Thu hút FDI vào phát triển lĩnh vực dịch vụ trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO

Tài liệu Thu hút FDI vào phát triển lĩnh vực dịch vụ trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO: ... Ebook Thu hút FDI vào phát triển lĩnh vực dịch vụ trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1399 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thu hút FDI vào phát triển lĩnh vực dịch vụ trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tr­êng §¹i häc Kinh tÕ Quèc d©n khoa kinh tÕ vµ kinh doanh quèc tÕ Chuyªn ngµnh qu¶n trÞ kinh doanh quèc tÕ — & – chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp §Ò tµi THU HóT §ÇU T¦ TRùC TIÕP N¦íC NGOµI VµO PH¸T TRIÓN LÜNH VùC DÞCH Vô TRONG BèI C¶NH VIÖT NAM Lµ THµNH VI£N CHÝNH THøC CñA WTO Gi¸o viªn h­íng dÉn : pgs.ts. nguyÔn THÞ H¦êNG Sinh viªn thùc hiÖn : nguyÔn thÞ quúnh th­ Líp : KDQT A Khãa : 46 HÖ : ChÝnh quy Hµ Néi - 2008 LỜI MỞ ĐẦU 1.Tính tất yếu của đề tài Thu hút FDI là một tất yếu khách quan, bắt nguồn từ sự phát triển của thương mại quốc tế, liên kết kinh tế quốc tế. Trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, đặc biệt là các nước chậm và đang phát triển lại không cần FDI và coi đó là nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước. Ngay các cường quốc trên thế giới như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU….cũng rất cần FDI. Dòng vốn FDI chủ yếu chảy vào các nước phát triển nhất. Khả năng vốn đầu tư của thế giới hiện nay không lớn, nhưng nhu cầu về vốn đầu tư của tất cả các quốc gia đều rất lớn và vượt xa các nguồn cung cấp. Do vậy, đã diễn ra một cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước để tìm kiếm vốn. Quốc gia nào có môi trường đầu tư thuận lợi, thông thoáng, sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả hơn sẽ giành được những ưu thế lớn hơn trong cuộc cạnh tranh này. Thu hút FDI mang tính quy luật chung đối với tất cả các nước. Quy luật này càng bức bách hơn đối với các nước đang phát triển và thiếu vốn như nước ta. Nước ta tiến hành quá trình CNH – HĐH đất nước với xuất phát điểm thấp, các nguồn vốn cho phát triển tích luỹ từ nội bộ rất eo hẹp. Do đó, giải pháp chiến lược giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn lớn và nguồn vốn trong nước eo hẹp chỉ có thể là khai thác các nguồn vốn từ bên ngoài, đặc biệt là FDI. FDI được coi là chìa khoá của sự phát triển, phá vỡ vòng luẩn quẩn của nghèo đói. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO) càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút FDI từ các nước phát triển nhằm phát triển toàn diện nền kinh tế đất nước, đặc biệt là trong dịch vụ giáo dục – dịch vụ có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của nền kinh tế Trước khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, cách nhìn chung của phần đông những người hoạt động trong ngành giáo dục đều coi giáo dục là một phúc lợi xã hội hoạt động theo nguyên tắc phi thương mại. Nhưng trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO, Việt Nam đã theo đuổi lập trường tích cực, chủ động và đã cam kết thực hiện Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) đối với tất cả 12 ngành dịch vụ, trong đó có giáo dục. Điều này cũng có nghĩa là sau khi gia nhập WTO, giáo dục là một dịch vụ trong hoạt động thương mại. Thị trường giáo dục đại học ở Việt Nam đang được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là một thị trường tiềm năng do hệ thống các trường đại học của Việt Nam hiện nay, cũng như trong trung hạn, hoàn toàn không có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu đại chúng hóa và nâng cao chất lượng giáo dục đại học theo tinh thần của Nghị quyết 14-2005. Các nhà cung ứng giáo dục nước ngoài của Mỹ, Anh, Úc, Nhật, Pháp... cũng như các nhà cung ứng giáo dục nước ngoài của Trung Quốc, Ấn Độ, Singapore, Thái Lan... đang có nhu cầu lớn về xuất khẩu giáo dục sang Việt Nam. Theo xu thế hiện nay, việc đầu tư xây dựng trường mới sẽ không có nhiều, nhưng các cơ sở liên kết chắc chắn sẽ phát triển rất sôi động. Vì vậy, sau khi thực hiện cam kết về GATS như trên, bức tranh giáo dục đại học Việt Nam sẽ có biến động mạnh mẽ với sự ra đời của khá nhiều cơ sở giáo dục nước ngoài, chủ yếu là các cơ sở giáo dục liên kết. Với những lý do nêu trên, đề tài “Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển lĩnh vực dịch vụ trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO” được chọn làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. 2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích: Đề xuất giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào phát triển lĩnh vực dịch vụ nói chung và dịch vụ giáo dục nói riêng trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO Nhiệm vụ: Hệ thống hoá cơ sở lý luận về thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO Phân tích thực trạng thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục tại Việt Nam từ khi Việt Nam là thành viên chính thức của WTO, trên cơ sở đó tìm ra nguyên nhân của những tồn tại trong việc thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục Việt Nam. Kiến nghị các phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 3.Đối tượng, phạm vi và giác độ nghiên cứu Đối tượng của đề tài là thu hút FDI vào phát triển các dịch vụ ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung nghiên cứu việc phát triển dịch vụ giáo dục ở Việt Nam. Giác độ nghiên cứu: vĩ mô. 4.Kết cấu đề tài Đề tài được chia làm 3 chương như sau: Chương I: Những vấn đề cơ bản về thu hút FDI vào phát triển lĩnh vực dịch vụ và sự cần thiết phải thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục Chương II: Thực trạng thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO Chương III: Một số định hướng và giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THU HÚT FDI VÀO PHÁT TRIỂN LĨNH VỰC DỊCH VỤ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI THU HÚT FDI VÀO PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ GIÁO DỤC 1.1.Những vấn đề lý luận về thu hút FDI 1.1.1.Khái luận chung về FDI 1.1.1.1.Khái niệm FDI và dự án FDI Theo IMF, FDI là một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài, theo đó, một tổ chức trong nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có những ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế đó. Lợi ích lâu dài ở đây ngụ ý sự tồn tại của mối quan hệ dài hạn giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp có vốn FDI và tác động đáng kể của nhà đầu tư đối với việc quản lý doanh nghiệp đó. Hội nghị Liên hợp quốc tế về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) cũng đưa ra một định nghĩa về FDI. Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI. FDI có ba bộ phận: vốn cổ phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công ty. Theo Luật Đầu tư của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 59/2005/QH11 ban hành ngày 29/11/2005 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/7/2006 thì “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành các hoạt động đầu tư”. Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Từ các định nghĩa trên có thể hiểu một cách khái quát về FDI như sau: “FDI là hoạt động đầu tư do các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân nước ngoài tự mình hoặc cùng với các tổ chức kinh tế của nước sở tại bỏ vốn vào một đối tượng nhất định, trực tiếp quản lý điều hành để thu lợi nhuận trong kinh doanh. Hoạt động FDI được thực hiện thông qua dự án gọi là dự án FDI”. Dự án FDI là những dự án đầu tư do các tổ chức kinh tế và cá nhân ở nước ngoài tự mình hoặc cùng với các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân ở nước tiếp nhận đầu tư bỏ vốn đầu tư, trực tiếp quản lý điều hành để thu lợi nhuận trong kinh doanh. 1.1.1.2.Đặc điểm của dự án FDI Các dự án FDI trước hết cũng là dự án đầu tư nên cũng có đầy đủ các đặc trưng cơ bản của một dự án đầu tư nói chung, đó là: Đầu tư là một hoạt động bỏ vốn nên quyết định đầu tư thường và trước hết là quyết định tài chính. Đầu tư là hoạt động có tính chất lâu dài (chiến lược). Đầu tư là hoạt động luôn cần có sự cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Đầu tư là hoạt động mang nặng rủi ro. Ngoài các đặc trưng chung nói trên, các dự án FDI còn có các đặc trưng mang tính chất đặc thù so với các dự án đầu tư nước ngoài. Đó là các đặc trưng sau: Nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp tham gia hoặc tự mình quản lý điều hành đối tượng bỏ vốn. Các bên tham gia vào dự án FDI có quốc tịch khác nhau, đồng thời sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Dự án FDI chịu sự tác động đồng thời của nhiều hệ thống pháp luật, bao gồm luật pháp của quốc gia nước sở tại và pháp luật, thông lệ quốc tế. Quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư quốc tế đòi hỏi các quốc gia phải tiến hành cải tiến hệ thống pháp luật của mình cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Có sự gặp gỡ, cọ xát giữa các nền văn hóa khác nhau trong quá trình hoạt động của dự án. Các dự án FDI được thực hiện thông qua nhiều hình thức đầu tư có tính chất đặc thù. Đó là việc hình thành các pháp nhân mới có yếu tố nước ngoài, hoặc là sự hợp tác có tính đa quốc gia trong các hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc BOT, hoặc là tạo ra các khu vực đầu tư tập trung đặc biệt có yếu tố nước ngoài. “Cùng có lợi” là phương châm chủ đạo của các bên, là nguyên tắc cơ bản để giải quyết quan hệ giữa các bên trong mọi giai đoạn của dự án FDI. Tóm lại, các đặc trưng cơ bản trên của các dự án FDI đã cho thấy, dự án FDI về bản chất là sự hợp tác theo nguyên tắc thỏa thuận của nhiều quốc gia với quốc tịch, ngôn ngữ, văn hóa, trình độ phát triển khác nhau. Chính sự khác nhau nhiều mặt trong quá trình hợp tác đầu tư giữa các Bên đã làm cho dự án FDI trở nên phức tạp trong quá trình soạn thảo, triển khai và vận hành. Các đặc trưng này đòi hỏi các Bên trực tiếp hợp tác đầu tư và các quốc gia cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tham gia kinh doanh với các nhà đầu tư nước ngoài một cách hữu hiệu nhất và hạn chế ở mức cao nhất những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hợp tác đầu tư với các quốc gia khác. 1.1.1.3.Các hình thức của FDI Để thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp ở nước ngoài, các nhà đầu tư có thể xây dựng một cơ sở sản xuất hoàn toàn mới hay mua lại các cơ sở sản xuất đang hoạt động tại nước sở tại. Trong thực tiễn, FDI được thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau, trong đó có những hình thức áp dụng phổ biến, bao gồm: Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh Doanh nghiệp liên doanh Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài BT, BOT, BTO Tùy vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia, các hình thức đầu tư trên được áp dụng ở mức độ khác nhau. 1.1.2.Những vấn đề lý luận cơ bản về thu hút FDI 1.1.2.1.Khái niệm thu hút FDI Thu hút FDI có thể coi là quá trình xây dựng môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo điều kiện không những cho vốn đầu tư nước ngoài mà cả vốn đầu tư trong nước cũng được đưa vào thực hiện một cách thuận lợi với tư cách là phần vốn góp của nước sở tại trong liên doanh. Về bản chất, thu hút FDI là hình thức nhập khẩu tư bản (đối với nước tiếp nhận đầu tư) và xuất khẩu tư bản (đối với nhà đầu tư ra nước ngoài), một hình thức cao hơn xuất nhập khẩu hàng hóa. Cùng với hoạt động ngoại thương, thu hút FDI trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ, hợp thành dòng chảy chính trong trào lưu có tính quy luật liên kết hợp tác kinh tế thế giới. 1.1.2.2.Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút FDI 1.1.2.2.1.Nhóm nhân tố kéo Sự ổn định chính trị và an ninh quốc gia là nhân tố đầu tiên mà các nhà đầu tư xem xét trước khi quyết định đầu tư hay không đầu tư vào một quốc gia nào đó do nhân tố này đảm bảo cho tính mạng và tài sản của các nhà đầu tư khỏi những rủi ro chính trị. Sự thân thiện của chính quyền địa phương qua các thủ tục hành chính đối với nhà đầu tư. Hệ thống dịch vụ công minh, minh bạch, hiệu quả và công bằng qua việc cấp giấy phép, thủ tục hải quan, mức thu thuế... có hiệu quả và không tham nhũng. Sự ổn định, nhất quán, bình đẳng của các chính sách quản lý đối với các dự án đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài. Kế hoạch, quy hoạch các vùng, các ngành nghề, lĩnh vực địa bàn... của bên nhận đầu tư để hoạch định chương trình, kế hoạch cho công ty khi đầu tư. Nhu cầu về vốn FDI để tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của các nước đang phát triển là rất lớn, tạo nên lực hút mạnh mẽ đối với vốn FDI. 1.1.2.2.2.Nhóm nhân tố đẩy Sự phát triển của xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư. Quá trình hội nhập của các nền kinh tế quốc gia đã làm cho các nước dỡ bỏ sự kiểm soát chặt chẽ đối với hàng hóa, nhân công, luồng vốn lưu chuyển trên thị trường của mình. Nền kinh tế thế giới, khu vực dần trở thành một chỉnh thể thống nhất. Nguồn vốn được vận động theo đúng quy luật của nó, chảy vào những nơi có khả năng sinh lợi cao. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế của các nước tạo nên sự dịch chuyển vốn giữa các quốc gia. Sự thay đổi các yếu tố sản xuất kinh doanh ở các nước sở hữu vốn tạo nên lực đẩy đối với vốn FDI. Quan hệ cung cầu về vốn đầu tư là quan hệ cơ bản chi phối mức độ cạnh tranh giữa các quốc gia, khu vực về vốn FDI. Hiện nay đang diễn ra một cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các quốc gia để tìm kiếm nguồn vốn. Quốc gia nào có môi trường đầu tư hấp dẫn hơn và có khả năng sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả hơn thì sẽ có lợi thế hơn trong cuộc cạnh tranh này. 1.1.2.3.Nội dung thu hút FDI trên giác độ vĩ mô 1.1.2.3.1.Xác định mục tiêu thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục Hợp tác giáo dục với các nước trong khu vực và thế giới là nhu cầu hướng tới nền giáo dục hiện đại và hội nhập. Trong thời đại ngày nay, tri thức nhân loại đã ở giai đoạn phát triển cao và lan tỏa nhanh trên toàn cầu. Giáo dục là cầu nối truyền tải mọi tri thức và công nghệ tiên tiến giữa các quốc gia. Ngày nay, trên thế giới đã có nhiều hình thức dịch vụ giáo dục đa quốc gia phát triển mang lại lợi ích to lớn cho các nền kinh tế thế giới. Để thụ hưởng được tri thức nhân loại nhanh chóng, chúng ta không thể bỏ rơi cơ hội hợp tác với các trường, các chương trình quốc tế chất lượng cao để phát triển nền giáo dục nước nhà. Do vậy, tăng cường lựa chọn hợp tác với các nước trong khu vực và thế giới về giáo dục một cách tối ưu, chất lượng và hiệu quả đang là đòi hỏi của dân tộc ta trong tiến trình hội nhập và cạnh tranh quốc tế. Để tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế, chúng ta cần có chiến lược hiện đại hóa giáo dục trên cơ sở quy hoạch lại mạng lưới trong hệ thống giáo dục quốc dân và đầu tư xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho nền giáo dục hiện đại. Thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục là một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược hiện đại hóa giáo dục. Mục tiêu thu hút FDI là tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý giáo dục của các nước phát triển nhằm phát triển dịch vụ giáo dục của Việt Nam. 1.1.2.3.2.Xây dựng và hoàn thiện môi trường đầu tư thuận lợi cho việc phát triển dịch vụ giáo dục Đây là vấn đề có tính then chốt trong việc tổ chức thu hút FDI. Môi trường đầu tư là tổng thể các bộ phận mà ở đó chúng tác động qua lại lẫn nhau và chi phối mạnh mẽ đến các hoạt động đầu tư, buộc các nhà đầu tư phải tự điều chỉnh các mục đích, hình thức, phạm vi hoạt động cho thích hợp, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh và đưa đến hiệu quả cao trong kinh doanh. Khi xem xét môi trường đầu tư, các nhà kinh doanh và nhà quản lý cần phải thấy một số đặc điểm cơ bản trong quá trình tạo dựng và đánh giá môi trường đầu tư. Thứ nhất, môi trường đầu tư không phải là cố định mà luôn biến đổi không ngừng do sự thay đổi của các yếu tố cấu thành tức là môi trường thành phần. Do đó, khi phân tích đánh giá môi trường đầu tư phải đứng trên quan điểm rộng. Tính chất của môi trường đầu tư luôn thay đổi là do mối tương quan giữa môi trường đầu tư trong nước và môi trường đầu tư của các nước khác. Không có một môi trường đầu tư cố định. Thứ hai, sự thay đổi trong từng môi trường thành phần kéo theo và tác động đến sự thay đổi trong môi trường đầu tư. Điều này đòi hỏi khi phân tích đánh giá môi trường đầu tư phải xem xét một cách tổng thể trong mối quan hệ chặt chẽ và với một mối tương quan cụ thể giữa các môi trường thành phần. Thứ ba, ngày nay, xu thế hội nhập không ngừng gia tăng, các doanh nghiệp không chỉ kinh doanh trong nước mà còn hướng ra nước ngoài. Các nhà đầu tư cần đánh giá cả môi trường đầu tư trong nước và môi trường đầu tư của những nước bên ngoài và tương quan giữa môi trường đầu tư các nước. Môi trường đầu tư phải là một sân chơi bình đẳng cho tất cả các nhà đầu tư. Đối với dịch vụ giáo dục thì càng cần xây dựng một môi trường đầu tư công bằng, bình đẳng, lành mạnh với khung pháp lý rõ ràng nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào dịch vụ giáo dục – lĩnh vực không nằm ngoài quỹ đạo của xu hướng toàn cầu hóa. 1.1.2.3.3.Xác định các yêu cầu cần thiết đối với việc phát triển dịch vụ giáo dục Hội nhập quốc tế về giáo dục phải làm cho giáo dục Việt Nam phát triển nhanh về số lượng, vững chắc về chất lượng, đảm bảo yêu cầu phát triển của đất nước, phục vụ mục tiêu chính trị cơ bản của Đảng và nhân dân ta là giữ vững chủ quyền quốc gia, định hướng xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Bảo đảm mục tiêu phát triển con người toàn diện, có năng lực thích ứng với tình hình mới. Đồng thời phải xem giáo dục là quyền và lợi ích của nhân dân. Nhà nướcphải bảo đảm để mọi người dân có điều kiện học tập, có cơ hội phát triển, quan tâm đến nhân dân lao động và người nghèo. Giáo dục là sự nghiệp của toàn dân. Hội nhập về giáo dục cũng là công việc của nhân dân, vì vậy, cần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân trong nước cũng như của kiều bào ở nước ngoài. Phát huy tối đa nội lực, độc lập và chủ động trong quá trình hội nhập giáo dục. Mở rộng hợp tác đi đôi với quản lý chặt chẽ. Tích cực chuẩn bị tốt các điều kiện để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, ngăn ngừa và hạn chế rủi ro. Cần mạnh dạn phát huy các lợi thế, tận dụng các cơ hội, đồng thời phải quản lý tốt quá trình hội nhập. Cạnh tranh trong hội nhập quốc tế xét đến cùng là cạnh tranh về giáo dục đào tạo. Đây là cuộc đấu tranh gay go phức tạp nhưng có ý nghĩa rất quan trọng. Nắm vững cam kết, tham khảo kinh nghiệm các nước, đồng thời căn cứ vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, xác định nội dung và lộ trình hội nhập quốc tế, làm rõ cái gì phải tích cực khai thác, cái gì phải bảo vệ, cái gì cần ngăn chặn. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân trong phát triển hội nhập giáo dục quốc tế. 1.1.2.3.4.Xét duyệt và cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các nhà đầu tư vào dịch vụ giáo dục Việc xét duyệt và cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các nhà đầu tư vào dịch vụ giáo dục cũng tương tự như việc xét duyệt và cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các dự án có vốn FDI, cụ thể: Dự án đầu tư có quy mô vốn dưới 300 tỷ đồng Việt Nam và không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện sẽ thuộc diện được đăng ký cấp giấy chứng nhận đầu tư. Nội dung và thủ tục đăng ký đầu tư: Hồ sơ đăng ký đầu tư trong trường hợp không gắn với thành lập tổ chức kinh tế: Trong trường hợp đăng ký dự án có vốn đầu tư nước ngoài không gắn với thành lập tổ chức kinh tế, nhà đầu tư phải nộp một bộ hồ sơ đến cơ quan nhà nước quản lý đầu tư, bao gồm các tài liệu sau: Bản đăng ký/đề nghị cấp giấy chứng nhận đầu tư Hợp đồng hợp tác kinh doanh đối với hình thức đầu tư theo Hợp đồng hợp tác kinh doanh; Báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư (do nhà đầu tư lập và chịu trách nhiệm). Hồ sơ đăng ký đầu tư trong trường hợp gắn với thành lập tổ chức kinh tế: Trong trường hợp đăng ký dự án có vốn đầu tư nước ngoài có gắn với thành lập tổ chức kinh tế, nhà đầu tư phải nộp một bộ hồ sơ đến cơ quan nhà nước quản lý đầu tư, bao gồm các tài liệu sau: Bản đăng ký/đề nghị cấp giấy chứng nhận đầu tư đối với trường hợp gắn với thành lập tổ chức kinh tế Báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư (do nhà đầu tư lập và chịu trách nhiệm). Hồ sơ đăng ký kinh doanh tương ứng với mỗi loại hình doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật có liên quan Hợp đồng liên doanh đối với hình thức đầu tư thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Đối với nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam phải có dự án đầu tư và làm thủ tục đăng ký đầu tư hoặc thẩm tra đầu tư tại cơ quan quan nhà nước quản lý đầu tư để cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Thủ tục đăng ký đầu tư: Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký đầu tư và hồ sơ đăng ký kinh doanh hợp lệ, cơ quan nhà nước quản lý đầu tư kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký đầu tư, hồ sơ đăng ký kinh doanh (đối với trường hợp thành lập tổ chức kinh tế gắn với dự án đầu tư) và cấp Giấy chứng nhận đầu tư. 1.1.2.3.5.Xúc tiến đầu tư nhằm thu hút FDI vào lĩnh vực dịch vụ giáo dục Xúc tiến đầu tư thực chất là hoạt động đối ngoại nhằm quảng bá hình ảnh môi trường đầu tư hấp dẫn trong nước ra các nước trên thế giới, qua đó kêu gọi đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. 1.1.2.3.6.Các chỉ tiêu đo lường kết quả hoạt động thu hút FDI Có nhiều chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động thu hút FDI. Sau đây là các chỉ tiêu cơ bản: Quy mô vốn FDI: Đây là tổng vốn FDI đã thu hút được trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ tiêu này thường được xem xét trước tiên khi đánh giá kết quả thu hút FDI. Chỉ tiêu này càng cao càng tốt. Số lượng các dự án FDI: Hoạt động FDI được thực hiện thông qua các dự án FDI. Vì thế, về cơ bản, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Tuy nhiên, việc xem xét chỉ tiêu này cần phải đi kèm với việc đánh giá quy mô, tính khả thi và hiệu quả của dự án. Số vốn bình quân của một dự án FDI: Chỉ tiêu này cho biết quy mô bình quân của mỗi dự án. Mặc dù có được nhiều dự án FDI nhưng nếu số vốn bình quân của một dự án nhỏ thì tổng lượng vốn FDI thu hút được sẽ không lớn và hiệu quả kinh tế xã hội tạo ra sẽ không nhiều. Do vậy, bất kỳ quốc gia nào cũng mong muốn chỉ tiêu này cao. Tốc độ thu hút FDI: Chỉ tiêu này cho biết quy mô vốn FDI tăng hay giảm và tăng, giảm nhanh hay chậm. Dựa vào chỉ tiêu này có thể so sánh được kết quả thu hút FDI ở thời kỳ này so với thời kỳ khác. Cơ cấu FDI: Có nhiều loại cơ cấu FDI: cơ cấu FDI theo lĩnh vực, theo vùng, theo đối tác đầu tư và theo hình thức đầu tư. Cơ cấu FDI cho biết sự phân bố, xu hướng vận động, phát triển của FDI, từ đó nước sở tại có những điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn và quy hoạch của đất nước. Trên đây là một số chỉ tiêu cơ bản dùng để đánh giá kết quả thu hút FDI. Việc tính toán các chỉ tiêu trên cho từng quốc gia qua các năm cho thấy quy mô, tốc độ, xu hướng FDI thu hút được vào các ngành, các vùng, hình thức đầu tư, đối tác đầu tư... Cần phải xem xét tất cả các chỉ tiêu để có được cái nhìn toàn diện về hiệu quả hoạt động thu hút FDI cả về mặt chất và mặt lượng. 1.1.3.Những cam kết đối với việc phát triển lĩnh vực dịch vụ nói chung và dịch vụ giáo dục nói riêng của WTO Theo cam kết, Việt Nam phải mở cửa 110 phân ngành thuộc 11 ngành dịch vụ cho các thành viên WTO. Những cam kết này liên quan đến chế độ đầu tư, hình thức thành lập doanh nghiệp, thuê đất, các biện pháp về thuế, trợ cấp cho doanh nghiệp trong nước... Riêng về giáo dục thì tại khoản 3, điều 10 Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO có nói về giáo dục: trừ hoạt động giáo dục có nguồn tài trợ triệt để của Quốc gia; còn lại tất cả các hoạt động giáo dục có thu học phí, hoặc mang tính thương mại đều thuộc phạm trù thương mại giáo dục. Trong 12 nhóm thương mại dịch vụ, thì dịch vụ giáo dục thuộc nhóm thứ 5. Dịch vụ nhóm này bao gồm: dịch vụ giáo dục tiểu học, dịch vụ giáo dục trung học, dịch vụ giáo dục đại học và cao đẳng, dịch vụ giáo dục cho người lớn và các dịch vụ giáo dục khác. GATS là phần quan trọng trong hiệp định WTO, gồm 3 bộ phận: Hiệp định chung; các văn bản phụ lục; bảng giảm nhượng của các nước. Tùy theo điều kiện phát triển giáo dục và luật pháp của nước ta mà có thể đề xuất những lĩnh vực tham gia, giảm nhượng và mở cửa. Thương mại dịch vụ khác với thương mại hàng hóa chủ yếu ở chỗ: dịch vụ là hàng hóa vô hình, thương mại dịch vụ giữa các nước là trao đổi hàng hóa vô hình giữa các nước. Giáo dục được xem là một loại hình dịch vụ cá nhân trong 12 nhóm ngành dịch vụ thương mại nói chung. Vì vậy, giáo dục đương nhiên cũng sẽ hoạt động theo 4 phương thức được quy định sẵn trong Hiệp định chung về thương mại dịch vụ: cung ứng xuyên quốc gia, tiêu thụ ngoài lãnh thổ, hiện diện thương mại, hiện diện thể nhân. Cung ứng xuyên quốc gia: một thành viên có thể cung ứng dịch vụ từ nước mình đến bất kỳ quốc gia nào trong WTO. Với giáo dục chủ yếu là cung ứng dịch vụ đào tạo, chương trình, giáo trình và giáo dục từ xa. Tiêu thụ ngoài lãnh thổ: quốc gia thành viên có thể cung cấp dịch vụ từ nước mình cho người tiêu thụ ở bất kỳ quốc gia nào trong WTO. Với giáo dục chủ yếu là dịch vụ du học. Hiện diện thương mại: việc cung cấp dịch vụ của một quốc gia thành viên có thể cung cấp dịch vụ tới các quốc gia khác thông qua hiện diện thương mại. Với giáo dục thể hiện ở chỗ một tổ chức giáo dục của một quốc gia thành viên có thể mở hoạt động giáo dục, đào tạo của mình tại các quốc gia thành viên khác. Hiện diện thể nhân: việc cung cấp dịch vụ của nước thành viên có thể cung cấp dịch vụ thông qua sự lưu chuyển công dân tự do đến bất cứ nước thành viên khác. Với giáo dục, chủ yếu sẽ được thực hiện thông qua di chuyển hoạt động giảng dạy, đào tạo, nghiên cứu giữa các trường, viện, học viện, các cơ sở GD-ĐT, các công ty giáo dục khác trong tất cả các nước thành viên. 1.1.4.Đặc điểm của những cam kết về dịch vụ giáo dục của nước ta với WTO Giáo dục phổ cập, giáo dục quốc phòng, an ninh, Đảng, đoàn thể, một số tổ chức xã hội không nằm trong dịch vụ giáo dục, còn lại mở dịch vụ mua, bán tri thức cho người học. Tạo điều kiện để hệ thống giáo dục quốc dân nước ta ứng phó và thích nghi chủ động, tự tin trước sự tác động mạnh mẽ của dịch vụ giáo dục của các nước thành viên, đồng thời mở ra những cơ hội mới, nguồn đầu tư mới trong hợp tác phát triển giáo dục với nước ngoài. Dịch vụ cung ứng giáo dục xuyên quốc gia: chỉ nên cam kết về các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, công nghệ, kinh tế, nông, ngư nghiệp... Một số lĩnh vực khác trong giáo dục mà về nội dung giáo dục và quản lý giáo dục khó có thể khống chế, kiểm soát được những gì có hại đến an ninh quốc gia, đến con người Việt Nam thì nhất định không cam kết. Cam kết mở rộng và đầy mạnh tiêu thụ ngoài lãnh thổ để có thể tăng số lượng công dân Việt Nam đi du học nước ngoài, đồng thời có chiến lược thu hút học sinh, sinh viên nước ngoài đến Việt Nam học tập. Phương thức hiện diện thương mại của dịch vụ giáo dục: Hạn chế việc cho phép đơn phương tổ chức giáo dục nước ngoài được mở trường hoặc cơ sở giáo dục tại Việt Nam. Mở rộng và tăng cường tổ chức hợp tác giáo dục giữa ta và các nước thành viên và có thể để các nước thành viên hưởng đa số quyền lợi. Tuy nhiên, để làm được việc này cần lập được danh mục những lĩnh vực, ngành nghề nào ta cần phát triển, còn thiếu nhân lực, thiếu những người tài giỏi, để có chính sách khuyến khích. Mặt khác, cần nhanh chóng hoàn thành và hoàn thiện các văn bản pháp quy phù hợp với tình hình nước ta và những quy tắc, quy định của WTO. Sự hiện diện của thể nhân: Tất cả công dân các nước thành viên muốn đến cung ứng dịch vụ giáo dục tại Việt Nam cần được các trường, các tổ chức giáo dục khác ở nước ta mời, hoặc thuê... Người đến cung ứng dịch vụ giáo dục phải có bằng đại học trở lên, có đủ bằng cấp, chức danh nghề nghiệp tương ứng và đã có ít nhất 2 năm kinh nghiệm sau khi ra trường. 1.2.Thu hút FDI vào phát triển lĩnh vực dịch vụ nói chung và dịch vụ giáo dục nói riêng trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 1.2.1.Khái niệm dịch vụ Trong nền kinh tế ngày nay, không chỉ đơn thuần có các sản phẩm vật chất cụ thể (hàng hóa) mà bên cạnh đó còn tồn tại các sản phẩm dịch vụ. Cả hàng hóa và dịch vụ đều là sản phẩm của quá trình lao động, sản xuất của con người nhằm phục vụ các nhu cầu của con người. Chúng cùng có giá trị và giá trị sử dụng song hàng hóa là sản phẩm hữu hình còn dịch vụ là sản phẩm vô hình. Khái niệm dịch vụ được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau do sự đa dạng về chủng loại và tính vô hình của nó. Chính vì vậy, cho tới nay vẫn chưa có một khái niệm thật sự thống nhất về dịch vụ. Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thì thường định nghĩa dịch vụ gắn liền với quá trình sản xuất. Các Mác cho rằng: “Dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, khi mà kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông trôi chảy, thông suốt, liên tục để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người thì dịch vụ phát triển”. Qua định nghĩa này, Các Mác đã chỉ ra được nguồn gốc ra đời và động lực phát triển của dịch vụ. Cho đến những năm đầu của thế kỷ XX, nền kinh tế thị trường tại các nước tư bản chủ nghĩa đã phát triển rất mạnh khiến cho dịch vụ phát triển khá nhanh và trở thành một ngành kinh tế quan trọng của các quốc gia, là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành kinh tế - xã hội như: kinh tế học, xã hội học, khoa học quản lý... Lúc này, khái niệm dịch vụ cũng được hiểu theo các nghĩa rộng và hẹp khác nhau, tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, phương pháp luận kinh tế của mỗi quốc gia trong mỗi giai đoạn lịch sử cũng như phương pháp luận, đối tượng và mục đích nghiên cứu của các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội khác nhau. Theo cách hiểu thứ nhất: Theo nghĩa rộng, dịch vụ được coi là một ngành kinh tế thứ ba ngoài công nghiệp và nông nghiệp. Điều này có nghĩa là những lĩnh vực, hoạt động nằm ngoài ngành công nghiệp và nông nghiệp đều được coi là dịch vụ. Theo nghĩa hẹp, dịch vụ là phần mềm của sản phẩm, hỗ trợ cho khách hàng trước, trong và sau khi bán. Theo cách hiểu thứ hai: Theo nghĩa rộng, khái niệm dịch vụ chỉ toàn bộ các hoạt động mà kết quả của nó không tồn tại dưới hình thái vật thể. Điều này có nghĩa là hoạt động dịch vụ bao trùm lên tất cả các lĩnh vực, chi phối rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội, môi trường của từng quốc gia, từng khu vực cũng như toàn cầu. Ngày nay, dịch vụ không chỉ bao gồm các lĩnh vực truyền thống như vận tải, giao nhận, truyền thông, ngân hàng, du lịch, bảo hiểm... mà còn bao gồm những lĩnh vực mới khác như dịch vụ văn hóa, dịch vụ hành chính, dịch vụ tư vấn pháp luật, tư vấn hôn nhân... Theo nghĩa hẹp, dịch vụ là làm một công việc đáp ứng một nhu cầu nào đó của con người hoặc xã hội như vận chuyển, cung cấp, sửa chữa, bảo dưỡng các máy móc, th._.iết bị, công trình. Một cách tiếp cận khác thì dịch vụ là một hoạt động hay lợi ích cung ứng qua trao đổi chủ yếu là vô hình nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người, và không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu. Việc thực hiện dịch vụ có thể gắn liền hoặc không gắn liền với sản phẩm vật chất Mặc dù các định nghĩa về dịch vụ chưa đạt được tới tính thống nhất chung nhưng tựu trung lại dịch vụ là sản phẩm của quá trình lao động của con người này nhằm thỏa mãn nhu cầu của những con người khác. Nó không tồn tại dưới hình thái vật thể và không dẫn đến việc chuyển giao quyền sở hữu như các sản phẩm hữu hình. 1.2.2.Đặc điểm của dịch vụ Dịch vụ là các sản phẩm vô hình nên khó xác định: Khác với hàng hóa, sản phẩm dịch vụ không tồn tại dưới dạng vật chất hay vật phẩm cụ thể, không thể nhìn thấy hay chạm vào dịch vụ trước khi tiêu dùng nó. Chính vì vậy, các công tác lượng hóa, thống kê, đánh giá chất lượng và quy mô cung cấp dịch vụ trở nên khó khăn hơn rất nhiều so với hàng hóa. Bên cạnh đó, vì không tồn tại dưới dạng vật thể nên sẽ không xác lập được quyền sở hữu trên dịch vụ. Do đó, trong quan hệ mua – bán dịch vụ sẽ không có việc chuyển giao quyền sở hữu dịch vụ từ người bán sang người mua như quan hệ mua bán hàng hóa. Chủ thể của quan hệ dịch vụ có một số khác biệt so với trong quan hệ hàng hóa. Đó là trong quan hệ dịch vụ, chủ thể không quan tâm đến lợi ích sở hữu dịch vụ, không định đoạt dịch vụ mà chỉ quan tâm tới quyền sử dụng và chất lượng dịch vụ. Dịch vụ có tính không đồng nhất, khó tiêu chuẩn hóa: Các chủ thể tham gia quan hệ mua bán thỏa thuận với nhau để thực hiện một công việc nào đó như sửa chữa điện thoại, nhà cửa... Bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc theo thỏa thuận và nhận tiền công. Thước đo để đánh giá chất lượng công việc phụ thuộc vào mức độ “hài lòng” của bên yêu cầu dịch vụ và quá trình thực hiện công việc của bên cung ứng dịch vụ. Các nhà cung cấp dịch vụ không thể tạo ra được những dịch vụ như nhau trong những thời gian làm việc khác nhau. Bên cạnh đó, khách hàng lại đánh giá chất lượng dịch vụ dựa vào cảm nhận của họ, mà trong những thời gian khác nhau, sự cảm nhận của khách hàng là khác nhau, và khách hàng khác nhau có những cảm nhận khác nhau. Bởi vậy, chất lượng dịch vụ dao động trong một khoảng rất rộng, tùy thuộc vào hoàn cảnh tạo ra dịch vụ. Dịch vụ có tính không tách rời giữa quá trình sản xuất và tiêu dùng: Xét dưới góc độ kinh tế, tính không tách rời được hiểu là việc sản xuất, cung ứng, lưu thông, tiêu dùng dịch vụ là một quá trình liên hoàn, không có độ trễ về mặt thời gian giữa các công đoạn, hay nói cách khác, quá trình sản xuất (cung ứng) dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời. Ví dụ, trong dịch vụ tư vấn tài chính, khi chuyên gia cung cấp dịch vụ tư vấn thì đồng thời khách hàng cũng tiếp nhận và tiêu dùng xong dịch vụ tư vấn đó. Với đặc trưng này, dịch vụ khác hàng hóa ở chỗ: sản xuất hàng hóa tách khỏi lưu thông và tiêu dùng nên khi được sản xuất ra, hàng hóa có thể được lưu kho bãi và không nhất thiết phải tham gia ngay vào quá trình lưu thông, tiêu dùng. Sau quá trình tiêu dùng dịch vụ, các giá trị và giá trị sử dụng của dịch vụ được chuyển tải vào các giá trị vật chất khác, còn bản thân dịch vụ không tồn tại. Dịch vụ không thể cất trữ và lưu kho bãi: Do quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời nên không thể sản xuất dịch vụ hàng loạt và cất trữ, lưu kho bãi, sau đó mới tiêu dùng được. Vì vậy, dịch vụ là sản phẩm không lưu trữ được và không tồn tại khái niệm tồn kho hay dự trữ sản phẩm trong hoạt động cung ứng dịch vụ. Trên đây là những đặc trưng cơ bản của dịch vụ nói chung so với hàng hóa hữu hình, tuy nhiên chúng không mang tính tuyệt đối mà vẫn còn tồn tại một số ngoại lệ. Ví dụ, một số loại hình dịch vụ khi kết thúc quá trình cung ứng sẽ tạo ra sản phẩm có hình thái vật chất như bản photocopy trong dịch vụ photocopy. Hay hệ thống dịch vụ trả lời điện thoại tự động xét trên khía cạnh nào đó có thể coi là dịch vụ lưu trữ được. Như vậy, có thể thấy sự phân biệt giữa dịch vụ và hàng hóa thực ra chỉ mang tính chất tương đối. 1.2.3.Đặc trưng của việc thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục Giáo dục Việt Nam hiện đại có các đặc trưng sau: Về mục tiêu giáo dục Giáo dục phải đào tạo những con người Việt Nam vừa có những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc vừa có năng lực, bản lĩnh để thích ứng với mọi biến đổi đa dạng và nhanh chóng của thị trường. Trong bối cảnh thời đại và đất nước hiện nay, để tồn tại và phát triển, con người phải học tập suốt đời, xã hội phải là một xã hội đào tạo. Giáo dục phải thỏa mãn những nhu cầu học tập khác nhau của các đối tượng khác nhau, do đó phải tiến hành đa dạng hóa trong giáo dục từ loại hình đến nội dung, phương thức giáo dục và đa dạng hóa phải được thực hiện trên cơ sở chuẩn hóa. Thực hiện xã hội hóa giáo dục là giải pháp cơ bản để xây dựng xã hội học tập. Trong bối cảnh thế giới hiện nay, hội nhập quốc tế về giáo dục không chỉ là xu thế và đòi hỏi khách quan mà còn là động lực quan trọng để phát triển giáo dục. Về tính chất giáo dục Là nền giáo dục tiến bộ, giàu tính nhân văn theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì sự phát triển toàn diện của con người. Đây là nền giáo dục thực sự của dân, do dân và vì dân là sự phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh về một nền giáo đục nhân văn. 1.2.4.Nội dung của việc thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 1.2.4.1.Mục tiêu thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO Thực hiện mở cửa thị trường dịch vụ theo cam kết với WTO. Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam phải chịu sức ép lớn về cam kết trong lĩnh vực giáo dục, theo đó, giáo dục là một dịch vụ trong hoạt động thương mại và thương mại dịch vụ giáo dục cần được tự do hóa. Thu hút FDI trên cơ sở mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo chung của cả nước: Nghị quyết Trung ương khóa VIII đã đề ra các mục tiêu ưu tiên của giáo dục và đào tạo nước ta: “Đào tạo nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt chú trọng nhân lực khoa học công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề, đào tạo nhân lực cho các lĩnh vực công nghệ ưu tiên (công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ tự động hóa), đào tạo nhân lực cho nông thôn để thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu lao động, đào tạo nhân lực cho xuất khẩu lao động. Củng cố và nâng cao thành quả phổ cập tiểu học và xóa mù chữ. Thực hiện và củng cố phổ cập trung học cơ sở trong cả nước”. Trong quá trình thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục cần lựa chọn dự án đảm bảo các định hướng chung cũng như các mục tiêu của Nhà nướcđề ra đối với giáo dục và đào tạo trong từng thời kỳ phát triển, để khi dự án thực thi thì quá trình phát triển của các dự án đó cùng với quá trình phát triển giáo dục của Nhà nướccùng chung một hướng đã được hoạch định. Nguồn vốn FDI là một nguồn vốn cần thiết, quan trọng trong tổng thể nguồn lực chung đầu tư cho giáo dục đào tạo: Tổng nguồn vốn tập trung cho phát triển giáo dục đào tạo bao gồm nguồn chi từ ngân sách Nhà nước, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, nguồn vốn đi vay từ trong và ngoài nước, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguồn vốn tư nhân. Trong đó, nguồn vốn FDI có tính ưu việt hơn hẳn do nguồn vốn này là hình thức nhà đầu tư tự bỏ vốn, tự chịu trách nhiệm kết quả đầu tư của mình nên trước khi có quyết định đầu tư nhà đầu tư phải cân nhắc kỹ lưỡng, tính toán chi tiết cẩn thận để mang lại hiệu quả cho mình và cho nước sở tại. Mặt khác, kèm theo quá trình đầu tư, nhà đầu tư còn đầu tư mua sắm công nghệ hiện đại sang nước nhận đầu tư, cung cấp giáo trình, sách, tài liệu tham khảo, truyền đạt kiến thức theo phương pháp tiên tiến và có hiệu quả. Giáo dục đào tạo là một lĩnh vực đặc biệt, nên thu hút FDI vào dịch vụ này cần được quan tâm đặc biệt: Ngành giáo dục và đào tạo có đặc thù riêng được thể hiện ở chức năng, nhiệm vụ cơ bản của ngành mà ở đó đối tượng của quá trình giáo dục và đào tạo là con người và sản phẩm đầu ra của ngành là tri thức và những giá trị phi vật chất. Do vậy, việc đánh giá hiệu quả của dự án giáo dục cần được nhìn nhận một cách toàn diện chứ không chỉ nhìn vào hiệu quả kinh tế mà dự án mang lại. 1.2.4.2.Xây dựng và hoàn thiện môi trường đầu tư trong lĩnh vực giáo dục Việc xây dựng và hoàn thiện môi trường đầu tư trong lĩnh vực giáo dục gồm các nội dung sau: 1.2.4.2.1.Xây dựng chính sách pháp luật Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo xây dựng chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển; điều chỉnh chính sách đầu tư và tổ chức đánh giá giáo dục. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý và tăng cường công tác thanh tra, giám sát; phối hợp hoạt động của các ngành, các cấp, các địa phương trong việc thực hiện các chủ trương của giáo dục. Thực hiện việc phân cấp và phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn và các điều kiện thực thi quyền hạn ở các cấp quản lý giáo dục từ Trung ương đến các địa phương. Thực hiện phân cấp cho chính quyền địa phương quyết định chịu trách nhiệm cụ thể hóa các chính sách giáo dục, huy động nguồn lực, xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục, đảm bảo phát triển quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục tại địa phương. 1.2.4.2.2.Xây dựng cơ chế đầu tư và tổ chức quản lý Đối với dịch vụ giáo dục, việc xây dựng một cơ chế quản lý đặc biệt, khác với cơ chế quản lý thông thường là một trong những nội dung quan trọng trong việc xây dựng môi trường đầu tư. Do vậy, phải có bộ máy quản lý có đầy đủ chức năng, quyền hạn để đưa ra những quyết định kịp thời trước những yêu cầu của nhà đầu tư, đồng thời cũng có thể giám sát, quản lý một cách có hiệu quả hoạt động đầu tư vào dịch vụ giáo dục. Bộ máy này phải gọn nhẹ tinh giản, hạn chế đến mức thấp nhất tệ quan liêu, giấy tờ và tránh tình trạng nhiều cơ quan. 1.2.4.2.3.Duy trì môi trường chính trị xã hội ổn định Môi trường chính trị xã hội biểu hiện ở các điểm: cục diện chính trị ổn định, an ninh xã hội tốt, chính sách cởi mở, quan hệ quốc tế tốt đẹp, đối xử với các nhà đầu tư công bằng, bình đẳng. Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận và đảm bảo về vốn, tài sản và tính mạng, các nhà đầu tư không thể an tâm đầu tư ở một quốc gia không ổn định về mặt chính trị, có chiến tranh, rối loạn trật tự xã hội hoặc có chính sách, luật pháp thay đổi tùy tiện, thiếu thiện ý đối với người nước ngoài. Do đó, một môi trường chính trị xã hội ổn định là yếu tố cân nhắc đầu tiên đối với nhà đầu tư nước ngoài trước khi tiến hành hoạt động đầu tư quốc tế. 1.2.4.3.Xúc tiến đầu tư vào phát triển dịch vụ giáo dục Đây là một trong những hoạt động đối ngoại quan trọng nhằm quảng bá hình ảnh, môi trường đầu tư trong lĩnh vực giáo dục cho các nhà đầu tư nước ngoài. Cách thức tiến hành hoạt động này là khác nhau ở mỗi quốc gia nhưng nhìn chung đều bao gồm các công việc sau: 1.2.4.3.1.Xây dựng các danh mục thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục Danh mục này sẽ quy định các ngành nghề, hình thức đào tạo trong lĩnh vực giáo dục được chính phủ khuyến khích thu hút đầu tư, không khuyến khích thu hút đầu tư, thậm chí cấm đầu tư. Văn bản này có tác dụng định hướng hoạt động FDI vào dịch vụ giáo dục cho các nhà đầu tư nước ngoài theo đúng quy định của chính phủ nước tiếp nhận đầu tư, nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội đã đặt ra, tránh tình trạng đầu tư tràn lan, kém hiệu quả. 1.2.4.3.2.Xây dựng các chương trình xúc tiến đầu tư nước ngoài hướng vào phát triển dịch vụ giáo dục Các chương trình xúc tiến đầu tư vào dịch vụ giáo dục bao gồm tổ chức các buổi hội thảo giáo dục trong và ngoài nước nhằm giới thiệu thị trường giáo dục tiềm năng cho các nhà đầu tư nước ngoài, tuyên truyền, phổ biến sức hấp dẫn của môi trường đầu tư. Do tầm quan trọng của hoạt động xúc tiến đầu tư nên việc tiến hành hoạt động này cần phải có kế hoạch và bước đi cụ thể để đạt hiệu quả thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục. 1.2.4.3.3.Thành lập các cơ quan chuyên trách việc xúc tiến đầu tư vào phát triển dịch vụ giáo dục Công tác xúc tiến đầu tư vào lĩnh vực giáo dục có vai trò quan trọng trong thành công của việc thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục nên cần thiết phải có các cơ quan chuyên trách có năng lực để thực hiện các công việc này một cách khoa học, hiệu quả nhất. Các cơ quan này có thể đặt ở trong nước hoặc ở nước ngoài. 1.2.5.Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO bao gồm các nhân tố thuộc môi trường quốc tế và các nhân tố thuộc môi trường quốc gia. 1.2.5.1.Các nhân tố thuộc môi trường quốc tế Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ sẽ tiếp tục phát triển với những bước tiến nhảy vọt trong thế kỷ 21, đưa thế giới chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin và phát triển kinh tế trí thức, đồng thời tác động tới tất cả các lĩnh vực, làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Khoảng cách giữa các phát minh khoa học - công nghệ và áp dụng vào thực tiễn ngày càng thu hẹp lại; kho tàng kiến thức của nhân loại ngày càng đa dạng, phong phú và tăng theo cấp số nhân. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan, vừa là quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh của các nước đang phát triển để bảo vệ lợi ích quốc gia. Sự cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia sẽ ngày càng quyết liệt hơn đòi hỏi phải tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng hàng hóa và đổi mới công nghệ một cách nhanh chóng. Các phương tiện truyền thông, mạng viễn thông, Internet tạo thuận lợi cho giao lưu và hội nhập văn hóa, đồng thời cũng đang diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt để bảo tồn bản sắc văn hóa dán tộc. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, sự phát triển năng động của các nền kinh tế, quá trình hội nhập và toàn cầu hóa đang làm cho việc rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nước trở nên hiện thực hơn và nhanh hơn. Khoa học - công nghệ trở thành động lực cơ bản của sự phát nền kinh tế - xã hội. Giáo dục là nền tảng của sự phát triển khoa học - công nghệ, phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại và đóng vai trò chủ yếu trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng lực của các thế hệ hiện nay và mai sau. Hiện nay, ngay cả ở các nền giáo dục tiên tiến nhất thế giới cũng đang có những biến đổi mạnh mẽ trước sức ép của xu hướng toàn cầu hóa. Nếu trước đây, rất ít người hoạt động trong ngành giáo dục nghĩ đến khái niệm "khách hàng" và lại càng ít bàn đến chuyện “lợi nhuận" mang lại từ chính nghề mà họ đang làm, thì bây giờ đã khác. Bước vào nhũng năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, giáo dục đã có những bước phát triển trên quy mô toàn cầu và đặt ra những vấn đề chưa có tiền lệ bao giờ. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cho biết, vào những năm đầu của thế kỷ này, thế giới có khoảng 2 triệu sinh viên đại học đã và đang du học ở nước ngoài, chiếm khoảng 2% của 100 triệu Sinh viên trên toàn thế giới. Theo tổ chức này kể từ cuối thập kỷ 90 của thế kỷ trước, "thị trường giáo dục Đại học" liên tục tăng trưởng, khoảng 7% mỗi năm. Xem sinh viên như một loại "khách hàng" là một ý tưởng hoàn toàn mới và mang tính đột phá trên phạm vi toàn cầu. Khách hàng bao giờ cũng gắn với thị trường. Một khi coi sinh viên như khách hàng, cũng có nghĩa là có nhiều thị trường giáo dục khác nhau để khách hàng lựa chọn. Trong quá trình lựa chọn thị trường, ắt sẽ nảy sinh ra những xu hướng cạnh tranh. Sự cạnh tranh này sẽ dẫn đến sự tìm kiếm các cơ hội đầu tư và thị trường giáo dục mới đối với các nhà đầu tư nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận. Các nhà đầu tư không chỉ bó hẹp trong thị trường trong nước mà sẽ vươn ra các thị trường nước ngoài. 1.2.5.2.Các nhân tố thuộc môi trường quốc gia Trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO, Việt Nam đã theo đuổi lập trường tích cực, chủ động và đã cam kết thực hiện GATS đối với tất cả 12 ngành dịch vụ, trong đó có giáo dục. Với chủ trương từng bước mở rộng thu hút đầu tư nước ngoài, trong bản chào dịch vụ đa phương, mức cam kết của Việt Nam về dịch vụ giáo dục là khá sâu rộng, trong đó, giáo dục đại học được coi là lĩnh vực mở cửa rộng nhất với một lộ trình thích hợp. Với quan điểm “hai bên cùng có lợi” của Nhà nước khi xây dựng chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, Việt Nam đang ngày càng trở thành điểm đến hấp dẫn của nhiều nhà đầu tư trên toàn thế giới.Quan điểm bao gồm các nội dung sau: Coi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế Việt Nam do những đóng góp tích cực của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam. Vì vậy, “sân chơi” bình đẳng giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài luôn được giữ vững và sẽ cải thiện với chiều hướng ngày càng tích cực hơn. Đảm bảo quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh của chủ đầu tư. Chủ đầu tư có toàn quyền quyết định chương trình và kế hoạch hoạt động của mình trong suốt thời gian đầu tư tại Việt Nam, vào những lĩnh vực mà Nhà nước Việt Nam cho phép đầu tư. Triệt để khai thác thế mạnh của bên đầu tư về vốn, kỹ thuật vào việc đào tạo tay nghề công nhân, nâng cao trình độ quản lý, kinh doanh và thương mại cho đội ngũ các nhà quản trị kinh doanh Việt Nam. Ngoài ra, trên cơ sở cam kết của Việt Nam với các tổ chức quốc tế, các Bộ, Ngành có liên quan đến quản lý đầu tư nước ngoài đã đưa ra những cam kết cụ thể nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Cụ thể: Cam kết của Chính phủ Bãi bỏ việc phê duyệt kế hoạch nhập khẩu phụ tùng, linh kiện, nguyên liệu thô và vật tư sản xuất hàng năm của doanh nghiệp FDI. Cho phép các doanh nghiệp FDI được trực tiếp làm thủ tục nhập khẩu nguyên liệu tại hải quan như các doanh nghiệp Việt Nam khác (trừ hàng hóa là nguyên liệu được miễn thuế nhập khẩu 5 năm, hàng nhập khẩu thuộc tài sản cố định và hàng nhập khẩu để giới thiệu sản phẩm). Cho phép các doanh nghiệp FDI được đầu tư vào các lĩnh vực dịch vụ, nhập khẩu, phân phối trong nước, dịch vụ vận tải và bưu chính viễn thông. Bãi bỏ việc giới hạn gửi tiền ra nước ngoài và mở tài khoản tiền gửi ở nước ngoài. Nới lỏng các hạn chế đối với các tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Dỡ bỏ hạn chế trong giao dịch ngoại hối quốc tế. Bãi bỏ quy định về việc sử dụng vốn điều lệ, vốn được cấp của Ngân hàng nước ngoài. Cam kết của Bộ Kế hoạch - Đầu tư Cấp phép đầu tư theo quy trình 1 cửa, tại chỗ và chỉ còn từ 3-5 ngày cho 1 dự án đầu tư vào khu công nghiệp. Đẩy mạnh các dịch vụ hỗ trợ nhà đầu tư triển khai dự án sau khi được cấp giấy phép. Giảm cước phí viễn thông, giảm giá vé máy bay dành cho người nước ngoài, giảm thuế thu nhập cá nhân và các chi phí khác, hoàn trả kinh phí xây dựng công trình ngoài hàng rào của doanh nghiệp... nhằm giúp nhà đầu tư nước ngoài giảm đáng kể chi phí sản xuất. Khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã cổ phần hóa niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Cam kết của Uỷ ban chứng khoán Mở rộng tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài. Nâng tỷ lệ nắm giữ cỏ phiếu niêm yết trong 1 doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài từ 20% lên 30% và không giới hạn tỷ lệ nắm giữ trái phiếu. Cho phép tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài được góp vốn mua cổ phần của công ty chứng khoán hoặc công ty quản lý qũy trong nước và được chuyển nhượng cổ phần, vốn góp theo quy định của pháp luật. 1.2.6.Sự cần thiết phải thu hút thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 1.2.6.1.Vị trí của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế xã hội Giáo dục ngày càng đóng vai trò quan trọng: Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ là một trong những nguyên nhân dẫn tới các cuộc cạnh tranh ngày càng gia tăng giữa các quốc gia và các tổ chức kinh tế toàn cầu. Thực chất của cuộc chiến trên thương trường đó là cuộc cạnh tranh về trình độ khoa học, công nghệ và nhân tài. Một quốc gia muốn tiến kịp với xu thế phát triển thì quốc gia đó phải có một đội ngũ nhân lực đủ trình độ. Để xây dựng được lực lượng lao động có năng lực và trình độ thì phải có một hệ thống giáo dục có khả năng đào tạo thế hệ trẻ tiếp cận, học tập và sử dụng các kiến thức mới. Như vậy, giáo dục đào tạo vừa là thách thức, vừa là cơ hội, vừa là nhiệm vụ của bất kỳ quốc gia nào. Công việc này lại càng nặng nề hơn đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Giáo dục là động lực đẩy mạnh xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới: Ngày nay, toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu khách quan mà không một quốc gia nào, một nền kinh tế nào có thể tránh được. Do vậy, việc xác định lợi thế cạnh tranh của mình, định hướng phát triển và kết nối với các nền kinh tế trên thế giới để cùng phát triển là những việc tất yếu đối với mỗi quốc gia. Vì vậy, xây dựng một chiến lược phát triển nguồn nhân lực có trình độ trí tuệ và tay nghề cao nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh là một trong những cách chủ động hội nhập vào xu thế này. Xu thế toàn cầu hóa đòi hỏi ngày càng cao đối với phát triển dịch vụ giáo dục: Toàn cầu hóa là cơ hội lớn cho các nước đang phát triển trong việc chuyển giao và thừa hưởng những thành quả công nghệ hiện đại, những đột phá sáng tạo về khoa học công nghệ, về tổ chức quản lý, về sản xuất kinh doanh mang lại những nguồn lực quan trọng, từ nguồn vật chất tới các nguồn tri thức, công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Tuy nhiên, các nước đang phát triển để có được nền khoa học và công nghệ thực sự phát triển thì cần phải có một nền giáo dục tương xứng. Vì vậy, giáo dục đào tạo ngày càng đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của các nước đang phát triển. Giáo dục là yếu tố chủ lực cho quá trình đi lên của nền kinh tế tri thức: Trong khoảng từ những năm 1980 của thế kỷ 20 tới nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã có bước phát triển đặc biệt, tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc chưa từng có trong lịch sử nhân loại, với thành tựu của các ngành công nghệ cao trụ cột chính như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng đã đưa sự phát triển kinh tế sang một giai đoạn mới về chất – giai đoạn kinh tế tri thức. Như vậy, bên cạnh nền kinh tế nông nghiệp, kinh tế công nghiệp đã có thêm nền kinh tế mới – kinh tế tri thức. Trong nền kinh tế này, khoa học công nghệ và giáo dục giữ vị trí trung tâm. Giáo dục đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế: Ngày nay, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc rất lớn vào sự thay đổi của trình độ công nghệ. Nhưng sự thay đổi này lại được quyết định bởi lực lượng lao động có tay nghề và trình độ cao. Lực lượng lao động này chỉ có thể phát triển trên cơ sở một nền giáo dục đào tạo có chất lượng của quốc gia. Mặt khác, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc vào năng suất lao động. Điều này lại phụ thuộc vào trình độ của người lao động. Giáo dục góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu: Cuộc cách mạng thông tin hiện nay đang tạo điều kiện thuận lợi để tiếp thu các tinh hoa văn hóa của các nước, nhưng đồng thời cũng làm cho các nền văn hóa dễ bị pha tạp và mất bản sắc. Vì vậy, giáo dục đào tạo là cách hiệu quả nhất để phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Tóm lại, giáo dục đào tạo không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực để phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế để có một cuộc sống đầy đủ, hạnh phúc và công bằng xã hội. Nguồn gốc của sự phát triển và thịnh vượng không chỉ là tài nguyên thiên nhiên, vốn mà quan trọng nhất là khả năng sáng tạo của con người. Nhờ có giáo dục mà mỗi con người có năng lực trí tuệ, có hiểu biết và có khả năng nghề nghiệp. Hầu hết các nước trên thế giới đều đặt giáo dục ở vị trí hàng đầu trong các ưu tiên phát triển kinh tế xã hội đất nước. Ở nước ta điều 35 Hiếp pháp cũng xác định “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Nhà nướcvà của toàn dân”. Đồng thời, hàng năm Nhà nướccũng trao các phần thưởng cho những nhân tài của đất nước, cấp học bổng tạo điều kiện cho các nhân tài đó có điều kiện tiếp tục học tập và nghiên cứu. 1.2.6.2.Sự cần thiết phải thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO Khái niệm đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục đào tạo là một khái niệm tương đối mới mẻ đối với các nước đang phát triển. Trước đây, giáo dục được xem như một vấn đề phúc lợi nhằm thỏa mãn nhu cầu học tập của xã hội, tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, vai trò của giáo dục ngày càng tăng thì đầu tư vào giáo dục không còn là công việc riêng của Nhà nướcmà đã trở thành một phần không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư vào vốn con người. Cũng như đầu tư vào vốn vật chất, nhà đầu tư quan tâm tới chi phí bỏ ra và lãi suất thu về trong tương lai. Nhưng trong đầu tư cho giáo dục, lợi ích thu về không thể tính được một cách chính xác vì giáo dục bao gồm cả các giá trị kinh tế và phi kinh tế. Các giá trị này khó có thể tính toán, và thường chỉ thể hiện sau một thời gian khá dài, khoảng 10-15 năm. Một đặc điểm khác nữa của đầu tư vào giáo dục là vấn đề cung cầu. Không giống với các hàng hóa vật chất và dịch vụ khác có thể bị bão hòa do cung quá nhiều, cầu trong giáo dục không bao giờ được thỏa mãn vì sự phát triển khoa học công nghệ và kiến thức trong giáo dục là không có giới hạn. Giáo dục đào tạo là lĩnh vực mà ở đó không có giới hạn về về sự phát triển. Sự cạnh tranh ở đây cũng chính là phát triển và nâng cao trình độ của chính mình. Nhận thức được tầm quan trọng của việc đầu tư vào dịch vụ giáo dục cũng đồng nghĩa với việc phải đầu tư một lượng vốn khổng lồ trong một thời gian tương đối dài. Điều này không hề dễ dàng đối với bất kỳ một nước đang phát triển nào, nơi mà vấn đề thiếu vốn cho phát triển nói chung còn nặng nề. Vì vậy, các quốc gia này phải huy động mọi nguồn lực kể cả trong và ngoài nước để đầu tư cho lĩnh vực này. Mặc dù nhu cầu đầu tư vốn cho giáo dục là rất lớn, nhưng với thực trạng trình độ quản lý, phương pháp tiếp cận lạc hậu so với nhu cầu phát triển hiện tại nên các nước đang phát triển cần học hỏi các nước phát triển cũng như sự giúp đỡ từ các nước này. Trong trường hợp đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực này mang theo những giá trị vô giá về phương pháp giảng dạy, nghiên cứu, quản lý khoa học, là chìa khóa hiệu quả để giải quyết mâu thuẫn và khó khăn mà các nước đang phát triển phải đối mặt. Trong những thập kỷ gần đây, số lượng học sinh, sinh viên, cán bộ từ các nước đang phát triển đi sang các nước phát triển học tập, nghiên cứu ngày càng tăng và bằng nhiều con đường khác nhau: dựa vào khả năng tài chính của bản thân và gia đình, học bổng của Nhà nước, học bổng từ các tổ chức trong và ngoài nước và các tổ chức kinh tế... Đó là cơ hội lớn để học sinh, sinh viên, cán bộ tiếp cận với kiến thức mới, phương pháp học tập và nghiên cứu hiện đại, đồng thời tiếp xúc với nền văn hóa của các nước trên thế giới. Nhưng vấn đề đặt ra là không phải ai cũng có được những cơ hội đó. Số lượng du học sinh, sinh viên chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với tổng số lượng học sinh, sinh viên trên toàn quốc. Bên cạnh đó, nếu nhìn nhận trong quan hệ kinh tế thì việc đi du học nước ngoài chính là hình thức mua dịch vụ tại một nước khác, khi đó sẽ bị mất đi một khoản ngoại tệ. Đó là chưa kể đến tình trạng nhiều người sau khi du học đã không trở về nước mà tiếp tục sinh sống và làm việc tại nước ngoài, dẫn đến sự chảy máu chất xám đối với các nước đang phát triển. Trong khi đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào dịch vụ giáo dục có thể tháo gỡ được những nhược điểm trên, khi nhà đầu tư nước ngoài xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học, trường học và đầu tư các trang thiết bị hiện đại để học tập và nghiên cứu ngay tại các nước mà họ đến đầu tư. Như vậy, cán bộ nghiên cứu, giáo viên, học sinh, sinh viên có thể nghiên cứu và học tập ngay tại quê hương mình, do đó, có thể tiết kiệm được chi phí và tránh được hiện tượng chảy máu chất xám. 1.2.6.3.Việt Nam có khả năng thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục Sự đổi mới và phát triển giáo dục đang diễn ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội tốt để giáo dục Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với các xu thế mới, những quan niệm, phương thức tổ chức mới, tận dụng được kinh nghiệm quốc tế để đổi mới và phát triển, khắc phục nguy cơ tụt hậu, từng bước nâng cao trình độ, uy tín và năng lực cạnh tranh của hệ thống giáo dục nước ta trong quá trình hội nhập với khu vực và quốc tế. Nhìn chung, Việt nam được đánh giá là nước có môi trường chính trị và xã hội ổn định so với các nước khác trong khu vực. Tổ chức Tư vấn Rủi ro Kinh tế và Chính trị (PERC) tại Hồng Kông xếp Việt nam ở vị trí thứ nhất về khía cạnh ổn định chính trị và xã hội sau sự kiện 11/9. So với các nước ASEAN khác như In-đô-nê-xi-a, Mã-lai-xi-a, Phi-líp-pin, và Trung quốc, Việt nam có ít các vấn đề liên quan đến tôn giáo và mâu thuẫn sắc tộc hơn. Sau khi đưa ra chính sách “đổi mới”, Việt nam đã và đang đạt được mức tăng trưởng GDP ổn định. Sự ổn định chính trị và kinh tế vĩ mô đang được duy trì. Việt nam được đánh giá là nơi an toàn để đầu tư. Đảng cộng sản Việt nam đã điều hành đất nước trong nhiều thập kỷ qua và không ai mong muốn có những thay đổi trong môi trường chính trị. Các giới chức đã ủng hộ một chính sách cải cách và quá trình chuyển sang một nền kinh tế thị trường đang tiếp tục.Trong khung cảnh của những sự kiện diễn ra trong vài năm qua liên quan đến chủ nghĩa khủng bố, Việt nam được biết đến như là một trong những nước an toàn nhất xét về các tội ác chống con người và quyền sở hữu. Tại Việt Nam, mầm mống của một thị trường các dịch vụ về giáo dục cũng đã xuất hiện trong những năm gần đây và ngày càng có xu thế phát triển. Đây là một tín hiệu lành mạnh đáp ứng nhu cầu đòi hỏi thực tiễn và hoàn toàn phù hợp với tiến trình phát triển của ._. 200 sinh viên/1 vạn dân vào năm 2010 và 450 sinh viên/1 vạn dân vào năm 2020, trong đó khoảng 70 - 80% tổng số sinh viên theo học các chương trình nghề nghiệp - ứng dụng vào khoảng 40% tổng số sinh viên thuộc các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập. Xây dựng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục đại học đủ về số lượng, có phẩm chất đạo đức và lương tâm nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn cao, phong cách giảng dạy và quản lý tiên tiến; bảo đảm tỷ lệ sinh viên/giảng viên của hệ thống giáo dục đại học không quá 20. Đến năm 2010 có ít nhất 40% giảng viên đạt trình độ thạc sỹ và 25% đạt trình độ tiến sỹ; đến năm 2020 có ít nhất 60% giảng viên đạt trình độ thạc sỹ và 35% đạt trình độ tiến sỹ. Nâng cao rõ rệt quy mô và hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học. Các trường đại học lớn phải là các trung tâm nghiên cứu khoa học mạnh của cả nước; nguồn thu từ các hoạt động khoa học và công nghệ, sản xuất và dịch vụ đạt tối thiểu 15% tổng nguồn thu của các cơ sở giáo dục đại học vào năm 2010 và 25% vào năm 2020. Hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học theo hướng bảo đảm quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của cơ sở giáo dục đại học, sự quản lý của Nhà nướcvà vai trò giám sát, đánh giá của xã hội đối với giáo dục đại học. 3.2.Những việc cần làm của giáo dục nước ta trước tác động của WTO Cần phân định rõ 3 loại hình giáo dục ở nước ta: - Dịch vụ giáo dục công ích xã hội - Dịch vụ giáo dục phi lợi nhuận - Dịch vụ giáo dục có lợi nhuận Dịch vụ giáo dục công ích xã hội Chủ thể của loại dịch vụ này là giáo dục công lập, là giáo dục mang tính công ích xã hội. Dịch vụ này do tài chính công của Nhà nước đảm nhận, được hưởng các chính sách ưu tiên toàn diện của Nhà nước. Trong trường hợp này hệ thống giáo dục nước ta cần thể hiện sự tương tác, ứng phó tự tin, bản lĩnh trước tác động mạnh mẽ của thương mại dịch vụ nước ngoài, nhưng đồng thời lại tìm cách có được nhiều nguồn đầu tư mới trong hợp tác phát triển giáo dục công ích xã hội với nước ngoài. Dịch vụ giáo dục phi lợi nhuận Các trường học, các cơ sở giáo dục không nhằm mục đích kinh doanh ở nước ta cần được hưởng những chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước như chính sách sử dụng đất đai, xây dựng cơ bản... Hàng năm, có thể thiết lập mục lục khoa học các ngành nghề hợp tác với nước ngoài, những ngành nghề mà bản thân nước ta chưa đào tạo được, những ngành nghề hiện ta còn thiếu người giỏi, thiếu nhân tài thực sự. Nhìn chung, cần có nhiều chính sách khuyến khích để phát triển loại hình dịch vụ này. Dịch vụ giáo dục có lợi nhuận Đây là loại dịch vụ mang tính doanh lợi dưới tiền để nộp thuế theo đúng quy định của pháp luật. Dịch vụ này thực chất là dịch vụ mua bán tri thức, tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo. Dịch vụ giáo dục phi lợi nhuận có thể được thực hiện theo mấy cách dưới đây: Gia nhập thị trường dịch vụ giáo dục xuyên quốc gia: trong những năm gần đây khoa học công nghệ thông tin và mạng lưới thông tin viễn thông đã phát triển nhanh và có những bước tiến nhảy vọt ở các nước phát triển và cả một vài nước đang phát triển. Các con đường thông tin siêu tốc đang ngày càng mở rộng. Thành tựu này trên thực tế đã ảnh hưởng và làm biến đổi mạnh mẽ đến cách dạy và học. Người học hoàn toàn có thể chủ động tự lựa chọn thời gian thích hợp cho mình, lựa chọn nội dung cần học... thông qua mạng lưới giáo dục từ xa, đại học ảo. Tuy nhiên, cần lưu ý trong quản lý giáo dục, vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể giám sát, kiểm soát và quản lý được nội dung học tập để loại bỏ đi được những gì có thể làm hại đến an ninh quốc gia. Gia nhập thị trường tiêu thụ ngoài nước: hiện nay, hàng năm có khoảng trên 2 triệu học sinh, sinh viên du học ở các nước trên thế giới. Trong đó, có tới ¾ số lượng người học từ các nước đang phát triển đổ đến các nước phát triển để học. Lợi nhuận của các nước có người đến học là rất lớn. Tại Mỹ, theo một số đánh giá thì năm 2005, giá trị dịch vụ giáo dục trên thị trường này không dưới 90 tỷ USD. Trong 15 năm cuối thế kỷ XX, các tập đoàn xuyên quốc gia đã lập các trường đại học trong tập đoàn của mình và số lượng các trường này đã tăng từ 400 lên 2500 và dự kiến đến năm 2020 sẽ lên tới 3700 trường. Nhu cầu đi học nước ngoài hiện nay ở nước ta ngày một cao. Trong những năm gần đây, bình quân mỗi năm có tới một vài nghìn người đến các nước trong khu vực và trên thế giới học tập. Hiện có khoảng 40-50 nghìn lưu học sinh Việt Nam đang học tập, nghiên cứu ở nước ngoài. Do vậy, Nhà nước cần có thêm chính sách thu hút và sử dụng để nguồn nhân lực này có thêm điều kiện trở về phục vụ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Đồng thời, cần tạo nhiều điều kiện để các trường đại học, cao đẳng của nước ta có thể thu hút thêm được lưu học sinh các nước láng giềng, khu vực và trên thế giới đến Việt Nam nghiên cứu và học tập. Muốn vậy, cần mở rộng quyền tự chủ và tính trách nhiệm cho các trường và cơ sở giáo dục. Cần hình thành một cơ chế cạnh tranh lành mạnh giúp các trường sáng tạo, chủ động trong việc quảng bá và thu hút được nhiều người nước ngoài đến học. Hình thành các trường và cơ sở giáo dục tư thục ở hầu hết tất cả các cấp bậc, trình độ học và ngành nghề ở tất cả các vùng, miền trong cả nước để đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của mọi người dân nước ta. Nhà nước cần có chính sách đảm bảo tính công bằng, dân chủ, tính chủ động, sáng tạo giúp cho các trường và cơ sở này phát triển. Loại hình này hiện nay rất phát triển trong các nước thành viên WTO và ở không ít nước, chính loại hình này đã tạo ra chất lượng cao cho một nền giáo dục có thương hiệu. Trong hợp tác quốc tế về giáo dục, ngành Giáo dục có kế hoạch chủ động đề xuất và cho phép mở các ngành nghề có liên quan đến thương mại dịch vụ giáo dục theo từng địa phương và trong cả nước, đồng thời đảm bảo quyền quản lý nhà nước về giáo dục ở các lĩnh vực này. Trên cơ sở luật pháp nước ta, cho phép và tạo điều kiện cho nước ngoài và các tổ chức quốc tế đến mở trường, mở ngành nghề theo hướng hiện đại, chất lượng cao, công nhận văn bằng, chứng chỉ lẫn nhau và tiệm cận tới Việt Nam hóa. Trên cơ sở hiến pháp, luật Giáo dục sửa đổi, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đảm bảo quyền học tập của dân, đảm bảo chủ quyền giáo dục quốc gia, đảm bảo an ninh chính trị quốc phòng... cần có các quy định cụ thể để khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài vào làm giáo dục ở nước ta, song không được lấy danh nghĩa hợp tác quốc tế, giao lưu giáo dục, dịch vụ giáo dục để tiến hành những hoạt động bị nghiêm cấm theo luật pháp Việt Nam hiện hành. Tất cả những hoạt động về giáo dục của các cá nhân, tổ chức nước ngoài chỉ được triển khai sau khi đã được các cơ quan có thẩm quyền ở nước ta phê chuẩn. 3.3.Một số quan điểm thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO Hiện nay vẫn còn tồn tại những quan điểm khác nhau về các vấn đề sau: Về ranh giới giữa “giáo dục” và “dạy nghề” Trên thực tế, cách hiểu về hai khái niệm này khó có thể phân định rạch ròi. Hiện nay vẫn còn tồn tại các quy định riêng rẽ cho 2 lĩnh vực này nên để có căn cứ áp dụng pháp luật, các cơ quan quản lý nhà nước, cụ thể là Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cần xác định rõ ranh giới giữa hoạt động giáo dục và dạy nghề, làm cơ sở cho việc áp dụng các quy định có liên quan cũng như hướng dẫn nhà đầu tư. Trong trường hợp có thể thì đề nghị thống nhất hướng dẫn ở một hệ thống văn bản để tiện theo dõi và vận dụng. Về hình thức đầu tư Cho đến trước khi Việt Nam gia nhập WTO, hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài chưa bao giờ bị hạn chế. Tuy nhiên, theo cam kết WTO, từ nay đến trước thời điểm 01/01/2009, các dự án giáo dục chỉ được thực hiện theo hình thức liên doanh. Điều này đã hạn chế việc thành lập các cơ sở giáo dục đào tạo có vốn FDI mới mà trên thực tế thì đây không phải là lĩnh vực bắt buộc phải hạn chế. Với tinh thần mở cửa như Thủ tướng Chính phủ đã nhiều lần chỉ đạo và cam kết với cộng đồng quốc tế, coi đây là cam kết sàn và Việt Nam sẽ xem xét mở cửa sớm hơn một số ngành dịch vụ, trong Nghị định Chính phủ về thực hiện cam kết WTO cần cho phép hình thức 100% vốn nước ngoài đối với các dự án giáo dục đào tạo, nhất là các dự án dạy nghề, dạy kỹ năng cho người lao động. Về các điều kiện mà các cơ sở giáo dục đào tạo có vốn FDI cần phải đáp ứng Hiện nay các cơ sở này áp dụng các tiêu chí quy định tại các Thông tư liên tịch số 14/2005 ngày 06/03/2000 giữa Bộ Giáo Dục Đào Tạo và Bộ Kế Hoạch Đầu Tư; số 20/2004 ngày 03/12/2004 giữa Bộ Lao Động Thương binh Xã hội và Bộ Kế Hoạch Đầu Tư. Tuy nhiên, các Thông tư này được ban hành trước thời điểm ban hành Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp 2005 áp dụng chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, quan điểm khi xây dựng các văn bản này của các cơ quan còn khác nhau đẫn đến các yêu cầu đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo là khác nhau như với cùng nội dung hướng dẫn Nghị định 06/2000/NĐ-CP, trong khi Thông tư 20/2004 hướng dẫn về dạy nghề không yêu cầu cụ thể về các tiêu chí như suất đầu tư, diện tích phòng học, các công trình phục vụ giảng dạy... thì Thông tư 14/2005 hướng dẫn về giáo dục lại quy định rất chi tiết các điều kiện này. Việc quy định chi tiết cho từng cấp độ, từng loại hình đào tạo sẽ tạo thuận lợi cho việc vận dụng vào thực tế; tuy nhiên, cần quy định thống nhất để tránh việc áp dụng tùy tiện. Ngoài ra, với mong muốn thu hút các dự án giáo dục đào tạo chất lượng cao, yêu cầu đối với các dự án này là tương đối cao nhưng trên thực tế không có nhiều nhà đầu tư có thể đáp ứng được ngay các tiêu chí này. Thực tế là từ khi có Thông tư 14/2005, chưa có thêm dự án nào ở bậc đại học được thành lập tương tự như RMIT Việt Nam, ngoại trừ 2 dự án đào tạo công nghệ thông tin đề nghị nâng cấp lên trình độ cao đẳng. Do đó, cần nghiên cứu thêm các trường hợp liên kết đào tạo, đào tạo liên thông... để có quy định cụ thể về tiêu chí, làm cơ sở cho việc cho phép mở rộng phương thức đào tạo mà vẫn đạt được mục tiêu thu hút đầu tư vào những cơ sở giáo dục đào tạo có chất lượng. Về đối tượng học sinh được phép theo học tại các trường quốc tế: Cho đến nay Nghị định 06/2000/NĐ-CP mới chỉ cho phép thí điểm đào tạo học sinh Việt Nam bậc phổ thông trung học trong khi nhu cầu của các gia đình Việt Nam về việc cho con em mình vào học các trường quốc tế là khá lớn. Đây là nhu cầu chính đáng. Do vậy, cần có tổng kết, đánh giá chủ trương cho phép đào tạo phổ thông, từ đó kiến nghị phương án dừng, duy trì hoặc mở rộng phạm vi đào tạo học sinh Việt Nam từ mẫu giáo đến trung học phổ thông một cách minh bạch. Về các phương thức đào tạo: Hiện nay chưa có quy định về phương thức đào tạo liên thông, đào tạo từ xa, đào tạo qua internet... áp dụng cho các cơ sở giáo dục đào tạo có vốn FDI, trong khi nhu cầu cả từ phía người học và từ phía nhà đầu tư đối với các phương thức này rất lớn. Mặc dù có nhiều ý kiến cho rằng việc cho phép các phương thức đào tạo này là khá phức tạp, khó quản lý nhưng có một thực tế, nếu chưa cho phép các cơ sở này hoạt động trong nước thì học viên có thể sử dụng chương trình do các trường ở nước ngoài cung cấp hoặc đi du học nước ngoài. Khi đó, vừa không thu hút được các nhà đầu tư vừa không quản lý được nội dung giảng dạy, học tập. 3.4.Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 3.4.1.Thống nhất nhận thức và quan điểm thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục Trước khi Việt Nam gia nhập WTO, cách nhìn chung của phần đông những người hoạt động trong ngành giáo dục đều coi giáo dục là một phúc lợi xã hội hoạt động theo nguyên tắc phi thương mại. Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO, Việt Nam đã theo đuổi lập trường tích cực, chủ động và đã cam kết thực hiện Hiệp định chung về thương mại dịch vụ đối với tất cả 12 ngành dịch vụ, trong đó có giáo dục. Điều này cũng có nghĩa là sau khi gia nhập WTO, chúng ta phải có một cái nhìn khác, đó là giáo dục là một dịch vụ trong hoạt động thương mại và thương mại dịch vụ giáo dục cần được tự do hóa. Mặc dù trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, giáo dục và đào tạo được coi là lĩnh vực khuyến khích đầu tư nhưng trên thực tế, phạm vi các cơ sở giáo dục đào tạo có vốn FDI được phép hoạt động còn khá hẹp và vẫn còn một vài nơi, một số cá nhân chưa thực sự yên tâm với việc thu hút nguồn vốn này, nhất là trong những chuyên ngành mang tính nhạy cảm. Với tư cách là một ngành dịch vụ, giáo dục đào tạo còn dư địa lớn để kêu gọi đầu tư. Cùng với các ngành như ngân hàng, tài chính, vận tải, bưu chính viễn thông... giáo dục và đào tạo góp phần tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Các cơ quan chức năng cần thể hiện rõ vai trò tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp và tạo cơ sở cho các cơ quan quản lý quản lý tốt hoạt động này. Bên cạnh đó, cần có các quy định cụ thể để vừa tạo điều kiện cho hoạt động giáo dục đào tạo phát triển, vừa quản lý tốt hoạt động này. 3.4.2.Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách liên quan đến thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục Hiện nay có nhiều văn bản điều chỉnh hoạt động của các cơ sở giáo dục đào tạo có yếu tố nước ngoài như Nghị định 06/2000/NĐ-CP ngày 06/03/2000 điều chỉnh hoạt động của cơ sở giáo dục đào tạo có vốn FDI; Nghị định 18/2001/NĐ-CP ngày 04/05/2001 quy định về lập và hoạt động của các cơ sở văn hóa, giáo dục nước ngoài không nhằm mục đích lợi nhuận tại Việt Nam và Nghị định 165/2004/NĐ-CP áp dụng cho các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục (chủ yếu là hợp tác phát triển). Quy định như vậy khiến cho việc phân định phạm vi hoạt động được phép của các cơ sở giáo dục đào tạo có vốn FDI cũng như cơ quan quản lý các cơ sở này rất phức tạp, nhiều trường hợp không vận dụng được hoặc vận dụng không nhất quán như trường hợp cho phép đào tạo học sinh Việt Nam ở cấp tiểu học và trung học cơ sở ở Trường Quốc tế dạy bằng tiếng Anh tại thành phố Hồ Chí Minh. Hơn nữa, Nghị định 06/2000/NĐ-CP được ban hành năm 2000 căn cứ vào Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đến nay đã được thay thế bằng Luật Đầu tư áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và nước ngoài. Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư quy định phân cấp triệt để việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho các địa phương, do vậy, trình tự, thủ tục đầu tư cũng đã thay đổi. Ngoài ra còn có những quy định riêng cho lĩnh vực dạy nghề. Để thống nhất quản lý cũng như tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, cần rà soát các quy định hiện hành để sửa đổi, bổ sung theo hướng đưa các quy định đặc thù chuyên ngành giáo dục đào tạo đối với các trường hợp có yếu tố nước ngoài vào một văn bản để vừa bao quát hết các loại hình vừa thuận tiện cho việc áp dụng 3.4.3.Về công tác hướng dẫn thủ tục, kêu gọi đầu tư vào các dự án giáo dục đào tạo Mặc dù được coi là lĩnh vực khuyến khích đầu tư nhưng trong các hoạt động xúc tiến đầu tư, các dự án giáo dục đào tạo chưa thực sự được chú trọng. Trong danh mục dự án kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài được Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 26/09/2007 mới chỉ có 3 dự án kêu gọi xây dựng các trường đại học (trong tổng số 163 dự án); hơn nữa, đây cũng chỉ là tên dự án mà chưa có thông tin chi tiết để mời gọi các nhà đầu tư quan tâm. Trong khi nhu cầu học tập là rất lớn, nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp thì việc tăng cường xúc tiến đầu tư nước ngoài vào các dự án này là rất cần thiết. Để có cơ sở kêu gọi đầu tư vào dịch vụ giáo dục, trước mắt cần nghiên cứu toàn diện về nhu cầu học tập ở từng cấp học, từng ngành và từng phương thức đào tạo, từ đó có quy hoạch cho mạng lưới các trường, các cơ sở giáo dục đào tạo.Yêu cầu của quy hoạch này là chỉ ra nhu cầu phát triển cho từng giai đoạn, trên cơ sở đó cơ quan quản lý giáo dục sẽ cân đối phần vốn trong khả năng của ngân sách Nhà nướccó thể đáp ứng, phần còn lại kêu gọi từ các nguồn vốn khác, trong có có nguồn vốn FDI. Đây sẽ là thông tin cơ bản và quan trọng nhất để nhà đầu tư tham khảo khi họ tìm kiếm cơ hội đầu tư. Tuy nhiên, quy hoạch này cũng nên được hiểu một cách linh hoạt, nghĩa là không chỉ những dự án trong quy hoạch mới được phép triển khai, mà nếu trong quá trình nghiên cứu, nhà đầu tư thấy rằng có thể đầu tư một cơ sở giáo dục đào tạo nào đó chưa có trong quy hoạch thì ý tưởng, dự án này vẫn cần được xem xét, thẩm tra cấp Giấy chứng nhận đầu tư nếu đáp ứng các điều kiện theo quy định hiện hành. Một vấn đề nữa cần được quan tâm trong quá trình hướng dẫn, hỗ trợ các nhà đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đào tạo là việc tìm kiếm địa điểm. Đặc thù của cơ sở giáo dục đào tạo chất lượng quốc tế là yêu cầu có diện tích tương đối lớn để xây dựng giảng đường, phòng học, thư viện, khu nghiên cứu... Ngoài ra, địa điểm cũng phải thuận lợi cho việc thu hút học sinh, sinh viên đến học. Cho đến nay, rất ít cơ sở giáo dục đào tạo được cấp phép đáp ứng được yêu cầu này mà chủ yếu là các cơ sở quy mô nhỏ, hầu hết thuê địa điểm để cải tạo lại thành các phòng học. Vì vậy, cùng với những ưu đãi về giá thuê địa điểm để giảm một phần chi phí xây dựng dự án, các địa phương cần phải quy hoạch địa điểm cụ thể để phù hợp với những đặc điểm riêng nêu trên, đồng thời phải tích cực hỗ trợ nhà đầu tư nước ngoài nghiên cứu, tìm hiểu, khảo sát địa điểm. Đối với những khu vực tập trung nhiều khu công nghiệp, cùng với việc quan tâm xây dựng các công trình phúc lợi, nhà ở cho công nhân, cần quy hoạch địa điểm dành cho các trường dạy nghề và các trung tâm đào tạo kỹ năng để tạo điều kiện thu hút đầu tư vào các cơ sở này phục vụ nhu cầu học nghề của số lượng lớn công nhân. Để thúc đẩy FDI vào lĩnh vực giáo dục đào tạo, trước mắt cần xây dựng và triển khai ngay hoạt động xúc tiến đầu tư theo chuyên ngành này, theo đó cần có nghiên cứu và chuẩn bị thật tốt các thông tin về dự án kêu gọi đầu tư cũng như thông tin về khả năng đầu tư của các đối tác để có sự vận động thích hợp, đặc biệt là việc theo sát, tổ chức hướng dẫn, hỗ trợ nhà đầu tư ngay từ khi họ có ý định đầu tư tại Việt Nam để có cơ sở hình thành ý tưởng và xây dựng dự án. 3.4.4.Nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nướcđối với hoạt động FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục Về công tác thẩm tra, cấp Giấy chứng nhận đầu tư Theo quy định hiện hành, việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư đã được phân cấp cho các địa phương. Tuy nhiên, giáo dục đào tạo là lĩnh vực đầu tư có điều kiện nên trong quá trình thẩm tra, địa phương phải lấy ý kiến Bộ quản lý ngành và Bộ chuyên ngành có trách nhiệm thẩm tra việc đáp ứng các điều kiện của dự án (theo Điều 50 Nghị định 108 số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư). Để bảo đảm thời gian cũng như chất lượng công tác thẩm tra, các cơ quan được hỏi ý kiến cần nghiên cứu trả lời trong thời hạn luật định và cần trả lời trực tiếp vào những vấn đề thuộc trách nhiệm, phạm vi quản lý của mình. Ngoài ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với tư cách là cơ quan đầu mối quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài cần phối hợp chặt chẽ với Bộ quản lý ngành để thông báo kịp thời cho nhà đầu tư nước ngoài những thay đổi về cơ chế chính sách, về điều kiện kinh doanh và hướng dẫn họ thực hiện các thủ tục để công việc tiến hành thuận lợi. Về công tác quản lý sau cấp phép Luật Đầu tư và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định rõ ràng, cụ thể về trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với dự án có vốn FDI, trong đó có dự án giáo dục đào tạo; theo đó Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan quản lý trực tiếp dự án trên địa bàn. Hiện nay, việc quản lý dự án có vốn FDI thường chỉ do Sở Kế hoạch và Đầu tư thực hiện, do vậy chỉ nắm được tình hình từ khía cạnh đầu tư, trong khi hoạt động của dự án, đặc biệt là dự án giáo dục đào tạo liên quan đến rất nhiều vấn đề khác như đăng ký chương trình giảng dạy, kiểm tra chất lượng, cấp văn bằng, chứng chỉ... Để thực hiện tốt chức năng này, đặc biệt là đối với các dự án phức tạp, ảnh hưởng đến các vấn đề xã hội như giáo dục đào tạo, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các địa phương cần xây dựng quy chế phối hợp giữa các sở, ban, ngành liên quan (Sở Giáo dục Đào tạo, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài nguyên Môi trường, Sở Tài chính...), trong đó phân công rõ trách nhiệm của từng đơn vị làm tham mưu cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc theo dõi, quản lý, giám sát tình hình hoạt động của các cơ sở này. Bên cạnh đó, công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho các cán bộ làm công tác quản lý là rất quan trọng. Do vậy, các Bộ như Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần tăng cường công tác tập huấn, phổ biến pháp luật cho các Sở theo ngành để quán triệt, thống nhất trong công tác quản lý Nhà nước, tránh tình trạng một số nơi còn thiếu hiểu biết về pháp luật hoặc không kịp thời nắm bắt thông tin về các quy định mới ban hành, dẫn đến không rõ trách nhiệm quản lý của mình. Công tác quản lý sau cấp phép không chỉ giới hạn ở việc nắm thông tin và giám sát hoạt động mà với tinh thần hỗ trợ doanh nghiệp, các cơ quan quản lý cần phải giải quyết kịp thời các vấn đề vướng mắc, tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ cho các dự án đầu tư triển khai thuận lợi và đúng pháp luật. Việc tập trung chỉ đạo, hỗ trợ kịp thời các nhà đầu tư đang có dự án hoạt động hiệu quả vừa giúp cho nhà đầu tư giải quyết các vấn đề phát sinh, vừa có ý nghĩa quan trọng và có sức thuyết phục để vận động nhà đầu tư mới. Về việc quản lý chất lượng giảng dạy và bảo đảm quyền lợi của học viên Mặc dù các cơ sở giáo dục đào tạo có vốn FDI là các cơ sở tư nhân do nhà đầu tư thành lập và tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình, nhưng do đây là dịch vụ đặc biệt, có liên quan đến con người nên cần quản lý chặt chẽ. Theo quy định hiện hành, các cơ sở giáo dục đào tạo có vốn FDI phải đăng ký nội dung và chương trình giảng dạy với cơ quan quản lý giáo dục trước khi tuyển sinh. Bên cạnh đó, cần có cơ chế kiểm soát và cơ quan kiểm định chất lượng độc lập, có khả năng đánh giá khách quan chất lượng các cơ sở giáo dục đào tạo, một mặt làm cơ sở cho học viên lựa chọn nơi cung cấp dịch vụ, mặt khác tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý. 3.4.5.Nghiên cứu mở rộng các mô hình thu hút nguồn vốn FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục Trong thời gian qua, số lượng học sinh, sinh viên đi du học ngày càng đông, trong đó, tỷ lệ du học tự túc ngày càng lớn bên cạnh nguồn học bổng tài trợ từ các tập đoàn, Chính phủ. Hàng năm, có tới vài chục ngàn học sinh, sinh viên đi du học bằng con đường tự túc. Điều đó chứng tỏ nhu cầu được học trong các trường đạt tiêu chuẩn quốc tế là khá cao. Bên cạnh đó, với đà thu hút đầu tư như hiện nay, hiện tượng thiếu lao động qua đào tạo và có chất lượng để cung cấp cho các dự án mới là rất trầm trọng. Do đó, cùng với thu hút nguồn vốn FDI, cần nghiên cứu cho phép thêm và có cơ chế khuyến khích một số phương thức, mô hình đào tạo mới như: Việc đào tạo, dạy nghề phải gắn với nhu cầu của thị trường lao động. Để đào tạo đúng hướng, cần xây dựng đề án và có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp có nhu cầu lớn về lao động tự thành lập cơ sở dạy nghề hoặc kết hợp chặt chẽ, hỗ trợ các cơ sở dạy nghề sẵn có tổ chức dạy nghề theo yêu cầu hoặc đơn đặt hàng. Cho phép nhà đầu tư nước ngoài góp vốn mua cổ phần trong các cơ sở giáo dục của Việt Nam để tận dụng lợi thế của các cơ sở sẵn có, đồng thời tạo điều kiện cho họ đầu tư thêm cơ sở vật chất cho công tác giảng dạy và trong nhiều trường hợp, việc đầu tư này không chỉ nâng cấp cơ sở hiện có mà còn tận dụng được kinh nghiệm của nhà đầu tư nước ngoài. Cho phép các cơ sở giáo dục của Việt Nam nếu có điều kiện thì thuê tổ chức quản lý giáo dục nước ngoài để tạo lập cơ sở giáo dục đào tạo theo chuẩn quốc tế. Theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài trước đây cũng như Luật Đầu tư hiện nay, việc thuê tổ chức quản lý của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là được phép, nhất là đối với các lĩnh vực cần kỹ năng quản lý chuyên sâu như kinh doanh bất động sản, khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo; tuy nhiên, trên thực tế mới chỉ có các dự án kinh doanh khách sạn, văn phòng cho thuê, sân golf là sử dụng phương thức này. Đây là phương thức tiên tiến được áp dụng ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là trong trường hợp nhà đầu tư không đồng thời là nhà quản lý giáo dục. Do vậy, nên nghiên cứu cho phép và khuyến khích các cơ sở giáo dục đào tạo sử dụng phương thức này. Tóm lại, chương 3 đã thực hiện một số nhiệm vụ sau: Đưa ra định hướng phát triển giáo dục Việt Nam đến năm 2010, định hướng phát triển giáo dục đại học Việt Nam đến 2020.. Đưa ra một số quan điểm về dịch vụ giáo dục hiện nay. Từ định hướng và quan điểm, đưa ra một số kiến nghị, giải pháp về cơ chế đầu tư, luật pháp, chính sách, mô hình thu thú vốn FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO. KẾT LUẬN Thực tiễn 20 năm thu hút FDI nói chung và trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nói riêng đã cho thấy những đóng góp to lớn của khu vực kinh tế này. Đây là kết quả của chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Mặc dù các văn bản hướng dẫn cho FDI trong giáo dục đào tạo được ban hành chậm hơn so với các quy định khác trong hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài nhưng cũng đã tạo được hành lang pháp lý thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Tính đến nay đã thu hút được 94 dự án với tổng vốn đầu tư gần 140 triệu USD trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO, Việt Nam đã theo đuổi lập trường tích cực, chủ động và đã cam kết thực hiện GATS đối với tất cả 12 ngành dịch vụ, trong đó có giáo dục. Với chủ trương từng bước mở rộng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong bản chào dịch vụ đa phương, mức cam kết của Việt Nam về dịch vụ giáo dục là khá sâu rộng. Chúng ta đã mở cửa hầu hết các lĩnh vực giáo dục về khoa học tự nhiên và kỹ thuật, quản lý doanh nghiệp, kinh tế, kế toán..., trong đó giáo dục đại học được coi là lĩnh vực mở cửa rộng nhất với một lộ trình thích hợp. Cam kết thực hiện GATS về giáo dục sẽ đặt giáo dục Việt Nam trước những thách thức cực kỳ to lớn. Nếu không có ý chí và quyết tâm đổi mới để phát triển thì giáo dục đại học sẽ không đủ sức cạnh tranh, bản sắc văn hóa dân tộc và những giá trị văn hóa truyền thống sẽ bị phai nhạt, tình trạng thất thoát chất xám ngày càng trầm trọng, quyền lợi người học sẽ bị xâm phạm, khoảng cách giữa Việt Nam và các nước phát triển sẽ ngày càng gia tăng. Do đó, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm phát triển dịch vụ giáo dục là một bước đi vô cùng đúng đắn trong điều kiện thiếu thốn về cơ sở vật chất và khó khăn trong công tác quản lý giáo dục ở Việt Nam. Có chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài hợp lý sẽ thúc đẩy sự phát triển dịch vụ giáo dục, góp phần nâng cao dân trí, cung cấp cho đất nước nguồn nhân lực có trình độ cao, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước, nâng vị thế nước ta lên một tầm cao mới./ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO GS.TSKH.Vũ Ngọc Hải “Giáo dục Việt Nam đổi mới và phát triển hiện đại hóa”, NXB Giáo dục, 2007. GS.TS.Nguyễn Đình Hương “Việt Nam hướng tới nền giáo dục hiện đại”, NXB Giáo dục, 2007. PGS.TS.Nguyễn Hữu Khải “Các ngành dịch vụ Việt Nam”, NXB Thống Kê, 2007. Phạm Minh Hạc “60 năm phát triển nền giáo dục Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Giáo dục số 1 tháng 10 và số 2 tháng 11 năm 2005. Vũ Ngọc Hải “Đổi mới cách nghĩ và cách làm giáo dục”, Tạp chí Phát triển Giáo dục, số 4(76)/2005. PGS.TS.Nguyễn Thị Hường chủ biên: Giáo trình “Kinh doanh quốc tế (tập 2)”, NXB Lao động-Xã hội, 2005. Phạm Khiêm Ích “Cải cách giáo dục – Thách thức của thế kỷ XXI”, Tạp chí Tia sáng, tháng 4/2005. Nguyễn Quang Kính và tập thể tác giả “Giáo dục Việt Nam 1945-2005”, NXB Chính trị quốc gia, 2005. Đặng Bá Lãm (chủ biên) “Quản lý nhà nước về giáo dục, lý luận và thực tiễn”, NXB Chính trị quốc gia 2005. Luật Giáo dục 2005 Viện Sử học “60 năm nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Một số thành tựu chủ yếu”, NXB KHXH, 2005. Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng “Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai - Vấn đề và giải pháp”, NXB Chính trị quốc gia, 2004. Vũ Ngọc Hải “Dịch vụ giáo dục”, Tạp chí Phát triển Giáo dục số 11(71)/2004. Nguyễn Thị Mỹ Lộc (chủ biên) “Một số vấn đề về giáo dục đại học”, NXB Đại học Quốc gia, 2004. Nguyễn Công Giáp “Sự hình thành và phát triển thị trường trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở Việt Nam”, Tạp chí Phát triển Giáo dục, tháng 3/2003. Vũ Ngọc Hải, Trần Khánh Đức (đồng chủ biên) “Hệ thống giáo dục hiện đại trong những năm đầu thế kỷ XXI”, NXB Giáo dục, 2003. Đặng Bá Lãm “Giáo dục Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XXI - Chiến lược phát triển”, NXB Giáo dục, 2003. Ban Khoa giáo trung ương “Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới, chủ trương, thực hiện, đánh giá”, NXB Chính trị quốc gia,2002. Phạm Minh Hạc (chủ biên) “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI”, NXB Chính trị quốc gia, 2002. PGS.TS.Nguyễn Thị Hường chủ biên: Giáo trình “Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (tập 1)”, NXB Thống Kê, 2002. Lê Văn Giang “Những vấn đề lý luận cơ bản của khoa học giáo dục”, NXB Chính trị quốc gia, 2001. UNDP “Việt Nam hướng tới 2010”, NXB Chính trị quốc gia, 2001. www.chungta.com www.gso.gov.vn www.moet.gov.vn www.mpi.gov.vn www.vnexpress.net www.vnn.vn DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT AIT Viện công nghệ châu Á BOT Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao BTO Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh BT Hợp đồng xây dựng - chuyển giao FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài GATS Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ IMF Quỹ tiền tệ quốc tế NCC Tổ chức toàn cầu hoạt động trong lĩnh vực giáo dục OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế PERC Tổ chức tư vấn rủi ro kinh tế và chính trị UNCTAD Hội nghị liên hợp quốc tế về thương mại và phát triển DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Danh mục dự án đầu tư nước ngoài tính đến hết năm 2000 49 Bảng 2.2: Danh mục dự án đầu tư nước ngoài tính riêng năm 2007 51 Hình 2.3: Số dự án đầu tư vào giáo dục từ năm 1993-2007 52 Hình 2.4: Vốn đầu tư của các dự án từ năm 1993-2007 52 MỤC LỤC NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26450.doc