Thu hút FDI của EU vào Việt Nam

Lời Cảm Ơn Em xin chân trọng cảm ơn các thầy cô giáo khoa Kinh Tế Quốc Tế cùng toàn thể các thầy cô giáo trong trường, đặc biệt là thầy giáo hướng dẫn GS.TS. Đỗ Đức Bình đã tận tình chỉ dậy cho em những kiến thức cần thết để em có thể hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Tuy đã được sự các thầy cô hết lòng hướng dẫn, chỉ dậy cùng vớI sự nỗ lực hết mình của bản thân nhưng bài viết cũng không thể tránh khỏI những sai sót. Mong có sự góp ý của các thầy cô và các bạn để bài viết này

doc103 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1412 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thu hút FDI của EU vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có thể hoàn thiện hợn nữa. Một lần nữa em xin chân trọng cảm ơn! Tác giả Lời Cam Đoan Em xin cam đoan chuyên đề thực tập tốt nghiệp “Giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ EU vào Việt Nam gia nhập WTO ”, là công trình do tự bản thân em thực hiện, không sao chép của bất kỳ một chuyên đề, tác phẩm nào khác. Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tác giả (ký tên) Lời Nói Đầu Tính tất yếu khách quan của đề tài nghiên cứu Trong thời đại ngày nay, khi mà sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và công nghệ thông tin, nó đã và đang tạo ra những thuận lợi khó khăn vô cùng lớn cho các quốc gia trên thế giới. Quá trình chuyên môn hoá sản xuất diễn ra trên toàn thế giới, một sản phẩm không phải do một quốc gia sản xuất ra mà có thể do 2 hay nhiều quốc gia sản xuất ra. Đồng thời, trên thế giới còn xuất hiện nhiều vấn đề mà vượt quá khả năng của một quốc gia. Tất cả các điều kiện đó là xu hướng tất yếu dẫn tới sự liên kết của các quốc gia với nhau. Trong thời gian qua Việt Nam đã đạt được những thành tựu vô cùng lớn trong quá trình hội nhập của mình. Năm 2006 với việc tổ chức thành công hội nghị APEC thứ 14 và gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đã đưa Việt Nam lên một vị thế mới. Hiệu ứng từ việc gia nhập WTO đã thúc đẩy nguồn vốn FDI chảy vào Việt Nam tương đối mạnh trong thời gian qua. Đây là điều thuận lợi cho Việt Nam. Năm 1987 với sự kiện Luật đầu tư trục tiếp nước ngoài tại Việt Nam được ban hành đánh đấu quá trình mở cửa nền kinh tế đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại. Nguồn vốn FDI đóng vai trò quan trọng bổ sung cho vốn đầu tư phát triển kinh tế. Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải lựa chọn nguồn vốn đầu tư cho mình nếu không muốn trở thành bãi rác thải công nghiệp của thế giới. Do đó, Việt Nam đã xác định ưu tiên cho những nguồn vốn của nước có công nghệ nguồn như EU, Mỹ, Nhật. Quan hệ Việt Nam – EU được bắt đầu từ năm 1987, đây là mối quan hệ đã được Đảng và nhà nước ta xác định ngay từ đầu là rất quan trọng. Xuất phát từ sự bất hợp lý về nguồn vốn FDI từ EU vào Việt Nam, không tương xứng với tiềm năng của 2 phía (trong so sánh hoạt động ĐT của Eu vào các nước Đông Bắc Á và các nước ASEAN khác) và chủ trương tăng cường tìm kiếm công nghệ nguồn của Chính phủ từ EU. Tôi chọn đề tài: “Thu hút ĐTTTNN của EU vào Việt Nam” để nghiên cứu nhằm góp phần tìm hiểu thực trạng trên và đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường lượng vốn FDI từ EU, phục vụ việc tiếp cận công nghệ sản xuất, phương pháp quản lý hiện đại, hiệu quả tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá - hiện đạI hoá nền kinh tế, giúp chúng ta có thể đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, giảm dần khoảng cách quá xa về phát triển kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng ĐTTTNN từ EU vào Việt Nam qua các giai đoạn từ đó đưa ra một số giải pháp để nâng cao khả năng thu hút và sử dụng nguồn vốn này vào trong nước trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước đã đề ra. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng FDI của EU vào Việt Nam. - Đánh giá thực trạng của hoạt động FDI của EU trên góc độ thời gian, không gian, tác động của nó tới quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta từ 1987 – 2006. - Triển vọng đầu tư của EU vào Việt Nam khi Việt Nam là thành viên của WTO. -Một số nhân tố tác động đến FDI của Eu tại Việt Nam và một số giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn này. Phương pháp nghiên cứu Đề tài dược nghiên cứu chủ yếu bằng phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp đối chiếu, so sánh, phương pháp chuyên gia, phương pháp thực nghiệm, … Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Đề tài cho ta những lý luận chung về thu hút FDI Quá trình hình thành và phát triển của EU. - Đề tài đã cho ta thấy được thực trạng FDI của EU vào Việt Nam từ 1988 đến nay. Đặc biệt có sự phân giai đoạn tước và sau khi EU mở rộng từ EU – 15 đến EU – 27. Từ đó, cho thấy rõ tác động của việc các nước Trung và Đông Âu gia nhập đến FDI của EU vào Việt Nam như thế nào. - Đồng thờI cho thấy tác động của việc Việt Nam là thành viên của WTO đến nguồn vốn FDI của EU vào VIệt Nam. Kết cấu của đề tài Ngoài mục lục, lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được chia làm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Chương 2: Thực trạng thu hút FDI từ EU vào Việt Nam Chương 3: Định hướng và giải pháp Bảng Các Chữ Viết Tắt Chữ viết tắt Viết đầy đủ Nghĩa tiếng Việt APEC ASEAN The Sound East Asia Nations Hiệp hộI các nước Đông Nam Á BCHTW Ban chấp hành Trung Ương BOT Build – Operate - Transfer Xây dựng - vận hành - chuyển giao BTO Build – Transfer - Operate Xây dựng - chuyển giao - vận hành BT Build – Operate Xây dựng - chuyển giao ĐCSVN Đảng cộng sản Việt Nam ĐTTTNN Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Foreign Direct Investment Đầu tư nước ngoài trực tiếp (từ nước ngoài vào trong nươ) EU Eropean Union Liên minh Châu Âu GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội HN Hà NộI NSNN Ngân sách nhà nước NXB Nhà xuất bản M&A Mua lạI và sáp nhập ODA Official Development Assistance Hỗ trợ phát triển chính thức TH Thực hiện UNESCO The United Nations Educational Scientific Cultural Organization Tổ chức văn hoá, giáo dục và khoa học của Liên hop quốc USD The United State of Dollars Đồng Đô la Mỹ VĐK Vốn đăng ký VPĐ Vốn pháp định VTH Vốn thực hiện WTO The World Trade Organization Tổ chức thương mạ thế giới Chương 1: Lý luận chung về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Các khái niệm và các hình thức FDI 1.1.1 Các khái niệm Đầu tư là tập hợp các hoạt động bỏ vốn và sử dụng vốn theo một chương trình đã được hoạch định trong một khoảng thời gian tương đối dài nhằm thu được lợi ích lớn hơn cho các nhà đầu tư, cho xã hội và cho cộng đồng. Dự án đầu tư là tập hợp những ý kiến, đề xuất về việc bỏ vốn đầu tư vào một đối tượng nhất định và giải trình kết quả thu được từ hoạt động đầu tư. Việc các nhà đầu tư ở quốc gia này bỏ vốn vào các quốc gia khác theo một chương trình đã được hoạch định trong một khoảng thời gian dài nhằm đáp ứng các nhu cầu của thị trường và mang lại lợi ích lớn hơn cho chủ đầu tư và cho xã hội được gọi là đầu tư quốc tế hay đầu tư nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong 2 loại hình đầu tư quốc tế. Việc quan niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài có nhiều cách khác nhau tuỳ thuộc vào góc độ họ nhìn nhận. Ở Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu là việc di chuyển vốn dướI dạng tiền và tài sản từ nước này sang nước khác để thu lợi nhuận. Các quy định về thu hút đầu tư là sự thể chế hoá các quy định của chính phủ. Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam ra đời lần đầu năm 1987 tại khoản 3 điều 2 quy định “đầu tư nước ngoài là việc các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này ”. Thực tế quan niệm này liên tục được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình thực tế của đất nước trong từng thời kì, đồng thời phù hợp với các cam kết quốc tế. Luật đầu tư năm 2005 quy định (khoản 3) đầu tư là việc các nhà đầu tư bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật này và các quy định của pháp luật có liên quan. Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Dự án FDI là các dự án đầu tư do các tổ chức kinh tế và cá nhân ở nước ngoài tự mình hoặc cùng với các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân ở nước tiếp nhận đầu tư (nước sở tại) bỏ vốn đầu tư, trực tiếp quản lý và điều hành để thu lợi trong kinh doanh. Các đặc trưng cơ bản của dự án FDI: - Các dự án FDI là một dự án đầu tư, nên nó cũng mang đầy đủ các đặc trưng cơ bản của một dự án đầu tư nói chung. Đó là: + Đầu tư là hoạt động bỏ vốn, nên quyết định đầu tư thường là quyết định tài chính. + Đầu tư là hoạt động lâu dài (chiến lược). + Đầu tư luôn luôn có chi phí và kết quả. + Đầu tư là hoạt động luôn cần có sự cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. + Đầu tư là hoạt động mang nặng rủi ro. - Ngoài các đặc trưng trên, các dự án FDI còn có các đăc trưng riêng có. Đó là: + Nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp tham gia hoặc tự mình quản lý, điều hành đối tượng bỏ vốn. + Các bên tham gia vào dự án FDI có quốc tịch khác nhau, đồng thời thường sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau. + Dự án chịu sự chi phối đồng thời của nhiều hệ thống pháp luật. + Có sự gặp gỡ giữa các nền văn hoá khác nhau trong quá trình hoạt động của dự án. + Các dự án FDI được thực hiện thông qua nhiều hình thức đầu tư có tính đặc thù. + Hầu hết các dự án FDI đều gắn với quá trình chuyển giao công nghệ với nhiều hình thức và mức độ khác nhau. “Cùng có lợi” được các bên coi là phương châm chủ đạo, nguyên tắc cơ bản để giải quyết quan hệ giữa các bên trong mọi giai đoạn. 1.1.2 Các hình thức đầu tư của dự án FDI Trong luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi bổ sung 2001) qui định: - Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam. - Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa chính phủ nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghịêp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. - Hợp đồng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhầt định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước. - Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO) là hình thức hợp đồng được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam; Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận. - Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) là hình thức được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam; Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư hoặc thanh toán cho nha đầu tư nước ngoài theo thoả thuận của hợp đồng BT. 1.2 Các nhân tố ảnh hưởng và tác động của thu hút đầu tư trực tiếp đến nước nhận đầu tư 1.2.1 Các tác động của FDI 1.2.1.1Tác động tích cực Thứ nhất: Việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp tiếp nhận công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.Các nước đang phát triển thường thiếu và yếu về công nghệ hiện đại. Quá trình di chuyển vốn đầu tư của các công ty xuyên quốc gia cũng như của các nhà đầu tư nước ngoài được chuyển giao vào trong nước. Các loại công nghệ nguồn và công nghệ trung gian được chuyển giao vào các nước đang phát triển bao gồm: công nghệ khai thác tài nguyên, công nghệ lắp ráp, công nghệ chế biến thực phẩm, công nghệ cung cấp dịch vụ về ngân hàng, … Cùng với công nghệ hiện đại là kinh nghiệm quản lý tiên tiến như các kỹ năng quan trọng như kỹ năng quản trị marketing, tài chính, nhân sự, kỹ năng điều hành sản xuất, kỹ năng hoạch định chiến lược, … Thứ hai: Tăng cường nguồn vốn nước ngoài và cải thiện cán cân thanh toán. Nguồn vốn này giúp tăng lượng giá trị trong nền kinh tế, góp phần cải thiện cán cân thanh toán. Đồng thời, nó giúp cho việc khai thác và sử dụng các nguồn lực trong nước một cách có hiệu quả hơn. Thứ ba: Tạo công ăn việc làm cho người lao động giúp giảm bớt nạn thất nghiệp trong nước. Cùng với việc di chuyển các nguồn vốn vào trong nước các công ty đa quốc gia cũng như các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đó là: xây dựng nhà máy, mở các chi nhánh phân phốI sản phẩm,… Đồng thờI vớI các hoạt động đó là họ tiến hành tuyển lao động và tổ chức đào tạo các kỹ năng cho người lao động. Từ đó giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Thứ năm: Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Vốn đầu tư và công nghệ di chuyển vào trong nước là điều kiện để khai thác và sử dụng hiệu quả hơn nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, thị trường trong nước,… Và đây cũng là yếu tố giúp phân bổ các nguồn lực hiệu quả và hợp lý, theo hướng phát triển mạnh các ngành có thế mạnh, có lợi thế. Thứ sáu: Cùng với việc đầu tư vào trong nước tiếp nhận đầu tư các nhà đầu tư nước ngoài đã tạo điều kiện cho các nước này tiếp cận mạng lưới phân phối rộng khắp của mình trên thế giới. Từ đó, giúp mở rộng thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm trong nước. 1.2.1.2 Tác động tiêu cực Thứ nhất: Nó tạo ra sự phụ thuộc về vốn và công nghệ nước ngoài. Các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài do tư nhân thực hiện vì mục đích lợI nhuận. Nên nước tiếp nhận không no bị phụ thuộc về mặt chính trị như nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, khi có biến động về chính trị, do sự trì trệ kinh tế,… có thể dẫn đến sự rút vốn hàng loạt của các nhà đầu tư nước ngoài, làm sụt giảm khá lớn lượng vốn đầu tư, làm giảm khá lớn tăng trưởng kinh tế, thậm chí có thể dẫn đến khủng hoảng và làm phá sản hành loạt doanh nghiệp. Thứ hai: Tạo ra sự chuyển dịch xấu về cơ cấu kinh tế và môi trường. Như là nhà đầu tư thường chú trọng đầu tư các ngành có lợi nhuận cao. Trong khi đó các nhà họach định chính sách mong muốn thu hút đầu tư vào các ngành có lợi thế so sánh, những vùng có trình độ phát triển thấp song điều này không phải bao giờ cũng được các nhà đầu tư chấp thuận. Trong nhiều trường hợp công nghệ chuyển giao là những công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Thứ ba: Gây ra những ảnh hưởng không tốt về mặt xã hội. Các nhà đầu tư đến đem theo cả lối sống và phong cách của nước họ đến nước tiếp nhận đầu tư và điều này có thể gây ra những tác động xấu đến văn hoá dân tộc, phá vỡ câc chuẩn mực xã hội trước đây…Trong nhiều trường hợp các nhà đầu tư còn có những tác động nhất định trong việc hình thành tác phong công nghiệp và phát triển cộng đồng. Mặt khác, nó còn có thể tạo ra các sung đột giữa các nhà đầu tư, giữa công nhân và ngườI chủ,… gây ra những bất ổn về mặt xã hội. Các nhân tố ảnh hưởng 1.2.2.1 Những nhân tố thuộc về phía Việt Nam Việt Nam luôn coi EU là một đối tác chiến lược của mình, là một đối tác quan trọng để thu hút công nghệ nguồn, tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến,… góp phần nâng cao hiệu ứng đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện, đại hoá đất nước. Trong thời gian qua chúng ta đã có nhiều biện pháp và chính sách nhằm thu hút nguồn vốn từ đối tác này, như việc ban hành luật đầu tư luật doanh nghiệp thống nhất có hiệu lực ngày 1/7/2006, hệ thống chính sách đầu tư không ngừng được cải thiện theo hướng minh bạch hoá, thông thoáng và thuận lợi cho nhà đầu tư… Đảng và nhà nước ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với việc tham gia vào AFTA, ASEAN, APEC, đặc biệt là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mạI thế giớI WTO… đã và đang tạo hành lang để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của tất cả các nước trên thế giới. Trong đó, Việt Nam luôn coi EU là một đối tác quan trọng hàng đầu của mình. Do vậy, các nguồn vốn từ EU vào Việt Nam luôn được hưởng những chế độ ưu tiên ưu đãi và tạo điều kiện để dự án được triển khai và thực hiện đạt kết quả tốt. Trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng của Việt Nam ổn định trung bình từ 7 - 8% một năm. Tốc độ tăng trưởng cao thể hiện một môi trường đầu tư thuận lợi ổn định, việc sử dụng vốn đầu tư đạt 1.2.2.2 Các nhân tố thuộc về phía EU EU là một đối tác có công nghệ nguồn mà Việt Nam mong muốn thu hút được nguồn vốn này. Tuy nhiên, xét về tổng vốn đầu tư cũng như lượng vốn trên một dự án của EU vào Việt Nam so với Singapo, Hong kong, Nhật Bản hay Hàn Quốc thì không cao. Điều này khác hẳn trong quan hệ của EU với các nước ASEAN khác. Thí dụ EU là đối tác đầu tư lớn nhất vào Inđonesia, Thái Lan, Malaysia, Singapore… Trong số các nước và vùng lãnh thổ có vốn FDI vào Việt Nam thì FDI của EU được đánh giá là rất hiệu quả nếu dựa theo tiêu chí quy mô số vốn/dự án. Tuy nhiên, nhìn chung các nhà đầu tư EU vẫn chưa coi Việt Nam là một địa điểm đầu tư trọng điểm,nhất là khi so sánh với Trung Quốc và một số nước kể trên. Dường như đầu tư của EU tại Việt Nam mang tính thăm dò, giữ chỗ, các nhà đầu tư Châu Âu chưa thực sự có kế hoạch dài hạn tại Việt Nam. Thực tế các hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI của EU cho thấy rằng các nhà đầu tư này rất quan tâm khai thác thị trường nội địa của Việt Nam như tập đoàn Unilever Việt Nam có hệ thống phân phối rộng khắp cả nước bao gồm 350 nhà phân phối và hơn 150.000 đại lý bán lẻ, đạt doanh thu 22.000 tỷ đồng; công ty bảo hiểm Prudential đã thành lập 70 trung tâm và điểm phục vụ cho hơn 2 triệu khách hàng tại 50 tỉnh và thành phố trong cả nước … Cũng vì vậy mà EU không quan tâm đến việc xây dưng các nhà máy phụ trợ tại Việt Nam để phục vụ vho việc sản xuất hàng hoá đặc biệt là hàng hoá xuất khẩu. Và khi yếu tố nội địa vẫn có tính quyết định trong phân bổ đầu tư thì Việt Nam sẽ bị yếu thế hơn so với các nước khác. Tiềm năng đầu tư của EU vào Việt Nam là rất lớn nhưng tỷ trọng đầu tư thực tế vào Việt Nam lại rất thấp. Năm 2001 chiếm 39% tổng số vốn đầu tư vào Việt Nam, năm 2002 là 3%; 2004 là 2,23%; năm 2005 là 13,8% . Điều này do các nguyên nhân sau: Thứ nhất, do nền kinh tế của các nước EU trong giai đoạn 2001 - 2003 có xu hướng giảm sút và duy trì tăng trưởng ở mức rất thấp. Trong 2 năm 2004 và 2005, mức tăng trưởng mặc dù đã cao hơn trước nhưng chưa thực sự cho thấy dấu hiệu phục hồi mạnh mẽ. Theo các chuyên gia, nền kinh tế các nước EU thời gian qua phải đối mặt với nhiều khó khăn, trong đó có một số khó khăn chủ yếu là: thị trường chứng khoán châu Âu vỡ bong bóng, giảm giá khoảng 50%; các khoản phúc lợi xã hội cao; đồng EURO tăng giá mạnh so với các ngoại tệ khác đã làm hạn chế khả năng kinh doanh và góp phần làm cho thị trường thất nghiệp tăng. Mặc dù EU đã thực hiện nhiều chính sách và biện pháp nhưng kết quả mới chỉ là bước đầu. Do kế hoạch mở rộng EU đòi hỏi các khoản chi rất lớn để giúp các thành viên mới gia nhập đạt mức tăng trưởng phù hợp với yêu cầu của EU. Điều này tác động mạnh đến lượng FDI của các nước EU. Thứ hai, do chính sách mở rộng của liên minh châu Âu EU phải dành 70 tỷ EURO trong giai đoạn 2002 - 2006 để hỗ trợ cho các chương trình trước và sau hội nhập. Thứ ba, EU là đối tác làm ăn có kinh nghiệm và thận trọng phần nào họ đang theo dõi tiến trình đàm phán để gia nhập WTO và những thay đổi trong các biện pháp và chính sách của Việt Nam. Và cuốI năm 2006, đầu năm 2007 các nhà đầu tư của EU đã đầu tư mạnh mẽ vào Việt Nam, với những dự án quy mô lớn hơn, nó đã thể hiện hiệu quả cao. Đó chính là nguyên nhân kéo nguồn vốn FDI chảy mạnh vào Việt Nam, nơi có tỷ suất đầu tư lợi nhuận cao. Môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng được cải thiện, chính trị ổn định, an ninh đựơc đảm bảo. Tuy nhiên, lực lượng lao động ở Việt Nam có nhiều dồi dào nhưng lao động tay nghề cao lại thiếu. Mà các nhà đầu tư EU khi đầu tư ra nước ngoài với mục tiêu là tận dụng nguồn lao động với chất lượng cao giá thành rẻ. Vì vậy, muốn thu hút được nhiều hơn nữa nguồn vốn từ đối tác này Việt Nam phải quan tâm đào tạo phát triển nguồn nhân lực của mình. Hoạt động xúc tiến đầu tư đã được triển khai ở nhiều ngành nhiều cấp, trong nước và ngoài nước như việc tổ chức thành công diễn đàn hợp tác đầu tư và triển lãm đầu tư trực tiếp nước ngoài đã cung cấp thông tin về môi trường đầu tư Việt Nam nhằm thu hút đầu tư nước ngoài… Các địa phương cũng chủ động các cuộc vận động và hội nghị xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước. Các hoạt động đó đã thu được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, Việt Nam lại chưa có một cơ quan xúc tiến đầu tư nào ở EU. Thị trường tài chính, thị trường vốn đã và đang có những bước phát triển mạnh mẽ. Đến nay, các sản phẩm tài chính cơ bản đã xuất hiện, khu vực bảo hiểm đã có sự tham gia tích cực của các tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm trong và ngoài nước, thị trường chứng khoán đã hình thành và phát triển mạnh mẽ. Cùng với việc cải cách hệ thống tài chính, thị trường vốn đã và đang trở thành nơi cung cấp vốn đầu tư dài hạn có hiệu quả của nền kinh tế. Tuy nhiên, thị trường vốn ở nước ta vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cung cấp vốn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam ký nhiều hiệp định và đã ký hiệp định khung với EU tạo hành lang pháp lý cho nhà đầu tư EU khi đầu tư vào thị trường Việt Nam. Đặc biệt, vào tháng 11 năm 2006 Việt Nam đã là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Với sự kiện này nó đã tạo ra thế và lực mới cho Việt Nam, nó đã và sẽ tạo ra một làn sóng đầu tư lớn từ nước ngoài vào nước ta. Nước ta đã xây dựng được khu công nghiệp khu chế xuất nó đã tạo ra một cơ sở hạ tầng hiện đại, phần nào đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư nước ngoài nhưng do các nhà đầu tư EU quan tâm nhiều hơn vào thị trường nội địa nên họ chưa thực sự quan tâm đến khu công nghiệp khu chế xuất của Việt Nam. Vấn đề tham nhũng cũng là một vấn đề gần đây của Việt Nam cần được giải quyết triệt để vì nó gây ra tâm lý không tin tưởng vào sự ổn định chính trị lâu dài của chính trị và an ninh quốc gia của các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và của EU nói riêng. Về mặt các chính sách của chính phủ thì rõ ràng và ổn định trong các giai đoạn dài nhưng các chính sách ngắn hạn của Việt Nam thì thường xuyên thay đổi đã gây ra tâm lý dè chừng, đứng ngoài quan sát, đầu tư thăm dò của các nhà đầu tư EU. Tuy nhiên, điều này đang được Chính phủ hết sức quan tâm. Ngoài ra, Việt Nam có vị trí thuận lợi trong khu vực Đông Nam Á, tài nguyên thiên nhiên phong phú… cũng là một điểm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. 1.2.2.3 Những nhân tố trên thế giới tác động đến đầu tư trực tiếp (FDI) từ EU vào Việt Nam Thứ nhất, là phải kể đến sự tăng trưởng kinh tế chung của thế giới, nếu tốc độ tăng trưởng ổn định sẽ tác động làm cho nguồn vốn FDI tăng lên và ngược lại với tốc độ tăng trưởng thấp không ổn định sẽ làm hạn chế nguồn vốn FDI. Đặc biệt là sự tăng trưởng của ba trụ cột kinh tế thế giới Mỹ, EU, Nhật. Nó sẽ tạo ra động lực cho kinh tế thế giới tăng trưởng nếu nó có sự tăng trưởng tốt. Ví dụ: trong giai đoạn 2001 - 2003 do vốn FDI sụt giảm là do kinh tế thế giới tăng trưởng thấp đến năm 2003 dần lấy lại đà tăng trưởng nhưng chưa thực sự mạnh mẽ trong giai đoạn này cả ba nền kinh tế trụ cột của thế giới đều gặp phải hàng loạt các vấn đề nên đều trải qua thời kỳ phát triển không vững chắc và không tạo đựơc đà thúc đẩy kinh tế thế giới phát triển. Thứ hai, là do tình hình an ninh chính trị trên thế giới: nếu vấn đề an ninh và nguy cơ bất ổn thấp từ đó mới tạo đựơc tâm lý an toàn cho nhà đầu tư thì họ mới quyết định bỏ vốn đầu tư và ngược lại. Bởi lẽ hoạt động đầu tư là hoạt động đòi hỏi nguồn vốn lớn, phải có thời gian lâu dài mới mong thu được lợi nhuận, do vậy nó chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau. Thứ ba, là luồng vốn FDI là một trong những vấn đề mà bất cứ một quốc gia nào cũng quan tâm mong muốn thu hút được nhiều nguồn vốn FDI. Do vậy, họ đều có những chính sách và biện pháp ưu đãi khuyến khích các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài, đã tạo ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia để giành giật nguồn vốn này. Ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương sự cạnh tranh này trở nên gay gắt hơn sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Thứ tư, do chiến lược phát triển của các công ty xuyên quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể. Ví dụ trong giai đoạn 2000 - 2001 nguồn vốn đầu tư trên thế giới giảm một phần là do việc các hoạt động M&A trong những năm này giảm cả về số lượng và giá trị. Ở những năm này các công ty xuyên quốc gia phải tập trung vào thực hiện việc cải cách các hoạt động, cải tổ cơ cấu để nâng cao sức cạnh tranh và xu hướng chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia giảm bớt các hoạt động đầu tư mới thông qua M&A với mục đích mở rộng thị trường. Kinh nghiệm của các nước trong việc thu hút và sủ dụng nguồn vốn FDI của EU 1.3.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Kể từ năm 1979 nền kinh tế Trung Quốc mở cửa, Trung Quốc đã đạt được những thành tựu to lớn, nền kinh tế luôn đạt một mức tăng trưởng kinh tế cao khoảng 9% . Một trong những lý do giúp nền kinh tế Trung Quốc đạt được những thành tựu đó một phần đáng kể là do nguồn vốn FDI mà Trung Quốc đã thu hút được. Nguồn vốn này đã đóng vai trò quan trọng bổ sung và thúc đẩy kinh tế phát triển. Sau gần 20 năm cải cách và mở cửa tính đến cuối năm 2001, Trung Quốc đã cấp phép cho hơn 411.495 dự án có vốn FDI, với tổng số vốn cam kết là 807,6 tỷ USD và số vốn giải ngân là 429,64 tỷ USD (theo con số thống kê của MOFTEC) Trung Quốc luôn nhận được nguồn vốn FDI lớn nhất trong số các nước đang phát triển kể từ năm 1993. Theo các chuyên gia Trung Quốc kể từ khi bắt đầu cải cách mở cửa FDI của Trung Quốc tính theo tài sản cố định trong tổng vốn đầu tư chiếm khoảng 7%. Trong giai đoạn từ năm 1979 - 2003, tổng đầu tư tính theo tài sản cố định đã đóng góp hơn 40% cho tăng trưởng kinh tế, trong đó hơn 5% là đóng góp trực tiếp của đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Thành công về thu hút FDI của Trung Quốc là do quan điểm nhất quán rõ ràng kiên quyết thực hiện các chính sách thông thoáng về cải cách, mở cửa và chủ động sử dụng vốn nước ngoài một cách hợp lý hiệu quả. Đặc biệt, sau chuyến “ công du” của Đặng Tiểu Bình năm 1992 đã tạo ra một bức ngoặt lớn cho nguồn vốn FDI chảy vào Trung Quốc. Năm 2002 Trung Quốc đã vượt qua Mỹ trở thành nước nhận FDI nhiều nhất trên thế giới. Trung Quốc luôn chú trọng đúng mức vào các nguồn vốn đến từ những nước có công nghệ nguồn như EU, Mỹ, Nhật. Chỉ tính riêng Quần đảo Virgin thuộc Anh, Anh, Đức, Pháp đã có 12356 dự án (chiếm 8,08% ), vốn thực hiện đạt hơn 4 tỷ USD (chiếm10,02%) (theo số liệu của MOFTEC) trong năm 2001. Trung Quốc đã chia thành 3 giai đoạn để thực hiện mục tiêu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài: Giai đoạn 1: Từ 1979 - 1991 là giai đoạn thử nghiệm các nguồn đầu tư nước ngoài chỉ đóng vai trò bổ sung cho hình thức vay nước ngoài cho việc cung cấp ngoại tệ cho nhu cầu phát triển đất nước. Giai đoạn 2: Từ năm 1992 - 2000 là giai đoạn tiếp nhận đầu tư nước ngoài qui mô lớn và có hệ thống, FDI là hình thức chủ yếu. Giai đoạn 3 : Từ 2001 đến nay, Trung Quốc thực hiện chính sách toàn diện thu hút đầu tư nước ngoài đa lĩnh vực đa thành phần. Trong những năm thực hiện chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc thì cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài có sự chuyển biến theo chiều hướng phù hợp với xu hướng phát triển của đất nước đó là từ việc ưu tiên cho các ngành công nghiệp chế biến sáng ưu tiên đầu tư cho ngành công nghiệp cơ bản và cơ sở hạ tầng cũng như ngành công nghệ cao, công nghệ mới. Năm 2001, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành chế tạo 3,907tỷ USD tương đương với 66% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Trung Quốc. Tuy nhiên, cơ cấu đầu tư giữa các vùng miền của Trung Quốc có sự mất cân đối lớn. FDI chủ yếu tập trung ở các tỉnh miền duyên hải phía đông mầu mỡ và thuận lợi. Đây cũng là một chiến lược của chính phủ Trung Quốc họ muốn thu hút đầu tư vào theo kiểu cuốn chiếu từ ngoài vào trong đại lục. Từ năm 1999 Trung Quốc bắt đầu có những khuyến khích thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào vùng miền trung và miền tây kém phát triển nên kết quả không được như ý muốn. Về nguồn vốn đầu tư FDI hơn 60% vốn đầu tư FDI vào Trung Quốc và của Hoa Kiều từ Hong Kong, Đài Loan, Singapore. Trung Quốc đã phát huy tốt được nguồn lực Hoa kiều trên thế giới phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đồng thời thông qua đó kéo các nhà đầu tư nước ngoài đến với mình. Đến tháng 8 năm 2002 đã có 180 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Trung Quốc trong đó Hông Kông chiếm 47,32% tổng vốn đầu tư FDI. Đặc biệt Trung Quốc thu hút được 400 trong số 500 công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới bỏ vốn vào những ngành công nghiệp quan trọng: sản xuất ôtô, chế tạo máy, điện tử viễn thông… các công ty lớn như Siemens, Ericsson, Motorola… Cả Việt Nam và Trung Quốc đều giống nhau về cơ cấu đầu tư mất cân đối giữa các vùng miền ở Việt Nam tập trung ở thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và các vùng phụ cận. Giống nhau về nguồn vốn, cả hai nước đều có danh sách 10 nước đầu tư lớn nhất nhưng khác nhau về thứ tự. Bảng 1: Thứ tự 10 nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam và Trung Quốc STT Việt Nam Trung Quốc 1 Singapore Hồng Kông 2 Đài Loan Mỹ 3 Nhật Bản Nhật 4 Hàn Quốc Đài Loan 5 Hồng Kông Singapore 6 Pháp Đảo Virgin 7 Đảo Virgin (thuộc Anh) Hàn Quốc 8 Anh Anh 9 Nga Đức 10 Mỹ Pháp Theo bảng trên ta thấy đặc điểm của Việt Nam và Trung Quốc rất tương đồng về mức độ các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu ở Trung Quốc là liên doanh, 100% vốn nước ngoài và hợp đồng hợp tác kinh doanh (BOT). Vào thời kỳ đầu Trung Quốc hạn chế ở hình thức 100% vốn nước ngoài và yêu cầu nhà đầu tư nước ngoài muốn gia nhập thị trường phải thành lập liên doanh với các nhà doanh nghiệp Trung Quốc. Nhưng đến năm 1990, Trung Quốc đã cho phép thành lập các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, ngoài ra Trung Quốc còn cho phép đầu tư gián tiếp khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài tham gia quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, cho phép họ trở thành cổ đông của những doanh nghiệp nhà nước then chốt. Từ năm 1992, bên cạnh cổ phiếu loại A (chứng khoán nội tệ) Trung Quốc đã thiết lập thị trường cổ phiếu loại B (chứng khoán ngoại tệ), cho phép các nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh chứng khoán, đồng thời doanh nghiệp c._.ó vốn đầu tư nước ngoài được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Từ năm 1995 Trung Quốc cho phép thành lập các công ty quản lý tài chính và đến năm 2002 bắt đầu thí điểm các hình thức đầu tư mới như quĩ đầu tư mạo hiểm quĩ tương hỗ. Trong khi đó ở Việt Nam hiện nay mới chỉ có các hình thức đầu tư là liên doanh, 100% vốn nước ngoài, BOT, các hình thức đầu tư gián tiếp thì mờ nhạt, chưa phát triển và giai đoạn đầu chủ yếu là liên doanh với doanh nghiệp nhà nước mà vốn góp chủ yếu là giá trị quyền sử dụng đất nên hiệu quả không cao. Một trong những yếu tố hàng đầu tiên quyết dẫn đến thành công trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là do Trung Quốc có sự thống nhất cao về quan điểm, kiên trì thực hiện các chính sách cải cách mở cửa nhất quán, rõ ràng, thông thoáng và chủ động sử dụng vốn nước ngoài một cách hợp lý và hiệu quả. Trung Quốc đã thực sự coi đầu tư nước ngoài là một nguồn lực quan trọng trong quá trình phát triển, chính phủ Trung Quốc có những chính sách thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng thông thoáng và thống nhất được quan điểm này từ trung ương đến địa phương. Về cơ bản, khuyến khích pháp luật về đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc được thiết lập trên cơ sở 3 đạo luật qui định về đầu tư nước ngoài: Luật liên doanh nước ngoài, Luật về hợp đồng hợp tác kinh doanh với nước ngoài, Luật doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong thời gian gần đây Trung Quốc đã có những sửa đổi hết sức thông thoáng như chính phủ Trung Quốc cho phép các doanh nghiệp liên doanh và 100% vốn nước ngoài không còn phải báo cáo kế hoạch sản xuất và điều hành với các cơ quan liên quan; Trung Quốc xác định rõ phạm vi được phép của đầu tư nước ngoài có thể tham gia thông qua việc phân chia ngành nghề đầu tư thành 4 loại: khuyến khích, được phép, hạn chế, cấm; Chính phủ ban hành hướng dẫn đầu tư nước ngoài trong đó bao gồm nhiều dự án khuyến khích liên quan đến tự do hoá lĩnh vực dịch vụ, bao gồm hoạt động ngân hàng bảo hiểm, thương mại, ngoại thương, du lịch, truyền thông, vận tải, các dịch vụ về kế toán là lĩnh vực trước đây bị hạn chế; khuyến khích đầu tư vào các vùng khó khăn được hưởng chính sách thuế ưu đãi hơn trong 10 năm sau khi bắt đầu dự án đầu tư; khuyến khích nhà đầu tư tham gia vào quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước bằng cách chính phủ dự định sẽ bán một phần cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước trong vòng 5 năm tới để đẩy mạnh việc tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước… Với các chinh sách như thế Trung Quốc đã thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này, các dự án đầu tư FDI đi vào hoạt động đã thu hút 23 triệu lao động chiếm 10% lực lượng lao động thành thị. Hàng năm đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước, năm 2001 thu hút từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài năm 2001 tăng với tốc độ 30,04% so với năm 2002 và luôn luôn cao hơn 1,5 đến 2 lần tốc độ tăng thu ngân sách của cả nước. Tổng thu ngân sách từ các doang nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từ chỗ chỉ chiếm 4,25% tổng thu ngân sách năm 1992 đã tăng lên 19,01% tổng thu ngân sách của cả nước năm 2001. Tổng giá trị xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng liên tục tăng trong thời gian qua. Năm 2001, giá trị xuất nhập khẩu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 259,098 tỷ USD, với 50,8% tổng giá trị xuất nhập khẩu của cả nước. Hoạt động đầu tư trưc tiếp nước ngoài ở Trung Quốc có những chuyển biến về chất, các doanh nghiệp đang chuyển mạnh từ công nghệ sử dụng nhiều lao động sáng công nghệ sử dụng nhiều vốn. Việt Nam được đánh giá là có những điểm tương đồng vậy chúng ta có thể học tập được gì từ những kinh nghiệm trên đây của Trung Quốc ta sẽ tìm hiểu ở phần sau. 1.4.2 Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong việc đưa ra những chính sách để đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài Cùng với xu hướng chung của thế giới trong những năm 2002-2003 nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc bị trượt dốc. Mặt khác, do ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, thị trường chứng khoán Châu Âu vỡ bong bóng…Đồng thời với sự cạnh tranh gay gắt với các nước thu hút từ đầu tư nước ngoài khác, nguồn vốn FDI đã bị giảm đáng kể và tăng chậm chạp. Trước tình hình đó, để khắc phục tình trạng này Chính phủ đã đưa ra nhiều khuyến khích đầu tư mới bằng cách sửa đổi luật đầu tư nước ngoài. Trong đó tập trung vào việc xoá bỏ các qui tắc gây cản trở đầu tư và tự do hoá thị trường với mục đích làm cho Hàn Quốc trở thành nơi đến hàng đầu cuả các nhà đầu tư nước ngoài. Hàn Quốc đã tự mình biến đổi để thích hợp với sự thay đổi của môi trường kinh tế toàn cầu; và đã ký các hiệp định thương mại tự do với các nước Chi Lê và Singapore. Kết quả là năm 2004 Hàn Quốc đã thu hút được 10 tỷ USD, vượt 70% so với cùng thời điểm năm 2003. FDI tích luỹ dự kiến đạt con số trên 100 tỷ USD lần đầu tiên trong lịch sử Hàn Quốc. Hiện nay, 15% tổng số sản xuất được tạo ra từ các tổ chức kinh doanh nước ngoài, cứ 10 công nhân Hàn Quốc thì có 1 người làm việc cho người nước ngoài. Đầu tư nước ngoài cũng chiếm 13% xuất khẩu trong khu vực chế tạo. Chính phủ Hàn Quốc với mục tiêu thu hút hơn nữa nguồn vốn FDI đã thực hiện những chính sách và biện pháp sau: Chính phủ đã tìm cách sửa đổi các luật, cải thiện môi trường đầu tư và mở rộng khuyến khích đầu tư. Bao gồm giảm thuế và cung cấp các địa điểm công nghiệp. Trong điều khoản mới ban hành, chính phủ sẽ cung cấp cho nhà đầu tư nước ngoài tiền trợ cấp tương đương mức tối đa 15% giá trị đầu tư của họ. Để nhận được tiền trợ cấp, nhà đầu tư nước ngoài cần đầu tư tối thiểu 10 triệu USD trong xây dựng mới hoặc mở rộng các nhà máy đang tồn tại mà sự chuyển giao kỹ thuật có biên độ tác động đến công nghiệp liên quan hoặc 5 triệu USD trong nghiên cứu và phát triển các phương tiện. Ở Việt Nam hiện nay, chưa có hình thức này vì nhiều lý do khác nhau như: thiếu vốn, khả năng quản lý của các cơ quan nhà nước còn yếu kém…Vì vậy nếu chính phủ thực hiện áp dụng chính sách này vào Việt Nam kết quả sẽ không như ý muốn, thậm chí còn gây ra tác động xấu cho các doanh nghiệp trong nước vốn đã yếu ớt. Ở Hàn Quốc khi thực hiện chính sách trợ cấp thì chính phủ có kế hoạch cấp tiền trợ cấp một cách linh hoạt, qua việc thương lượng với các nhà đầu tư nước ngoài và xem xét sự đóng góp của họ đối với nền kinh tế. Về phía doanh nghiệp để được hưởng tiền trợ cấp, nhà đầu tư cần nộp đơn kèm theo bản kế hoạch đầu tư của mình. Nếu được phê duyệt, tiền trợ cấp sẽ được cung cấp một lần hoặc nhận trong 10 kỳ hoặc ít hơn trong vòng 5 năm. Một công ty có thể đựơc hưởng cả tiền trợ cấp lẫn các ưu đãi về thuế. Ngoài ra, Chính phủ còn thực hiện các chính sách khuyến khích khác nhau như trợ giúp cho thuê đất, trợ cấp nghề nghiệp và huấn luyện người lao động. Giai đoạn cho thuê tài sản của Chính phủ được mở rộng từ 20 năm tới 50 năm. Các giai đoạn tiền cho thuê đất có thể được gia hạn tới 50 năm 1 lần. Các công ty nước ngoài có các dự án đầu tư đặt trong các khu vực đầu tư được miễn tiền thuê đất ở một trong 3 công viên công nghiệp giành cho tổ chức kinh doanh đầu tư nước ngoài sẽ được giảm 70% tiền thuê đất, chiết khấu 50% sẽ được cấp cho việc đầu tư kỹ thuật 1 triệu USD trong các công viên công nghiệp địa phương và quốc gia. Ở Việt Nam hầu hết các doanh nghịêp góp vốn bên phía Việt Nam là bằng giá trị quyền sử dụng đất còn doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì được ưu đãi miễn giảm tiền thuê đất đến khi dự án đi vào hoạt động hoặc sau 5 đến 10 năm thực hiện dự án. Ở Hàn Quốc khi thực hiện chính sách này đã thu được nhiều sự chuyển biến rõ rệt tạo được động lực lớn cho nhà đầu tư nước ngoài chú ý. Bởi vì Hàn Quốc là một đất nước công nghiệp mới có các điều kiện về cơ sở hạ tầng chất lượng lao động cao…Và với việc ban hành chính sách này họ đã ban hành thêm nhiều chính sách khác trước đó do đó hiệu quả của nó mới cao. Để thiết lập hệ thống thu hút FDI Chính phủ trung ương sẽ trợ giúp nỗ lực cho các chính quyền địa phương khuyến khích thu hút FDI qua các phương pháp sau: Cho vay vốn để mua đất; cung cấp các quỹ bù đắp cho chính quyền địa phương nếu xảy ra thiệt hại khi thực hiện việc giảm hoặc miễn các phí thuê hoặc mua; các trợ cấp cộng đồng cho các mục đích khác nhau như việc đào tạo nhân công… Trong đạo luật mới, Hàn Quốc còn giảm hoặc miễn thuế cho các công ty và thuế thu nhập đã được mở rộng từ 8 năm đến 10 năm… Việt Nam là một nước đang phát triển việc hoàn thiện các chính sách đã và đang được thực hiện vậy chúng ta có thể học hỏi được gì từ những kinh nghiệm trên của Hàn Quốc? Để có thể tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng cho nhà đầu tư nước ngoài mà vẫn đảm bảo được lợi ích của phía Việt Nam quả là điều khó khăn. 1.4.1.3 Kinh nghiệm của Thái Lan trong việc chống chuyển giá của các công ty đa quốc gia Chuyển giá là một vấn đề quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Các tập đoàn kinh doanh đa quốc gia có các chi nhánh, các trung tâm quản lý trong phạm vi khu vực và toàn cầu, ước tính có đến 60% thương mại quốc tế được tiến hành bên trong các nhóm công ty đa quốc gia. Con số này sẽ tiếp tục tăng lên khi các công ty này tiếp tục tập trung các hoạt động hậu cần làm cho có hiệu quả hơn các chuỗi cung cấp của chúng và tạo ra các trung tâm sản xuất dịch vụ xuất sắc. Các công ty xuyên quốc gia đã thu được những khoản lợi nhuận kếch sù trong đó phần lợi nhuận thu được từ thủ đoạn “chuyển giá” là thật không nhỏ. Thực tế cho thấy hiện tượng chuyển giá ngày càng tăng lên gây ra thất thu cho ngân sách nhà nước và hơn thế nữa nó còn gây ra những hậu quả lan toả xấu cho nền kinh tế. Ở Việt Nam, hoạt động chuyển giá đã gây thất thu thuế nghiêm trọng trong đầu tư nước ngoài đáng lo ngại hơn có quá nhiều doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động được kê khai là không có hiệu quả theo số liệu của tổng cục thống kê năm 1996 trong số 1000 doanh nghiệp FDI đã đi vào hoạt động thì chỉ có 250 doanh nghiệp hoạt động có lãi chiếm 25%, số dự án kinh doanh còn lại bị lỗ; năm 1994 có 197 dự án với tổng số lỗ là 133,7 triệu USD và nửa đầu năm 1996 có tổng số lỗ là 96 triệu USD. Theo số liệu điều tra của chi cục thuế thành phố Hồ Chí Minh trong năm 1995 trên địa bàn thành phố có 67 xí nghiệp kinh doanh lãi trong khi có 188 xí nghiệp lỗ. Năm 1996 có 75 xí nghiệp lãi còn 273 xí nghiệp lỗ, chiếm tỷ lệ 80%. Một điều nghịch lý là các doanh nghiệp nhà nước luôn có lãi trước khi liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài thì nay lại là các doanh nghiệp thua lỗ. Mặt khác, các doanh nghiệp sau khi liên doanh được nâng cao về trình độ khoa hoc công nghệ, nâng cao năng lực quả lý.Chứng tỏ ở đây đã có sự gian dối của các đối tác nước ngoài. Thực tế các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thực hiện thủ thuật chuyển giá để kê khai doanh nghiệp bị thua lỗ nhằm trốn thuế thu nhập doanh nghiệp, dồn ép phía đối tác Việt Nam để dần chiếm thị phần biến doanh nghiệp liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài như công ty Coca - cola sau hai năm hoạt động thua lỗ 100 tỷ đồng và duy trì sự thua lỗ nghiêm trọng trong nhiều năm làm cho bên Việt Nam không chịu nổi sự bù lỗ đã phải dần nhượng lại thị phần cho bên nước ngoài kết quả công ty này đã trở thành 100% vốn nước ngoài. Theo báo cáo kê khai hoạch toán tính đến cuối tháng 6 năm 2005 của cục thuế thành phố Hồ Chí Minh công bố 1450 doanh nghiệp FDI tại thành phố chỉ có 190 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có lãi chiếm 13% còn lại hạch toán lỗ hoặc đang trong giai đoạn triển khai dự án. Trong tháng 6 năm 2005 cục thuế TP Hồ Chí Minh đã kiểm tra hơn 50 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và phát hiện nhiều doanh nghiệp khai man lợi nhuận trước thuế xác nhận được số thuế truy thu gần 60 tỷ đồng. Nguyên nhân của tình trạng này có rất nhiều nhưng vấn đề chung nhất là do phía Việt Nam không có khả năng kiểm soát để một số đối tác nước ngoài trong liên doanh khai khống chi phí đầu tư định giá máy móc thiết bị góp vốn quá cao nâng giá nguyên vật liệu nhập khẩu, ép giá xuất khẩu sản phấm đầu ra thông qua chuyển giá với công ty mẹ để thu lợi nhuận ngay từ đầu hạch toán lỗ cho liên doanh mà bên Việt Nam trong liên doanh không kiểm soát được. Ngoài ra nhiều đối tác thực hiện lâu dài là chiếm lĩnh thị trường, nên họ thực hiện chính sách khuyến mại, quảng cáo khuyếch trương… Các hoạt động đó để nhằm đạt được những mục tiêu là chủ động hạch toán thua lỗ nhiều năm liên tục để bên Việt Nam phải rút lui, giảm xuống mức thấp nhất thuế thu nhập doanh nghiệp, công ty mẹ ở nước ngoài được hưởng lợi qua chuyển giá, cuối cùng là đè bẹp các thương hiệu hàng đầu của Việt Nam. Trước thực trạng đó, Việt Nam phải làm gì để tăng sự quản lý đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để chống lại hiện tượng chuyển giá như kinh nghiệm của Thái Lan trong việc chống chuyển giá cho thấy để đối phó với hiện tượng chuyển giá là đưa ra những qui định về chuyển giá vào năm 2004 cục thu nhập Thái Lan thiết lập cơ sở dữ liệu thông tin về các công ty là mục tiêu để tiến hành kiểm tra sổ sách và điều tra. Cụ thể là các công ty có các chỉ số “ rủi ro cao”, như là thua lỗ liên tục trên 2 năm tống số lợi nhuận âm, có các giao dịch đáng kể của cùng nhóm liên quan và khả năng sinh lãi thấp liên quan tới đối thủ cạnh tranh. Cục thu nhập Thái Lan tập trung vào các chứng cứ giá cả chính xác, tất cả cần hợp lý để chứng tỏ sự minh bạch, tài liệu cập nhật để chỉ ra cơ cấu và mối liên hệ của nhóm các công ty, bao gồm tính chất của mỗi loại kinh doanh ngân sách của nó, kế hoạch kinh doanh và các chiến lược tài chính, thêm vào đó là những tài liệu giải thích doanh số của công ty kết quả hoạt động các tính chất và lý do với giao dịch quốc tế của công ty với các tổ chức kinh doanh liên kết sẽ luôn luôn được gìn giữ và có khả năng gìn giữ. Các chính sách giá khả năng sinh lãi của một sản phẩm và thông tin thị trường sự đóng góp, lợi nhuận của mỗi bên nhận, các chức năng thực hiện, các tài sản đã sử dụng và sự rủi ro tất cả phải được đưa vào tính toán và có khả năng sử dụng cho việc khảo sát tường tận. Cục thu nhập Thái Lan cũng muốn nhận được chứng cứ của các lý do cho việc lựa chọn phương pháp giá và các chi tiết của phương pháp đó. Tuy trong nền kinh tế hiện nay việc đánh giá chính xác các chi phí dành cho hoạt động quảng cáo, marketing, nghiên cứu phát triển…là rất khó khăn. Tuy nhiên Thái Lan trong sự công nhận nơi tạo ra lợi nhuận, các cơ quan thuế tập trung mạnh vào việc chuyển giá, và sẽ hình thành các ý kiến riêng của họ về lãi thích hợp trong thị trường của chúng. Những rủi ro và khó khăn trong việc điều tra chuyển giá là rất lớn đòi hỏi cơ quan thực hiện phải thực sự nghiêm túc, thực sự có những nghiên cứu về chiến lược của các công ty, và phải am hiểu thị trường…có như vậy mới đạt được kết quả phần nào như mong muốn. Những bài học kinh nghiệm rút ra từ các nước đối với Việt Nam Nhìn vào bảng 1 và bảng 2 ta thấy so với các nước trong khu vực nước ta có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất theo tỷ giá USD hiện hành cũng như theo tỷ giá USD ngang sức mua, chỉ bằng 2,26% và 10,3% của Singapore, bằng gần 4% và 13,88% của Hàn Quốc, 21,92% và 33,42% của Thái Lan... Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế của chúng ta tương đối cao đây là một dấu hiệu tốt cho nền kinh tế. Nhưng để đất nước ta tiến kịp các nước trong khu vực cũng như trên thế giới thì đòi hỏi nhiều nỗ lực và cố gắng đồng thời tiếp thu những kinh nghiệm của các nước đi trước. Trong lĩnh vực thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI Việt Nam rút ra những bài học sau: 1.4.1Nhất quán quan điểm phát triển dựa trên cả nguồn lực bên trong và bên ngoài Một trong những bài học kinh nghiệm quý giá nhất của Trung Quốc là đã kiên trì theo đuổi cải cách, mở cửa, giữ vững nguyên tắc sủ dụng vốn FDI một cách chủ động, hợp lý, hiệu quả. Ở cả Việt Nam và Trung Quốc cam kết chính trị gần như đóng vai trò quyết định cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung và khu vực đầu tư nước ngoài nói riêng. Tại Trung Quốc khu vực FDI, khu vực tư nhân, cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước đã phát triển mạnh mẽ sau chuyến “công du” của Đặng Tiểu Bình. Bài học kinh nghiệm cho nước ta là cả lĩnh vực đầu tư FDI và các lĩnh vực khác chúng ta cần thống nhất nhận thức rằng khu vực có vốn FDI là một khu vực kinh tế quan trọng, là khu vực năng động và đi đầu về khoa học công nghệ, khả năng quản lý. 1.4.2 Mở cửa từng bước vững chắc Bài học rút ra từ kinh nghiệm Trung Quốc là xác định rõ ràng mục tiêu của thu hút FDI không ôm đồm quá nhiều trong cùng một thời kì. Trong giai đoạn đầu họ thu hút công nghệ sử dụng nhiều lao động sau dần chuyển sáng thu hút công nghệ sử dụng nhiều vốn. Hiện nay Việt Nam nên thu hút và tạo điều kiện nhiều hơn cho công nghệ chế biến vào (nhưng phải là công nghệ mới, công nghệ nguồn), tiếp đó mới chuyển sang ưu tiên công nghệ sử dụng nhiều vốn. Trung Quốc đã cố gắng và liên tục cải thiện cơ cấu đầu tư FDI, Chính phủ đã ban hành, sửa đổi hướng dẫn về đầu tư nước ngoài, đặc biệt tập trung hướng dẫn đối với những ngành “được khuyến khích”. Ở Hàn Quốc cũng vậy, Chính phủ tìm cách sửa đổi các luật, cải thiện môi trường đầu tư và mở rộng các khuyến khích đầu tư như giảm thuế, cung cầp các địa điểm công nghiệp...Chính phủ Việt Nam cũng đã thường xuyên ban hành các luật và pháp lệnh, thông tư về luật đầu tư, luật doanh nghiệp, luật đất đai...đã tạo ra một môi trường đầu tư ngày càng thông thoáng hơn và theo hướng phù hợp với các điều ước quốc tế, tuy nhiên việc thực thi ở cấp dưới lại không cao. Một bài học khác nữa là chính phủ cần thu hút FDI vào những khu vực có nhiều lợi thế để phát huy vai trò lợi thế của các vùng động lực, tạo điều kiện liên kết phát triển các vùng khác, trên cơ sở phát huy vai trò lợi thế của các vùng phụ cận về nguyên vật liệu, lao động và các nguồn lực khác. Đồng thời có chính sách hơn nũa để khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các KCN - KCX. Có như vậy mới có thể giải quyết triệt để xé rào của các địa phương thời gian qua gây những tổn thất kép cho quốc gia và tác động làm chệch định hướng phát triển kinh tế - xã hội trong những giai đoạn cụ thể. 1.4.3 Thống nhất việc thực thi về luật đầu tư và luật doanh nghiệp thống nhất Với việc luật đầu tư thống nhất ra đời nó đã bước đầu tạo ra những sinh khí mới cho luồng vốn FDI chảy vào trong nước. Từ kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy hoàn thiện các chính sách hành chính thông qua việc xét một hệ thống hoàn chỉnh các văn bản pháp quy, các phương pháp kiểm tra và giám sát tài chính, quản lý ngoại hối đối với hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sớm xây dựnh và triển khai thực hiện có hiệu quả quy chế quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó quy định về chuyển giá và những yêu cầu cụ thể về tài liệu đối với chế độ thuế của các doanh nghiệp có vốn đầu tư FDI, làm cơ sở cho việc có thể khảo sát tường tận hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời cần sớm xây dựng và ban hành chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với quy định của pháp luật trong nước và quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp nói chung, và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ban hành các quy chế để quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu các thiết bị, nội dung cơ chế giám định kỹ thuật và công nghệ; thẩm định giá máy móc thiết bị nhập khẩu, đặc biệt là những máy móc thiết bị mà đối tác nước ngoài góp vốn liên doanh. Các cơ quan thuế cần phải sử dụng thuế như là một cộng cụ hữu hiệu để chống lại hoạt động chuyển giá, thông qua việc so sánh đối chiếu về giá, chi phí và mục đích chốn thuế. Tổng cục thuế nên kết hợp chặt chẽ với các cơ quan hải quan, thương mại, kế toán cũng như cơ quan thuế của các nước có liên quan để tiến hành thẩm định và giám sát chặt chẽ chi phí trong hợp đồng ký kết với các đối tác nước ngoài. Từ kinh nghiệm của Thái Lan chúng ta nên thiết lập cơ sở dữ liệu các thông tin của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có vấn đề, đang là mục tiêu cho việc kiểm tra sổ sách và điều tra. Cụ thể là các công ty nằm trong diện bị thua lỗ liên tục từ 2 năm trở lên, có tổng số lợi nhuận âm, không nộp thuế trong một giai đoạn nhất định, có nhóm giao dịch hàng hoá liên quan đáng kể và khả năng sinh lãi thấp không bình thường so với các đối thủ cạnh tranh...cần có chế tài xử phạt nghiêm khắc trong trường hợp phát hiện ra hiện tượng chuyển giá. Nâng cao trình độ, vai trò cũng như trách nhiệm của các cán bộ Việt Nam trong các doanh nghiệp có liên quan đến nguồn vốn nước ngoài. Có chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với những cán bộ này nếu có phát hiện sai lệch mà vẫn ký quyết định thông qua cho doanh nghiệp. Thực hiện tốt các biện pháp trên mới thực sự tạo ra một môi trường pháp lý thống nhất, công bằng giữa các nhà đầu tư. 1.4.4 Thực hiện chính sách và biện pháp hiệu quả trong thu hút FDI Kết hợp chính sách ưu đãi và cải cách thủ tục hành chính để thu hút đầu tư nước ngoài. Tiến tới thu hút đầu tư qua lợi thế về nhân lưc, hạ tầng cơ sở, công nghệ và chi phí giao dịch. Đổi mới về nội dung và phương thức vận động xúc tiến đầu tư theo một chương trình chủ động, có hiệu quả, phù hợp với từng địa bàn, trú trọng xúc tiến đầu tư đối với từng dự án cụ thể, lựa chọn đàm phán trực tiếp với các tập đoàn có tiềm lực tài chính, công nghệ. Ngân sách nhà nước nên dành một khoản nhất định cho hoạt động này. 1.4.5 Loại bỏ chính sách bảo hộ thiếu cân nhắc Chính sách này cần phải loại bỏ vì hai lý do: thứ nhất do quá trình đàm phán để gia nhập WTO; thứ hai là bảo hộ được chứng minh là kém hiệu quả trong việc cải thiện khả năng cạnh tranh của các ngành được bảo hộ, đồng thời bóp méo tín hiệu hướng dẫn của thị trường. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp ô tô sau 10 năm phát triển không được nâng cao đáng kể do được bảo hộ quá mức. Các khuyến khích tài chính Theo kinh nghiệm của Hàn Quốc, Việt Nam nên có sự trợ cấp nghề nghiệp và huấn luyện người lao động. Đặc biệt, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào phát triển thị trường chứng khoán. Nâng cao hiệu quả sử dụng vồn FDI Một bài học kinh nghiệm của Thái Lan là để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI cần giải quyết tôt vấn đề chuyển giá. Bằng cách: Nâng cao hiệu quả quản lý và hiệu lực điều hành của nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn FDI. Kiện toàn hệ thống quản lý bằng việc hình thành một bộ chuyên trách theo dõi thu nhập của các doanh nghiệp FDI nằm trong bộ tài chính, có thể thành lập cục thu nhập như của Thái Lan, hoặc giao nhiệm vụ cụ thể cho từng bộ phận để theo dõi vấn đề này. 1.4.8 Tận dụng lợI thế khi là thành viên của WTO từ kinh nghiệm của Trung Quốc Tham gia vào WTO Trung Quốc đã có những chính sách vô cùng khôn khéo. Họ đã thực hiện đầy đủ các cam kết của mình, thậm chí còn sớm hơn thờI hạn đã cam kết. Nhưng trên thực tế họ đã xây dựng một hành lang pháp lý mớI vớI hàng loạt các tiêu chuẩn kỹ thuật, các quy định, quy chế … để bảo vệ cho các doanh nghiệp trong nước cũng như các lĩnh vực cần bảo hộ trong nước. Ví như trong lĩnh vực tài chính ngân hàng Trung Quốc đã thỏa mãn những điều khoản gia nhập WTO của mình, tức là đến hết năm 2006 sẽ từ từ mở thị trường tài chính và ngân hàng của mình, nhưng đó chỉ là trên giấy tờ. Khi một ngân hàng nước ngoài muốn mở chi nhánh ở Trung Quốc, thì họ phải đặt tiền thế chấp hàng triệu USD. Nếu ngân hàng nào muốn kinh doanh bằng nhân dân tệ, thì đòi hỏi thế chấp này sẽ tăng lên gấp mấy lần. Vì vậy chẳng có gì khó hiểu khi không có một ngân hàng nước ngoài nào muốn đơn thương độc mã kinh doanh trong lĩnh vực này. Mục tiêu của Trung Quốc trong lĩnh vực tài chính rất rõ ràng: các ngân hàng nước ngoài tạo sức ép với các ngân hàng trong nước, nhưng các ngân hàng nước ngoài không được chiếm thị phần quá lớn trong lĩnh vực này. Để đạt mục tiêu của mình, Trung Quốc cho các ngân hàng nước ngoài đầu tư vào các ngân hàng trong nước với tư cách là một cổ đông nhỏ: Vốn đầu tư nước ngoài không được quá 25%, trong đó một nhà đầu tư không được phép quá 20%. Chiến lược này nhằm vào 3 mục đích:  1. Với tư cách là cổ đông nhỏ, các ngân hàng nước ngoài không có đủ số phiếu để tham gia quyết định. 2. Thế nhưng muốn cho đầu tư của mình có hiệu quả, thì các ngân hàng nước ngoài phải cung cấp kiến thức, công nghệ... trong lĩnh vực tài chính cho các ngân hàng Trung Quốc. 3. Khi có sự đầu tư của các ngân hàng danh tiếng trên thế giới, giá trị của các ngân hàng Trung Quốc sẽ tăng lên đáng kể, và qua đó sẽ được các nhà đầu tư khác chú ý đến.  Bảng 2 (a và b) Nguồn: ESCAP (đã được trích trong tạp chí Kinh Tế và Dự Báo số 9/2005_57) Chương 2: Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ EU vào Việt Nam 2.1 Khái quát chung về EU Một tuyên bố nổi tiếng của Bộ ngoại giao Pháp Robert Schuman vào ngày 9/5/1950: “Châu Âu sẽ không thể làm mọi việc ngay một lúc hoặc chỉ theo đuổi một kế hoạch duy nhất. Nó sẽ được xây dựng thông qua nhũng thành tựu cụ thể nhằm trước hết tạo ra sự thống nhất thực sự… Chính phủ Pháp đề nghị rằng các ngành sản xuất Than-Thép của Pháp và Đức sẽ được đặt dưới sự quả lý của một cơ quan chung, trong khuôn khổ này sẽ mở cửa đối với các nước Châu Âu khác…”. Đây cũng chính là ngày được coi là ngày sáng lập của EU. Sau chiến tranh thế giới thứ hai các nước Châu Âu phải ngánh chịu những hậu quả nặng nề cả về kinh tế và ảnh hưởng đến vị thế chính trị của mình trên thế giới. Để khắc phục tình trạng này, Đức và Pháp đưa ra ý tưởng thành lập Cộng đồng Than - Thép Châu Âu. Hưởng ứng sáng kiến này, ngày 18/4/1951 sáu nước Bỉ, Đức, Pháp, Italia, Hà Lan và Lucxambua đã ký hiệp ước Paris thành lập Cộng đồng Than - Thép Châu (ECSC), bắt đầu có hiệu lực ngày 23/7/1952 hay gọi là Cộng đồng Châu Âu (EC). Năm 1993, trên cơ sở các thoả thuận đạt được tại hội nghị Maastricht nhóm họp tại Hà Lan năm 1991, các quốc gia EC đã nhất trí thông qua một Hiệp ước mới về việc thiết lập Liên minh Châu Âu (EU). Kể từ khi thành lập đến nay, quá trình liên kết Châu Âu từ nền tảng liên kết kinh tế trong lĩnh vực Than - Thép đã phát triển đã phát triển không ngừng về cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Từ nền móng ban đầu là cộng đồng Than - Thép, năm 1957 sáu nước sáng lập viên quyết định thành lập Cộng đồng kinh tế châu Âu và cộng đồng năng lượng nguyên tử Châu Âu, thúc đẩy hơn nữa quá trình liên kết kinh tế. Đến nay, EU đã trải qua 5 lần mở rộng đưa số thành viên lên 25 nước, hình thành khu vực đồng tiền chung EURO. Với sự tham gia của 12 nước thành viên. EU có những thể chế siêu quốc gia như hội đồng Châu Âu, ngân hàng Châu Âu, Toà án Châu Âu, Quốc hội Châu Âu…Từ liên kết sâu về kinh tế tiến tới liên kết chặt chẽ về chính trị với chính sách an ninh và đối ngoại chung chính sách hợp tác về tư pháp và chống tội phạm. 2.1.1 Giai đoạn EU từ 1tháng 11 năm 1993 đến trước ngày 1 tháng 5 năm 2004 (hay giai đoạn EU-15) 2.1.1.1 EU từ liên minh hải quan đến thị trường thống nhất Hiệp ước thành lập Cộng đồng kinh tế Châu Âu EC được ký kết tại Roma ngày 25/3/1957, đặt ra những nền tảng cho sự liên kết chặt chẽ hơn nữa các dân tộc Châu Âu với mục tiêu chính: - Đảm bảo chắc chắn các thành tựu về kinh tế - xã hội của các nước thành viên và cùng nhau hành động nhằm xoá bỏ các rào cản chia cắt Châu Âu. - Tăng cường liên kết kinh tế và đảm bảo sự phát triển hài hoà, giảm bớt sự khác biệt giữa các vùng và sự lạc hậu của các vùng kém phát triển. - Gắn kết các nguồn lực để bảo vệ và củng cố hoà bình, tự do, kêu gọi các dân tộc khác ở Châu Âu cùng chia sẻ ý tưởng này và tham gia vào các nỗ lực của cộng đồng. Để thực hiện được những mục tiêu này thì EU đã thực hiện việc: * Xoá bỏ các rào cản nhằm đảm bảo sự tự do lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ, vốn và sức lao động trong thị trường thống nhất. Năm 1968, sáu nước thành viên sáng lập EC đã hình thành kế hoạch dỡ bỏ những rào cản thuế quan. Đến tháng 7/1968, tạo nên một hàng rào thuế quan thống nhất xung quanh lãnh thổ cộng đồng đối với tất cả các hàng hoá nhập khẩu từ các nước ngoài. Đây là hệ thống cần thiết đặc biệt cho thương mại quốc tế của các nước thành viên được công bằng, không lạm dụng do vẫn còn tồn tại những khác biệt lớn trong biểu thuế nhập khẩu từ những nước thứ 3 giữa các nước thành viên. Với hai sự kiện này đã đánh dấu sự thành lập của Liên minh hải quan, kết thúc một giai đoạn của quá trình liên kết kinh tế khu vực. Năm 1992, thị trường thống nhất được hoàn thiện, lúc này không còn tồn tại bất cứ hạn chế số lượng nào trong liên minh. Tuy nhiên, với sự kiện Liên minh hải quan đã được hình thành, các hạn chế số lượng được xoá bỏ, trên thực tế vẫn tồn tại những cản trở việc tự do luân chuyển hàng hoá trong cộng đồng, đó là những rào cản kỹ thuật hay phi thuế quan hết sức phức tạp, nó còn được gọi là những rào cản thể chế, xuất phát từ những khác biệt giữa các thành viên về luật pháp, quy định, chính sách trợ giá… Để xoá bỏ các rào cản kỹ thuật cuối 1985 Uỷ ban Châu Âu phát hành sách trắng về hoàn thiện thị trường thống nhất Châu Âu với 282 giải pháp nhằm xoá bỏ các rào cản về lưu chuyển hàng hoá, dịch vụ, vốn, lao động, hoàn tất thị trường nội khối vào 31/12/1992, dựa trên hệ thống song hành mới. Một mặt, các qui định, các tiêu chuẩn về sản xuất và tiêu thụ ở các nước cần đáp ứng các yêu cầu nhằm đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho cộng đồng. Mặt khác, các nước thành viên phải cùng việc ban hành các luật lệ, quyết định liên quan đến các rào cản kĩ thuật và phải thừa nhận những quy định về tiêu chuẩn của nhau, nếu đáp ứng được các đòi hỏi tối thiểu trên. Chỉ trong trường hợp cần thiết việc hoà hợp tiêu chuẩn kĩ thuật mới cần đệ trình lên uỷ ban và toà án Châu Âu để tham chiếu các tiêu chuẩn Châu Âu. Với hệ thống song hành này đã đẩy nhanh quá trình hoàn thiện thị trường thống nhất. Ngoài ra, trong Hiệp ước Rome còn qui định các cá nhân được đảm bảo tự do di chuyển chọn việc làm và bảo đảm các điều kiện xã hội tối thiểu ở bất cứ nước thành viên nào mà họ cư trú. Các nước thành viên được tự do cung cấp dịch vụ liên quan tới hoạt động có tính giới hạn về thời gian và tính chất xuyên biên giới giữa các nước thành viên. Hơn nữa một qui định giúp hoàn thiện thị trường thống nhất đó là được tự do luân chuyển vốn và thanh toán. Trong qui định này cho phép các doanh nghiệp cũng như các cá nhân được mở tài khoản ở bất cứ đâu trong liên minh và được phép chuyển một lượng vốn không hạn chế giữa các nước thành viên. * Chính sách cạnh t._.tính số thuế đã nộp của các văn phòng đại diện và chi nhánh của các đơn vị có vốn FDI tại tỉnh Lâm Đồng). 2.3 Đánh giá chung về thu hút FDI vào Việt Nam 2.3.1 Ưu điểm Nguồn vốn FDI của Việt Nam có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển kinh tế theo chiều sâu. Nó thúc đẩy quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hóa, tăng dần tỷ lệ công nghiệp và dịch vụ, giải quyết việc làm cho người lao động và trong quá trình thực hiện dự án nó góp phần nâng cao kinh nghiệm quản lý tiên tiến cho người lao động Việt Nam. Đặc biệt đây là nguồn vốn từ những nước có công nghệ nguồn nên nó sẽ giúp nâng cao trình độ công nghệ cho nền sản xuất nước nhà góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. Từ đó nâng cao được sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam ở trong nước cũng như nước ngoài. Cùng với việc thu hút nguồn vốn FDI nó là điều kiện để mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt sau khi EU mở rộng, bao gồm 27 quốc gia thành viên đây quả là một thị trường tiêu thụ rộng lớn. FDI của EU có mặt ở hầu hết các tỉnh và thành phố của cả nước, nó góp phần cân đối nguồn vốn FDI giữa các vùng miền trong cả nước. Các dự án FDI của EU đa số là các dự án vừa và nhỏ nhưng hiệu quả hoạt động được đánh giá là đạt hiệu quả cao. Trong năm 2006 và đầu năm 2007 nguồn vốn này chảy vào Việt Nam tăng lên khá rõ rệt thể hiện một làn sóng đầu tư mớI. Đây là một dấu hiệu tốt cho thu hút FDI của Việt Nam. Trong việc phát triển hệ thống các kênh phân phối hàng hoá và dịch vụ ở thị trường Việt Nam thì các dự án FDI của EU cũng đóng một vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển và góp phần hoàn thiện hơn nữa thị trường này. Ngoài ra, nó còn góp phần rất lớn trong việc đa dạng hoá các đối tác đầu tư vào Việt Nam và thực hiện phần nào mục tiêu thu hút nguồn vốn FDI từ những nước có công nghệ nguồn của Đảng và nhà nước ta đã đề ra. 2.3.2 Nhược điểm Bên cạnh các ưu điểm trên thì các dự án của EU cũng còn có những nhược điểm sau: Các dự án FDI đa số là các dự án vừa và nhỏ chưa tương xứng với tiềm lực của phía EU và mong muốn của Việt Nam. FDI của EU hầu hết đầu tư vào Việt Nam với mục tiêu để khai thác thị trường nội địa hơn là xuất khẩu ra nước ngoài. Các nhà đầu tư EU chưa quan tâm đến việc xây dựng các ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ cho việc sản xuất khẩu hàng hoá lâu dài tại Việt Nam, đặc biệt là xuất khẩu. Các dự án FDI thì chưa tập trung vào các thế mạnh của EU. Đồng thời nó chỉ chủ yếu tập trung ở những ngành nhằm khai thác thị trường nội địa và có thời gian thu hồi vốn ngắn. Mặt khác, đầu tư tập trung vào các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi, vùng kinh tế trọng điểm. Nguồn vốn này chưa thực sự ổn định qua các năm tuy có xu hướng gia tăng trở lại từ năm 2003 sau khi liên tiếp giảm về tỷ lệ đầu tư và lượng vốn đầu tư trong giai đoạn 2000 - 2002. EU không phải là đối tác có nguồn vốn đầu tư lớn vào Việt Nam. Điều này khác hẳn trong quan hệ của EU với Trung Quốc và các nước ASEAN khác. Tuy nhiên, cuốI năm 2006 và đầu năm 2007 các nhà đầu tư EU đầu tư vào Việt Nam nhiều hơn vớI quy mô trên một dự án cũng lớn hơn. 2.3.3 Nguyên nhân 2.3.3.1 Do xu hướng đầu tư chung của thế giới Trong giai đoạn 2000 - 2003 nguồn vốn FDI từ EU vào Việt Nam suy giảm nghiêm trọng là do nền kinh tế thế giới tăng trưởng thấp trong năm 2001 – 2002 và nguy cơ bất ổn về chính trị cao. Trong thời kỳ này nguồn vốn FDI của thế giới giảm mạnh trong 3 năm liên tiếp 2001 – 2003. Mặt khác trong giai đoạn này, kinh tế các nước EU có xu hướng giảm sút và chỉ duy trì mức tưng trưởng thấp, nguồn vốn FDI mà các nước EU đưa ra ngoài cũng giảm sút. Bên cạnh đó, trong thời kỳ này EU thực hiện các biện pháp nhằm hỗ trợ chiến lược mửo rộng về phía Đông nên hàng năm phía chi một lượng NS tương đối lớn cho các nước này và giành các biện pháp ưu tiên đầu tư FDI vào các nước đó. Trong giai đoạn 2004 – 2007 nguồn vốn FDI mà Việt Nam thu hút được nói chung và từ EU nói riêng có xu hướng tăng lên, nằm trong xu hướng tăng chung của toàn thế giới. Theo UNCTAD cho biết, dòng vốn ĐTQT năm 2005 tăng 29% đạt 897 tỷ USD, dòng vốn FDI vào khu vực Châu Á tăng 11%. Trong giai đoạn này nền kinh tế EU cũng đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn trước, tháng 9/2006 EU đạt tốc độ tăng trưởng 0,9% trong khi đó Mỹ là 0,7%, Nhật là 0,2%. 2.3.3.2 Nền kinh tế nước ta đạt mức tăng trưởng cao và ổn định Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà tăng trưởng đạt tốc độ tăng trưởng cao qua các năm, giai đoạn 2001 – 2005 trung bình tốc độ tăng trưởng là 7,5%, năm 2006 đạt 8,43%, phấn đấu trong giai đoạn 2006 – 2010 tốc độ này là 8%. Tốc độ tăng trưởng cao và ổn định là biểu hiện của môi trường đầu tư đạt hiệu quả cao đó là nguyên nhân kéo dòng vốn FDI chảy mạnh vào Việt Nam, nơi có tỷ suất lợi nhuận đầu tư cao. Đây cũng chính là động cơ của tất cả các nhà ĐTNN. 2.3.3.3 Môi tường đầu tư của Việt Nam ngày càng được cải thiện Điểm hấp dẫn các nhà ĐTNN là sự ổn định về chính trị xã hội, sự đảm bảo về an ninh, sức lao động chất lượng cao với chi phí thấp cũng với việc hoàn thiện hệ thống luật pháp đã tạo ra môt trương pháp lý đầy đủ, rõ ràng cho nhà ĐTNN. Tuy nhiên, các Văn bản dưới luật thì lại chưa rõ ràng, chưa thực sự minh bạch, còn chồng chéo, đây là nguyên nhân cản trở nhà ĐTNN khi đầu tư vào Việt Nam. 2.3.3.4 Chuyên môn của các cán bộ Ban, Ngành quản lý dự án FDI Các cán bộ Ban, Ngành quản lý dự án FDI chưa có chuyên môn cao, chưa đủ năng lực để đánh giá được hoạt động thực tế của cá doanh nghiệp. Đồng thời có hiện tượng chồg chéo về chức năng và nhiệm vụ giữa các Bộ, Ban, Ngành, chưa có sự liên kết theo chiều ngang gây ra sự khác nhau giữa các quy định về cùng một vấn đề gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc thực thi pháp luật. 2.3.3.5 Hoạt động xúc tiến đầu tư Hoạt động xúc tiến đầu tư đã được triển khai tích cực ở nhiều Ngành, nhiều Cấp trong nước và nước ngoài, như việc tổ chức thành công diễn đàn hợp tác, đầu tư và triễn lãm ĐTTTNN đã cung cấp thông tin về môi trường đầu tư Việt Nam nhằm thu hút ĐTNN; cuộc đối thoại giữa Chính phủ Việt Nam với các nhà ĐTNN tổ chức vào tháng 4/2005 nhằm phát hiện và xử lý kịp thời những khó khăn mà nhà ĐTNN gặp phải. Các vị lãnh đạo cao cấp của Việt Nam và các nước thành viên EU đã có những cuộc gặp gỡ thăm viếng, trao đổi xung quanh vấn đề ĐTTTNN. Việt Nam và EU đã ký kết hiệp định khung, hiệp định song phương. Tuy nhiên, Việt Nam chưa tổ chức được những cuộc vận động xúc tiến nào có quy mô lớn ở chình các nước thành viên EU, làm cho các nhà đầu tư này chưa thấy được thiện chí của Chính phủ Việt Nam cũng như những thông itn đầy đủ về môi trường đầu tư tại Việt Nam. Do vậy không khỏi ngần ngại khi đầu tư vào Việt Nam. 2.3.3.6 Về vấn đề chính sách và tham nhũng Các chính sách dài hạn của Việt Nam thường được xác định một cách ổn định và rõ ràng nhưng các chính sách ngắn hạn thì lại thường xuyên thay đổi. Đây cũng là một nguyên nhân làm cho nhà ĐTNN có thái độ dò xét trong việc ĐT, đặc biệt đối với những nhà đầu tư của EU. Mặt khác, tệ quan liêu ở một bộ phận cán bộ nhà nước đã gây khó khăn không nhỏ cho các nhà ĐTNN. Trong thời gian gần đây, tham nhũng là vấn đề nổi cộm ở Việt Nam, đây là nguyên nhân làm giảm tính hấp dẫn của môi trường ĐT việt Nam. Vì nếu Chính phủ tham nhũng sẽ dẫn đến sự không tin tưởng vào sự lãnh đạo của Chính phủ, rất dễ gây ra bất ổn về chính trị. 2.3.3.7 Quá trình hộI nhập vào nền kinh tế thế giớI VớI việc tổ chức thành công hộI nghị APEC Việt Nam đã rất thành công trong việc quảng bá hình ảnh của quốc gia mình. Nó đã tạo ra một làn sóng đầu tư thứ nhất. Đặc biệt, vào ngày 11/01/2007 Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của WTO đã tạo ra một làn sóng đầu tư thứ hai cho năm 2006. Điều đó đã làm cho nguồn vốn FDI trong năm 2006 và đầu năm 2007 tăng vượt trội. Chương 3: Định hướng và giải pháp tăng cường thu hút FDI từ EU vào Việt Nam 3.1 Triển vọng đầu tư của EU vào Việt Nam khi Việt Nam là thành viên của WTO Việt Nam là thành viên của WTO có nghĩa là Việt Nam đã chấp nhận một sân chơi bình đẳng trên mọI phương diện. Điều này đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư EU nói riêng thực sự cảm thấy yên tâm khi bổ vốn đầu tư vào Việt Nam. Từ cuối năm 2006, khi Việt Nam kết thúc các vòng đàm phán cuối cùng của mình để ra nhập WTO và là thành viên chính thức vào ngày 11/01/2007, đã thổi vào một luồng sóng đầu tư mới. Nếu như trong những tháng đầu năm 2006 tưởng như không thể hoàn thành được kế hoạch thu hút 6,5 tỷ USD thì đến cuối năm con số thu hút được đã vượt quá xa kế hoạch này, đạt 10,2 tỷ USD. Trong đó, vốn cấp mới đạt trên 7,838 tỷ USD, và vốn tăng thêm đạt trên 2,362 tỷ USD (theo bài Quản lý kinh tế - GS. TSKH Nguyễn Mại). Hơn nữa, năm 2006 là năm thu hút được nhiều nhất những dự án có quy mô đầu tư lớn, có ý nghĩa quan trọng với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Như các dự án: dự án thép Posco – 1,126 tỷ USD, dự án Intel hơn 1 tỷ (cả vốn cấp mớI và vốn bổ sung), dự án khu đô thị mới Hà Tây – trên 1,1 tỷ USD … Ngoài ra, thu hút trên 4 tỷ USD của kiều hối, 4,4 tỷ hỗ trợ phát triển chính thức, xuất khẩu đạt gần 40 tỷ USD, lần đầu tiên vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội đạt trên 38% mức cao nhất kể từ trước tới nay. Hiệu ứng của việc gia nhập WTO còn thể hiện rõ nét hơn trong những tháng đầu năm 2007. Kết thúc quý I/2007 cả nước đã thu hút thêm 2,503 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký, tăng 22% so với cùng kỳ năm trước, vốn thực hiện đạt 1,02 tỷ USD tăng 27% vốn thực hiện của cùng kỳ năm trước. Tổng doanh thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 6 tỷ USD (chưa kể dầu mỏ và khí đốt), tăng 21% so vớI quý I/2006. Đáng chú ý là số lượng nhà đầu tư tìm kiếm cơ hộI đầu tư cũng tăng lên đáng kể, dự kiến khoảng trên 20 tỷ USD. Đáng chú ý là các dự án: tập đoàn Pacific Land (Anh) dự kiến đầu tư khu sinh học Nam Thăng Long vớI tổng vốn đầu tư khoảng 1 tỷ USD, tập đoàn Compell (Đài Loan) dự kiến đầu tư 500 triệu USD vào dự án sản xuất điện tử, tập đoàn Poxconn (Đài Loan) dự kiến đầu tư 5 tỷ USD xây dựng 2 thành phố công nghệ sản xuất các đồ điện tử cao cấp tạI Bắc Ninh, Bắc Giang, giai đoạn đầu đăng ký đầu tư 1 tỷ USD,… (theo bài “Hơn 2,5 tỷ vốn FDI” trên tờ ThờI báo kinh tế Việt Nam, số 71(2065) - thứ 6 ngày 23/03/2007). Trong sản xuất công nghiệp, các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã đóng góp 51.976 tỷ đồng (giá so sánh 1994), chiếm 40% tổng giá trị sản xuất công nghiệp quý I năm 2007 của cả nước và tăng 19,5% so với cùng kỳ năm 2006. Đáng chú ý là, nếu loại trừ dầu mỏ và khí đốt, khu vực doanh nghiệp ĐTNN đóng góp trên 44.284 tỷ đồng, chiếm hơn 34,1% (quý I/2006 chiếm 30,9%) và tăng 23,8% (quý I//2006 tăng 21,2%), nghĩa là quy mô của khu vực doanh nghiệp này đã lớn lên “trông thấy”, cả về tỷ trọng lẫn tốc độ tăng trưởng. Còn về xuất khẩu, trong quý I năm 2007, khu vực doanh nghiệp ĐTNN đã đóng góp 5,865 tỷ USD, tăng 13,5%. Nếu không tính dầu thô, khu vực này đạt 4,133 tỷ USD, chiếm gần 40% (quý I/2006 chiếm 35,4%) tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và tăng 31,7% (quý I/2006 cũng tăng 31,7% ). Hơn nữa, trong 3 tháng đầu năm nay, đã có hơn 9.000 lao động được thu hút vào các doanh nghiệp ĐTNN, nâng tổng số lao động trực tiếp trong khu vực doanh nghiệp này lên 1,154 triệu người, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước. Rõ ràng, khu vực doanh nghiệp ĐTNN tại Việt Nam đang phát triển mạnh cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Với những gì đã và đang đạt được, trong thời gian tới cùng với việc nước ta là thành viên của WTO nguồn vốn đầu tư sẽ tiếp tục tăng mạnh hơn. Bên cạnh những lợi thế là có một nền chính trị - xã hội ổn định, nằm ở trung tâm của khu vực kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới, đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao chỉ sau Trung Quốc… Việc Việt Nam là thành viên của WTO có những lý do sau để tin rằng nguồn vốn từ EU vào nước ta tăng lên: Thứ nhất, là một nước tuy còn ở trình độ phát triển thấp, độ mở của nền kinh tế cao và đang trên đà phát triển nhanh, nên rất “đói” vốn đầu tư, tạo ra những cơ hội vàng cho các nhà đầu tư nước ngoài. Các số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới (WB) mới công bố cho thấy, với xấp xỉ 83 triệu dân năm 2005, xếp hạng thứ 13 thế giới, nhưng quy mô GDP của Việt Nam mới đạt 254 tỷ USD (tính theo sức mua tương đương), xếp hạng thứ 37 thế giới, còn GNI bình quân đầu người chỉ mới đạt 620 USD/năm, xếp hạng thứ 166 trong tổng số 208 nền kinh tế có số liệu so sánh. Trong khi đó, số liệu thống kê của WTO cho thấy, Việt Nam được xếp thứ 50 trong 50 quốc gia xuất khẩu hàng hoá nhiều nhất thế giới. Nhìn từ khía cạnh khác, trong khi độ mở ở đầu ra xuất khẩu của nền kinh tế nước ta năm 2000 mới là 47,82%, thì trong năm 2005 đã tăng lên 61,14%. Trong khi đó, độ mở nhập khẩu tăng từ 51,73% năm 2000 lên 69,69% năm 2005. Tất cả những điều nói trên có nghĩa là, nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế còn ở trình độ phát triển rất thấp, nhưng đang phát triển nhanh theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu và xuất khẩu dựa trên cơ sở đẩy mạnh nhập khẩu. Nói cách khác, tiềm năng mở rộng thị trường của nước ta hiện nay còn rất lớn và tự chúng ta không đủ vốn để khai thác, do đó tạo ra cơ hội vàng cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đó không chỉ là những cơ hội trong đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, mà còn là những cơ hội trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất những nguyên, phụ liệu phải nhập khẩu với quy mô ngày càng lớn, cũng như những cơ hội đầu tư sản xuất hàng loạt hàng hoá, dịch vụ đáp ứng những nhu cầu đang tăng nhảy vọt của một thị trường có quy mô dân số đứng thứ hai trong khu vực. Mặt khác, theo đánh giá mới đây nhất của Hội nghị Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD), Việt Nam được xếp vào nhóm nước có tiềm năng FDI thấp, nhưng hiệu quả hoạt động của khu vực FDI cao. Đây chắc chắn là một “liều thuốc kích thích” các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam kinh doanh trong bối cảnh nước ta trở thành thành viên WTO. Thứ hai, dưới con mắt của nhiều chiến lược gia, do Việt Nam ngày càng có vai trò tích cực hơn, nhiều ảnh hưởng hơn trong ASEAN, nên có vị trí quan trọng trong việc duy trì ảnh hưởng đối với khu vực châu Á của các trung tâm kinh tế thế giới như Mỹ và Nhật Bản, EU, cũng như của các cường quốc kinh tế khu vực. Thứ ba, tham gia vào WTO Việt Nam phải thực hiện các cam kết mở cửa các thị trường như tài chính, điện lực, bưu điện… những lĩnh vực có thế mạnh của EU mà trước đây là độc quyền của nhà nước. Đồng thời, cho phép đầu tư dưới nhiều hình thức đầu tư hơn sẽ tạo cho nhà đầu tư chủ động hơn trong việc kinh doanh của mình. Thứ tư, với khuôn khổ thể chế và nguyên tắc hoạt động của WTO, các nhà đầu tư EU họ sẽ yên tâm hơn khi tiến hành hoạt động đầu tư. Vì môi trường kinh tế vĩ mô sẽ phải điều chỉnh để phù hợp vớI các cam kết, các thể chế và nguyên tắc của WTO. Và như vậy họ sẽ không phải quá lo lắng về những thay đổi trong chính sách ngắn hạn của chính phủ. Từ đó, các nhà đầu tư EU có chiến lược đầu tư dài hạn hơn ở Việt Nam. Tóm lại, với những lợi thế đó chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng nguồn vốn đầu tư từ EU vào Việt Nam tiếp tục tăng mạnh trong thờI gian tới. 3.2 Quan điểm về thu hút FDI của Đảng và Nhà nước Trong Nghị quyết đại biểu toàn quốc khẳng định “trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần của nước ta một thành phần mới xuất hiện và hình thành ngày càng rõ nét trong những năm gần đây: thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”. Phù hợp với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế, trong đó có thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hộI chủ nghĩa, của phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh (ĐCSVN: VKĐHĐBTQ lần thứ 9, NXB. Chính trị quốc gia, HN, 2001, tr 31). Ở đây Đảng đã thể hiện sự coi trọng thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và xem nó như một bộ phận, một nhân tố không thể thiếu trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương “tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xây dựng gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài”(tr 99). Đồng thờI, ở trang 239 còn khẳng định nnhững đóng góp của thành phần kinh tế này trong sự nghiệp phát triển kinh tế chung của đất nước: “Trong thời gian qua FDI đã đóng vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của nước ta (1996 -2000), vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI được thực hiện đạt 10 tỷ USD”, “các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp, khoảng 23 % kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí) và đóng góp trên 12% GDP cả nước. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút trên 35 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp làm việc cho các ngành xây dựng, thương mại và dịch vụ liên quan, góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quả lý và mở rộng thị trường”. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị lần thứ 9 BCHTW (khoá IX) tháng 1/2004: “tạo chuyển biến cơ bản trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài… thực sự coi kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận hữu cơ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta.” (ĐCSVN: VKĐH lần thứ 9 BCHTW (khoá IX), NXB.Chính trị quốc gia, HN, 2004, tr 94). Trên thực tế Đảng và Nhà nước ta luôn thực hiện nhiều công cụ, biện pháp để thành phần kinh tế có vốn FDI phát triển. Cụ thể là việc ban hành luật pháp và chính sách về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, về quyền lợi và trách nhiệm của nhà đầu tư,… Đặc biệt, Đảng và Nhà nước ta tham gia tích cực vào ký kết các hiệp định song phương và đa phương nhằm tạo hành lang pháp ký thông thoáng cho các nhà đầu tư. Năm 2006, với việc Việt Nam là thành viên của WTO và luật đầu tư chung có hiệu lực đã tạo ra một hành lang thông thoáng hơn nữa cho thành phần kinh tế này phát triển mạnh mẽ trong thờI gian tới. 3.4 Giải pháp FDI chiếm hơn 20% vốn đầu tư toàn xã hội, đóng góp 14% GDP, hơn 1/3 kim ngạch XK (không kể dầu thô), đóng góp 1 tỷ USD/ năm vào ngân sách, tạo việc làm cho hang vạn lao động. Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng một vai trò rất quan trọng và là một động lực tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Dự báo, trong giai đoạn 2006 – 2010, để thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra, Việt Nam cần thu hút 23 – 25 tỷ USD vốn FDI đăng ký với 17,5 – 19 tỷ USD thực hiện (viện kinh tế thế giới). 3.4.1 Giải pháp từ phía Nhà nước 3.4.1.1 Xác định rõ mục tiêu và nhiệm vụ thu hút FDI của Đảng và nhà nước ta. Trong đó xác định rõ mục tiêu dài hạn, ngắn hạn một cách cụ thể, nhất quán. Từ đó, đề ra những nhiệm vụ cần làm trong từng giai đoạn để đạt được mục tiêu đó.Và nó phải được thể hiện qua các văn kiện, văn bản pháp luật, các thông tư,… 3.4.1.2 Xây dựng hệ thống luật pháp chính sách theo hướng minh bạch hoá, thông thoáng, phù hợp với các Điều ước quốc tế, để tăng cường thu hút FDI. Trong đó: Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống chính sách về ĐTTTNN với việc luật đầu tư chung được ban hành vào tháng 7 vừa qua, đã đưa sinh khí mới vào cho hoạt động đầu tư của Việt Nam. Trong luật này đã có nhiều điểm hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài như: không có sự phân biệt đối xử giữa các hình thức đầu tư, nhà đầu tư được tạo điều kiện tiếp cận các nguồn lực đầu tư, mở rộng và đảm bảo quyền lợi nhà đầu tư, áp dụng các mức giá thống nhất giữa các nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước,… Đặc biệt trong luật đầu tư chung các doanh nghiệp nước ngoài đã được mở rộng các hình thức pháp lý kinh doanh là: 100% vốn, liên doanh, BOO, BTO, BOT, BT, mua cổ phần và góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đàu tư, đầu tư thực hiện M&A, và các hình thức khác. Tuy nhiên, trong luật trên lại quy định những dự án đầu tư vào Việt Nam đầu tiên phải là những dự án mới, như vậy nó đã hạn chế một phần những hình thức trên đặc biệt là hình thức M&A. Nhưng đây lại là hình thức đầu tư có thế mạnh nhất của EU và nó cũng là hình thức đầu tư được dự báo là sẽ gia tăng lớn nhất trong thời gian tới. Với quy định này chúng ta đã tự tạo ra cho mình sự khác biệt với xu hướng chung của thế giới. Theo tôi nếu chúng ta muốn thu hút được nhiều FDI trong giai đoạn tới thì Việt Nam nên thực sự mở rộng các hình thức pháp lý của các dự án FDI, đặc biệt là hình thức M&A. Cần đổi mới quy trình làm luật: pháp luật chỉ có hiệu lực thực tế khi nó phản ánh đúng thực tế cuộc sống, giải quyết được những vấn đề bức xúc của cuộc sống đang đặt ra. Vì vậy, nên thay đổi dần quá trình xây dựng pháp luật theo kiểu từ trên xuống bằng quá trình từ dưới lên. Nghĩa là các sang kiến pháp luật, nội dung các quy phạm pháp luật phải bắt nguồn từ doanh nghiệp,thực sự tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp. Kinh nghiệm tốt nhất của quốc tế là thăm dò ý kiến rộng rãi của công chúng và những đối tượng bị pháp luật điều chỉnh trước khi ban hành văn bản pháp luật để đảm bảo việc quy định được minh bạch, công bằng. Ví dụ ở Anh thường sử dụng các “hòm phiếu góp ý” để thu thập các ý kiến đống góp của công chúng và của doanh nghiệp. Ở Việt Nam, hầu hết các quy định được ban hành nội bộ hoặc nếu mở rộng thì tham khảo ý kiến của một số bộ, ngành có liên quan. Trong một số trường hợp, văn bản dự thảo các quy định, chính sách được gửi đến một số doanh nghiệp đại diện để lấy ý kiến đóng góp, nhưng việc làm này tưong đối “hình thức” và hầu hết các doanh nghiệp đều cảm thấy ý kiến của họ không được xem xét và đưa vào quy định thực sự. 3.4.1.3 Xây dựng hệ thống thông tin để cung cấp cho các nhà đầu tư nước ngoài về thông tin các dự án cần thu hút Bằng cách thành lập một cơ quan thông tin hoặc các trang web giới thiệu, quảng bá mời gọi các nhà đầu tư. Trong đó, cung cấp đầy đủ các thông tin về các dự án mời gọi đầu tư, các mong muốn của bên phía Việt Nam về phía đối tác đầu tư, thời gian đấu thầu, thủ tục tham dự thầu,…Đồng thời cơ quan này là nơi tìm hiểu thông tin về phía đối tác như: các chiến lược đầu tư, năng lực tài chính, lĩnh vực có thế mạnh… Từ đó góp phần lựa chọn đối tác thích hợp cho từng dự án cụ thể, góp phần năng cao hiệu quả của các dự án FDI. 3.4.1.4 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Xu hướng chung của thế giới là các nhà ĐT thường đưa vốn ra nước ngoài với mục đích tận dụng nguồn lao động chất lượng cao với giá thành rẻ và các nhà ĐT EU cũng vậy. Nhưng một thực tế là nguồn lao động Việt Nam có hiện tượng vừa thiếu lại vùa thừa; thiếu lao động có tay nghề cao (cái mà nhà ĐTNN cần) và thừa lao động phổ thông (cái mà Việt Nam có). Vậy một giải pháp để tăng cường thu hút FDI từ EU là phải đào tạo cho người lao động để nâng cao tay nghề. Tong những năm gần đây, CHính phủ đã có những chính sách để thaàn lập và nâng cấp chất lượng đào taoh ở các trường đại học, sau đại học, cao đẳng, trung cấp, các trường dạy nghề và đã bước đầu nâng cao được phần nào chất lượng nguồn nhân lực của VIệt Nam. Tuy nhiên, để có một nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của các nhà ĐTNN, đặc biệt là các nhà ĐT của EU thù cần phải có những nỗ lực nhiều hơn nũa. Trong đó, Chíng phủ nên thực hiện các chương trình hợp tác với Chính phủ các nướ phát triển và các doanh nghiệp nước ngoài để đào tạo công nhân kỹ thuật cao (như dự án hợp tác phát triển nguồn nhân lực của Chính phủ Việt Nam - Nhật Bản để đào tạo công nhân kỹ thuật cao), đồng thời có những chương trình phối hợp với những doanh ngiệp cụ thể để đào tạo công nhân phục vụ cho dự án trước khi dự án đi vào hoạt động, kết hợp thu hút các dự án FDI vào lĩnh vực bệnh viện, trường học phục vụ cho người nước ngoài sinh sống và làm việc. Mặt khác, nên có những tuyên truyền cho người lao động để tự bản thân họ học tập nâng cao trình độ, cho họ thấy những cái được và mất của việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến những người lao động này. Vì lẽ đó, Việt Nam cần phải xoá bỏ quy định về tỷ lệ người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, nên nếu họ không có dủ năng lực chuyên môn họ sẽ bị người lao động nước ngoài lầy mất việc làm ngay trên đất nước của mình. 3.4.1.5 Chủ động xây dựng các ngành công nghiệp phụ trợ Chúng ta nên có một kế hoạch cụ thể, chủ động xây dựng các ngành công nghiệp phụ trợ, có như vậy mới chủ động trong nguyên liệu là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Có như vậy các nhà đầu tư nước ngoài mới yên tâm khi họ đầu tư vào các dự án sản xuất hàng xuất khẩu. 3.4.2 Giải pháp từ phía doanh nghiệp 3.4.2.1 Doanh nghiệp nâng cao tính chủ động trong việc tìm và chọn đốI tác đầu tư Doanh nghiệp chính là nơi diễn ra các hoạt động sản xuất kinh doanh, nơi thực thi các chính sách. Vì vậy, muốn cho đất nước phát triển thì trước hết doanh nghiệp phải phát triển. Trong xu thế hội nhập hiện nay đã và đang đem lại rất nhiều thuận lợi nhưng cũng đem lại rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp của chúng ta. Mà muốn tồn tại và phát triển doang nghiệp phải biết tận dụng những thuận lợi như là liên doanh, liên kết để tiếp thu kinh nghiệm quản lý, tiếp cận thị trường, được chuyển giao công nghệ… Để có được những điều đó doạnh nghiệp phải tự mình xem xét, lựa chon đối tác phù hợp, phục vụ cho mục đích, cho chiến lược phát triển của công ty mình. Nên có một kế hoạch cụ thể chi tiết trong liên doanh, mà tốt nhất là chia kế hoạch ra làm nhiều giai đoạn nhỏ để thực hiện. Doanh nghiệp phải tìm hiểu kỹ đối tác trước khi liên doanh, liên kết, có thể tìm thông tin bằng nhều cách như là: qua các trang Web, các bài báo, các bản báo cáo tài chính, có thể thì qua các mốI quan hệ cá nhân… Các thông tin cần phảI có như là: công nghệ sử dụng trong liên doanh là gì? chiến lược của họ là gì?, có phù hợp với mong muốn của doanh nghiệp mình không, nếu có thì phù hợp ở những điểm nào?, doanh nghiệp cần đạt được những gì khi liên doanh?, … 3.4.2.2 Nâng cao trình độ chuyên môn của các cán bộ, công nhân trong doanh nghiệp, trước khi liên doanh, liên kết, hợp tác Vì khi liên doanh, liên kết, hợp tác, một trong những cái mà doanh nghiệp mong muốn đạt được đó là tiếp thu được kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Nhưng để tiếp thu được những kinh nghệm đó thì cán bộ, công nhân viên phải có một trình độ chuyên môn nhất định. Do vậy, phải tổ chức nâng cao trình độ chuyên môn cho họ trước khi đưa họ vào tiếp thu những cái mới. Kết Luận Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, ĐTTTNN đã đóng góp một phần vô cùng quan trọng thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. ĐTTT từ EU vào VIệt Nam thời gian qua đã và đang đóng góp vào sự nghiệp đó và ngày càng có những biến chuyển tốt đẹp hơn. EU trong những năm gần đây, đặc biệt là khi Việt Nam tham gia vào WTO, EU đã coi Việt Nam như là một đối tác chiến lược của họ trong khu cực Đông Nam Á. Năm 2006 và đầu năm 2007 nguồn vốn FDI cũng như ODA của EU đổ vào nước ta tăng lên rõ rệt. Chiến lược đầu tư của các nhà đầu tư EU cũng thể hiện sự dài hạn và quy mô vốn đầu tư trên một dự án cũng lớn hơn trước. Gia nhập WTO đã tạo ra một môi trường pháp lý công bằng hơn cho Việt Nam khi quan hệ với các nước khác trên thế giới, đặc biệt là những nước lớn như EU, Mỹ,… Đồng thời nó thể hiện sự hộI nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Điều này làm cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm hơn khi quyết định đầu tư vào Việt Nam. Để thu hút được nguồn vốn FDI nói chung và nguồn vốn FDI của EU nói riêng vào Việt Nam thì Việt Nam phải tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư của mình theo hướng ngày càng thông thoáng, các cơ chế chính sách phảI rõ ràng, cụ thể, có tính ổn định lâu dài, tập trung đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao tính chủ động của doanh nghiệp trong việc tìm chọn đốI tác đầu tư… Có như vậy chúng ta mới có thể khai thác và sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn này. Với những gì đã và đang đạt được chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng nguồn vốn FDI nói chung và nguồn vốn FDI của EU nói riêng vào Việt Nam ngày càng tăng cả về chất lượng và số lượng. Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo I/ Sách Các nước Đông Âu ra nhập EU và những tác động đến Việt Nam, PGS. Nguyễn Quang Thuấn, TS Nguyễn An Hà, NXB. KHXH, 2005. Đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển, Nguyễn Ngọc Diên, Bùi Thanh Sơn, Nguyễn Thái Yên Hương, Chính trị quốc gia, 1996. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc từ 1979 đến nay, Nguyễn Kim Bảo, KHXH, 2000. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp, Trần Xuân Tùng, Chính trị quốc gia, 2005. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vớI công cuộc công nghệp hoá, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nguyễn Trọng Xuân, KHXH, 2002. Định hướng phát triển các hình thức ĐTTTNN ở Việt Nam, LATSKT - Ngô Công Thành, 2005. Giải pháp tăng cường thu hút ĐTTTNN ở Việt Nam, LATSKH - Nguyễn Thị Kim Mã, 2005. Niên giám thống kê 2005: Statistical yearbook of Viet Nam 2005, NXB, Thống kê, 2006. Xu hướng toàn cầu hoá ĐTTTNN: cơ hội và thách thức đối với ĐTTTNN vào Việt Nam, LATSKT – Ngô Thị Việt Hoa,2006. II/ Báo và tạp chí 1/ Tạp chí đầu tư Dậy sóng FDI, Tiền HảI, ra thứ 6/29/12/06. Đòi hỏi một chiến lược đầu tư mang tính dài hạn, Bảo Giang, ra thứ 6/29/12/06. Dự báo động thái 2007, Minh Nhung, số 33 (1612), ngày 16/03/07. Hiệu ứng từ gia nhập WTO, Trung Đức, ra thứ 4/07/03/07. 2/ Kinh tế và dự báo ĐTTTNN một năm 2005 một năm nhìn lại, Nguyễn Anh Tuấn, số 1/2006. Nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng FDI của Việt Nam trong tiến trình hội nhập, ThS. Nguyễn Xuân Thắng, số 3/2006. 3/ Nghiên cứu Châu Âu Chính sách phát triển vùng của EU, ThS. Hà Hoàng HảI, số 4 (70) 2006. Hoạt động ĐTTTNN của các nước EU giai đoạn 2001 – 2004, Đinh Mạnh Tuấn, Hồ Thanh Hương, số 2 (68) 2006. Những đặc điểm cơ bản của thể chế chính trị EU, Đặng Minh Đức, số 2 (68) 2006. Thực trạng hoạt động ĐTTTNN của EU tạI Việt Nam, Nguyễn Như Đến, số 2 (68)2006. Vai trò của EU trong nền kinh tế thế giới và những vấn đề, Bùi Hồng Hạnh, 2 (68)2006. 4/ ThờI báo kinh tế Việt Nam Hơn 2,5 tỷ USD vốn FDI, Thuỳ Trang, số 71 (2065). Quý I xuất khẩu 10,4 tỷ USD, Dương Ngọc, số 76 (2070). Xuân mới, trời quang, gió lộng, buồm căng, Hà Đăng, số 39 – 44 (tháng 2/2007). III/ Website http:// www.mpi.com.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31874.doc
Tài liệu liên quan