh tế của thông tin, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 3/1994. 17. Đoàn Phan Tân. Các hệ thống thông tin quản lý, Trường Đại học văn hóa Hà Nội, 2004 18. Đoàn Phan Tân. Thông tin học. ĐHQGHN,2006 MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU, CÁC SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ STT Tên bảng (hoặc sơ đồ, biểu đồ) Nội dung Trang 1 Bảng 1 Số lượng lao động của Trung tâm qua các năm 41 2 Bảng 2 Trình độ nhân viên Trung tâm 43 3 Bảng 3 Doanh thu của Trung tâm qua các năm 46 4 Bảng 4 Doanh thu Bản tin Doanh nghiệp Thương mại qua các năm 50 5 Bảng 5 Doanh thu các Bản tin 53 6 Bảng 6 Tỷ lệ doanh thu khối bản tin trên tổng doanh thu Trung tâm Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại 54 7 Bảng 7 Doanh thu của Bản tin Thông tin Thương mại qua các năm 56 8 Bảng 8 Doanh thu của Bản tin Thông tin Thương mại so với doanh thu khối Bản tin và toàn Trung tâm 57 9 Bảng 9 Số lượng phát hành mỗi kỳ của các Bản tin chuyên ngành 60 10 Bảng 10 Số lượng các hợp đồng của các bản tin chuyên ngành qua các năm 62 11 Bảng 11 Số lượng hợp đồng đặt hàng của các doanh nghiệp 70 12 Sơ đồ 1 Quá trình thông tin 7 13 Sơ đồ 2 Hệ thống thông tin trực tuyến của thị trường thông tin 26 14 Sơ đồ 3 Bộ máy tổ chức của Trung tâm Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại 38 15 Biểu đồ 1 Trình độ nhân viên Trung tâm Thông tin Thương mại - Bộ Thương mại 43 16 Biểu đồ 2 Doanh thu của Trung tâm qua các năm 46 17 Biểu đồ 3 Doanh thu của Bản tin Thông tin Thương mại qua các năm 56 18 Biểu đồ 4 Số lượng hợp đồng của các bản tin chuyên ngành qua các năm 64 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan những kết quả nghiên cứu được trong luận văn này hoàn toàn là sản phẩm lao động của bản thân từ những số liệu thực tế của đơn vị thực tập. Những tài liệu và số liệu cũng như kết luận và giải pháp không sao chép từ bất cứ công trình nào khác. BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Diễn giải ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36571.doc