Thực tiễn quy hoạch bảo vệ môi trường và giải pháp nâng cao vai trò của quy hoạch môi trường ở Việt Nam

Lời nói đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Du lịch thế giới phát triển mạnh và trở thành ngành kinh tế quan trọng của nhiều nước. Năm 2010 dự báo thế giới có trên 1 tỷ người đi du lịch. Du lịch đã trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống dân cư và trong xã hội và là một trong những ngành kinh tế phát triển nhất trên thế giới. Nhu cầu của khách du lịch ngày càng cao, và ngày càng quan tâm tới điều kiện về an toàn và sức khỏe xu hướng khách chỉ chọn những điểm đến, những cơ sở dịch vụ

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1172 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực tiễn quy hoạch bảo vệ môi trường và giải pháp nâng cao vai trò của quy hoạch môi trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
du lịch quan tâm đến bảo vệ môi trường. Chỉ những nơi môi trường xanh - sạch - đẹp với những sản phẩm an toàn mới có thể có sức cạnh tranh thu hút khách và từ đó các doanh nghiệp du lịch, cộng đồng dân cư địa phương mới có thể thu lợi từ du lịch. Hiện nay, do quá trình công nghiệp hóa, dân số ngày càng tăng, vấn đề đô thị hóa và nạn xây dựng tràn lan không theo quy hoạch, kế hoạch dẫn tới việc khai thác và sử dụng quá mức làm cạn kiệt tài nguyên, gia tăng các chất thải và khí thải, nước thải, tiếng ồn làm ô nhiễm và xuống cấp môi trường ảnh hưởng tới sức khoẻ của cả cộng đồng dân cư. Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ cấp bách không chỉ của ngành du lịch mà của các cấp, các ngành, toàn xã hội, của các quốc gia để phát triển du lịch bền vững, nâng cao đời sống xã hội của từng địa phương, từng ngành và của từng người dân sống trong xã hội. Ngược lại phát triển du lịch bền vững là một hướng đi toàn diện và là phương tiện hữu hiệu cho việc bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch. Quy hoạch môi trường được xem như là một biện pháp quan trọng đề bảo vệ môi trường. Đây là bước khởi đầu quan trọng cho sự nghiệp bảo vệ môi trường khi nó đưa ra được cái nhìn toàn diện và đề xuất những giải pháp hợp lý. Tuy nhiên ở Việt Nam vấn đề này vẫn chưa được quan tâm một các đúng đắn khiến hiệu quả thực tế của công tác này còn yếu kém về nhiều mặt. Do đó, cần phải nâng cao hơn nữa tầm quan trọng của công tác này cũng như nhận thức về nó trong bộ máy lãnh đạo nhà nước và các địa phương. 2 . Mục đích và mục tiêu nghiên cứu. _ Nghiên cứu các vấn đề môi trường và quy hoạch môi trường, phát triển bền vững và phát triển du lịch bền vững. _ Nghiên cứu nhằm thấy được các quy định của pháp luật hiện nay về công tác quy hoạch môi trường ở Việt Nam; vai trò của quy hoạch môi trường đối với phát triển du lịch bền vững. _ Nghiên cứu thực trạng quy hoạch môi trường Việt Nam và đề xuất các giải pháp cho công tác quy hoạch ở Việt Nam 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Khóa luận nghiên cứu một cách tổng quan về quy hoạch môi trường, thực tiễn pháp luật hiện hành và công tác quy hoạch môi trường của nước ta 4. Phương pháp nghiên cứu. Trong khóa luận sử dụng nhiều phương pháp khác nhau như: phân tích, so sánh, thực nghiệm…. để làm nổi bật vấn đề nghiên cứu 5. Kết cấu của khoá luận. 1 . Lời nói đầu. 2 . Chương I. Khái quát chung về quy hoạch, kế hoạch bảo vệ môi trường và phát triển du lịch bền vững. 3 . Chương II. Pháp luật Việt Nam về quy hoạch môi trường; vai trò của pháp luật môi trường với phát triển du lịch bền vững 4 . Chương III. Thực tiễn quy hoạch bảo vệ môi trường và các giải pháp nâng cao vai trò của quy hoạch môi trường ở Việt nam 5 . Kết luận. CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUY HOẠCH MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG 1. Một số vấn đề về môi trường và quy hoạch, kế hoạch hóa bảo vệ môi trường (quy hoạch môi trường) 1.1. Môi trường và những vấn đề liên quan Môi trường là một khái niệm có nội hàm vô cùng rộng và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong cuộc sống người ta dùng nhiều khái niệm môi trường như môi trường sư phạm, môi trường xã hội, môi trường giáo dục… Môi trường theo định nghĩa thông thường “là toàn bộ nói chung những điều kiện thự nhiên và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại và phát triển trong mối quan hệ với con người hay sinh vật ấy”; là “sự kết hợp toàn bộ hoàn cảnh hay điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới sự tồn tại, phát triển của một thực thể hữu cơ”. Môi trường trong lĩnh vực khoa học pháp lý là một khái niệm được hiểu như là mối liên hệ giữa con người và tự nhiên, trong đó môi trường được hiểu như là những yếu tố, hoàn cảnh và điều kiện tự nhiên bao quanh con người. Theo khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua ngày 29/11/2005 định nghĩa: _ Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật. Dựa theo định nghĩa trên có thể thấy con người là trung tâm trong mối quan hệ với tự nhiên và tạo thành trung tâm đó là mối quan hệ giữa con người với nhau chứ không phải giữa các thành phần khác của môi trường Theo khoản 2 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2005: _ Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường như đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình thái vật chất khác. Định nghĩa này cho thấy môi trường được tạo thành bởi những yếu tố vật chất tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo (hình thái vật chất khác), trong đó những yếu tố vật chất tự nhiên có ý nghĩa đặc biệt và quan trọng hơn cả. Chúng là thành phần cơ bản của môi trường; hình thành và phát triển theo những quy luật tự nhiên vốn có và nằm ngoài khả năng quyết định của con người. Con người chỉ có thể tác động tới chúng ở một chừng mực nhất định. Các yếu tố tự nhiên này không phải vĩnh cửu mà luôn có giới hạn; nếu con người khai thác và sử dụng một cách lãng phí sẽ dẫn đến suy giảm các yếu tố của môi trường và đến một lúc nào đó con người sẽ phải đối mặt với vấn đề cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Theo khoản 6 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2005: _ Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật. _ Trên thế giới, ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các chất thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức khoẻ con người, đến sự phát triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. Các tác nhân ô nhiễm bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải), lỏng (nước thải), rắn (chất thải rắn) chứa hoá chất hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ. Ô nhiễm môi trường sẽ dẫn đến việc môi trường bị hủy hoại làm cho các hoạt động kinh tê – xã hội và các hoạt động khác của con người không thể thực hiện một cách bình thường. Trong số đó hoạt động kinh tế du lịch là hoạt động bị ảnh hưởng nhiều nhất vì bản thân du lịch và môi trường có mối quan hệ mật thiết không thể tách rời. Tuy nhiên, môi trường chỉ được coi là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm lượng, nồng độ hoặc cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng tác động xấu đến con người, sinh vật và vật liệu. Theo khoản 7 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2005: _ Suy thoái môi trường là sự suy giảm về chất lượng và số lượng của thành phần môi trường, gây ảnh hưởng xấu đối với con người và sinh vật. Suy thoái môi trường có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình phát triển kinh tế xã hội. Bởi khi mà nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt đồng nghĩa với việc điều kiện để phát triển không còn. Do đó, để đảm bảo phát triển một cách bền vững cần phải ngăn chặn suy thoái môi trường. Theo khoản 8 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2005: _ Sự cố môi trường là tai biến hoặc rủi ro xảy ra trong quá trình hoạt động của con người hoặc biến đổi thất thường của tự nhiên, gây ô nhiễm, suy thoái hoặc biến đổi môi trường nghiêm trọng. _ Sự cố môi trường có thể xảy ra do: a) Bão, lũ, lụt, hạn hán, nứt đất, động đất, trượt đất, sụt lở đất, núi lửa phun, mưa axit, mưa đá, biến động khí hậu và thiên tai khác; b) Hỏa hoạn, cháy rừng, sự cố kỹ thuật gây nguy hại môi trường của cơ sở sản xuất, kinh doanh, công trình kinh tế, khoa học, kỹ thuật, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng; c) Sự cố trong tìm kiếm, thămdò, khai thác và vận chuyển khoáng sản, dầu khí, sập hầm lò, phụt dầu, tràn dầu, vỡ đường ống dẫn dầu, dẫn khí, đắm tàu, sự cố tại cơ sở lọc hóa dầu và các cơ sở công nghiệp khác; d) Sự cố trong lò phản ứng hạt nhân, nhà máy điện nguyên tử, nhà máy sản xuất, tái chế nhiên liệu hạt nhân, kho chứa chất phóng xạ. Những khái niệm trên cho thấy ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường và sự cố môi trường đều dẫn đến những thiệt hại mang tính nghiêm trọng về môi trường. Đó là : i) nó để lại những ảnh hưởng mang tính lâu dài, nguy cơ mang tính tiềm ẩn gây tác động xâu đến môi trường trong tương lai ngoài những tác động hiện tại; ii) đồng thời cũng tiềm ẩn nguy cơ cao về khả năng gây thiệt hại đến sức khỏe, tính mạng và tài sản của con người; iii) những thiệt hại này còn mang tính liên đới khi mà một thành phần của môi trường bị ô nhiễm hay suy thoái hoặc sự cố môi trường sẽ tác động đến những thành phần còn lại của môi trường làm cho môi trường bị ô nhiễm hoặc suy thoái hơn. Ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường và sự cố môi trường đem lại những kết quả không mong muốn trong các hoạt động của con người, nhất là trong hoạt động du lịch. Do vậy, để có thể bảo vệ môi trường trong sạch lành mạnh cần có sự quan tâm hơn nữa của không chỉ các cơ quan nhà nước và cả cộng đồng. Cần hơn nữa một hướng, một chiến lược cụ thể để đảm bảo các điều kiện môi trường cho các hoạt động kinh tế xã hội phát triển một cách bền vững trong đó có hoạt động du lịch 1.2. Quy hoạch môi trường Quy hoạch môi trường là một phạm trù còn rất mới ở Việt Nam. Hiện tại vẫn còn một số cách hiểu khác nhau về quy hoạch môi trường. Ở các quốc gia Châu Âu, quy hoạch môi trường được hiểu đồng nghĩa với quy hoạch sử dụng đất (land – use planing). Ở các quốc gia thuộc Bắc Mỹ, quy hoạch môi trường được các nhà khoa học dùng để chỉ một phương pháp quy hoạch tổng hợp, kết hợp nhiều vấn đề, nhiều bên liên quan và thường được gọi là các quy hoạch tổng thể (master planing). Theo FAO quy hoạch môi trường là “tất cả các hoạt động quy hoạch với mục tiêu bảo vệ và củng cố các giá trị môi trường hoặc tài nguyên”. Theo một nghiên cứu khác thì quy hoạch môi trường, có nghĩa là xây dựng chiến lược và các chương trình chi tiết về bảo vệ môi trường xung quanh và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên. Theo ông Nguyễn Thế Thôn, PGS.TS, Đại học khoa học tự nhiên-ĐHQG Hà Nội: “Quy hoạch môi trường là xác định chức năng môi trường cho các phạm vi lãnh thổ khác nhau, hài hòa với sự phát triển kinh tế, nhằm làm cho môi trường không bị suy thoái, ô nhiễm và ngày càng cải thiện hơn theo đời sống kinh tế - xã hội. Như vậy, quy hoạch môi trường có thể hiểu là : - Những quy hoạch, những chính sách hoặc các chương trình với mục tiêu môi trường cụ thể. Chúng cũng có thể không phải là 1 thành phần không gian trong quy hoạch (ví dụ : lượng chất thải carbon dioxide của quốc gia).. - Những quy hoạch không gian không lấy “môi trường “ làm trọng tâm, như những hậu quả của quy hoạch có ý nghĩa rất lớn về mặt môi trường. Chúng ta thấy rõ rằng khái niệm “quy hoạch môi trường” dường như chưa được thống nhất rõ ràng. Thế nhưng, qua một số định nghĩa ta nhận thấy quy hoạch môi trường trước hết đó là hành động nhằm bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên để hướng đến phát triển bền vững, trong đó hiển nhiên bao gồm phát triển kinh tế-xã hội của một lãnh thổ. Tuy nhiên, có một số lẫn lộn ở đây thông qua các định nghĩa trên. Có hai hướng suy nghĩ chính như sau : - Phải chăng quy hoạch môi trường cũng chính là quy hoạch sử dụng đất của một lãnh thổ, quy hoạch tài nguyên nước của một vùng, quy hoạch giao thông,… thậm trí quy hoạch bãi đậu xe có sự cân nhắc đến các yếu tố bảo vệ môi trường. - Hoặc ngược lại, quy hoạch môi trường cần phải đi trước các quy hoạch khác từ đó làm cơ sở để quy hoạch các lĩnh vực thành phần : đất đai, nước, giao thông,… Mỗi một cách nghĩ đều có 2 mặt của chúng : Theo cách nghĩ thứ nhất, rõ ràng vấn đề phát triển kinh tế được tập trung ưu tiên, vai trò bảo vệ môi trường là thứ yếu hoặc nếu được quan tâm thì cũng không thể có cái nhìn tổng thể về các vấn đề môi trường. Bởi lẽ cái nhìn về những khía cạnh môi trường, áp lực, tác động và các hành xử đáp ứng thông qua quy hoạch chỉ có tính cục bộ. Còn nếu các nhà quy hoạch (planner) tiến xa hơn nữa là có cái nhìn tổng thể hơn, đặt vị trí lãnh thổ nghiên cứu của mình trong một không gian có cập bậc thì bài toán vô hình chung đi theo hướng thứ 2. Sẽ xuất hiện một sự luẩn quẩn ở đây trong cách tiếp cận vấn đề. Một vấn đề nữa nếu quy hoạch chuyên ngành có tính đến yêu tố môi trường thường mang tính cục bộ, do đó rất dễ nảy sinh hiệu ứng “tích lũy” gây ra các thảm họa về môi trường. Một dự án với lượng chất thải gây ô nhiễm được dự tính (quy hoạch) là nhỏ, nhưng nhiều dự án sẽ tạo ra những cộng hưởng vô cùng nguy hiểm. Những dự án công nghiệp dọc theo sông Đồng Nai, sông Thị Vải, sông Nhuệ, sống Đáy là một ví dụ điển hình. Theo cách nghĩ thứ 2, vấn đề quy hoạch môi trường tưởng chừng có vẻ sáng sủa nhưng thực tế có nhiều vấn đề chúng ta cần phải suy nghĩ. Không gian quy hoạch chúng ta bao nhiêu là đủ. Rõ ràng, khi quy hoạch môi trường cho Cần Giờ, thì chức năng hệ thống kênh rạch là cung cấp sự sống cho cả khu rừng ngập mặn, chất lượng nước phải tuân theo các chỉ số môi trường nước mặn, …nhưng để đảm bảo được điều đó không gian quy hoạch của chúng ta phải vươn đến những lãnh thổ khác như : Biên Hòa, Nhơn Trạch, Thủ Đức, và thậm trí cả Sông Bé. Như vậy, do tính chất vận động của môi trường tự nhiên như không khí, nước…thì việc quy hoạch môi trường nhiều khi quá tầm quyết định của chúng ta, không thể thực hiện được. Còn theo các chuyên gia môi trường Việt Nam “quy hoạch môi trường là quá trình sử dụng có hệ thống kiến thức khoa học để xây dựng các chính sách và biện pháp trong sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường nhằm định hướng các hoạt động phát triển trong khu vực đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững”. Tuy nhiên thì tiền đề chung của các khái niệm trên là tất cả các hệ kinh tế - xã hội và môi trường trong phạm vi một khu vực sinh thái phải được quản lý tổng thể tất cả các giai đoạn của quá trình phát triển để đạt được sự cân bằng giữa bảo tồn, sử dụng và phát triển, đảm bảo tính bền vững của toàn bộ hệ thống. Với ý nghĩa trên thì quy hoạch môi trường có nội dung rất rộng, bao gồm: i) Quy hoạch bảo tồn thiên nhiên; ii) Quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên; iii) Quy hoạch bảo vệ môi trường đô thị và khu dân cư. 2. Những vấn đề về phát triển bền vững, du lịch bền vững và phát triển du lịch bền vững. 2.1. Phát triển bền vững. _ Phát triển bền vững là phạm trù hình thành do nhu cầu của việc bảo vệ môi trường. Thực chất của phát triển bền vững là sự kết hợp giữa phát triển với việc duy trì môi trường hay nói cách khác yếu tố cơ bản của phát triển bền vững là quyền phát triển và sự cần thiết phải chăm sóc môi trường. Mặc dù chưa có định nghĩa toàn diện và thống nhất về phát triển bền vững song về thực chất đó là mối liên kết không thể tách rời giữa phát triển và bảo vệ môi trường. Cộng đồng quốc tế cũng ghi nhận vấn đề này: _ Từ Tuyên bố Stockholm về môi trường tại Hội nghị Liên Hợp Quốc về môi trường, con người, Stockholm, Thụy Điển, 6-16/6/1972 “đã xem xét nhu cầu cần có một quan điểm chung và những nguyên tắc chung tạo ra tình cảm và hướng mọi dân tộc trên thế giới trong quá trình gìn giữ và làm tốt đẹp hơn môi trường của con người”. Tuyên bố đã xây dựng 26 nguyên tắc trong đó nhấn mạnh: “Bảo vệ và cải thiện môi trường con người là vấn đề có ảnh hưởng lớn tới phúc lợi của mọi dân tộc và sự phát triển kinh tế trên toàn thế giới; đó là khao khát khẩn cấp của mọi dân tộc trên khắp thế giới và nhiệm vụ của mọi chính phủ”(nguyên tắc 2). _ Đến Tuyên bố Rio về môi trường và phát triển tại Hội nghị Liên Hợp Quốc về môi trường và phát triển, Rio de Janeiro, Brazil, 3-4/6/1992 đã khẳng định lại tuyên bố Stockholm và xây dựng 27 nguyên tắc trong đó khẳng định: “Con người là trung tâm của những mối quan hệ và sự phát triển lâu dài. Con người có quyền được hưởng một cuộc sống hữu ích va lành mạnh hài hoà với thiên nhiên”(nguyên tắc 1); cũng như “ cần được thực hiện quyền phát triển để đáp ứng một cách bình đẳng những nhu cầu của sự phát triển và môi trường của các thế hệ hôm nay và tương lai”(nguyên tắc 3). Và “để thực hiện sự phát triển bền vững, sự bảo vệ môi trường sẽ nhất thiết là một bộ phận cấu thành của sự phát triển và không thể xem xét tách rời quá trình đó”(nguyên tắc 4). _ Tuyên bố Johannesburg về phát triển bền vững tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững, Johannesburg, Nam Phi, 26/8-4/9/2002 đã một lần nữa khẳng định lại cam kết về phát triển bền vững “đặt trọng tâm đặc biệt và ưu tiên quan tâm đến cuộc chiên chống lại các vấn nạn đang de dọa nghiêm trọng tới sự phát triển bền vững của loài người trên quy mô toàn cầu”(mục 19). Như vậy có thể thấy cộng đồng quốc tế đã và đang coi bảo vệ môi trường và phát triển bền vững là những mục tiêu quan trọng hàng đầu trong sự phát triển của mỗi quốc gia.Nhà nước Việt Nam có quan điểm thống nhất về phát triển bền vững là “ phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cấu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”( khoản 4 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2005). Trong định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam(chương trình Nghị sự 21) đã khẳng định: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”; "Phát triển kinh tế-xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học". Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Các nguyên tắc trong định hướng đều khẳng định mục tiêu của phát triển bền vững như: coi con người là trung tâm của phát triển bền vững(nguyên tắc thứ nhất); bảo vệ và cải thiện môi trường là yếu tố không tách rời của quá trình phát triển(nguyên tắc thứ ba); phát triển đảm bảo sự công bằng cho các thế hệ tương lai(nguyên tắc thứ tư).v.v… 2.2. Du lịch bền vững. Theo khoản 18 Điều 4 Luật du lịch 2005: _ Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai. Hay nói cách khác du lịch bền vững là việc đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng dùng du lịch mà vẫn bảo đảm những khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ tương lai. Du lịch bền vững đòi hỏi phải quản lý tất cả các dạng tài nguyên theo cách nào đó để chúng ta có thể đáp ứng các nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hoá, các quá trình sinh thái cơ bản, đa dạng sinh học và các hệ đảm bảo sự sống. Mục tiêu của Du lịch bền vững là: Phát triển, gia tăng sự đóng góp của du lịch vào kinh tế và môi trường. Cải thiện tính công bằng xã hội trong phát triển. Cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng bản địa. Ðáp ứng cao độ nhu cầu của du khách. Duy trì chất lượng môi trường. 2.3. Phát triển du lịch bền vững. _ Phát triển du lịch bền vững là quá trình điều hành quản lý các hoạt động du lịch với mục đích xác định và tăng cường các nguồn hấp dẫn khách tới các vùng và quốc gia du lịch. Quá trình quản lý này luôn hướng tới việc hạn chế lợi ích trước mắt để đạt được lợi ích lâu dài do các hoạt động du lịch đưa lại. Dựa trên những nguyên tắc phát triển bền vững, Hội đồng Lữ hành Du lịch thế giới (WTTC), Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) và Hội đồng Trái đất (Earth Council) xây dựng Chương trình Nghị sự 21 với 10 nguyên tắc hướng tới “phát triển du lịch bền vững”. Khái niệm phát triển du lịch bền vững trong du lịch được hiểu là “hoạt động khai thác có quản lý các giá trị tự nhiên và nhân văn nhằm thỏa mãn các nhu cầu đa dạng của khách du lịch, có quan tâm tới các lợi ích kinh tế trong dài hạn trong khi vẫn đảm bảo sự đóng góp cho bảo tồn các nguồn tài nguyên du lịch, duy trì được sự toàn vẹn về văn hóa để phát triển du lịch trong tương lai; cho công tác bảo vệ môi trường và góp phần nâng cao mức sống của cộng đồng dân cư địa phương”. _ Phát triển du lịch bền vững phải đảm bảo và thỏa mãn ba yếu tố sau: Mối quan hệ giữa bảo tồn tài nguyên tự nhiên, môi trường và lợi ích kinh tế, xã hội, văn hóa Quá trình phát triển diễn ra trong một thời gian lâu dài Đáp ứng được nhu cầu hiện tại, song không làm ảnh hưởng đến nhu cầu các thế hệ tiếp theo. Phát triển du lịch bền vững cũng không tách khỏi khái niệm phát triển bền vững khi ngoài việc đảm bảo sự phát triển của ngành du lịch các quốc gia phải đảm bảo cho công tác bảo vệ môi trường mà. Bởi các hoạt động kinh tế mà đặc biệt là hoạt động du lịch và môi trường có mối quan hệ biện chứng không thể tách rời, giữa chúng có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau theo các cơ chế sau: 2.3.1 Những tác động theo hướng tích cực của du lịch đối với môi trường. Du lịch tác động đến môi trường theo hướng tích cực chủ yếu là: _ Bảo tồn thiên nhiên: Du lịch góp phần khẳng định giá trị và góp phần vào việc bảo tồn các diện tích tự nhiên quan trọng, phát triển các Khu Bảo tồn và Vườn Quốc gia. _ Tăng cường chất lượng môi trường: Du lịch có thể cung cấp những sáng kiến cho việc làm sạch môi trường thông qua kiểm soát chất lượng không khí, nước, đất, ô nhiễm tiếng ồn, thải rác và các vấn đề môi trường khác thông qua các chương trình quy hoạch cảnh quan, thiết kế xây dựng và duy tu bảo dưỡng các công trình kiến trúc. _ Đề cao môi trường: Việc phát triển các cơ sở du lịch được thiết kế tốt có thể đề cao giá trị các cảnh quan. _ Cải thiện hạ tầng cơ sở: Các cơ sở hạ tầng của địa phương như sân bay, đường sá, hệ thống cấp thoát nước, xử lý chất thải, thông tin liên lạc có thể được cải thiện thông qua hoạt động du lịch. _ Tăng cường hiểu biết về môi trường của cộng đồng địa phương thông qua việc trao đổi và học tập với du khách. 2.3.2 Những tác động theo hường tiêu cực của du lịch với môi trường. Bên cạnh những tác động tiêu cực thì du lịch cũng gây những ảnh hưởng xấu làm tổn hại môi trường như là : _ Ảnh hưởng tới nhu cầu và chất lượng nước: Du lịch là ngành công nghiệp tiêu thụ nước nhiều, thậm chí tiêu hao nguồn nước sinh hoạt hơn cả nhu cầu nước sinh hoạt của địa phương. _ Nước thải: Nếu như không có hệ thống thu gom nước thải cho khách sạn, nhà hàng thì nước thải sẽ ngấm xuống bồn nước ngầm hoặc các thuỷ vực lân cận (sông, hồ, biển), làm lan truyền nhiều loại dịch bệnh như giun sán, đường ruột, bệnh ngoài da, bệnh mắt hoặc làm ô nhiễm các thuỷ vực gây hại cho cảnh quan và nuôi trồng thủy sản. _ Rác thải: Vứt rác thải bừa bãi là vấn đề chung của mọi khu du lịch. Đây là nguyên nhân gây mất cảnh quan, mất vệ sinh, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng và nảy sinh xung đột xã hội. _ Ô nhiễm không khí: Tuy được coi là ngành "công nghiệp không khói", nhưng du lịch có thể gây ô nhiễm khí thông qua phát xả khí thải động cơ xe máy và tàu thuyền, đặc biệt là ở các trọng điểm và trục giao thông chính, gây hại cho cây cối, động vật hoang dại và các công trình xây dựng bằng đá vôi và bê tông. _ Năng lượng: Tiêu thụ năng lượng trong khu du lịch thường không hiệu quả và lãng phí. _ Ô nhiễm tiếng ồn: Tiếng ồn từ các phương tiện giao thông và du khách có thể gây phiền hà cho cư dân địa phương và các du khách khác kể cả động vật hoang dại. _ Ô nhiễm phong cảnh: Ô nhiễm phong cảnh có thể được gây ra do khách sạn nhà hàng có kiến trúc xấu xí thô kệch, vật liệu ốp lát không phù hợp, bố trí các dịch vụ thiếu khoa học, sử dụng quá nhiều phương tiện quảng cáo nhất là các phương tiện xấu xí, dây điện, cột điện tràn lan, bảo dưỡng kém đối với các công trình xây dựng và cảnh quan. Phát triển du lịch hỗn độn, pha tạp, lộn xộn là một trong những hoạt động gây suy thoái môi trường tệ hại nhất. _ Làm nhiễu loạn sinh thái: Việc phát triển hoạt động du lịch thiếu kiểm soát có thể tác động lên đất (xói mòn, trượt lở), làm biến động các nơi cư trú, đe dọa các loài động thực vật hoang dại (tiếng ồn, săn bắt, cung ứng thịt thú rừng, thú nhồi bông, côn trùng...). Xây dựng đường giao thông và khu cắm trại gây cản trở động vật hoang dại di chuyển tìm mồi, kết đôi hoặc sinh sản, phá hoại rạn san hô do khai thác mẫu vật, cá cảnh hoặc neo đậu tàu thuyền... Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp mà sự tồn tại và phát triển của nó gắn liền với môi trường. Môi trường là địa bàn là đối tượng tác động của các họat động du lịch. Các sản phẩm du lịch của con người đều bắt nguồn từ các dạng vật chất tồn tại trên trái đất và không gian bao quanh trái đất. Môi trường được xem là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, tính hấp dẫn của các sản phẩm du lịch, qua đó ảnh hưởng đến khả năng thu hút khách, đến sự tồn tại của hoạt động du lịch. Một quốc gia có môi trường xanh - sạch đẹp, đảm bảo các tiêu chuẩn về môi trường sẽ có khả năng thu hút một lượng lớn du khách tới tham quan du lịch. Ngược lại một quốc gia dù có nhiều doanh nghiệp du lịch với nhiều sản phẩm dịch vụ du lịch hấp dẫn, nhiều điểm du lịch, khu du lịch hấp dẫn nhưng môi trường không đáp ứng các tiêu chuẩn thì cũng không thể lôi kéo các du khách. Và nếu đã đến rồi thì khả năng quay trở lại là rất hạn chế mà sự tồn tại của du lịch phụ thuộc rất nhiều vào du khách trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, sự suy giảm của môi trường hay chính là sự suy giảm các yếu tố vật chất của môi trường đồng nghĩa với sự đi xuống của hoạt động du lịch. Vì lúc ấy con người sẽ không còn có yếu tố nào có thể giúp cho việc khai thác du lịch, thậm chí khi môi trường ô nhiễm trầm trọng thì nếu như có còn yếu tố để khai thác thì cũng không thể khai thác. Đơn giản là sẽ không thể tiến hành các hoạt động du lịch ở một nơi mà môi trường ở đó bị ô nhiễm quá nặng. Hoạt động phát triển du lịch phải đi liền với hoạt động bảo vệ môi trường thì môi trường sẽ được bảo vệ và du lịch sẽ có điều kiện để tồn tại và phát triển ổn định, lâu dài. Vì vậy, bảo vệ môi trường trong kinh doanh du lịch là điều kiện quyết định sự phát triển bền vững của du lịch. 3. Quy hoạch môi trường – biện pháp tích cực để bảo vệ môi trường. Quy hoạch môi trường theo cách hiểu như ở trên có thể thấy nó mang lại những lợi ích đáng kể đối với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Tuy nhiên, để quy hoạch môi trường đi vào thực tế, có nghĩa trở thành công cụ để quản lý tài nguyên môi trường, góp phần bảo vệ môi trường. Trước hết chúng ta cần khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động này đối với các thành phần quản lý khác. Điểm xuất phát của chúng ta phải bắt đầu từ tư duy nhìn nhận thế giới xung quanh ta hiện nay; nhận thức việc bảo vệ môi trường là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế xã hội và không thể tách rời. Còn nếu chỉ nhấn mạnh đế vấn đề phát triển kinh tế trước mắt thì việc áp dụng các chỉ số môi trường vào các dự án quy hoạch lúc này chỉ mang tính chất hình thức, nhất là trong môi trường làm việc hiện nay ở Việt Nam và các nước đang phát triển. Với quan điểm bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, quy hoạch môi trường được thực hiện để: - Giúp các nhà quản lý có cái nhìn tổng thể về môi trường sinh thái (tự nhiên và nhân văn) trên lãnh thổ của mình dưới quan điểm của các nhà môi trường học, từ đó đưa ra các định hướng phát triển trên cơ sở tích hợp nhiều chính sách phát triển chuyên ngành khác. Trong trường hợp các quy hoạch chuyên ngành đã được xây dựng trước thì quy hoạch môi trường giúp cảnh báo, điều chỉnh và đưa ra phương án đề phòng. Điều đó có nghĩa là quy hoạch môi trường là đưa ra một bức tranh toàn cảnh về môi trường giúp cho những việc định hướng chính sách phát triển của các ngành kinh tế sao cho phù hợp và thân thiện với môi trường để đảm bảo cho việc gìn giữ môi trường trong sạch, lành mạnh. - Các quy hoạch chuyên ngành dùng sản phẩm quy hoạch môi trường để tìm kiếm phương án hài hòa về phát triển kinh tế cũng như bảo vệ môi trường. Cụ thể hơn quy hoạch môi trường giúp cho công tác quy hoạch phát triển tổng thể khác đưa ra phương án cụ thể cho hoạt động của mình sao cho vừa đảm bảo sự phát triển vừa bảo vệ môi trường - Giúp các quy hoạch chuyên ngành khác tham khảo để loại trừ các rủi ro về sự cố môi trường và đề ra các giải pháp xử lý. Tức là quy hoạch môi trường đã chỉ ra các rủi ro về sự cố môi trường có thể xảy ra trong từng vùng cụ thể đồng thời có những giải pháp để xử lý sự cố môi trường đó. Và như vậy các quy hoạch phát triển trong vùng đó có thể thấy trước những rủi ro để có thể quy hoạch đúng, tránh rủi ro cũng như có sẵn các biện pháp đề phòng và xử lý sự cố môi trường khi nó xảy ra. - Quy hoạch môi trường có thể coi là một mô hình lý tưởng mà khi có những thành phần khác tham gia vào, chúng ta có thể biết được điều gì sẽ xảy ra. Tạo ra bức tranh toàn cảnh, dự báo trước những điều có thể xảy ra vì vậy khi mà có các quy hoạch khác tham gia vào chúng ta có thể nhìn thấy trước sự phát triển hoặc rủi ro, sự cố có thể xảy ra trong bức tranh đó - Những giải pháp trong quy hoạch môi trường nhắm tới mục tiêu cải thiện chất lượng môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng và giữ được tốc độ phát triển kinh tế. Quy hoạch bao giờ cũng đi kèm với những giải pháp để thúc đẩy sự phát triển mà vẫn đảm bảo cho môi trường trong lành. Điều đó cho thấy việc quy hoạch luôn mang lại ý nghĩa tích cực cho bảo vệ môi trường. Quy hoạch môi trường hoàn toàn không xung đột với các quy hoạch khác về chức năng nhiệm vụ. Nó là sản phẩm khách quan về hoạch định các chính sách trên quan điểm của môi trường và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên; và đưa ra các giải pháp giám sát môi trường để bảo vệ các giá trị môi trường có tính quan trọng và quyết định chức năng toàn bộ hệ sinh thái tự nhiên – nhân văn (tính trội của hệ thống) của lãnh thổ đang nghiên cứu và lân cận. Chính vì vai trò quan trọng của nó đối với chức năng chung của một vùng, nên quy hoạch môi trường cần phải được làm trước hoặc làm càng sớm càng tốt, song song với các quy hoạch chuyên ngành khác. Sự tham gia của các nhà môi trường xuyên suốt các dự án quy hoạch chuyên ngành là rất cần thiết. CHƯƠNG II. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUY HOẠCH MÔI TRƯỜNG; VAI TRÒ CỦA QUY HOẠCH MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG 1. Những quy định của pháp luật Việt Nam về quy hoạch môi trường. Tại Việt Nam, vấn đề quy hoạch môi trường tuy vẫn còn mới mẻ nhưng cũng đang từng bước được quy phạm hóa. Nhận thức được tầm quan t._.rọng của quy hoạch hóa môi trường đối với công tác bảo vệ môi trường nên Nhà nước ta đã có những quy định cụ thể hơn nhằm tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động này. Đặc biệt là trong điều kiện hiện nay khi yêu cầu phát triển bền vững đang đặt ra ngày càng cấp thiết đối với tất cả các quốc gia trong đó các quốc gia đang phát triển như Việt Nam càng quan trọng hơn. Đơn giản ở các quốc gia này mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. 1.1 Các quy định của Luật bảo vệ môi trường về quy hoạch môi trường. 1.1.1 Luật bảo vệ môi trường 1993 Luật bảo vệ môi trường năm 1993 ra đời nhằm đáp ứng đòi hỏi bức thiết của hoạt động bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Tuy nhiên, do tính mới mẻ tại thời điểm đó nó đã không cụ thể được nhiều vấn đề mà môi trường đang đặt ra. Trong Luật quy định về quy hoạch hóa môi trường còn rất chung chung: Tại điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 1993 có quy định: “Nhà nước thống nhất quản lý bảo vệ môi trường trong phạm vi cả nước, lập qui hoạch bảo vệ môi trường, xây dựng tiềm lực cho hoạt dộng bảo vệ môi trường ở trung ương và địa phương”. Tại điều 10 Luật quy định: “Các cơ quan Nhà nước trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm tổ chức điều tra, nghiên cứu đánh giá hiện trạng môi trường, định kỳ báo cáo với Quốc hội về tình hình môi trường; xác định khu vực bị ô nhiễm môi trường và thông báo cho nhân dân biết; có kế hoạch phòng, chống suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường. Tại điều 11 Luật quy định: “Việc khai thác rừng phải theo đúng quy hoạch và các quy định của Luật Bảo vệ và phát triển rừng. Nhà nước có kế hoạch tổ chức cho các tổ chức, cá nhân trồng rừng phủ xanh đất trống, đồi núi trọc để mở rộng nhanh diện tích của rừng, bảo vệ các vùng đầu nguồn sông, suối. Tại điều 14 Luật quy định: “Việc khai thác đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất sử dụng vào mục đích nuôi trồng thủy sản phải tuân theo quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch cải tạo đất, đảm bảo cân bằng sinh thái. Việc sử dụng chất hóa học, phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật các chế phẩm sinh học khác phải tuân theo qui định của pháp luật”. Và trong một số các quy định khác của Luật tuy không nhắc tới vấn để quy hoạch môi trường nhưng đều khuyến khích các tổ chức, cá nhân khi khai thác và sử dụng các yếu tố môi trường trong hoạt động của mình đưa khoa học công nghệ tiên tiến để đảm bảo khai thác hiệu quả tránh lãng phí tài nguyên thiên nhiên đồng thời bảo vệ môi trường cảnh quan thiên nhiên. Như vậy có thể thấy mặc dù các quy định về quy hoạch hóa môi trường vẫn chưa cụ thể rõ ràng chưa được quan tâm cho đúng với vai trò của nó song Luật bảo vệ môi trường năm 1993 đã cố gắng tạo ra cơ sở pháp lý cho việc quy hoạch hóa môi trường ở Việt Nam, giúp cho hoạt động này đi vào thực tiễn đồng thời tạo tiền đề cho việc xây dựng và hoàn thiện các quy định về quy hoạch môi trường sau này. 1.1.2 Luật bảo vệ môi trường 2005 Luật bảo vệ môi trường năm 2005 đã kế thừa các quy định của Luật bảo vệ môi trường năm 1993 và hoàn thiện hơn nữa các quy định về quy hoạch môi trường củng cố hơn nữa cơ sở pháp lý cho hoạt động này. Cụ thể là: Tại điều 28 về điều tra, đánh giá, lập quy hoạch sử dụng tài nguyên quy định: 1. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên phải được điều tra, đánh giá trữ lượng, khả năng tái sinh, giá trị kinh tế để làm căn cứ lập quy hoạch sử dụng và xác định mức độ giới hạn cho phép khai thác, mức thuế môi trường, phí bảo vệ môi trường, ký quỹ phục hồi môi trường, bồi thường thiệt hại về môi trường và biện pháp khác về bảo vệ môi trường. 2. Quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên phải gắn với quy hoạch bảo tồn thiên nhiên. 3. Trách nhiệm điều tra, đánh giá và lập quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên được thực hiện theo quy định của pháp luật về tài nguyên”. Tại điều 29 về bảo tồn thiên nhiên quy định: 1. Khu vực, hệ sinh thái có giá trị đa dạng sinh học quan trọng đối với quốc gia, quốc tế phải được điều tra, đánh giá, lập quy hoạch bảo vệ dưới hình thức khu bảo tồn biển, vườn quốc gia, khu dự trữ thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển, khu bảo tồn loài - sinh cảnh (sau đây gọi chung là khu bảo tồn thiên nhiên). 2. Căn cứ để lập quy hoạch khu bảo tồn thiên nhiên bao gồm: a) Giá trị di sản tự nhiên của thế giới, quốc gia và địa phương; b) Giá trị nguyên sinh, tính đặc dụng, phòng hộ; c) Vai trò điều hoà, cân bằng sinh thái vùng; d) Tính đại diện hoặc tính độc đáo của khu vực địa lý tự nhiên; đ) Nơi cư trú, sinh sản, phát triển thường xuyên hoặc theo mùa của nhiều loài động vật, thực vật đặc hữu, quý hiếm bị đe doạ tuyệt chủng; e) Giá trị sinh quyển, sinh cảnh, cảnh quan thiên nhiên, sinh thái nhân văn đối với quốc gia, địa phương; g) Các giá trị bảo tồn khác theo quy định của pháp luật. 3. Việc thành lập khu bảo tồn thiên nhiên phải tuân theo quy hoạch đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. 4. Khu bảo tồn thiên nhiên có quy chế và ban quản lý riêng. 5. Trách nhiệm lập quy hoạch bảo tồn thiên nhiên, thành lập và quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên được thực hiện theo quy định của pháp luật”. Tại điều 30 về bảo vệ đa dạng sinh học quy định: “1. Việc bảo vệ đa dạng sinh học phải được thực hiện trên cơ sở bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cộng đồng dân cư địa phương và các đối tượng có liên quan. 2. Nhà nước thành lập các ngân hàng gen để bảo vệ và phát triển các nguồn gen bản địa quý hiếm; khuyến khích việc nhập nội các nguồn gen có giá trị cao. 3. Các loài động vật, thực vật quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng phải được bảo vệ theo các quy định sau đây: a) Lập danh sách và phân nhóm để quản lý theo mức độ quý hiếm, bị đe doạ tuyệt chủng; b) Xây dựng kế hoạch bảo vệ và áp dụng các biện pháp ngăn chặn việc săn bắt, khai thác, kinh doanh, sử dụng; c) Thực hiện chương trình chăm sóc, nuôi dưỡng, bảo vệ theo chế độ đặc biệt phù hợp với từng loài; phát triển các trung tâm cứu hộ động vật hoang dã. 4. Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì phối hợp với bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có liên quan thực hiện bảo vệ đa dạng sinh học theo quy định của pháp luật về đa dạng sinh học”. Tại điều 31 về bảo vệ và phát triển cảnh quan thiên nhiên quy định” “1. Nhà nước khuyến khích phát triển các mô hình sinh thái đối với thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, khu dân cư, khu công nghiệp, khu vui chơi, khu du lịch và các loại hình cảnh quan thiên nhiên khác để tạo ra sự hài hoà giữa con người và thiên nhiên. 2. Tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động quy hoạch, xây dựng, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt phải bảo đảm các yêu cầu về giữ gìn, tôn tạo cảnh quan thiên nhiên. 3. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm lập quy hoạch, tổ chức quản lý, bảo vệ, phát triển cảnh quan thiên nhiên theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Tại điều 32 về bảo vệ môi trường trong khảo sát, thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên quy định: 1. Việc khảo sát, thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên phải tuân theo quy hoạch đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. 2. Giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên phải quy định đầy đủ các điều kiện về bảo vệ môi trường. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên phải theo đúng nội dung bảo vệ môi trường quy định trong giấy phép khai thác, sử dụng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp”. Tại điều 50 về quy hoạch bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư quy định: “1. Quy hoạch bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư phải là một nội dung của quy hoạch đô thị, khu dân cư. 2. Nội dung quy hoạch bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư bao gồm các quy hoạch về đất đai cho xây dựng kết cấu hạ tầng bảo vệ môi trường và các hệ thống công trình kết cấu hạ tầng bảo vệ môi trường sau đây: a) Hệ thống công trình thu gom, xử lý nước thải tập trung; hệ thống tiêu thoát nước mưa; hệ thống cơ sở thu gom, tập kết, xử lý, tái chế chất thải rắn; b) Hệ thống cấp nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất; c) Hệ thống công viên, khu vui chơi, giải trí, công trình vệ sinh công cộng; d) Hệ thống cây xanh, vùng nước; đ) Khu vực mai táng. 3. Cấm xây dựng mới cơ sở sản xuất, kinh doanh tiềm ẩn nguy cơ lớn về ô nhiễm, sự cố môi trường trong đô thị, khu dân cư. 4. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có trách nhiệm lập, phê duyệt quy hoạch bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật về xây dựng đối với quy hoạch đô thị, khu dân cư. Trên đây là những quy định chung về việc quy hoạch môi trường trong các hoạt động sử dụng tài nguyên, bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư. Bên cạnh đó trong từng lĩnh vự cụ thể cũng có những quy định rất cu thể về việc quy hoạch môi trường . Đó là: Trong hoạt động bảo vệ môi trường biển tại điều 55 khoản 1 về nguyên tắc bảo vệ môi trường biển quy định: “Bảo vệ môi trường là một nội dung của quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển nhằm giảm thiểu tác động xấu đối với môi trường biển và tăng hiệu quả kinh tế biển. Tại điều 56 khoản 1 và 2 về bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên biển quy định: 1. Các nguồn tài nguyên biển phải được điều tra, đánh giá về trữ lượng, khả năng tái sinh và giá trị kinh tế phục vụ việc quản lý và bảo vệ môi trường biển. 2. Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản, khai thác nguồn lợi, tài nguyên biển và hoạt động khác liên quan đến khai thác, sử dụng tài nguyên biển phải được thực hiện theo quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên đã được phê duyệt. Trong hoạt động bảo vệ môi trường nước sông tại điều 59 khoản 1về nguyên tắc bảo vệ môi trường nước sông cũng khẳng định: Bảo vệ môi trường nước sông là một trong những nội dung cơ bản của quy hoạch khai thác, sử dụng và quản lý tài nguyên nước trong lưu vực sông. Tại điều 63 khỏan 4 về bảo vệ môi trường nguồn nước hồ, ao, kênh, mương, rạch ghi nhận vai trò của chính quyền địa phương trong việc quy hoạch: “Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức điều tra, đánh giá trữ lượng, chất lượng và lập quy hoạch bảo vệ, điều hoà chế độ nước của hồ, ao, kênh, mương, rạch; lập và thực hiện kế hoạch cải tạo hoặc di dời các khu, cụm nhà ở, công trình trên hồ, ao, kênh, mương, rạch gây ô nhiễm môi trường, tắc nghẽn dòng chảy, suy thoái hệ sinh thái đất ngập nước và làm mất mỹ quan đô thị. Trong vấn đề quản lý chất thải tại điều 69 khoản 1 quy định trách nhiệm của ủy ban nhân dân các cấp trong quản lý chất thải như sau: Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm: “lập quy hoạch, bố trí mặt bằng cho việc tập kết chất thải rắn sinh hoạt, xây dựng hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt tập trung, khu chôn lấp chất thải. Đối với công tác quản lý chất thải nguy hại các cơ sở xử lý chất thải nguy hại khi thành lập phải đáp ứng các yêu câu về bảo vệ môi trường trong đó phải “phù hợp với quy hoạch về thu gom, xử lý, chôn lấp chất thải nguy hại đã được phê duyệt”(điểm a khoản 1 điều 74) và các khu chôn chất thải nguy hại cũng phải “được bố trí đúng quy hoạch, thiết kế theo yêu cầu kỹ thuật đối với khu chôn lấp chất thải nguy hại; có khoảng cách an toàn về môi trường đối với khu dân cư, khu bảo tồn thiên nhiên, nguồn nước mặt, nước dưới đất phục vụ mục đích sinh hoạt; có hàng rào ngăn cách và biển hiệu cảnh báo”(điểm a khoản 1 điều 75) Phù hợp với quy định trên điều 76 đã có quy định cụ thể về quy hoạch về thu gom, xử lý, chôn lấp chất thải nguy hại như sau: 1. Bộ Xây dựng chủ trì phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh lập quy hoạch tổng thể quốc gia về thu gom, xử lý, chôn lấp chất thải nguy hại trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. 2. Nội dung quy hoạch tổng thể quốc gia về thu gom, xử lý, chôn lấp chất thải nguy hại bao gồm: a) Điều tra, đánh giá, dự báo nguồn phát sinh chất thải nguy hại, loại và khối lượng chất thải nguy hại; b) Xác định địa điểm cơ sở xử lý, khu chôn lấp chất thải nguy hại; c) Xác lập phương thức thu gom, tuyến đường vận chuyển chất thải nguy hại, vị trí, quy mô, loại hình, phương thức lưu giữ; xác định công nghệ xử lý, tái chế, tiêu huỷ, chôn lấp chất thải nguy hại; d) Xác định kế hoạch và nguồn lực thực hiện bảo đảm tất cả các loại chất thải nguy hại phải được thống kê đầy đủ và được xử lý triệt để. 3. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm bố trí mặt bằng xây dựng khu chôn lấp chất thải nguy hại theo quy hoạch đã được phê duyệt. Về quản lý chất thải rắn tại điều 80 về quy hoạch về thu gom, tái chế, tiêu huỷ, chôn lấp chất thải rắn thông thường 1. Quy hoạch về thu gom, tái chế, tiêu huỷ, chôn lấp chất thải rắn thông thường bao gồm các nội dung sau đây: a) Điều tra, đánh giá, dự báo các nguồn phát thải và tổng lượng chất thải rắn phát sinh; b) Đánh giá khả năng phân loại tại nguồn và khả năng tái chế chất thải; c) Xác định vị trí, quy mô các điểm thu gom, cơ sở tái chế, tiêu huỷ, khu chôn lấp chất thải; d) Lựa chọn công nghệ thích hợp; đ) Xác định tiến độ và nguồn lực thực hiện. 2. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm bố trí mặt bằng, tổ chức xây dựng và quản lý các cơ sở thu gom, tái chế, tiêu huỷ, khu chôn lấp chất thải rắn thông thường trên địa bàn theo quy hoạch đã được phê duyệt. 3. Bộ Xây dựng chủ trì phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng quy hoạch tổng thể quốc gia về thu gom, tái chế, tiêu huỷ, chôn lấp chất thải rắn thông thường trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tại điều 96 về quy hoạch hệ thống quan trắc môi trường quy định: 1. Quy hoạch hệ thống quan trắc môi trường bao gồm các nội dung sau: a) Điều tra, nghiên cứu xác định đối tượng quan trắc và dữ liệu cần thu thập phục vụ mục đích bảo vệ môi trường; b) Xác định mật độ, quy mô, tính năng của hệ thống các trạm lấy mẫu quan trắc môi trường; c) Bố trí hệ thống thiết bị sử dụng trong quan trắc môi trường; d) Xác định tiến độ và nguồn lực thực hiện; đ) Đào tạo nguồn nhân lực đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ quan trắc môi trường. 2. Trách nhiệm lập, phê duyệt quy hoạch hệ thống quan trắc môi trường được quy định như sau: a) Bộ Tài nguyên và Môi trường lập quy hoạch tổng thể hệ thống quan trắc môi trường quốc gia trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; chỉ đạo xây dựng và quản lý thống nhất số liệu quan trắc môi trường; b) Cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường cấp tỉnh lập quy hoạch mạng lưới quan trắc môi trường trên địa bàn trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp phê duyệt; c) Tổ chức, cá nhân quản lý khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung tổ chức xây dựng và quản lý mạng lưới quan trắc môi trường trong phạm vi quản lý. Qua những quy phạm trên có thể thấy việc luật hóa công tác quy hoạch bảo vệ môi trường của Luật bảo vệ môi trường năm 2005 được thực hiện rất cụ thể và có chiều sâu ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Các yếu tố của môi trường được phát hiện và đánh giá một cách toàn diện cụ thể trên cơ sở nhìn nhận tầm quan trọng của bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Đồng thời cũng nhấn mạnh đến vai trò chủ thể của việc lập quy hoạch cũng như phê duyệt quy hoạch môi trường ở nước ta. Quy định cụ thể trách nhiệm của các chủ thể này trong từng quy hoạch cụ thể. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong công tác quy hoạch môi trường của nước ta hiện nay qua đó nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường thiên nhiên của nước ta. Quy hoạch môi trường được xem như là một bộ phận không thể tách rời trong các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, việc quy hoạch phải được tiến hành trên tất cả các chiến lược bảo vệ môi trường của từng ngành, từng lĩnh vực. Đây là một điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ của du lịch Việt Nam khi mà môi trường ngày càng trong lành; các giá trị đa dạng sinh học, hệ sinh thái được bảo tồn và gìn giữ. 1.2 Quy hoạch môi trường trong một số luật liên quan Ngoài các quy định của Luật bảo vệ môi trường 2005 các văn bản luật về các hoạt động cụ thể đã có những quy định rất chặt chẽ vấn đề quy hoạch các yếu tố của môi trường. Cụ thể : 1.2.1 Quy định của Luật bảo vệ và phát triển rừng. Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 đã dành hẳn một mục riêng để quy định các vấn đề quy hoạch, kế hoạch phát triển rừng (Mục 1 Chương II từ điều 13 đến điều 21): Điều 13. Nguyên tắc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng 1. Quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch tổng thể, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; chiến lược phát triển lâm nghiệp, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước và từng địa phương. Quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của các cấp phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ. 2. Việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng phải đồng bộ với việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Trong trường hợp phải chuyển đổi đất có rừng tự nhiên sang mục đích sử dụng khác thì phải có kế hoạch trồng rừng mới để bảo đảm sự phát triển rừng bền vững ở từng địa phương và trong phạm vi cả nước. 3. Quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng phải bảo đảm khai thác, sử dụng tiết kiệm, bền vững, có hiệu quả tài nguyên rừng; bảo vệ hệ sinh thái rừng, bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh; đồng thời bảo đảm xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao hiệu quả và tính khả thi, chất lượng của quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng. 4. Việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng phải bảo đảm dân chủ, công khai. 5. Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng phải phù hợp với quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, quyết định. 6. Quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng phải được lập và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, quyết định trong năm cuối kỳ quy hoạch, kế hoạch trước đó. Điều 14. Căn cứ lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng 1. Việc lập quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng phải dựa trên các căn cứ sau đây: a) Chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, chiến lược phát triển lâm nghiệp; b) Quy hoạch sử dụng đất của cả nước và của từng địa phương; c) Kết quả thực hiện quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng kỳ trước; d) Điều kiện tự nhiên, dân sinh, kinh tế - xã hội, khả năng tài chính; đ) Hiện trạng, dự báo nhu cầu và khả năng sử dụng rừng, đất để trồng rừng của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân. 2. Việc lập kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng phải dựa trên các căn cứ sau đây: a) Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; b) Kế hoạch sử dụng đất; c) Kết quả thực hiện kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng kỳ trước; d) Điều kiện tự nhiên, dân sinh, kinh tế - xã hội, khả năng tài chính; đ) Nhu cầu và khả năng sử dụng rừng, đất để trồng rừng của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân. Điều 15. Nội dung quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng 1. Nội dung quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng bao gồm: a) Nghiên cứu, tổng hợp, phân tích tình hình về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quy hoạch sử dụng đất, hiện trạng tài nguyên rừng; b) Đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng kỳ trước, dự báo các nhu cầu về rừng và lâm sản; c) Xác định phương hướng, mục tiêu bảo vệ, phát triển và sử dụng rừng trong kỳ quy hoạch; d) Xác định diện tích và sự phân bố các loại rừng trong kỳ quy hoạch; đ) Xác định các biện pháp quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát triển các loại rừng; e) Xác định các giải pháp thực hiện quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng; g) Dự báo hiệu quả của quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng. 2. Nội dung kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng bao gồm: a) Phân tích, đánh giá việc thực hiện kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng kỳ trước; b) Xác định nhu cầu về diện tích các loại rừng và các sản phẩm, dịch vụ lâm nghiệp; c) Xác định các giải pháp, chương trình, dự án thực hiện kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng; d) Triển khai kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng năm năm đến từng năm. Điều 16. Kỳ quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng 1. Kỳ quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng phải phù hợp với kỳ quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của cả nước và của từng địa phương. 2. Kỳ quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng là mười năm. 3. Kỳ kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng là năm năm và được cụ thể hoá thành kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng hàng năm. Điều 17. Trách nhiệm lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng 1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng trong phạm vi cả nước. 2. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của địa phương. 3. Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của địa phương. 4. Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của địa phương theo sự hướng dẫn của Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp. Điều 18. Thẩm quyền phê duyệt, quyết định quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng, quyết định xác lập các khu rừng 1. Thẩm quyền phê duyệt quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng được quy định như sau: a) Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng trong phạm vi cả nước do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình; b) Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phê duyệt quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sau khi có ý kiến thẩm định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và được Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua; c) Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phê duyệt quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; d) Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh phê duyệt quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. 2. Thẩm quyền phê duyệt, quyết định kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng được quy định như sau: a) Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng trong phạm vi cả nước do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình; b) Uỷ ban nhân dân các cấp lập kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của cấp mình trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định. 3. Thẩm quyền quyết định xác lập các khu rừng được quy định như sau: a) Thủ tướng Chính phủ quyết định xác lập các khu rừng phòng hộ, rừng đặc dụng có tầm quan trọng quốc gia hoặc liên tỉnh do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình; b) Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định xác lập các khu rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất ở địa phương theo quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng đã được phê duyệt. Điều 19. Điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng, xác lập các khu rừng 1. Việc điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng phải dựa trên các căn cứ sau đây: a) Khi có sự điều chỉnh về mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh hoặc có sự điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà sự điều chỉnh đó ảnh hưởng đến quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng; b) Khi có sự điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của cấp trên trực tiếp mà sự điều chỉnh đó ảnh hưởng đến quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng; c) Do yêu cầu cấp bách để thực hiện các nhiệm vụ về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh. 2. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, quyết định quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng nào thì có quyền điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch đó. 3. Nội dung điều chỉnh quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng là một phần nội dung của quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng. Nội dung điều chỉnh kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng là một phần nội dung của kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng. 4. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định xác lập khu rừng nào thì có quyền điều chỉnh việc xác lập khu rừng đó. Điều 20. Công bố quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng Trong thời hạn không quá ba mươi ngày kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng phải được công bố công khai theo các quy định sau đây: 1. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm công bố công khai quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của địa phương; 2. Việc công bố công khai tại trụ sở Uỷ ban nhân dân được thực hiện trong suốt thời gian của kỳ quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng có hiệu lực. Điều 21. Thực hiện quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng 1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của cả nước; kiểm tra, đánh giá việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh tổ chức chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của địa phương; kiểm tra, đánh giá việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của cấp dưới trực tiếp. Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn tổ chức chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của địa phương. 2. Diện tích rừng, đất để phát triển rừng ghi trong quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của địa phương đã được công bố phải thu hồi mà Nhà nước chưa thực hiện việc thu hồi thì chủ rừng được tiếp tục sử dụng theo mục đích đã được xác định trước khi công bố quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng. Trường hợp chủ rừng không còn nhu cầu tiếp tục sử dụng thì Nhà nước thu hồi rừng, đất để trồng rừng và bồi thường hoặc hỗ trợ theo quy định của pháp luật. Trường hợp sau ba năm không thực hiện kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng đó thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt phải huỷ bỏ kế hoạch, điều chỉnh quy hoạch và công bố công khai. 3. Cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều này định kỳ ba năm một lần phải kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện quy hoạch; hàng năm phải kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng ở các cấp. 1.2.2 Quy định của Luật thủy sản 2003. Luật thủy sản năm 2003 cũng có những quy định cụ thể nhằm đảm bảo môi trường tại các khu bảo tồn, bảo vệ đa dạng sinh học các vùng nước: Tại điều 9 quy định về quy hoạch và quản lý khu bảo tồn vùng nước nội địa, khu bảo tồn biển 1. Căn cứ vào mức độ đa dạng sinh học điển hình theo tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế, các khu bảo tồn vùng nước nội địa, khu bảo tồn biển được phân loại thành vườn quốc gia; khu bảo tồn loài, sinh cảnh; khu dự trữ tài nguyên thiên nhiên thuỷ sinh. 2. Chính phủ ban hành tiêu chuẩn để phân loại và công bố các khu bảo tồn; quy hoạch, xây dựng và phân cấp quản lý các khu bảo tồn vùng nước nội địa, khu bảo tồn biển; ban hành quy chế quản lý khu bảo tồn có tầm quan trọng quốc gia và quốc tế. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quy chế quản lý khu bảo tồn được phân cấp cho địa phương quản lý theo hướng dẫn của Bộ Thuỷ sản. 3. Nhà nước đầu tư để bảo tồn quỹ gen và đa dạng sinh học thuỷ sản; có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư xây dựng và tham gia quản lý các khu bảo tồn; có chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp, tái định cư, bảo đảm lợi ích cho dân cư trong khu bảo tồn. 4. Tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ các khu bảo tồn vùng nước nội địa, khu bảo tồn biển theo Quy chế quản lý khu bảo tồn. 1.2.3 Quy định của Luật đất đai 2003. Luật đất đai năm 2003 cũng quy định rất chặt chẽ vấn đề quy hoạch đất đai trong phạm vi cả nước. Điều 21. Nguyên tắc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất Việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây: 1. Phù hợp với chiến lược, quy hoạch tổng thể, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; 2. Được lập từ tổng thể đến chi tiết; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cấp dưới phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cấp trên; kế hoạch sử dụng đất phải phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, xét duyệt; 3. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cấp trên phải thể hiện nhu cầu sử dụng đất của cấp dưới; 4. Sử dụng đất tiết kiệm và có hiệu quả; 5. Khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường; 6. Bảo vệ, tôn tạo di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh; 7. Dân chủ và công khai; 8. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của mỗi kỳ phải được quyết định, xét duyệt trong năm cuối của kỳ trước đó. Điều 22. Căn cứ để lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất 1. Căn cứ để lập quy hoạch sử dụng đất bao gồm: a) Chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của cả nước; quy hoạch phát triển của các ngành và các địa phương; b) Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước; c) Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và nhu cầu của thị trường; d) Hiện trạng sử dụng đất và nhu cầu sử dụng đất; đ) Định mức sử dụng đất; e) Tiến bộ khoa học và công nghệ có liên quan đến việc sử dụng đất; g) Kết quả thực hiện quy hoạch sử dụng đất kỳ trước. 2. Căn cứ để lập kế hoạch sử dụng đất bao gồm: a) Quy hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định, xét duyệt; b) Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm năm và hàng năm của Nhà nước; c) Nhu cầu sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư; d) Kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất kỳ trước; đ) Khả năng đầu tư thực hiện các dự án, công trình có sử dụng đất. Điều 23. Nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất 1. Nội dung quy hoạch sử dụng đất bao gồm: a) Điều tra, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và hiện trạng sử dụng đất; đánh giá tiềm năng đất đai; b) Xác định phương hướng, mục tiêu sử dụng đất trong kỳ quy hoạch; c) Xác định diện tích các loại đất phân bổ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh; d) Xác định diện tích đất phải thu hồi để thực hiện các công trình, dự án; đ) Xác định các biện pháp sử dụng, bảo vệ, cải tạo đất và bảo vệ môi t._.du lịch và các địa phương. _ Những nguyên nhân kinh tế Bảo vệ môi trường là một hoạt động mang tính lâu dài và thực hiện trên một phạm vi rộng lớn. Chính vì thế chi phí cho hoạt động bảo vệ môi trường là rất lớn. Mà cũng vì lí do này mà hoạt động bảo vệ môi trường bị bỏ qua trong các dự án kinh tế vì các chủ đầu tư luôn muốn mình đạt lợi nhuận cao nhất. Nước ta là một nước đang phát triển, kinh tế còn nghèo nàn lạc hậu thì chi phí bỏ ra cho môi trường là hầu như rất ít, hơn nữa trong xu thế hiện nay mọi nguồn lực đang được tập trung cho phát triển kinh tế xã hội do đó bảo vệ môi trường đang bị bỏ ngỏ. Nhà nước với những kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế đang phải làm ngơ trước những hoạt động hủy hoại môi trường của nhiều chủ đầu tư. Thực tế này cũng đã từng diễn ra ở những nước phát triển ở những giai đoạn trước. Quan tâm đến vấn đề môi trường sẽ giúp cải thiện được các vấn đề về môi trường, đảm bảo các yếu tố của môi trường nhưng sẽ làm chậm đi cơ hội phát triển của đất nước. Thực tế này là một bài toán khó giải không chỉ của nước ta mà còn ở hầu hết các quốc gia khác. Do chi phí quá lớn mức độ quan tâm không nhiều nên chỉ một phần nhỏ ngân sách nhà nước dành cho các hoạt động nhằm bảo vệ môi trường. Hơn nữa, vấn đề thu phí bảo vệ môi trường chưa được thực hiện một cách triệt để và chưa có một mức phí hợp lý áp dụng cho các cơ sở gây ô nhiễm khiến cho nguồn thu trong công tác bảo vệ môi trường còn quá ít ỏi không đáp ứng được nhu cầu ngày càng lớn về chi phí cho việc này. Bảo vệ môi trường vốn là nhiệm vụ khó khăn lại càng khó khăn hơn nữa _ Hạn chế về mặt luật pháp: Pháp luật đóng một vai trò to lớn trong việc bảo vệ môi trường. Pháp luật thay đổi suy nghĩ của con người buộc họ phải cư xử theo khuôn khổ của mình để bảo vệ môi trường đồng thời tạo cơ sở, hành lang pháp lý quan trọng cho việc quản lý các hoạt động bảo vệ môi trường. Tuy nhiên thì hệ thống pháp luật về môi trường với vai trò hạt nhân quan trọng đối với sự nghiệp bảo vệ môi trường lại đang tỏ ra yếu kém với nhiều hạn chế chưa được khắc phục đã đang là vật cản cho chính sự nghiệp đó. Do đó cần phải có sự nhìn nhận, đánh giá một cách trung thực, khách quan để hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật môi trường Việt Nam. Bảo vệ môi trường đã và đang trở thành vấn đề bức thiết đối với toàn xã hội. Chúng ta muốn phát triển du lịch bền vững yêu cầu đầu tiên là phải bảo vệ môi trường. Nếu môi trường chúng ta trong lành sạch đẹp sẽ là cơ sở quan trọng cho sự phát triển của du lịch, các yếu tố của môi trường được bảo vệ thì chẳng có lý do gì chúng ta không thể đảm bảo cho sự phát triển ổn định và lâu dài của du lịch. Nhưng vấn đề là chúng ta cần phải làm gì để bảo vệ môi trường. Nhiều hội thảo hội nghị đã diễn ra để bàn về vấn đề này. Và một trong những nhiệm vụ cần thiết hàng đầu đó là cần phải tiến hành quy hoạch môi trường. 1.3 Quy hoạch môi trường ở Việt Nam. Quy hoạch môi trường là một vấn đề còn quá mới mẻ ở Việt Nam. Do đó thực tế khi Luật bảo vệ môi trường năm 2005 ra đời tuy đã cụ thể hóa hơn rất nhiều về vấn đề quy hoạch môi trường trong từng lĩnh vực cụ thể làm quy hoạch tổng thể về môi trường. Nhưng trên thực tế thì sao? Vấn đề quy hoạch môi trường vẫn chưa thực sự được coi trọng, còn bị bỏ qua rất nhiều ở hầu hết các địa phương trong cả nước. Phát biểu mới đây tại một hội thảo về quy hoạch ở TP.Hồ Chí Minh, giáo sư Lê Huy Bá đã lên tiếng báo động về vấn đề quy hoạch môi trường yếu kém ở nước ta: “Quy hoạch môi trường tài nguyên phải song hành với quy hoạch đô thị, quy hoạch khu dân cư, khu công nghiệp phải có định hướng cho vài chục năm sau, nhưng chúng ta vẫn chưa làm được điều này”. Theo Giáo sư Đặng Trung Thuận, Đại học Quốc gia Hà Nội, “quy hoạch môi trường là một công cụ mang tính phòng ngừa, ngăn chặn ô nhiễm và suy thoái môi trường có hiệu quả. Việc lập quy hoạch môi trường ở Việt Nam đã được quy định trong Luật Bảo vệ môi trường nhưng hiện nay mà chỉ có Hà Nội, TP.HCM xây dựng quy hoạch”. Điều này giải thích như thế nào: i)Rõ ràng ở Việt Nam ý thức về việc quy hoạch môi trường còn quá khiêm tốn nhất là trong các cấp lãnh đạo. Ở các nước khác, bộ máy lãnh đạo nhà nước họ có ý thức rất tốt trong việc tiến hành quy hoạch môi trường nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho việc quy hoạch phát triển những thành phần khác; ii) Nhiều người không chấp nhận vì quy hoạch môi trường có thể sẽ chỉ ra các sai lầm khủng khiếp về mặt bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên từ các dự án quy hoạch chuyên ngành đã và đang được xây dựng. Đó là một thực tế ở Việt Nam khi mà các dự án quy hoạch chuyên ngành không chịu lồng ghép các yếu tố môi trường và bảo vệ môi trường vào trong các quy hoạch đó. Đó là các nhà hoạch định chính sách và lập quy hoạch thường chưa nhận thức được đầy đủ sự cần thiết của việc gắn kết các cân nhắc về mặt môi trường vào các quy hoạch phát triển. Trong khi đó, các nhà quản lý môi trường thường bị đứng ngoài quá trình xây dựng các quy hoạch phát triển đó. Nhiều ngành kinh tế phát triển nhanh gây áp lực lớn đến môi trường như ngành công nghiệp, khai thác khoáng sản, giao thông vận tải... Nhưng khi lập quy hoạch phát triển lại hầu như không đề cập đến phát triển bền vững theo khía cạnh môi trường. Điều này có thể thấy trong hầu hết các bản tổng kết ngành chỉ chú trọng đến con số tăng trưởng của ngành mà chưa có sự đánh giá những chi phí do việc hủy hoại môi trường do ngành gây ra; iii) Quy hoạch môi trường được coi là cản trở đến công việc của nhiều người bởi lẽ họ không phải là những nhà môi trường học. Họ sợ rằng sự tham gia của họ là thứ yếu hoặc không tồn tại. Ở đây vấn đề cộng tác liên ngành cần được nhắc đến và là một yếu điểm của chúng ta. Quy hoạch môi trường không phải là một công việc giản đơn, có thể nói là làm được ngay. Nó cần sự tham gia của nhiều ban ngành của xã hội và cả cộng đồng. Sự tham gia của nhiều thành phần sẽ giúp quá trình quy hoạch được toàn diện và đồng bộ qua đó có những đánh giá thực tế hơn, chính xác hơn và cũng góp phần đưa ra những giải pháp đúng đắn. iv) Lâu nay chúng ta vẫn tiến hành quy hoạch, nhưng làm nửa vời và không có một quy hoạch tổng thể với một chiến lược lâu dài. Quy hoạch của chúng ta mới chỉ dừng lại ở quy hoạch nhỏ, cục bộ địa phương chỉ để nhằm giải quyết những bất cập tạm thời mang tính thời sự. Điều này là đi ngược lại với ý nghĩa của quy hoạch bởi nếu không đồng bộ và tự phát thì quy hoạch như vậy chỉ làm cho môi trường trở nên xấu hơn và vấn đề ô nhiễm, suy thoái hay sự cố vẫn không thể giải quyết một cách triệt để. v) Một nguyên nhân nữa dẫn đến tình trạng quy hoạch môi trường kém hiệu quả là do thiếu nguồn lực cho công tác này. Hiện nay số lượng cán bộ môi trường của chúng ta còn quá khiêm tốn. Điều này xảy ra ở ngay cả những thành phố lớn như Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh , nơi mà vấn đề môi trường được đặt lên hàng đầu bên cạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế. Thực tế này còn đáng buồn hơn ở các địa phương khác. Do đó, mà công tác quy hoạch môi trường bị xem nhẹ và chưa có khả năng thực hiện trong thực tế. vi) Ngoài ra cũng phải nói thêm rằng chúng ta chưa có được một cơ chế chính sách, hướng dẫn pháp lý phù hợp nhằm nâng cao vai trò của quy hoạch môi trường cũng như tạo ra những điều kiện thuận lợi cho công tác này. Quy hoạch môi trường bị xem nhẹ mặc dù Luật bảo vệ môi trường năm 2005 đã có quy định cụ thể có thể lý giải là quy định của Luật vẫn còn lỏng lẻo trong khâu giao trách nhiệm cụ thể hoặc chưa có chế tài nghiêm khắc để răn đe. Do đó, cần phải hoàn thiện hơn nữa các quy định của Luật pháp về vấn đề quy hoạch môi trường cho xứng đáng với tầm quan trọng của nó. Qua những phân tích ở trên có thể thấy rằng quy hoạch môi trường đang là vấn đề trọng tâm cần phải giải quyết ngay để có thể thực hiện tốt hơn nữa công tác bảo vệ môi trường. Ngành du lịch Việt Nam với những điều kiện thuận lợi đang chờ một cú hích mới, một sự đảm bảo mới cho môi trường du lịch để có thể hướng tới phát triển một cách bền vững mang lại những đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chỉ thông qua bảo vệ môi trường mới có thể tạo đà cho du lịch đi lên mà trong đó quy hoạch môi trường phải là nhiệm vụ đầu tiên. Chỉ thông qua bảo vệ môi trường mới giúp cho môi trường du lịch được đảm bảo cho nhu cầu phát triển bền vững 2. Những giải pháp chủ yếu cho vấn đề quy hoạch môi trường ở Việt Nam 2.1 Hoàn thiện các quy định của pháp luật về quy hoạch môi trường. 2.1.1 Rà soát, thống nhất, đồng bộ các quy định của pháp luật về công tác quy hoạch môi trường trong hệ thống luật pháp Việt Nam theo hướng coi trọng quy hoạch môi trường, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan nhà nước. Hiện nay, các quy định của pháp luật Việt Nam về quy hoạch môi trường được quy định rất nhiều trong các văn bản pháp luật khác nhau liên quan đến môi trường cũng như các hoạt động có liên quan đến các thành phần của môi trường. Các quy định này phần nào đã xác định tầm quan trọng của công tác quy hoạch môi trường đối với sự nghiệp bảo vệ môi trường hiện nay. Đồng thời, cũng quy định cụ thể nội dung của quy hoạch môi trường trong từng lĩnh vực và trách nhiệm của từng cơ quan nhà nước từ Trung Ương đến địa phương trong việc lập quy hoạch môi trường. Với các nội dung đó có thể nói là việc luật hóa công tác quy hoạch môi trường trong các văn bản pháp luật hiện nay đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng cho việc lập quy hoạch môi trường. Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau như: i)các quy định được ban hành không thống nhất trong từng thời điểm, quy định sau nếu không mâu thuẫn thì cũng không đồng nhất với các quy định trước; ii) các quy định của luật không mang tính dự báo nhiều nên không lường trước những thay đổi của tình hình thực tế; mà các quy định trên vẫn còn tồn tại những lỗ hổng, chưa chặt chẽ và đồng bộ khiến cho công tác quy hoạch môi trường còn gặp nhiều khó khăn, việc thực hiện công tác này chưa được sự quan tâm đúng mức với tầm quan trọng của nó. Luật bảo vệ môi trường năm 2005 ra đời đã cố gắng lấp những lỗ hổng đó, quy định theo hướng cụ thể chặt chẽ hơn. chi tiết hơn song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế khi mà công tác quy hoạch vẫn còn chậm chạp và chưa tạo ra hiệu quả, chưa mang lại những ý nghĩa tích cực mà nó có thể đem đến cho môi trường cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội. Điều này, này có thể thấy rằng Luật bảo vệ môi trường năm 2005 và các văn bản pháp luật khác vẫn chưa thực sự coi trọng công tác bảo vệ môi trường trong vấn đề lập quy hoạch mặc dù quy hoạch là một trong những biện pháp đầu tiên, và thường mang ý nghĩa quyết định đối với việc kiểm soát ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường. Do đó cần phải nâng cao hơn nữa vị trí vai trò, tầm quan trọng của quy hoạch môi trường. Để làm được điều này pháp luật đóng một vai trò quan trọng. Pháp luật với việc quy định các hành vi ứng xử bắt buộc con người phải thực hiện khi khai thác và sử dụng các yếu tố của môi trường hay nói cách khác là pháp luật đưa ra định hướng cho các hoạt động của con người trong việc tác động đến môi trường. Đồng thời, pháp luật cũng quy định các chế tài hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế cụ thể để bắt buộc các cá nhân, tổ chức phải thực hiện đầy đủ các đòi hỏi của pháp luật trong việc khai thác và sử dụng các yếu tố của môi trường. Nhưng không phải ở bất kỳ tình huống nào các quy định này cũng được thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ. Vì vậy, các chế tài của pháp luật nhằm ngăn chặn và giáo dục công dân cư xử đúng pháp luật. Với những ý nghĩa đó pháp luật chính là cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác quy hoạch môi trường, đồng thời đảm bảo cho công tác này được thực hiện một cách nghiêm túc trong thực tế. Sự thừa nhận của pháp luật, với việc đề cao vai trò của việc lập quy hoạch môi trường đối với công tác bảo vệ môi trường có ý nghĩa hết sức thiết thực cho môi trường nên việc trước tiên muốn đề cao quy hoạch môi trường theo hướng coi trọng, là công việc bắt buộc đối với các cơ quan nhà nước hay các cá nhân, tổ chức trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội thì phải luật hóa. Bên cạnh việc ghi nhận trong luật, pháp luật cũng phải xây dựng các chế tài hợp lý nhằm răn đe phòng ngừa việc làm sai làm không đầy đủ, không có tinh thần trách nhiệm của các cơ quan này. Các chế tài hiện nay chưa hợp lý chưa có sức thuyết phục và tính ngăn chặn cao, tính giáo dục hạn chế nên chưa thể làm cho những người có trách nhiệm thấy rằng mình phải có trách nhiệm hơn. Theo khoản 2 Điều 127 về việc xử lý vi phạm pháp luật trong bảo vệ môi trường: “Người đứng đầu tổ chức, cán bộ, công chức…thiếu trách nhiệm để xảy ra ô nhiễm, sự cố môi trường nghiêm trọng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, trường hợp gây thiệt hại còn phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Việc quy định chế tài một cách chung chung như thế này không thể mang lại hiệu quả cao trong việc ngăn chặn, loại trừ vi phạm vì thế mà tính khả thi của pháp luật chưa cao. Bảo vệ môi trường là công việc cần thiết và quan trọng, bởi nó không tác động đến một người hay một nhóm người mà nó tác động đến mọi mặt, mọi vấn đề của xã hội. Một trong những hướng hoàn thiện pháp luật nhằm coi trọng hơn nữa là phải nâng cao hơn nữa trách nhiệm của những người đứng đầu các cơ quan nhà nước có trách nhiệm quy hoạch môi trường. Trách nhiệm phải cụ thể, phải rõ ràng. Bên cạnh đó là việc phân công phân cấp trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước ở Trung Ương và địa phương, giữa các bộ ngành và các cơ quan khác. Trách nhiệm của các cơ quan địa phương vẫn còn hạn chế, họ chưa được giao thẩm quyền trong khi họ là những người có điều kiện hiểu hơn ai hết về địa phương của mình. Đây là một hướng đi rất quan trọng trong cải cách nền hành chính nước nhà theo hướng pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, pháp luật thành phần không thể thiếu trong xã hội đó cần phải có quy định phù hợp để nâng cao trách nhiệm của địa phương, giảm bớt gánh nặng cho các cơ quan nhà nước ở Trung Ương, cũng như nâng cao hiệu quả quản lý ở địa phương. Cụ thể trong việc quy hoạch môi trường cần phải thấy rằng bộ máy chính quyền địa phương phải có trách nhiệm đối với việc quy hoạch môi trường ở địa phương mình. Trong Luật bảo vệ môi trường 2005 vai trò của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã trong công tác quy hoạch môi trường chưa thực sự được coi trọng. Các quy định hầu hết chỉ nói đến trách nhiệm của Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Nếu quy hoạch được thực hiện một cách nghiêm túc ở địa phương và cơ sở thì việc quy hoạch của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Qua đó thúc đẩy nhanh việc lập quy hoạch môi trường Quốc gia, đưa ra định hướng phát triển kinh tế cũng như các giải pháp bảo vệ môi trường có hiệu quả. 2.1.2 Xây dựng, soạn thảo, ban hành các văn bản hướng dẫn nhằm thúc đẩy hơn nữa công tác quy hoạch môi trường. Một trong những vấn đề bất cập bấy lâu nay của hệ thống pháp luật Việt Nam là tình trạng Luật ban hành không có hiệu lực vì quá chậm so với sự thay đổi của thực tế. Vì vậy, một loạt các văn bản hướng dẫn được ban hành để chỉ đạo việc thực hiện pháp luật. Các văn bản này ban hành nhiều khi là chồng chéo nhau về thẩm quyền, thậm chí lệch nhau về cùng một vấn đề (có khi trái ngược) nên hiệu quả thực tế rất thấp. Người dân, chính quyền địa phương bối rối trong việc thực thi pháp luật, và những kẻ hám lợi thì lợi dụng điều đó để “lách luật” gây ra những hậu quả khó lường. Pháp luật môi trường cũng không nằm ngoài quy luật chung đó. Điều này cũng có thể thông cảm vì môi trường vẫn còn là một lĩnh vực mới mẻ ở Việt Nam. Pháp luật hiện hành Luật bảo vệ môi trường là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong việc bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, Luật bảo vệ môi trường vừa ra đời cũng rơi vào trạng thái không đáp ứng được yêu cầu thực tế và thế là một loạt các văn bản dưới Luật được ban hành để bổ sung, sửa đổi và quy định chi tiết hơn các vấn đề mà Luật bảo vệ môi trường 2005 chưa cụ thể. Bên cạnh Luật bảo vệ môi trường 2005 còn có một hệ thống các văn bản Luật chuyên ngành khác trong lĩnh vực môi trường như Luật bảo vệ và phát triển rừng, Luật thủy sản, Luật đất đai, Luật thủy sản, Luật tài nguyên nước, Luật khoáng sản v.v… và sắp tới là các văn bản khác như Luật đa dạng sinh học, gen v.v…Ngoài ra, còn phải kể đến các pháp lệnh như pháp lệnh giống cây trồng, pháp lệnh về giống vật nuôi, nghị định của Chính phủ về bảo vệ môi trường. Việc ban hành các văn bản quy phạm trên có ý nghĩa tích cực trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong đó có công tác quy hoạch. Các lĩnh vực đều có những quy định riêng về việc quy hoạch môi trường của lĩnh vực đó. Hiện nay, Nghị định 80/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật bảo vệ môi trường 2005 chưa có những hướng dẫn cụ thể cho công tác lập quy hoạch của các cơ quan nhà nước. Đây cũng có thể là nguyên nhân gây ra sự lúng túng trong công tác lập quy hoạch ở các địa phương làm chậm công tác quy hoạch môi trường Quốc gia. Yêu cầu đặt ra là phải có hướng dẫn cụ thể cũng như kế hoạch triển khai ở các địa phương để việc lập quy hoạch được tiến hành một cách thuận lợi. Các văn bản hướng dẫn này phải đảm bảo yêu cầu quy định một cách chi tiết hơn nữa việc lập quy hoạch, cụ thể hơn trách nhiệm của các cơ quan và đồng bộ thống nhất các quy định về lập quy hoạch môi trường trong phạm vi cả nước. Trong giai đoạn này, đây là một việc làm hết sức cần thiết và cần phải thực hiện nhanh chóng để có thể giúp các chủ thể có trách nhiệm trong việc lập quy hoạch nắm rõ hơn quy định của pháp luật trong khi chúng ta chưa thể thống nhất và đồng bộ hóa các quy định của Luật ngay được. 2.1.3 Đẩy nhanh hơn nữa công tác lập quy hoạch ở các địa phương quy hoạch ngành, xây dựng quy hoạch môi trường quốc gia. Một trong những nguyên nhân của việc chậm lập quy hoạch môi trường tổng thể của Việt Nam là việc quy hoạch ở các địa phương rất chậm chạp và đôi khi bị lãnh đạo địa phương “làm ngơ” để tập trung cho mục tiêu phát triển kinh tế. Hiện nay, trong cả nước mới chỉ có Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là đã và đang triển khai lập quy hoạch môi trường làm cơ sở nền tảng cho việc quy hoạch chuyên ngành đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường đi liền với tăng trưởng kinh tế nhằm đảm bảo phát triển bền vững. Công tác quy hoạch của từng ngành lại chưa chú trọng đến quy hoạch phải gắn với các yếu tố môi trường, yêu cầu bảo vệ môi trường. Luật bảo vệ môi trường năm 2005 ban hành đã quy định trách nhiệm lập quy hoạch cho địa phương mà chủ yếu là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đồng thời trong quy hoạch ngành phải đưa vào các nội dung liên quan đến các yếu tố của môi trường và bảo vệ môi trường. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc lập quy hoạch môi trường ở các địa phương và trong từng ngành. Tuy nhiên, công tác lập quy hoạch vẫn chưa thực sự được tiến hành một cách nghiêm túc mà vẫn như đang “ngóng” một điều gì đó. Làm sao để đẩy nhanh được quá trình lập quy hoạch môi trường ở các địa phương và trong từng ngành đang là một dấu hỏi lớn cho những người làm công tác quản lý quy hoạch. Quy hoạch môi trường Quốc gia là một trong những văn bản quan trọng để dựa vào đó Chính phủ và các Bộ ngành xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đảm bảo vừa tăng trưởng mà không làm hại đến môi trường. Nhưng công tác lập quy hoạch tiến hành trong phạm vi cả nước mà chỉ mình Bộ Tài nguyên môi trường làm thì không thể tiến hành được. Vì vậy cần phai thực hiện quy hoạch ở địa phương và quy hoạch ngành để làm cơ sở cho quy hoạch môi trường Quốc gia. Việc nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn công tác lập quy hoạch là một trong những biện pháp nhằm thúc đẩy quá trình này. Bên cạnh đó cần phải thực nghiệm thí điểm tại một số địa phương để rút kinh nghiệm và nhân rộng các mô hình quy hoạch điển hình và hiệu quả tại các địa phương và các ngành. Biện pháp này được coi là có ý nghĩa quan trọng với yêu cầu đẩy nhanh công tác lập quy hoạch môi trường của các địa phương và các ngành. Chỉ khi mô hình hóa, có kinh nghiệm thực tiễn được đúc rút thì mới có thể khiến cho việc này trở nên dễ dàng hơn và lãnh đạo địa phương cũng như các ngành không còn lo ngại đến việc làm sai, làm ẩu mà chuyên tâm thực hiện. Ngoài ra để thúc đẩy công tác quy hoạch cũng cần xây dựng lộ trình, kế hoạch cho việc này và yêu cầu các địa phương các ngành nghiêm túc thực hiện. Làm tốt các yêu cầu trên sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy việc lập quy hoạch trong phạm vi cả nước. 2.1.4 Xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá công tác quy hoạch. Cơ chế kiểm tra, giám sát là một trong những hoạt động quan trọng đảm bảo cho chính sách, pháp luật của nhà nước được thực hiện trong thực tế. Ở Việt Nam, việc thực hiện pháp luật chưa thực sự hiệu quả cũng một phần do cơ chế kiểm tra, giám sát của chúng vẫn chưa hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu của thực tế. Kiểm tra chưa sát sao, còn bỏ qua nhiều lỗ hổng, giám sát không chặt chẽ thậm chí cán bộ bao che cho nhau làm khổ dân chúng. Pháp luật không quy định cụ thể, lại thêm tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi” nên không tránh khỏi việc thực thi chậm chễ, kém hiệu quả. Vấn đề quy hoạch để bảo vệ môi trường cũng vậy, muốn nó được đảm bảo thực hiện trong thực tế cần phải có các biện pháp kiểm tra giám sát để quản lý các hoạt động quy hoạch sao cho có hiệu quả. Việc luật hóa các quy định về lập quy hoạch môi trường, thúc đẩy quá trình này gắn trách nhiệm cho từng địa phương, từng ngành, mang lại ý nghĩa rất lớn trong việc lập quy hoạch - là cơ sở pháp lý quan trọng. Song để việc quy hoạch thực sự được thực hiện một cách nghiêm túc và mang lại hiệu quả thiết thực trên thực tế thì như thế chưa thể coi là đủ. Chúng ta cần phải có cách thức biện pháp kiểm tra giám sát, đánh giá các hoạt động này để đảm bảo là chúng không bị bóp méo, không phải là vì áp lực mà các địa phương hay các ngành cố gắng làm xong cho “ qua chuyện”. Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ cấp thiết trong tình hình hiện nay và các cơ quan nhà nước ở Trung ương hay địa phương đều rõ. Trong đó công tác lập quy hoạch môi trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là cơ sở cho tất cả các kế hoạch môi trường khác. Ý thức rõ ràng vậy cần phải xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ, đánh giá đúng đắn công tác lập quy hoạch của các địa phương. Có thể thành lập đơn vị chuyên trách, có đầy đủ thẩm quyền trong hoạt động này, tránh tình trạng chồng chéo giữa các công tác kiểm tra, thanh tra Nhà nước, thanh tra nhân dân cũng như những hiện tượng tiêu cực. Đặc biệt tránh tình trạng đánh giá không đúng, không đầy đủ, hời hợt các yếu tố của môi trường. Quy hoạch cũng phải xây dựng, đưa ra các giải pháp toàn diện cho công tác bảo vệ môi trường, ngăn chặn ô nhiễm, suy thoái môi trường cũng như khắc phục các sự cố môi trường đáng tiếc. Có như thế, mới có được những bản quy hoạch thực sự, làm cơ sở cho việc lập quy hoạch tổng thể. Việc cần làm là: _ Triển khai công tác lập quy hoạch môi trường trong phạm vi cả nước đi kèm với việc thành lập cơ quan chức năng riêng để kiểm tra giám sát hoạt động này. _ Ban hành các quy phạm pháp luật cụ thể hóa vai trò chức năng cũng như thẩm quyền của cơ quan kiểm tra giám sát để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh kiểm tra, giám sát trong thực tiễn. 2.2 Đào tạo nguồn nhân lực cho ngành môi trường. Đào tạo nguồn nhân lực được xem như là một trong những hoạt động không thể thiếu của mỗi ngành mỗi địa phương nhằm đảm bảo sự phát triển lâu dài. Ở Việt Nam hiện nay, tình trạng thiếu nguồn nhân lực diễn ra phổ biến ở mọi cơ quan, vị trí do công tác đào tạo của chúng ta còn yếu kém. Đặc biệt là những vị trí chuyên trách đòi hỏi có trình độ. Ngành môi trường là một lĩnh vực mới và cũng đang đứng trước tình trạng khó khăn trong việc tìm kiếm nhân lực phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường. Hiện nay các trường đại học ở Việt Nam đào tạo sinh viên thuộc ngành môi trường còn rất ít. Môi trường vẫn chưa được coi trọng trong số các chuyên ngành của các trường này. Vì vậy, hàng năm số sinh viên tốt nghiệp ngành môi trường không nhiều. Trong khi đó, yêu cầu về cán bộ môi trường của chúng ta lại đang đòi hỏi rất bức thiết. Tình trạng thiếu cán bộ môi trường diễn ra không chỉ ở cấp Trung Ương mà đặc biệt là ở các địa phương. Điều này dẫn đến việc công tác bảo vệ môi trường gặp nhiều khó khăn từ việc xây dựng kế hoạch đến triển khai kế hoạch, thực hiện kế hoạch trong thực tế. Quy hoạch môi trường là một hoạt động cơ bản trong chiến lược bảo vệ môi trường của mỗi quốc gia. Để tiến hành được hoạt động này cần có sự tham gia đông đảo đội ngũ cán bộ môi trường trong các ngành, ở các địa phương. Đặc biệt, đội ngũ này đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn cao, nghiệp vụ giỏi không chỉ trong bảo vệ môi trường mà trong việc đánh giá thẩm định, cũng như công tác quy hoạch. Bởi xây dựng quy hoạch đồng nghĩa là xây dựng cở sở nền tảng cho các chiến lược phát triển sau này. Dựa trên thực trạng về cán bộ môi trường hiện nay vấn đề đào tạo nguồn nhân lực được coi là một nhiệm vụ quan trọng mang tính quyết định về lâu dài trong sự nghiệp bảo vệ môi trường ở nước ta. Đảng và Nhà nước cần có sự quan tâm hơn nữa đến công tác đào tạo trong đó cần phải chú ý: _ Mở rộng phạm vi đào tạo các lĩnh vực thuộc khoa học về môi trường, cũng như số lượng các trường đào tạo trong lĩnh vực này. _ Nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ môi trường cũng như đội ngũ giảng dạy môi trường. _ Đào tạo chuyên sâu hơn nữa, nâng cao tầm quan trọng của khoa học môi trường ở các trường hiện nay. _ Đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách cho hoạt động quy hoạch môi trường. 2.3 Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao ý thức cộng đồng, giúp họ nhận thức được vai trò của mình trong việc bảo vệ môi trường. Ý thức pháp luật được xem là một yếu tố rất quan trọng trong việc thực hiện pháp luật ở tất cả các quốc gia. Một quốc gia mà cộng đồng dân cư có ý thức pháp luật tốt thì pháp luật sẽ được thực hiện một cách nghiêm túc và hạn chế tối đa các trường hợp vi phạm pháp luật và ngược lại. Ở Việt Nam, ý thức hệ của nền văn minh nông nghiệp vẫn còn ăn sâu trong tiềm thức, nơi “phép vua thua lệ làng”, nơi cái tình coi trọng hơn cái lý..v.v…. và nhiều lý do khác mà người dân vẫn chưa thực sự quan tâm đến pháp luật. Thậm chí, khi xảy ra vi phạm họ mới được biết là trong Luật có quy định và không biết minh vi phạm, hoặc biết nhưng biết không đầy đủ, dẫn đến việc thực hiện thiếu nghiêm túc các quy định của Luật pháp. Vấn đề bảo vệ môi trường là một vấn đề có tính chất rộng lớn và đòi hỏi sự tham gia của cả cộng đồng. Nếu tất cả người dân đều có ý thức trong việc bảo vệ môi trường thì môi trường luôn luôn trong lành, xanh - sạch. Do đó, để làm tốt hơn nữa công tác bảo vệ môi trường cần phải nâng cao hơn nữa nhận thức của người dân. Nhà nước muốn tiến hành quy hoạch môi trường cũng nên nhận thấy rằng vai trò của quần chúng nhân dân là rất lớn. Bài học về sức mạnh quần chúng vẫn còn đó. Nhà nước của chúng ta là Nhà nước của dân, do dân, và vì dân. Hơn nữa để thực hiện mục tiêu Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chúng ta vẫn nói dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Do vậy, cần phải huy động sức dân, cần phải cho nhân dân biết để nhân dân cùng làm. Có như vậy mới đảm bảo hiệu quả thực sự cho công tác quy hoạch nói riêng và sự nghiệp bảo vệ môi trường nói chung. Muốn làm được điều đó cần phải: _ Tuyên truyền, phổ biến chủ trưong chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ môi trường để nâng cao ý thức cua nhân dân về bảo vệ môi trường. _ Giáo dục ý thức của người dân, giúp họ hiểu được vai trò lớn lao của họ trong công tác quy hoạch, thực hiện quy hoạch đặc biệt là ở các khu đô thị, các khu đông dân cư. _ Có các hình thức xử lý nghiêm đối với những trường hợp vi phạm pháp luật, không thực hiện theo quy hoạch, làm hỏng cảnh quan môi trường đô thị như: cưỡng chế di dời, phá bỏ. v.v… 2.4. Riêng đối với ngành du lịch, phải có kế hoạch cụ thể trong việc phối hợp với các bộ ngành khác, các địa phương trong việc lập quy hoạch môi trường, đánh giá thực trạng môi trường và tài nguyên du lịch ở các địa phương; đề xuất, kiến nghị các giải pháp phù hợp cho quy hoạch môi trường quốc gia nhằm bảo vệ môi trường nói chung và môi trường du lịch nói riêng đảm bảo cho sự phát triển bền vững của du lịch. Chúng ta đều biết là du lịch có quan hệ mật thiết với môi trường. Chính mối quan hệ này đã đặt ra yêu cầu phải bảo vệ môi trường hơn bao giờ hết đối với ngành du lịch. Nếu môi trường không tốt, thường xuyên ô nhiễm, suy thoái cũng như xảy ra sự cố sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển du lịch thậm chí khiến du lịch không thể phát triển được. Nhận thức được điều này đòi hỏi những người lãnh đạo trong ngành du lịch quốc gia cũng như các địa phương cần có sự quan tâm hơn nữa đến vấn đề bảo vệ môi trường, không nên vì sự phát triển tăng trưởng của ngành du lịch mà chấp nhận cho các dự án không có lợi đến môi trường hoạt động kinh doanh. Đồng thời, phải có cách nhìn xa hơn trong việc quy hoạch bảo vệ môi trường đối với sự phát triển của toàn ngành. Việc quy hoạch môi trường sẽ giúp ngành du lịch nhận thấy những sai lầm thiếu xót của mình trong các dự án đã và đang hoạt động để sửa chữa; nhận thấy thực trạng môi trường hiện nay mà có kế hoạch hành động cụ thể phát triển các dự án du lịch sao cho đảm bảo chất lượng môi trường và mục tiêu phát triển bền vững. Bên cạnh việc quy hoạch môi trường của địa phương và quốc gia, bản thân ngành du lịch cũng cần có một cái nhìn toàn diện cho các hoạt động của ngành. Để từ đó nắm bắt cụ thể tình hình và quan trọng là đề xuất, kiến nghị những giải pháp thiết thực cho công tác bảo vệ môi trường và chỉ đạo kịp thời đối với các địa phương, các khu du lịch, bảo tồn kế hoạch cụ thể. Với những phân tích trên thì nhiệm vụ đặt ra cho ngành du lịch là: _ Nhanh chóng xây dựng kế hoạch quy hoạch môi trường của ngành, đồng thời chỉ đạo công tác quy hoạch ở các địa phương nhất là những nơi mà du lịch đang phát triển mạnh. _ Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế du lịch đi liền với bảo vệ môi trường, quy hoạch lại các khu du lịch chú trọng phát triển các loaih hình du lịch sinh thái; du lịch nghỉ dưỡng… _ Có kế hoạch khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường ở các khu du lịch, khu bảo tồn thiên nhiên bảo vệ tài nguyên môi trường nói chung và tài nguyên du lịch nói riêng. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDA2124.doc
Tài liệu liên quan