Thực trạng các ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính - TX Phủ Lý - tỉnh Hà Nam

Đặt vấn đề 1.Tính cấp thiết của đề tài Trước xu thế hội nhập và phát triển, đất nước ta đang nỗ lực thực hiện thành công tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước để xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có lực lượng sản xuất xã hội chủ nghĩa tương đối phát triển phù hợp với quan hệ sản xuất với mục tiêu tạo tiền đề cho bước phát triển cao hơn hướng tới dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Trong chiến lược phát triển kinh tế quốc dân dài hạn mọi thành phần kinh tế

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1209 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng các ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính - TX Phủ Lý - tỉnh Hà Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đều được khuyến khích phát triển, đặc biệt nông nghiệp và nông thôn với gần 75% dân số và tới 70% lực lượng lao động cả nước luôn là mối quan tâm hàng đầu trong các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu sau nhiều năm chiến tranh tàn phá nặng nề, gần hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới mà Đại hội VI đã đề ra, bộ mặt nông thôn Việt Nam đã có những bước chuyển biến tích cực, kinh tế liên tục tăng trưởng và phát triển, nền sản xuất gắn dần với thị trường tiêu thụ cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực giảm dần tỷ trọng nông nghiệp kém hiệu quả, đời sống nhân dân ngày càng cải thiện. Tuy nhiên nông thôn Việt Nam đang đứng trước những khó khăn thử thách: đất canh tác trên đầu người thấp, thiếu việc làm, lao động dư thừa, kinh tế nông thôn chưa phát triển vững chắc nhiều hộ nông dân chậm phát triển thu nhập thấp. Trong khi đó địa bàn nông thôn có tỷ lệ sinh cao, hàng năm có thêm hơn một triệu lao động bổ sung, xu hướng đô thị hoá, sự cách biệt ngày càng xa giữa thành thị và nông thôn. Xuất phát từ thực tiễn đó cũng như nhiều nước trên thế giới đã gặp phải trong quá trình phát triển cho thấy phát triển nông thôn tất yếu phải phát triển ngành nghề, các ngành nghề này bao gồm công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp, nghề truyền thống gia truyền, đặc biệt là việc chế biến nông sản những điều này sẽ tạo ra lối thoát cho vòng luẩn quẩn đói nghèo – tăng dân số – thiếu việc làm – tệ nạn xã hội – kém phát triển – đời sống thấp. Đảng và Nhà nước đang nỗ lực thực hiện thành công nghị quyết VIII mà ban chấp hành trung ương khoá VII đề ra:” Nhiệm vụ cấp bách hiện nay là đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn với phương châm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm dần tỷ trọng của nông nghiệp giá trị thấp rủi ro cao sang các ngành công nghiệp và dịch vụ có hiệu quả và phù hợp từng vùng từng địa phương tường đơn vị kinh tế, gắn kết với việc phát triển cơ sở hạ tầng áp dụng khoa học kỹ thuật phát huy lợi thế và tiềm năng sẵn có giảm chi phí sản xuất tăng cường năng lực cạnh tranh chuyển dịch cơ cấu lao động theo xu hướng ly nông bất ly hướng phát triển nền kinh tế hàng hoá một cách bền vững, tường bước cải thiện đời sống nhân dân, giảm dần sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn “. Xã Liêm Chính là một xã thuộc địa giới hành chính của thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam, những năm gần đây bộ mặt kinh tế xã hội của địa phương có sự chuyển biến tích cực: kinh tế không ngừng tăng trưởng phát triển, lực lượng sản xuất ngày càng lớn mạnh, cơ cấu kinh tế biến đổi tích cực theo hướng tăng dần vai trò của ngành nghề phi nông nghiệp, văn hoá đời sống nhân dân tăng lên.Tuy nhiên trong quá trình phát triển của mình địa phương vẫn chưa tận dụng tốt lợi thế của mình đặc biệt trong phát triển các ngành nghề công nghiệp, Công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà nước đề ra đã đem lại sự chuyển biến tích cực bộ mặt kinh tế xã hội cả nước, nền kinh tế nước ta vốn là một nền kinh tế thuần nông phải nhập khẩu lương thực thường xuyên thì đến năm 1989 không những đủ cung cấp nhu cầu trong nước mà trở thành nước xuất khẩu lương thực lớn của thế giới; cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ nền kinh tế mỗi năm tăng trưởng cao. Nhân dân bây giờ không phải lo thiếu ăn, thiếu mặc nữa mà lo sao làm giàu chính đáng cho mình và cho xã hội, đó cũng là câu hỏi đang được các cấp các ngành quan tâm cố gắng tìm ra lời giải tốt nhất. Xuất phát điểm từ một nền kinh tế thuần tuý dựa vào nông, lâm, ngư nghiệp thì không thể phát triển nhanh được, không tạo được những tích luỹ cần thiết để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Do đó muốn đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá phải đẩy nhanh công nghiệp hoá nông thôn mà hộ nông dân là một chủ thể chủ yếu ở nông thôn điều này đòi hỏi phải: - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng xoá dần tính chất thuần nông, phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Việc phát triển công nghiệp nông thôn đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản cho phép nâng cao chất lượng và sản lượng nông sản, nâng cao giá trị kinh tế của các nông sản hàng hoá cho tiêu dùng và xuất khẩu. - Phát triển cơ sở hạ tầng sản xuất và đời sống xã hội như giao thông, thuỷ lợi, điện, thông tin, cơ sở công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn, cơ sở y tế,giáo dục làm thay đổi bộ mặt nông thôn, giảm khoảng cách giữa thành thị và nông thôn. - áp dụng các tiến bộ kỹthuật, các phát triển khoa học nhằm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh nâng cao chất lượng, nâng cao lợi thế so sánh trên thị trường tiêu thụ, giảm lao động thủ công nặng nhọc. - Phát huy những kinh nghiệm được truyền tụng từ những người trước làm tăng phẩm chất sản phẩm, giảm chi phí, tăng năng lực cạnh tranh, giữ vững được truyền thống của địa phương. Xây dựng và phát triển nông thôn, phát triển kinh tế nông thôn là một vấn đề lớn và phức tạp, nó liên quan đến nhiều cấp nhiều ngành. Đề tài này nhằm triển khai chiến lược “lấy việc khai thác tiềm năng về địa lý gần trung tâm tỉnh, chế biến nông sản – nghề truyền thống đang có thế mạnh ở địa phương làm trọng tâm phát triển kinh tế hộ…” mà lãnh đạo địa phương đang hết sức cố gắng thực hiện. Vì vậy đề tài này mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. 2. Mục tiêu nghiên cứu a. Mục tiêu chung Nghiên cứu thực trạng và đề xuất được một số giải pháp cho sự phát triển của các ngành nghề trong hộ nông dân trên địa bàn xã liêm chính- Thị xã Phủ Lý-tỉnh Hà Nam trong thời gian ba năm qua 2001- 2003. b.Mục tiêu cụ thể . hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề phát triển ngành nghề cho hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam. . Đánh giá thực trạng phát triển các ngành nghề trong hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam qua ba năm từ 2001G đến 2003. . Bước đầu đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các ngành nghề trong hộ nông dân trong địa bàn xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam ở những năm tới. 3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các ngành nghề trong hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Phạm vi không gian:nghiên cứu thực trạng các ngành nghề trong hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. Phạm vi thời gian: Nghiên cứu các ngành nghề trong hộ nông dân trên địa bàn xã qua ba năm ( 2001- 2003). Thời gian thực hiện đề tài: Đề tài được thực hiện trong khoảng thời gian từ ngày 12/01/2004 đến 01/ 05/ 2004. Chương i một số lý luận và thực tiễn về phát triển ngành nghề của hộ nông dân 1.1.Vai trò của ngành nghề Các ngành nghề phi nông nghiệp có vai trò rất to lớn đến sự phát triển của hộ nông dân. Dưới hình thức là các hoạt động dịch vụ, ngành nghề tiểu thủ công truyền thống, …Các hoạt động này đã giải quyết những vấn đề rất cơ bản của hộ.Các nhề truyền thống (làm thêu, mây tre đan, làm đậu, làm bánh …) đã thu hút rất nhiều lực lượng lao động ở địa phương, nhất là những lúc nông nhàn, đặc biệt đặc điểm địa phương đất chật người đông, diện tích sản xuất cây lương thực thực phẩm ngày càng thu hẹp, cộng thêm các dự án về quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, quy hoạch đô thị, chương trình dãn dân là các yếu tố trực tiếp đẩy hộ nông dân vốn sản xuất nông nghiệp là chính phải xem xét lại phương thức sản xuất của mình cho phù hợp. Từ đó các ngành nghề phi nông nghiệp được coi là giải pháp hữu hiệu giải quyết vấn đề dư lao động- thiếu việc làm ở địa phương. Các nghề truyền thống là các nghề mà một số hộ giữ được lợi thế tuyệt đối của mình trước ảnh hưởng của dư luận và thời gian mà mấu chốt đó là các bí quyết sự lành nghề dẫn đến sản phẩm sản xuất ra đạt yêu cầu thị hiếu của cầu tiêu thụ về phẩm chất, hình thức, kiểu dáng, chi phí, hàm lượng chất xám, độ tinh xảo. Sự lành nghề có kĩ xảo, có năng lực được mang lại kết quả là các sản phẩm làm ra sẽ có chi phí thấp lại được ưa chuộng tất yếu hộ sản xuất sẽ có thu nhập tốt, có sức ổn định. Các vấn đề xã hội (như ma tuý, mại dâm, cờ bạc) đặt ra cho địa phương nơi mà cách xa trung tâm tỉnh lỵ không xa đòi hỏi phải có phương án giải quyết xuất phát từ căn nguyên của vấn đề: việc làm là vấn đề bức bách mà muốn có nhiều việc làm có thu nhập, giải quyết sự nhàn nhã thì phát triển các nghành nghề phi nông nghiệp là giải pháp hữu hiệu để giúp các thành viên của hộ không xa phải con đường tội lỗi xấu xa. Việc làm ngoài ngoài nông nghiệp giúp hộ chủ động hơn dưới ảnh hưởng bất trắc (rủi ro) của thời tiết, thiên nhiên, sâu bệnh. Quá trình phát triển này sẽ giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế của hộ của địa phương theo hướng giảm tỷ lệ nông nghiệp xuống và tăng giá trị ngành nghề phi nông nghiệp lên. 1.2.Một số khái niệm cơ bản Ngành nghề trong các hộ nông dân bao gồm công nghiệp tiểu thủ công nghiệp và các hoạt động dịch vụ cho sản xuất và đời sống. Các tổ chức hộ với mức độ khác nhau đều có thể sử dụng các nguồn lực sẵn có ở địa phương như đất đai lao động, các sản phẩm từ nông nghiệp và các nguồn lực khác cộng thêm các kinh nghiệm sản xuất kinh doanh được tích luỹ kế thừa để làm ra các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh. Các ngành nghề trong hộ được biểu trưng bởi số lượng các ngành nghề với quy mô các yếu tố sản xuất, trình độ công nghệ được sử dụng để sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng được ưa chuộng và phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng như thế nào. Sự phát triển các ngành nghề trong các hộ nông dân là sự tăng số hộ có ngành nghề và sự chuyển biến tích cực trong nội tại các ngành nghề mà hộ đảm nhận như công nghệ trình độ tay nghề, sự lành nghề, sự đa dạng hoá sản phẩm cùng một đầu vào, chất lưọng sản phẩm tăng lên.... Các ngành nghề mà hộ nông dân tổ chức có hiệu quả sẽ thúc đẩy kinh tế hộ phát triển từ đó phát triển kinh tế xã hội của địa phương. 1.3. Đặc điểm ngành nghề nông thôn Ngành nghề trong các hộ nông dân rất đa dạng: có ngành nghề lấy các sản phẩm từ nông nghệp thuần tuý qua chế biến phục vụ nhu cầu sống của con người như nghề làm bún, làm đậu phụ, nấu rượu ; có ngành nghề tận dụng vị trí gần trung tâm kinh tế văn hoá để phát triển như làm thuê, may, đan, thêu, mộc, cơ khí ; với những hộ nằm ngay đường trục chính thì có cơ hội tốt để phát triển nghề buôn bán thông thương và làm dịch vụ đầu vào cho sản xuất nông nghệp hay dịch vụ cho đời sống con người. Các ngành nghề này có một số đặc điểm sau: - Không hay ít chịu tác động của thời tiết khí hậu hơn nghề nông nghệp truyền thống. - Đất đai không phải là tư liệu sản xuất chủ yếu nhưng lại là cơ sở để sản xuất ngành nghề tồn tại và phát triển. - Các ngành nghề có sử dụng các sản phẩm đầu vào từ nông nghệp ít nhiều chịu ảnh hưởng của tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp. - Công nghệ dùng cho sản xuất kinh doanh có xen kẽ thủ công thô sơ và cơ khí. - Quy mô ngành nghề hầu hết đều nhỏ. - Phụ thuộc rất nhiều vào thị trường đặc biệt là các sản phẩm chế biến từ nông sản. - Chất lượng các sản phẩm làm ra phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm tích luỹ của hộ. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển các ngành nghề trong hộ nông dân a. Nhân tố nội tại của hộ nông dân: Như tiềm lực về vốn, kinh tế sẵn có, trình độ năng lực chuyên môn của chủ hộ.Hộ là đơn vị kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mình về kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình: Các quyết định đầu tư sản xuất kinh doanh không phải ai khác mà chính do chủ hộ quyết định do đó trình độ của chủ hộ, của các thành viên có sức ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tồn tại và phát triển cuỉa hộ. Chủ hộ mà có kiến thức, có kinh nghiệm trên thị trường, trong xã hội, biết nắm bắt thời cơ, biết vận động năng động trước rủi ro từ bên ngoài sẽ tạo cho hộ khả năng đứng vững, phát triển bền vững trước thời cuộc. b. Nhân tố thị trường: Những hộ chuyên ngành nghề nhất là chế biến các sản phẩm từ đầu vào nông sản tạo ra sản phẩm có thời gian sử dụng thấp bảo quản khó khăn có yêu cầu gay gắt về thị trường. c. Nhân tố địa lý: Hộ nằm trên các trục đường chính, gần khu đông đúc dân cư càng có điều kiện kinh doanh dịch vụ tốt hơn. d. Nhân tố kĩ thuật: Các nghề truyền thống như mộc, nề, thiêu, đan, may, sửa chữa máy móc thiết bị đòi hỏi sự lành nghề đặc biệt các hoạt động chế biến nông sản như làm đậu, nấu rượu, làm bánh kẹo phải cần có sự tích luỹ kinh nghiệm. Các hoạt động sản xuất công cụ cho đầu vào của hoạt động khác, các hoạt động sản xuất các vật phẩm tiêu dùng như sản xuất ra dao, kéo, cày, bừa, máy tuốt lúa đạp chân, cổng sắt… cũng đòi hỏi yêu cầu phải đáp ứng thị hiếu khách hàng tiêu dùng phải phù hợp với hoàn cảnh ứng dụng các sản phẩm đó. Những hộ buôn bán nhỏ như hộ buôn bán các sản phẩm nông sản bán ra thị trường, bán các hàng hoá tiêu dùng ở chợ hay tại gia đình nơi thuận tiện lưu thông hàng hoá và dễ kiếm lời buộc hộ phải năng động trong việc phải nắm bắt thị trường để có phản ứng linh hoạt. đ. Nhân tố chính sách: Các chính sách của chính phủ đưa ra như chính sách đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong hộ nông dân, chính sách đất đai, xoá đói giảm nghèo, cơ sở hạ tầng nông thôn… tuỳ vào mức độ tác động mà hộ có ảnh hưởng khác nhau. Phần lớn các chính sách này có độ nhạy cảm với vấn đề phát triển kinh tế của nông thôn mà hộ nông dân là một chủ thể, vấn đề xoá đói giảm nghèo, phát triển cải thiện cơ sở hạ tầng, cải thiện các điều kiện sống cho nông dân… Các chính sách mà chính phủ đưa ra luôn luôn xuất phát từ nhu cầu thực tai khách quan để tháo gỡ những vấn đề nan giải của xã hội. e. Nhân tố cộng đồng xã hội: Đó là các phong tục tập quán, thuần phong mỹ tục, truyền thống của cộng đồng gây ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới sự phát triển ngành nghề trong các hộ nông dân. Nghề làm đậu phụ, nấu rượu, làm bánh đa… sở dĩ tồn tại và phát triển được do phong tục nuôi lợn để lấy phân bón ruộng cũng do tục lệ uống rượu trong các ngày lễ. Tâm lý bảo thủ chậm tiến mang nặng tính phong kiến cổ hủ của xã hội trước cũng ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý mở rộng sản xuất kinh doanh trong hộ ngành nghề do lo sợ bị thua lỗ phá sản. 1.5. Các chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển ngành nghề nông thôn Các chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế nông thôn mà hộ nông dân là một chủ thể chủ yếu của nông thôn đã tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế xã hội nông hộ của đất nước.Đất nước ta là một đất nước xuất phát điểm từ nông nghiệp trước cách mạng tháng 8 năm 1945 khi mà đất nước ta nửa thuộc địa nửa phong kiến bị áp bức bóc lột mất quyền độc lập tự do, xét trên cả nước giai cấp địa chủ chỉ có 3% dân số đã chiếm 41.4% ruộng đất, nông dân lao động lại chiếm tới 97%dân số nhưng chỉ có 36% diện tích đất, số còn lại thuộc đồn điền của pháp và đất công. Các nghành kinh tế quan trọng như thương mại, khai thác mỏ… đều do pháp quản lý. Các thương gia, các nhà doanh nghiệp Việt Nam bị chèn ép cô lập không phát triển được. Sau khi nước nhà độc lập, công cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc năm 1956 đa số hộ nông dân ít nhiều đều có đất trực tiếp sản xuất nông nghiệp, các nghành sản xuất khác được khôi phục và khuyến khích phát triển, nét đặc trưng ở giai đoạn này là hộ nông dân sản xuất hoàn toàn cá thể. Giai đoạn 1960- 1980 được định hình bởi kinh tế tập thể. Từ năm 1958 tiến hành hợp tác hoá, đến cuối năm 1960 có 84% nông hộ đã tham gia vào hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, từ đó làm cho môi trường sản xuất kinh doanh của nông hộ thay đổi căn bản. Hiến pháp năm 1959 đã xác định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, mọi quan hệ mua bán trao đổi đất bị cấm nghiêm ngặt. Giai đoạn này hộ nông dân sản xuất nông nghiệp là chính các nghành khác nhất là buôn bán lưu thông hàng hoá kiếm lời bị tê liệt hoàn toàn, mọi hoạt động phi nông nghiệp đều thuộc sự quản lý của nhà nước dưới hình thức hợp tác xã. Trong hợp tác xã sản xuất nông nghiệp nông hộ được tập thể giành cho 5% đất canh tác để làm “kinh tế phụ gia đình” hay “kinh tế phụ xã viên”. Với 5% đất canh tác nhưng đã sản xuất ra 48%giá trị sản lượng nông nghiệp, 50% - 60% thu nhập của hộ. Tuy không công khai nhưng kinh tế nông hộ đã thực sự là cơ sở đảm bảo cho kinh tế tập thể tồn tại. Nông hộ được chia thành 2 loại: Loại 1: gồm các hộ nông dân cá thể ngày càng giảm có phân biệt đối xử sản xuất luôn bị kìm hãm bó buộc. Loại 2: gồm các hộ gia đình xã viên trong hợp tác xã và hộ công nhân viên trong các lâm trường loai này có nguồn thu nhập từ kinh tế tập thể thông qua ngày công đóng góp hoặc tiền lương và thu từ đất 5% với số vật tư và lao động còn lại mà hợp tác xã huy động đến kinh tế nông hộ với sản xuất nông nghiệp là chính chỉ giới hạn 5% phần đất, kinh tế hợp tác xã đình đốn, kinh tế quốc doanh thua lỗ nên thu nhập từ kinh tế tập thể trong tổng thu của hộ có sự biến đổi lớn: kinh tế tập thể chiếm 70% - 75% còn kinh tế nông hộ chỉ chiếm 25% -30%. Do thu nhập từ kinh tế tập thể thấp đã làm cho nông đân xã viên chán nản, muốn xa nền kinh tế tập thể. Giai đoạn 1981-1987 trước thực trạng kinh tế tập thể đình đốn, khủng hoảng lương thực thường xuyên xảy ra nghiêm trọng, nền kinh tế đất nước đình đốn, kinh tế nông hộ bị hạn chế không phát triển được thì nghị quyết TW6 tháng 9 năm 1979 xác định “những vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách” nhằm tìm giải pháp đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng. Xuất phát từ thực trạng đó Bộ chính trị đã ban hành Chỉ thị 100 ngày 13/01/1981 về cải tiến công tác khoán mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã. Xã viên được đầu tư vốn, sức lao động được khoán và hưởng trọn phần vượt khoán, nền kinh tế hộ gia đình được khôi phục và phát triển nhanh chóng. Năm 1986 -1987 giá cả các mặt hàng tăng vọt, chế độ thu mua hàng hoá theo nghĩa vụ của nhà nước nặng nề, trong nông nghiệp mà ruộng đất khoán tập thể đảm nhận 5 khâu; 3 khâu còn lại người lao động chịu trách nhiệm không được ổn định, sản lượng khoán nâng cao dần từ đó hiệu quả đầu tư giảm, thu nhập của nông hộ cũng giảm dần. Giai đoạn từ năm 1988 đến nay. Trước tình trạng trên Nghị quyết 10 Q/ TW ngày 05/ 04/ 1988 của bộ chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất trong nông thôn trong từng hộ nông dân, đậc biệt nghị quyết khẳng định hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế nông hộ. Nghị quyết còn chủ trương giao quyền sử dụng ruộng đất ổn định lâu dài cho hộ nông dân, xoá bỏ chính sách thu mua theo nghĩa vụ để tạo điều kiện cho hộ nông dân phát triển sản xuất. Thực hiện khoán theo nghị quyết 10 đã làm cho người lao động quan tâm đến sản phẩm cuối cùng. Các thành phần kinh tế và kinh tế hộ nông dân phát triển dẫn đến hiệu quả cao trong sản xuất và không ngừng nâng cao sức sống nông dân, nền kinh tế được khôi phục và phát triển. Nghị quyết Đại hội đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX đã đưa ra tiếp những chủ trương về phát triển 5 thành phần kinh tế, 3 chương trình kinh tế lớn của nhà nước, chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.Từ đó hộ nông dân là chủ thể sản xuất với việc ban hành những chính sách lớn như giao đất lâu dài, mở rộng cho vay tới hộ, thực hiện xoá đói giảm nghèo, khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khuyến khích khôi phục và phát triển các nghành nghề truyền thống, khuyến khích kinh tế thị trường phát triển… kinh tế nông hộ đã có niềm tin mở rộng quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho nông dân, kinh tế hộ đã có nhiều thay đổi lớn mà điển hình cơ cấu sản xuất đã có chuyển biến tích cực từ thuần nông sang các nghành nghề khác nhất là vùng nông thôn giáp danh thành thị. 1.6.Thực trạng tình hình phát triển ngành nghề nông thôn ở một số nước trên thế giới Việc phát triển ngành nghề nông thôn được xem là một trong những giải pháp quan trọng để tháo gỡ những khó khăn, những phát sinh trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn nông thôn ở một số nước trên thế giới. Một số nước đã trải qua quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn rất thành công, đó là những bài học kinh nghiệm cho đất nước ta học tập đúc rút và áp dụng linh hoạt mô hình phát triển nông thôn một cách hiệu quả nhất. ở một ngay cạnh nước ta, Trung Quốc thực hiện rất tốt quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn trong giai đoạn cải cách (1978- 1992) với phương châm đề ra” ly nông bất ly hương, nhập xướng bất nhập thành” chủ trương phát triển ngành nghề nông thôn theo mô hình xí nghiệp Hương Trấn lấy nông thôn làm cơ sở. Bước đi của Trung Quốc là thận trọng từ thấp lên cao, không chạy theo phong trào không chạy theo hình thức, không chạy theo thành tích như thời kì “ công xã nhân dân” ; lấy mô hình phát triển xí nghiệp Hương Trấn vừa là tích luỹ ban đầu vừa là bắt đầu đi vào phát triển chiều sâu bằng áp dụng công nghệ mới hiện đại và sử dụng nhiều vốn. Nhiều xí nghiệp như Hương Trấn đã mở rộng về quy mô và phạm vi lĩnh vực kinh doanh. Hiện nay các xí nghiệp như Hương Trấn đã hoạt động ở ba cấp: huyện, xã, thôn và tạo ra giá trị sản lượng ngày càng tăng. Nhờ sự phát triển công nghiệp nông thôn mà Trung Quốc đã giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp từ 70% (1978) xuống dưới 50% (1992) giảm áp lực di dân ra thành thị, kinh tế nông thôn phát triển đã cải thiện đời sống nhân dân vùng nông thôn. Nằm trong nhóm nước Niss, Đài Loan bắt đầu tiến trình công nghiệp hoá nông thôn từ những năm 50 bao gồm các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề cổ truyền, các xí nghiệp gia đình sản xuất chế biến lương thực thực phẩm và các mặt hàng thủ công mỹ nghệ phục vụ ngành du lịch. Riêng công nghiệp chế biến nông sản rất phát triển: năm 1991 đã có 5779 xí nghiệp với 100 nghìn lao động đã tạo ra giá trị sản lượng tới 17.5 tỷ USD . Công nghiệp thực phẩm với 22 chuyên ngành chủ yếu trong đó công nghiệp chế biến thịt chiếm 15.41% giá trị sản lượng, với chăn nuôi là12.36%, gạo 9.25%, đồ uống có cồn 7.16%. Riêng xay xát gạo có 2500 nhà máy quy mô nhỏ. Công nghiệp nông thôn Đài Loan đã thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tỷ trọng gia đình thuần nông đã giảm từ 39.9% (1955) xuống còn 8.98% (1985), tỷ trọng các hộ kiêm tăng từ 60.13% (1955) lên 91.2% (1985). Thu nhập các hộ nông dân ngoài nông nghiệp tăng từ 43% (1952) lên gần 70% (1992), cơ cấu lao động xã hội cũng thay đổi năm 1952 lao động nông nghiệp chiếm 51% công nghiệp 16.9% dịch vụ 27% thì đến năm 1992 lao động nông nghiệp giảm xuống còn 12.9% công nghiệp tăng 40.25% dịch vụ 49.9%. Nhìn chung Đài Loan thực hiện công nghiệp hoá nông thôn với hình thức đa dạng đã đem lại hiệu quả kinh tế xã hội rõ rệt góp phần không nhỏ vào sự thành công quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nằm trong khối ASEAN, là một nước đang phát triển, Thái Lan công nghiệp hoá nông thôn trên cơ sở dựa vào nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương với mục tiêu trước tiên là cải tạo cơ cấu kinh tế ở các vùng nông thôn qua việc cung cấp nguyên liệu và nguồn lực cho công nghiệp. Do đó Thái Lan đã xây dựng một chiến lược phát triển nông thôn trên cơ sở khu vực lấy trọng tâm công nghiệp chế biến nông sản thành hàng hoá. Bởi Thái Lan là một trong số ít nước có lợi thế sản xuất gạo, hải sản, thuỷ sản… Đầu năm 1990 cả nước có khoảng 32 nghìn xí nghiệp nông phẩm chiếm 62% các ngành công nghiệp ở Thái Lan thu hút khoảng 60% lao động, hầu hết nguyên liệu đều do nông nghiệp cung cấp. Các ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống như chế tác vàng bạc đá quý, ngọc trai, đồ trang sức được duy trì và phát triển tạo ra nhiều mặt hàng nổi tiếng thế giới. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm mỹ nghệ năm 1990 đạt gần 2 tỷ USD. Nghề gốm sứ cổ truyền trước đây ở Thái Lan chỉ sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước, gần đây đã phát triển trở thành mặt hàng xuất khẩu lớn đứng thứ hai sau gạo, 95% hàng gốm sứ xuất khẩu là đồ trang trí nội thất và đồ lưu niệm còn lại là những thứ khác. Về cơ khí nông thôn có 94 vạn cơ sở nhỏ( nhỏ hơn 10 công nhân một cơ sở) chiếm 46%, 72 vạn cơ sở vừa chiếm 34%; hoạt động của các xí nghiệp này là chế tạo và xửa chữa máy công cụ nông nghiệp. Một số con rồng châu á (Hàn Quốc, Hồng Công, Shingapo) thực hiện sách lược dồn hết sức lực cho công nghiệp nặng có trọng điểm kết hợp với dịch vụ coi nhẹ phát triển nông nghiệp nông thôn để tạo ra sức mạnh kinh tế sau đó mới tiến hành cải tạo đầu tư cho nông nghiệp nông thôn. Thông qua thực tế phát triển ngành nghề nông thôn ở một số nước trên thế giới chúng ta rút ra một số bài học sau: - Công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước phải kết hợp chặt chẽ với công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn mà bước đi quan trọng là phải phát triển ngành nghề nông thôn bao gồm nghề tiểu thủ công nghiệp, nghề truyền thống, nghề chế biến nông sản, kinh doanh dịch vụ tạo ra sự chuyển biến tích cực cơ cấu kinh tế nông thôn. - Phát huy lợi thế tuyệt đối của địa phương,của vùng, của đất nước về mọi mặt để sản xuất ra các sản phẩm có ưu thế cạnh tranh cao. - Phát triển ngành nghề trong các hộ nông dân sẽ thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, kinh tế địa phương phát triển, xoá đói giảm nghèo, từng bước cải thiện đời sống nhân dân vùng nông thôn tạo tiền đề cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thành công. 1.7. Thực trạng tình hình phát triển ngành nghề nông thôn ở việt nam Kinh tế nông thôn bao gồm hai lĩnh vực: kinh tế nông nghiệp và kinh tế phi nông nghiệp. Trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp bao gồm tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cho sản xuất cho đời sống ở nông thôn. Công nghiệp nông thôn ở Việt Nam đã trải qua những bước thăng trầm cùng với tiến trình cải cách và phát triển kinh tế đất nước. Thực hiện đường lối của Đảng và chủ trương chính sách của Nhà nước, công nghiệp nói chung, công nghiệp nông thôn nói riêng đã chứng kiến biến chuyển mạnh mẽ trong hơn mười năm qua. Theo tư liệu của hội khoa học kinh tế Việt Nam, trong thời kì đổi mới công nghiệp nông thôn Việt Nam đạt tỷ lệ tăng trưởng giá trị bình quân 7.8%/ năm. Đặc biệt công nghiệp nông thôn có sức tăng trưởng cao vào các năm 1993-1999 nhờ tác động mạnh mẽ của các chích sách khuyến khích được ban hành và thực thi vào đầu thập kỉ 90. Thực trạng phát triển ngành nghề nông thôn thể hiện một số điểm sau: -Về số lượng hiện nước ta có trên 1350000 đơn vị sản xuất phi nông nghiệp trong đó có 97.1% là các hộ, số còn lại là dạng tổ hợp và doanh nghiệp. -Về quy mô hầu hết các cơ sở sản xuất ngành nghề ở nông thôn có quy mô nhỏ do đó các cơ sở luôn có nhu cầu lớn hỗ trợ sản xuất kinh doanh như đầu vào thông tin công nghệ, đào tạo và tín dụng. - Về nguồn nhân lực và chủ sở hữu của các cơ sở. Chủ sở hữu các cơ sở đóng vai trò quan trọng ra quyết định và điều hành sản xuất kinh doanh ảnh hưởng tới sự tồn tại phát triển toàn bộ hộ. Thực tế hiện nay trình độ chuyên môn của các chủ cơ sở và lao động trong hộ còn thấp cụ thể có 1.3% -1.6% số hộ không biết chữ, 68%- 76% chủ hộ không có trình độ chuyên môn kĩ thuật chưa qua trường lớp đào tạo nào, chỉ có 1.9%- 2,8% có trình độ đại học, cao đẳng. Chủ cơ sở là nam chiếm tỷ lệ đa số, nữ chỉ chiếm 3,8%- 5.9%.Quy mô lao động bình quân của hộ ngành nghề từ 3 đến 5 người chiếm đa số, lao động thuê ngoài ít. - Về cơ sở vật chất kĩ thuật và vốn, nhìn chung các hộ ngành nghề còn thiếu,yếu, kém; phần lớn sử dụng ngay nhà mình cho sản xuất kinh doanh. Số cơ sở sử dụng điện cho sản xuất chiếm 81.6% hộ cơ sở ngành nghề nguyên nhân do giá điện ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm sản xuất ra. Phần lớn công nghệ các hộ sử dụng là thô sơ giản đơn, trình độ cơ khí hoá còn thấp, vì vậy mà sản phẩm làm ra giá trị thấp mẫu mã không đa dạng khả năng vươn xa thị trường kém. - Hiện nay, vốn của các hộ các cơ sở ngành nghề nông thôn còn nhỏ, phần lớn các cơ sở sản xuất thiếu vốn để nâng cao chất lượng sản phẩm và mở rộng sản xuất kinh doanh. Theo kết quả điều tra ngành nghề nông thôn năm 1997 của Cục chế biến lâm sản và ngành nghề nông thôn cho thấy: ổ hộ chuyên ngành nghề có vốn sản xuất bình quân là 25.73 triệu đồng( bằng 3.67%) trong đó vốn cố định chiếm tỷ lệ 57.2%; về quy mô vốn có tới 86.81% số hộ có vốn dưới 50 triệu đồng, trong đó lại có 37.66% số hộ có vốn dưới 10 triệu; bình quân vốn đầu tư cho một lao động thường xuyên ở hộ chuyên là 7.75 triệu đồng. Còn đối với hộ kiêm, vốn sản xuất bình quân là16.10 triệu đồng, trong đó 11.3 triệu đồng được dùng cho sản xuất phi nông nghiệp, bình quân vốn đầu tư cho một lao động là 5.07 triệu đồng. - Về lĩnh vực hoạt động: tiểu thủ công nghiệp – công nghiệp nông thôn tồn tại ở nhiều dạng ngành nghề khác nhau như: công nghiệp chế biến, dệt, may mặc, gốm sứ mỹ nghệ, mộc, cơ khí nông thôn… Đối với công nghiệp chế biến có mặt ở hầu khắp các vùng, hoạt động dưới nhiều hình thức và nội dung khác nhau. Trong đó có nhiều hoạt động mang tính truyền thống như làm bún, bánh đa nấu rượu…và nhiều hoạt động mang tính hiện đại như chế biến phục vụ xuất khẩu… Trong ngành dệt, may mặc và thêu ren…là những ngành thu hút tương đối nhiều lao động nữ; có nhiều hoạt động mang tính truyền thống, tính lịch sử lâu đời như dệt lụa ở Hà Đông, dệt vải ở Thái Bình, Nam Định, Bắc Ninh,Bắc Giang…riêng may mặc là một ngành khá phát triển cùng với nhu cầu ngày càng cao của xã hội có ở khắp các vùng quê nông thôn. Trong nghề gốm sứ, trạm trổ, mỹ nghệ…đây là các ngành chủ yếu phục vụ xuất khẩu và có yêu cầu kỹ thuật đối với sản phẩm tương đối cao vì thế mà nó phát triển chủ yếu ở những làng nghề truyền thống như ở Bình Dương, Bát Tràng, Đồng Nai… Ngành cơ khí nông thôn, ngành này đã phát triển khá mạnh ở nhiều thời điểm khác nhau và phát triển mạnh mẽ nhất ở Nam Định, Bắc Ninh,Thanh Hoá, Hà Tây,… Với thực trạng phát triển tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nông thôn hiện nay còn thấp kém cả về số lượng và chất lượng các ngành nghề. Do vậy Đảng và Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích phát triển sản xuất đối với từng vùng cụ thể; để mở rộng quy mô lĩnh vực sản xuất, tận dụng lợi thế của mỗi vùng góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân vùng nông thôn trong thời gian tới. 1.8.Hệ chỉ tiêu được sử dụng trong nghiên cứu thực trạng phát triển ngành nghề trong các hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam a. Hệ thống các chỉ tiêu phân tích đặc điểm địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam: Mật độ dân số, nhân khẩu/ hộ._., lao động/ hộ ngành nghề, lao động/ hộ, đất canh tác/ hộ phi nông nghiệp, lao động phi nông nghiệp/ hộ… b. Hệ thống các chỉ tiêu dùng để phân tích sự tham gia làm ngành nghề trong các hộ trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam: tỷ lệ hộ có ngành nghề, tỷ lệ hộ sản xuất công nghiệp- xây dựng, tỷ lệ hộ kiêm, tỷ lệ hộ chế biến nông sản( hộ làm đậu phụ, nấu rượu, làm bánh...)/ hộ ngành nghề, tỷ lệ hộ buôn bán/ hộ ngành nghề... c. Hệ thống các chỉ tiêu dùng để phân tích hiện trạng cơ sở vật chất kĩ thuật, điều kiện sản xuất kinh doanh, đầu vào của hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam: tỷ lệ nhà xưởng kiên cố, diện tích sử dụng bình quân ở mỗi hộ ngành nghề, bình quân vốn/ hộ ngành nghề, số lao động thường xuyên/ hộ ngành nghề, tỷ lệ chủ hộ qua đào tạo… d. Hệ thống các chỉ tiêu dùng để phân tích kết quả sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm trong các hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam: tổng giá trị sản phẩm sản xuất bình quân 1 hộ/ năm, tổng giá trị sản phẩm tiêu thụ bình quân 1 hộ/ năm, giá trị sản phẩm sản xuất bình quân trong năm/ 1 lao động, tỷ lệ sản phẩm tiêu thụ/ sản phẩm sản xuất ra. e. Hệ thống các chỉ tiêu dùng để phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam:giá trị tăng thêm tạo ra trong năm tính bình quân trong 1 hộ, giá trị tăng thêm tính bình quân cho 1 lao động thường xuyên, thu nhập trong năm tính bình quân cho 1 hộ, tỷ suất thu nhập / 1 đồng chi phí, thu nhập bình quân trong năm tính cho 1 lao động thường xuyên. f. Hệ thống các chỉ tiêu dùng để so sánh ngành nghề hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý - tỉnh Hà Nam với xã Liêm Tuyền-huyện Thanh Liêm- tỉnh Hà Nam:khoảng cách thu nhập bình quân 1 hộ ở xã Liêm Chính so với xã Liêm Tuyền, tỷ lệ hộ giàu của xã Liêm Chính so với xã Liêm Tuyền, tỷ lệ hộ nghèo của xã Liêm Chính so với xã Liêm Tuyền. g. Hệ thống chỉ tiêu dùng để phân tích tác động của ngành nghề tới kinh tế- xã hội - môi trường trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam: tỷ lệ hộ ngành nghề gây ảnh hưởng xấu tới đất tới nước, tỷ lệ hộ nhận thêm lao động thuê ngoài, tỷ lệ hộ ngành nghề giàu( trung bình, khá, nghèo) so với hộ trong xã, tỷ lệ hộ đóng góp đáng kể cho kinh tế địa phương. k. Hệ thống chỉ tiêu dùng để đánh giá những khó khăn và kiến nghị của hộ ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam: tỷ lệ không có khó khăn, tỷ lệ có khó khăn về vốn ( lao động, nhà xưởng, kinh nghiệm quản lí). Chương ii Đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu 2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 2.1.1. Vị trí địa lý - địa hình Xã Liêm Chính nằm ở phía Đông Nam thuộc địa giới hành chính của thị xã Phủ Lý – Tỉnh Hà Nam, xã được thành lập sau khi chia cắt xã Thanh Giang – huyện Thanh Liêm thành xã Liêm Chung và xã Liêm Chính. Phía Đông giáp với xã Liêm Tuyền thuộc huyện Thanh Liêm, phía nam giáp với xã Liêm Chung, phía Bắc xã ngăn cách huyện Duy Tiên bởi con sông Châu Giang chạy dài gần 8 km, phía Tây giáp với phường Hai Bà Trưng và phường Trần Hưng Đạo thuộc thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. Toàn xã có ba thôn gồm Thá, Mễ Thượng, Mễ Nội, trước kia có cả thôn Bảo Thôn nhưng mới được chia cắt nhập vào phường Trần Hưng Đạo. Tính từ uỷ ban xã tới trung tâm tỉnh Hà Nam chỉ chừng hơn 2 km lại có con đường 62 nối Phủ Lý –huyện Thanh Liêm – huyện Lý Nhân chạy qua hai thôn Mễ Nội, Mễ Thượng, trong các thôn đều có con đường liên xã chạy qua, mạng lưới giao thông được bê tông hoá nhựa hoá tạo điều kiện tốt cho hàng hoá lưu thông, con người qua lại dễ dàng kích thích sự phát triển các hoạt động buôn bán dịch vụ trao đổi hàng hoá. Xã lại có con sông Châu Giang ngăn cách chạy dài suốt chiều dài hai thôn Mễ được thông với con sông Đáy nên giao thông vận tải bằng đường thuỷ cũng rất thuận lợi giữa xã với các địa phương khác trong và ngoài tỉnh.Được nằm ngay trên trung tâm kinh tế văn hoá xã hội của tỉnh Hà Nam, nơi có thị trường tiêu dùng rộng lớn, có khả năng thanh toán cao ở tất cả các mặt hàng từ hàng hoá nông nghiệp tới các mặt hàng công nghiệp, dịch vụ nên địa phương có nhiều thuận lợi để phát triển nền sản xuất đa ngành cung cấp cho thị trường trong và ngoài xã. Lợi thế về thị trường đem lại là rất lớn, giúp cho hàng hoá sản xuất trong xã được tiêu thụ phần lớn là ở trong thị xã Phủ Lý, lại có ưu điểm chi phí vận chuyển nhỏ khả năng tiếp cận thị trường nhanh, đã tạo điều kiện tốt cho phát triển ngành nghề trong hộ nông dân nói riêng cho toàn xã Liêm Chính nói chung. 2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội 2.1.2.1.Tình hình đất đai Tình hình đất đai của xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam được thể hiện qua biểu 1. Biểu 1: Tình hình sử dụng đất đai ở xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam qua ba năm( 2001- 2003) Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm2003 So sánh (%) Số lượng Cơ cấu(%) Số lượng Cơ cấu(%) Số lượng Cơ cấu(%) 02/01 03/02 BQ A. Tổng diện tích đất tự nhiên 332.4 100 332.4 100 332.4 100 100 100 100 I. Đất nông nghiệp 241.3 72.59 232.17 69.85 226.7 68.20 96.22 97.64 96.93 1.Đất canh tác hàng năm 166.45 68.98 157.59 67.88 154.7 68.23 94.68 98.15 96.40 2.Đất vườn, trồng cây lâu năm 39.18 16.24 39.15 16.86 39.17 17.28 99.92 100.05 99.99 3.Đất ao hồ 35.68 14.79 35.43 15.26 32.85 14.49 99.30 92.72 95.95 II. Đất chuyên dùng 44.66 13.44 53.95 16.23 58.07 17.47 120.80 107.64 114.03 1. Đất xây dựng cơ bản 7.95 17.80 11.41 21.15 13.72 23.63 143.52 120.25 131.37 2. Đất giao thông 21.87 48.97 25.88 47.97 27.03 46.55 118.34 104.44 111.17 3. Đất mặt nước thuỷ lợi 7.13 15.97 7.13 13.22 7.13 12.28 100.00 100.00 100.00 4. Đất nghĩa trang, di tích văn hoá 4.16 9.31 4.16 7.71 4.16 7.16 100.00 100.00 100.00 5. Đất trường học, trạm y tế, bệnh viện 3.55 7.95 5.37 9.95 6.03 10.38 151.27 112.29 130.33 III. Đất để ở 30.69 9.23 33.73 10.15 35.09 10.56 109.91 104.03 106.93 IV. Đất đầm vực 12.55 3.78 12.55 3.78 12.55 3.78 100.00 100.00 100.00 B. Các chỉ tiêu đánh giá Đất canh tác / hộ 1440 1363 1338 94.68 98.15 96.40 Đất chuyên dùng / khẩu 109 132 142 120.80 107.64 114.03 Đất để ở / hộ 265 288 297 108.59 103.15 105.84 Nguồn số liệu: Ban thông kê xã Liêm Chính Tổng diện tích đất tự nhiên của xã Liêm Chính là 332.4 ha trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm đa số tới 226.7 ha chiếm 68.23% tổng diện tích đất của xã năm 2003. Đất nông nghiệp ngày càng giảm do áp lực tăng dân số làm nhu cầu về nhà ở của người dân tăng lên, hơn nữa quá trình đô thị hoá mở rộng thị xã Phủ Lý cũng là nhân tố làm giảm đất nông nghiệp. Bình quân mỗi năm diện tích đất nông nghiệp giảm 3.07 % Như vậy đất nông nghiệp vốn rất nhỏ trên một khẩu chỉ có chưa đến 300 m2/ khẩu, gắn bó với nông nghiệp truyền thống thì không thể thì các hộ nông dân trên xã phải làm gì để phát triển kinh tế hộ gia đình mình. Chỉ có tham gia làm ngành nghề phi nông nghiệp mới giải quyết được vấn đề trên, và thực tế đây là xu thế đang diễn ra trong hộ nông dân ở Liêm Chính, hộ nông nghiệp ngày càng giảm, hộ ngành nghề ngày càng chiếm số đông. Nhu cầu đất ở ngày càng tăng, trung bình mỗi năm tăng 6.93 % chiếm 10.56% tổng diện tích tự nhiên của xã đạt mức độ 297 m2 một hộ. Tương lai nhu cầu về nhà ở ngày tăng và trở thành mối lo cho chính quyền xã. Trong diện tích đất của xã, đất chuyên dùng ngày càng tăng, nguyên nhân do địa phương đang thực hiện đầu tư trọng tâm vào các dự án phát triển cơ sở hạ tầng mở rộng thị xã Phủ Lý đã được hội đồng nhân dân các cấp thông qua năm 2002, hệ thống giao thông là ưu tiên hàng đầu đang được hoàn thiện ở xã, dự kiến Liêm Chính sẽ có đường 62 mới chạy qua thay thế đường cũ tạo điều kiện cho giao lưu vận chuyển hàng hoá và đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân trong tỉnh, mong muốn của lãnh đạo địa phương là khi hệ thóng giao thông hoàn thiện đồng bộ sẽ tạo cơ hội cho kinh tế địa phương phát triển mạnh hơn nữa. Trong cơ cấu diện tích đất tự nhiên của xã Liêm Chính có phần đất đầm vực được tạo ra do quá trình vỡ đê hình thành đầm, tương lai đây là một khu sinh thái dịch vụ giải trí của thị xã Phủ Lý. 2.1.2.2. Tình hình dân số và lao động Lao động là một yếu tố cực kì quan trọng đối với bất kì một nền sản xuất nào, quy mô cơ cấu cùng với chất lượng lao động góp phần quyết định vị thế của nền sản xuất đó trong cơ cấu kinh tế tổng thể.Chính vì thế mà khi nghiên cứu tình hình phát triển ngành nghề hộ nông dân ta cũng phải xem xét tình hình lao động và nhân khẩu của địa phương.Tình hình dân số và lao động của xã Liêm Chính được thể hiện qua biểu 2. ` biểu 2: Tình hình dân số và lao động của xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam qua ba năm (2001-2003) Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm2003 So sánh (%) Số lợng Cơ cấu(%) Số lợng Cơ cấu(%) Số lợng Cơ cấu(%) 02/01 03/02 BQ I. Tổng số hộ 1156 100 1170 100 1180 100 101.21 100.85 101.03 1. Hộ thuần nông nghiệp 186 16.09 170 14.53 153 12.97 91.40 90.00 90.70 2. Hộ phi nông nghiệp 970 83.91 1000 85.47 1027 87.03 103.09 102.70 102.90 II. Tổng số nhân khẩu 4098 100 4137 100 4187 100 100.95 101.21 101.08 1. Khẩu thuần nông nghiệp 1250 30.50 1225 29.61 1173 28.02 98.00 95.76 96.87 2. Khẩu phi nông nghiệp 2848 69.50 2913 70.41 3014 71.98 102.28 103.47 102.87 III. Tổng số lao động 2389 100 2401 100 2423 100 100.50 100.92 100.71 1. LĐ thuần nông nghiệp 502 21.01 475 19.78 424 17.50 94.62 89.26 91.90 2. LĐ phi nông nghiệp 1887 78.99 1926 80.22 1999 82.50 102.07 103.79 102.92 IV. Các chỉ tiêu đánh giá 1.Mật độ dân số 1232.85 1244.58 1259.63 100.95 101.21 101.08 2. Tỷ lệ LĐ phi NN / tổngLĐ 78.99 80.22 82.50 101.56 102.85 102.20 3. Tỷ lệ khẩu phi NN / tổng khẩu 69.50 70.41 71.98 101.32 102.23 101.77 Nguồn số liệu: Ban thống kê xã Liêm Chính Xã Liêm Chính cũng như nhiều xã khác xung quanh trong tỉnh Hà Nam được xem là xã đất chật người đông, dân số hàng năm vẫn tăng lên. Qua ba năm số nhân khẩu của xã tăng 1.08 % đến năm 2003 đã có 4187 nhân khẩu. Số hộ cũng không ngừng tăng lên năm 2003 có 1180 hộ nông dân trên toàn xã tăng mỗi năm là 1.03 %. Xét về cơ cấu dân số, cơ cấu hộ theo ngành nghề hiện nay ở địa phương thì trong ba năm số nhân khẩu thuần nông nghiệp luôn chiến tỷ trọng thấp nhưng ngày càng giảm: năm 2003 khẩu thuần nông chỉ chiếm 28.02 % mỗi năm giảm 3.13 % ngược lại khẩu phi nông nghiệp không ngừng tăng lên và chiếm chủ yếu trong cơ cấu của xã, qua ba năm khẩu phi nông nghiệp tăng trung bình 2.87 % đạt 71.98% năm 2003. Cơ cấu khẩu thay đổi là xuất phát từ sự chuyển dịch ngành nghề từ các hộ nông dân trong xã: hộ nông dân đang chuyển từ làm nông nghiệp truyền thống sang làm ngành nghề có thu nhập cao hơn cho hộ. Xét về cơ cấu lao động, cũng giống như cơ cấu hộ, cơ cấu khẩu, lao động ngành nghề phi nông nghiệp vẫy chiếm đa số trong lực lượng lao động những diều đó chứng tỏ ngành nghề là sự lựa chọn của hầu hết hộ nông dân trong xã và kinh tế ngành nghề ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của hộ, của địa phương. 2.1.2.3. Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống Cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất,đời sống nhân dân trong xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam được thể hiện qua biểu 3. Trong những năm qua cơ sở vật chất, hạ tầng kĩ thuật ở xã Liêm Chính được đầu tư phát triển hoàn thiện không ngừng và đạt được những kết quả sau: Về hệ thống đường giao thông trong xã: mạng lưới giao thông trong xã dày đặc chất lượng tốt, đường liên xóm đã được bê tông hoá từ 5 năm nay, đường liên thôn liên huyện được nhựa hoá gắn kết chặt chẽ với mạng lưới giao thông của các xã xung quanh, hai con đường trục chính dẫn vào nội thị đã được mở rộng nâng cấp thành con đường tốt nhất của xã phục vụ đắc lực cho vận chuyển hàng hoá cho đi lại của người dân với nội thị. Biểu 3: Tình hình cơ sở vật chất kĩ thuật của xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam qua ba năm (2001- 2003) Chỉ tiêu ĐVT Năm1 Năm2 Năm3 I. Công trình thuỷlợi Trạm bơm nước Cái 3 3 3 Trạm bơm tiêu kết hợp Cái 2 2 2 Kênh mương Km 21 21 21 II. Côn g trình giao thông Đường liên xã Km 11 11 11 Đường liên thôn Km 18 18 18 Đưòng liên huyện Km 8 8 8 Đường nội bộ Km 40 43 46 III. Công trình điện Trạm biến áp Cái 4 4 4 Đường dây cao thế Km 11 11 11 Đường dây hạ thế Km 54 55 56 Đường dây điện thoại Km 23 25 26 Đường dây thông tin xã Km 17 18 18 IV. Tài sản cố định khác Xe ô tô Cái 20 27 29 Xe máy Cái 214 276 305 Máy cày bừa Cái 5 5 5 Máy xay xát Cái 14 14 14 Trâu bò kéo Cái 213 212 208 Xe công nông Cái 16 17 28 Máy tuốt lúa Cái 5 5 5 V.Côngtrình phúc lợi Nhà trẻ Cái 4 4 4 Trường học Cái 2 2 2 Trạm y tế Cái 1 1 1 Nhà văn hoá Cái 3 3 3 Máy bơm nước sinh hoạt Cái 1 1 1 Đường nước sạch Km 10 11 13 Bệnh viện Cái 1 1 1 Chợ Cái 3 3 3 Nguồn số liệu: ban thống kê xã Liêm Chính Về hệ thống điện, thông tin liên lạc trong xã: hiện tại mạng lưới điện trong xã dày đặc với mạng lưới điện cao thế hạ thế, điện đã phủ hoàn toàn tới các ngõ xóm trong xã, mỗi thôn có một trạm biến luôn cung cấp đầu đủ nhu cầu điện phục vụ cho sản xuất, cho đời sống nhân dân, không còn tình trạng thiếu điện ngai cả trong giờ cao điểm. Xã đã được trang bị hệ thống thông tin, loa đài phát thanh công cộng từ lâu, hàng ngày chuyển tải cho nhân dân xã nhiều thông tin bổ ích tạo điều kiện nâng cao sự hiểu biết cho người dân trong xã. Mạng điện thoại cũng đang được phủ rộng tới các xóm làng đến nay đã có 26 km đường dây điện thoại và hàng năm số thuê bao tăng tới 28%, điều đó chứng tỏ nhu cầu sống của nhiều hộ dân trong xã đã được nâng cao. Tốc độ phát triển, tốc độ đô thị hoá nông thôn cũng đang diễn ra nhanh ở Liêm Chính. Năm năm gần đây xã đã được đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng một cách toàn diện, trường học nhà trẻ được đầu tư xây dựng, bệnh viện lao cũng đã hoàn thành đưa vào sử dụng không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Ba thôn với ba chợ nhỏ cũng đã được chính quyền đầu tư xây dựng tạo điều kiện tốt cho nhu cầu mua bán trao đổi hàng hoá. 2.2.phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu Vấn đề đặt ra khi nghiên cứu thực trạng phát triển ngành nghề trong các hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam là phải đánh giá một cách khách quan đầy đủ và cụ thể các ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế biến nông sản, kinh doanh dịch vụ mà các hộ nông dân trong xã tổ chức; như vậy bước đầu chọn điểm nghiên cứu là việc làm rất quan trọng để từ các số liệu thu thập được qua điều tra có thể đánh giá được vấn đề quan tâm. Việc chọn điểm nghiên cứu được tiến hành như sau: xã Liêm Chính với ba thôn hình thành bởi các xóm nhỏ, trong thôn Thá với 3 xóm các xóm liền kề nhau tôi tiến hành điều tra các hộ trong xóm đầu làng do ở xóm này hộ có ngành nghề nhiều xóm này tôi sẽ điều tra 50% hộ trong xóm, nhiều hộ thuần nông kinh tế chậm phát triển tôi sẽ điều tra các hộ không ngành nghề trong xóm này; thôn Mễ Nội với 4 xóm. ( vực, dốc Mễ, trại giam, bệnh viện) tôi chọn xóm dốc Mễ để điều tra vì xóm này có thuận lợi khi nằm ở khu vực có nhiều người qua lại xóm nằm trên ngã ba đường liên xã với đường trục 62 của tỉnh nên nhiều hộ kinh doanh dịch vụ làm cơ khí, xóm dốc Mễ tôi tiến hành điều tra ở 50% hộ trong xóm và các hộ không ngành nghề; thôn Mễ Thượng giáp với phường Trần Hưng Đạo lại có địa giới nhỏ ít hộ thuần nông nên tôi tiến hành điều tra thu thập số liệu ở 40 hộ ngành nghề. Để thấy được vai trò kinh tế ngành nghề mà các hộ nông dân trên địa bàn xã thực hiện ảnh hưởng thế nào tới kinh tế- đời sống bản thân hộ và tới địa phương tôi cũng tiến hành điều tra ngành nghề của xã bên cạnh xã Liêm Chính là xã Liêm Tuyền- thuộc huyện Thanh Liêm- tỉnh Hà Nam để so sánh với tất cả các vấn đề như khi điều tra ở xã Liêm Chính. Tôi cũng chọn ở xã Liêm Tuyền một xóm gần xã Liêm Chính để điều tra.Tôi tiến hành điều tra ở 50% hộ trong xóm đó. 2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu mới a. Số liệu ở cấp hộ Các hộ ngành nghề được điều tra tôi thu thập số liệu qua phỏng vấn trực tiếp các thành viên của hộ đặc biệt là từ chủ hộ theo phương pháp PRA với mẫu điều tra1. Các hộ không ngành nghề tôi tiến hành thu thập số liệu cũng qua phỏng vấn trực tiếp các hộ theo phương pháp như trên bằng mẫu điều tra 2. Mẫu điều tra được tôi sử dụng khi thu thập số liệu mới từ các hộ ngành nghề, thông tin từ hộ không ngành nghề được sử dụng cho so sánh giữa hộ ngành nghề và hộ không ngành nghề xem có gì khác biệt về kinh tế, điều kiện sống…để nói lên vị trí vai trò của ngành nghề ảnh hưởng mức độ nào trong phát triển kinh tế hộ, kinh tế địa phương và các mặt khác về văn hoá- xã hội- môi trường. Số liệu mới từ hộ thu được qua phỏng vấn trực tiếp hộ điều nhằm có các thông tin sau: - Đặc điểm của các chủ hộ, các thành viên trong hộ ngành nghề về trình độ chuyên môn, kiến thức, sự hiểu biết ở mức độ nào. - Đặc điểm khái quát của hộ nói lên vấn đề gì? - Thông tin tình hình về hộ ngành nghề với điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật, đầu vào ra sao? - Tình hình sản xuất kinh doanh dịch vụ trong các hộ ngành nghề được các hộ tổ chức ra sao?, thực trạng phát triển ngành nghề trong hộ qua các năm như thế nào? - Tác động của hộ ngành nghề tới những mặt kinh tế- xã hội- môi trường biểu hiện ra sao? - Những ý kiến muốn đề đạt của chủ hộ là những vấn đề gì ? Như vậy qua chọn điểm nghiên cứu là các hộ ngành nghề, các hộ không ngành nghề tôi thu thập số liệu mới từ phỏng vấn trực tiếp chính các thành viên trong hộ được điều tra qua mẫu điều tra ở hộ trong các xóm điều tra, 40 hộ ngành nghề Mễ Thượng, Mễ Nội là xóm dốc Mễ 50% số hộ trong xóm và các hộ không ngành nghề xóm dốc Mễ, Thá là xóm đầu làng như xóm dốc Mễ).Vấn đề đặt ra là thông tin có được từ các thành viên trong hộ phải mang tính khách quan đó là số liệu tổng hợp về kinh tế xã - kinh tế ngành nghề do Uỷ ban nhân dân xã thực hiện hàng năm phải khớp với số liệu thu thập từ hộ điều tra trong đó nói lên cơ cấu ngành nghề, ngành nghề nào là quan trọng nhất trong số các ngành nghề hộ tham gia, giá trị sản lượng đem lại từ ngành nghề cũng phải khớp khi tổng hợp phân tích hoá ở các hộ ngành nghề điều tra cho toàn xã, để đạt được điều này trước tiên tôi phải căn cứ vào các báo cáo thường kì hay các báo cáo tổng hợp các giai đoạn của chính lãnh đạo xã để lấy căn cứ điều tra bao nhiêu hộ, ngành nghề riêng biệt là bao nhiêu, điều tra ở những xóm nào trong các thôn trên xã. Số liệu mới này vừa phản ánh được đặc điểm kinh tế địa phương, cụ thể như thực trạng phát triển ngành nghề, về vai trò của ngành nghề trong vấn đề phát triển kinh tế địa phương giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân trên xã; về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá; số liệu cũng phải nói lên tác động của ngành nghề tới các mặt kinh tế- xã hội- môi trường; phải thấy được sự khác biệt giữa kinh tế ngành nghề với kinh tế thuần nông ở cấp độ nào. Các số liệu này có phản ánh thực tế khách quan tình hình phát triển ngành nghề thì mới lấy đó làm cơ sở tin cậy trong việc bước đầu đề ra một số giải pháp tháo gỡ những khó khăn vướng mắc phản hồi từ thông tin thu thập những hộ được phỏng vấn. b. Số liệu ở cấp xã, thôn Để có cái nhìn bao quát khi nghiên cứu ngành nghề trên địa bàn xã Liêm Chính bước đầu tôi phải tiến hành gặp gỡ trao đổi xin phép ý kiến về nội dung cũng như phạm vi mục tiêu tôi đến địa phương thực tập tốt nghiệp ; tôi tiến hành phỏng vấn trực tiếp chán bộ lãnh đạo xã, thôn để cho thông tin về những vấn đề sau: thôn và xã có những nghành nghề nào mà hộ nông dân trên xã hay tổ chức thực hiện trừ nông nghiệp, trong số những ngành nghề này ngành nghề nào phổ biến hay gặp trong các hộ trên địa bàn thôn và xã, quy mô và mức độ phát triển của các ngành nghề được ghi trong các báo cáo định kì hàng năm. Cũng qua những lần gặp gỡ phỏng vấn trao đổi mà tôi thấy trên địa bàn xã Liêm Chính ngành nghề phổ biến trong các hộ nông dân là nghề chế biến nông sản phân bố hầu khắp cả xã với các nghề như nấu rượu, làm đậu, làm bún, làm mộc…,chạy dọc theo các tuyến đường liên xã liên thôn liên tỉnh các hộ nông dân buôn bán làm dịch vụ cho đầu vào cho sản xuất, làm dịch vụ cho nhu cầu thường ngày của con người. Các hộ kinh doanh dịch vụ phát triển khá nhanh trong những năm trở lại đây với quy mô ngày càng được mở rộng trong các hộ, nhiều hộ làm đầu mối cho cung cấp thức ăn gia súc gia cầm, cung cấp vật tư nông nghiệp đầu vào cho sản xuất nông nghiệp về phân bón, thuốc trừ sâu, nông cụ, máy tuốt lúa… Riêng ngành nghề công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp tập trung ở các hộ có kinh tế khá giả chủ hộ mạnh bạo có đầu óc kinh doanh do vốn đầu tư ban đầu khá lớn như nghề chế tạo cửa sắt, công cụ tiêu dùng, chế tạo máy tuốt lúa đạp chân…, nghề sửa chữa máy móc cũng khá nhiều chủ yếu sửa chữa xe máy ôtô trên trục đường tỉnh lộ,nghề may cũng mới được vài hộ tổ chức quy mô lớn còn đa phần là may đơn lẻ gia đình. 2.2.3. Thu thập số liệu đã công bố Số liệu mới tuy chi tiết nhưng vẫn chưa đủ để có cái nhìn khách quan về thực trạng phát triển ngành nghề nông thôn ở các cấp độ vùng và trên thế giới, độ đặc biệt là ở Việt Nam trong những năm trở lại đây. Muốn đề đạt một số giải pháp cơ bản tác động làm phát triển ngành nghề nông thôn trên địa bàn xã Liêm Chính thì phải dựa vào đâu làm căn cứ có cơ sở khoa học nhất có độ tin cậy nhất.Những vấn đề trên được tôi giải quyết khi tiến hành nghiên cứu thực hiện đề tài qua các tài liệu đã công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng như qua sách báo, ấn phẩm định kì, các báo cáo tốt nghiệp, báo cáo tổng kết, các nghiên cứu có liên quan vấn đề ngành nghề nông thôn. Qua báo cáo kết quả điều tra ngành nghề nông thôn năm 1997 do bộ nông nghiệp tổ chức, cũng qua cuốn sách từ điển phổ thông ngành nghề truyền thống Việt Nam…, cho thấy cái nhìn tổng quan tình hình phát triển ngành nghề ở các địa phương trên cả nước thời gian gần đây về cơ cấu các ngành nghề, quy mô mức độ ngành nghề trên các mặt từ đầu vào các yếu tố sản xuất kinh doanh tới kết quả sản xuất kinh doanh ngành nghề. Các tài liệu nói về kinh nghiệm phát triển ngành nghề nông thôn cũng là các tài liệu rất hữu ích giúp nghiên cứu sâu hơn ván đề phát triển ngành nghề nông thôn. Cũng qua các tài liệu đã công bố này tôi tham khảo một số giải pháp mà các chuyên gia các nhà khoa học đã đưa ra áp dụng cho địa phương để có thể bước đầu đưa ra các giải pháp có cơ sở về phát triển ngành nghề trong các hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính- thị xã Phủ Lý- tỉnh Hà Nam. 2.2.4. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu Phân tích là giai đoạn cuối cùng của quá trình nghiên cứu, nó biểu hiện tập trung kết quả của toàn bộ quá trình nghiên cứu. Do vậy việc phân tích có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với đề tài nghiên cứu.Để tổng hợp và hệ thống hoá tài liệu thu được khi điều tra thu thập chúng tôi căn cứ vào phương pháp thống kê kinh tế nhằm mục đích phân tổ phân chia các ngành nghề riêng biệt, phân chia các đối tượng được nghiên cứu có cùng tiêu thức, nhằm phân tích sự biến động theo thời gian của các ngành nghề ; thống kê cũng giúp tổng hợp các số liệu định lượng thành các số liệu định tính nói lên bản chất hiện tượng tính quy luật và chiều hướng phát triển của nó.Tôi cũng dùng phương pháp so sánh khi các số liệu mới thu thập được từ kết quả điều tra các hộ trên địa bàn hai xã Liêm Chính và Liêm Tuyền để nói lên vai trò của ngành nghề ảnh hưởng tới những mặt nào về kinh tế- xã hội trên địa bàn xã Liêm Chính mà tôi tiến hành nghiên cứu. Dựa vào đó tôi có thể hiểu biết sâu sắc hơn về hiện tượng nghiên cứu, có cơ sở khoa học trong việc đưa ra các giải pháp tối ưu nhằm phát triển các ngành nghề trong hộ nông dân ở xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. Các số liệu thu thập được sẽ được đưa vào máy tính xử lý, phân tích. Chương iii Kết quả nghiên cứu và thảo luận 3.1. Thực trạng tình hình phát triển các ngành nghề ở các hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. 3.1.1.Thông tin chung về sự tham gia làm ngành nghề và cơ cấu ngành nghề ở các hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. Qua biểu 5 cho thấy trong số 169 hộ được điều tra ở ba xóm của ba thôn trên địa bàn xã Liêm Chính thì số hộ ngành nghề chiếm tỷ lệ rất cao là 87.57% với 148 hộ ngành nghề năm 2003, trong khi đó hộ thuần nông chỉ có 21 hộ chiếm tỷ lệ 12.43%. Tỷ lệ hộ ngành nghề được duy trì trên 80% qua ba năm cụ thể năm 2001 là 84.02% với 142 hộ , năm 2002 là 85.8% với 145 hộ ngành nghề,và năm 2003 tăng lên 87.57% với 148 hộ ngành nghề. Mỗi năm số hộ tham gia làm ngành nghề lại tăng lên so với năm trước và đạt tốc độ tăng bình quân mỗi năm là 2.09% trong khi đó diện hộ thuần nông lại có xu hướng giảm nhanh qua các năm, trung bình giảm 11.81%. Như vậy cơ cấu ngành kinh tế trong các hộ nông dân có sự dịch chuyển tích cực theo hướng giảm dần vai trò của nông nghiệp và tăng dần vị thế cũng như tầm quan trọng của ngành nghề trong việc phát triển kinh tế hộ và trở thành một chiều hướng cho sự phát triển nông thôn trên địa bàn xã Liêm Chính. Qua điều tra, phỏng vấn trực tiếp các hộ, tiếp thu ý kiến của các thành viên trong hộ chúng tôi được biết hiện nay trong suy nghĩ của mọi người dân trong xã Liêm Chính thì nông nghiệp chỉ là thứ yếu, gắn bó với nông nghiệp vừa vất vả lại có thu nhập thấp, hay xảy ra thiên tai mất mùa nên các hộ nhận đất nông nghiệp sản xuất với mục đích chủ yếu là cung cấp tại chỗ lương thực cho gia đình mình khỏi phải mua ngoài. Đặc biệt hai năm gần đây do ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa nông thôn với nhiều dự án đang và sẽ được thực thi nhằm mở rộng thị xã Phủ Lý, tương lai không xa Liêm Chính sẽ là một nơi sầm uất với nhiều dự án công trình từ các khu giải trí vui chơi, bệnh viện, chợ trung tâm, và có tuyến đường liên tỉnh chạy qua; do đó có tới 86 chủ hộ trong tổng số 169 hộ được điều tra cho hay họ nhận đất nông nghiệp một mặt vừa sản xuất lương thực chi dùng cho nhu cầu thiết yếu hàng ngày mặt khác họ chờ cơ hội chính quyền có thu đất nông nghiệp phục vụ những dự án thì họ sẽ được đền bù ở mức cao như ở xã Châu Sơn cũng nằm trong địa phận thị xã Phỷ Lý đã làm Biểu 5: Thông tin về sự tham gia ngành nghề của các hộ trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam. Chỉ tiêu năm 2001 năm 2002 năm 2003 So sánh(%) SL CC(%) SL CC(%) SL CC(%) 02/01 03/02 BQ Tổng số hộ điều tra 169 100 169 100 169 100 100 100 100 A. Hộ ngành nghề 142 84.02 145 85.80 148 87.57 102.11 102.07 102.09 I. Hộ chế biến nông sản thực phẩm 42 29.58 41 28.28 38 25.68 97.62 92.68 95.12 Sản xuất bánh kẹo 2 4.76 2 4.88 2 5.26 100.00 100.00 100.00 Xay xát 4 9.52 4 9.76 4 10.53 100.00 100.00 100.00 Rợu 11 26.19 11 26.83 10 26.32 100.00 90.91 95.35 Đậu 15 35.71 14 34.15 12 31.58 93.33 85.71 89.44 Mộc 7 16.67 7 17.07 7 18.42 100.00 100.00 100.00 Bún 2 4.76 2 4.88 2 5.26 100.00 100.00 100.00 Bánh mỳ 1 2.38 1 2.44 1 2.63 100.00 100.00 100.00 II. Hộ công nghiệp, xây dựng và vận tải 41 28.87 42 28.97 43 29.05 102.44 102.38 102.41 Vận tải 12 29.27 13 30.95 14 32.56 108.33 107.69 108.01 Xây dựng 9 21.95 9 21.43 9 20.93 100.00 100.00 100.00 Gò hàn, cơ khí 5 12.20 5 11.90 5 11.63 100.00 100.00 100.00 May thêu 9 21.95 9 21.43 9 20.93 100.00 100.00 100.00 Khác( bật chăn bông, đúc, sx khô mỡ) 6 14.63 6 14.29 6 13.95 100.00 100.00 100.00 III. Hộ dịch vụ 59 41.55 62 42.76 67 45.27 105.08 108.06 106.56 Buôn bán 19 32.20 22 35.48 25 37.31 115.79 113.64 114.71 Bán hàng 22 37.29 22 35.48 23 34.33 100.00 104.55 102.25 Dịch vụ đầu vào 6 10.17 5 8.06 5 7.46 83.33 100.00 91.29 Dịch vụ tổng hợp 9 15.25 10 16.13 11 16.42 111.11 110.00 110.55 Dịch vụ phục vụ lễ nghi, tiệc 3 5.08 3 4.84 3 4.48 100.00 100.00 100.00 B. Hộ thuần nông 27 15.98 24 14.20 21 12.43 88.89 87.50 88.19 C. Nhóm hộ khác 7 4.14 7 4.14 7 4.14 100.00 100.00 100.00 Các chỉ tiêu đánh giá Tỷ lệ hộ ngành nghề/ tổng số hộ 84.02 85.80 87.57 102.113 102.069 102.091 Tỷ lệ hộ chế biến NS- TP/ hộ ngành nghề 29.58 28.28 25.68 95.5993 90.8042 93.1709 Tỷ lệ hộ CN, XD, VT/ hộ ngành nghề 28.87 28.97 29.05 100.32 100.306 100.313 Tỷ lệ hộ dịch vụ / hộ ngành nghề 41.55 42.76 45.27 102.911 105.874 104.382 Nguồn: Số liệu điều tra trực tiếp từ các hộ nông dân xã cách đây 4 năm về trước. Chính suy nghĩ đó mà hầu hết hộ nông dân không mặn mà đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp và cơ hội cho hộ phát triển kinh tế tốt đó là phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp. Trong số các hộ ngành nghề trong tổnh số 169 hộ được điều tra ở xã Liêm Chính cho thấy hộ làm dịch vụ luôn chiếm số đông so với các hộ làm chế biến nông sản thực phẩm và làm công nghiệp- xây dựng- vận tải, qua ba năm số hộ làm dịch vụ lần lượt là 59 hộ trong số 142 hộ ngành nghề chiếm tỷ lệ 41.55% năm 2001, 62 hộ trong số 145 hộ chiếm tỷ lệ 42.76% năm 2002, 67 hộ chiếm tỷ lệ 45,27% năm 2003, trung bình mỗi năm có 4 hộ tham gia thêm vào làm dịch vụ đạt tốc độ tăng hàng năm là 6.56% , sự tăng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân: thứ nhất đó là xã Liêm Chính có lợi thế cực kỳ thuận lợi được nằm trên nhiều trục đường giao thông quan trọng có lưu lượng người qua lại rất lớn, trong khi đó xã lại nằm không xa trung tâm thị xã Phủ Lý nơi giao lưu kinh tế văn hóa của tỉnh Hà Nam đó là cơ hội cực kì tốt cho phát triển kinh tế dịch vụ, ngoài những yếu tố trên thì sức hút của quá trình đô thị hóa, áp lực của giảm nhanh đất nông nghiệp trong mấy năm gần đây đã tạo đà cho nghề dịch vụ được nhiều hộ làm. Thực tế điều tra cho thấy các hộ nằm trên trục đường 62 liên huyện đều tham gia làm dịch vụ với hình thức mở cửa hiệu bán hà._. Nam Qua nghiên cứu thực trạng tinh hình phát triển ngành nghề hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý - tỉnh Hà Nam, tôi nhận thấy: ngành nghề đã đem lại thu nhập cao cho hộ nông dân, thu nhập cao cho lao động ngành nghề cao hơn so với nghề sản xuất nông nghiệp cũng là ngành sản xuất đem lại hiệu quả cao về kinh tế , về xã hội. Ngành nghề giúp cho hộ nông dân, lao động làm nghề cải thiện cuộc sống giải quyết tốt nhu cầu việc làm cho lao động ở địa phương làm hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nạn thất nghiệp không những thế phát triển kinh tế ngành nghề còn giúp cơ cấu kinh tế xã Liêm Chính dịch chuyển theo hướng tích cực giảm dần tỷ trọng của ngành sản xuất nông nghiệp làm cho kinh tế xã Liêm Chính phát triển đúng hướng theo quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Như vậy cứ theo tốc độ phát triển và chuyển dich trong ba năm vừa qua thì quá trình đô thị hoá nông thôn trên xã Liêm Chính sẽ thành công tốt đẹp. Xuất phát từ những ưu điểm mà ngành nghề trong hộ nông dân đã đem lại cho hộ cho địa phương thì vấn đề đặt ra là ta cần phải làm gì để đẩy nhanh sự phát triển ngành nghề trong hộ nông dân. Để đưa ra được ý kiến đề xuất những giải pháp nhằm phát triển ngành nghề cho hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính, khi thực hiện nghiên cứu thực trạng ngành nghề trong hộ nông dân chúng tôi tiến hành phân tích đánh giá và tìm ra được những mặt khó khăn còn hạn chế mà ngành nghề còn gặp phải, đánh giá những thuận lợi đã giúp cho kinh tế ngành nghề phát triển để qua đó bước đầu đề ra một số giải pháp giúp ngành nghề hộ nông dân phát triển bền vững. Ngành nghề trong hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính có rất nhiều thuận lợi để phát triển như: + Về thị trường, đây là yếu tố sống còn của bất kì một nền sản xuất nào, xã Liêm Chính nằm trong địa giới hành chính của thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam là trung tâm kinh tế văn hoá xã hội của tỉnh Hà Nam, đây là một trong những mặt cực kì thuận lợi nền sản xuất trong các đơn vị kinh tế hộ, kinh tư nhân , kinh tế tập thể luôn được thừa hưởng một thị trường rộng lớn có sức mua cao ở mọi loại hàng hoá dịch vụ. Có thị trường là đã giải quyết được đầu ra cho sản phẩm là một yếu tố sống còn để phát triển ngành nghề , kinh tế hộ cũng là kinh tế địa phương. Khai thác triệt để lợi thế của thị trường, tìm ra sở thích thị hiếu và yêu cầu về hàng hoá của thị trường tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người, sẽ giúp cho sản xuất kinh doanh ngành nghề phát triển ở tất cả các hoạt động. + Về vị trí địa lý địa hình: Liêm Chính có rất nhiều thuận lợi ngoài việc nằm ngay trên một thị trường rộng lớn thì địa phương còn có trục đường 62 liên huyện chạy dài gần 4 km dọc theo thôn Mễ Thượng , Mễ Nội, xã lại rất gần với đường 1A đường 21, hệ thống đường giao thông liên xã liên thôn dày đặc được bê tông hoá nhựa hoá từ nhiều năm nay, phía bắc lại ngăn cách bởi con sông Châu Giang, những yếu tố đó rất thuận lợi cho lưu thông hàng hoá và dịch vụ diễn ra trên địa phương cả ở đường bộ lẫn đường thuỷ, cho phát triển kinh tế hộ nông dân. + Về vốn sản xuất kinh doanh: bước đầu nhiều hộ ngành nghề trong xã đã có tích luỹ vốn dần, tuy quy mô vốn còn chưa cao nhưng việc sản xuất kinh doanh hiệu quả đã giúp cho hộ có thể chủ động tích luỹ tăng vốn cho sản xuất kinh doanh ngành nghề, tạo tâm lý tự tin hơn không phải lo nghĩ khoản phải trả chi phí vay vốn kinh doanh. Hiện nay các chính sách tín dụng đã và dang được Nhà nước, các tổ chức tài chính nới lỏng tạo điều kiện thuận lợi cho hộ nông dân có nhu cầu muốn vay vốn phát triển sản xuất, người dân hiện nay chỉ cần thế chấp bất động sản là có thể vay một lượng vốn lớn thời gian dài. + Về các chính sách của Đảng và Nhà nước, của cán bộ địa phương: luôn quan tâm và tạo mọi điều kiện phát triển kinh tế hộ nông dân, phát triển kinh tế nông thôn nhằm thực hiện thành công tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn với quá trình đô thị hoá đang diễn ra nhanh ở Hà Nam. + Về lao động: nền sản xuất ngành nghề trong các hộ nông dân được thừa hưởng lực lượng lao động cần cù chăm chỉ ham học hỏi, rất dồi dào hiện nay. Bên cạnh những thuận lợi mà ngành nghề hộ nông dân đạt được qua điều tra trực tiếp các hộ ngành nghề đánh giá những kiến nghị từ các hộ ngành nghề chúng tôi nhận thấy việc phát triển ngành nghề hộ nông dân trên địa bàn xã gặp không ít những khó khăn. Về nguyên liệu vật liệu đầu vào cho sản xuất kinh doanh hầu hết phải mua ngoài mà giá thành nguyên vật liệu chiếm rất nhiều chi phí sản phẩm làm ra chính vì thế mà hộ sản xuất ngành nghề bị thụ động về nguyên vật liệu làm cho việc sản xuất kinh doanh giảm tính hiệu quả có khi còn thua lỗ nếu giá đầu vào tăng lên quá cao, từ đó ảnh hưởng đến tính ổn định tới sự phát triển ngành nghề hộ nông dân. Đó là khó khăn lớn nhất mà các hộ làm chế biến nông sản thực phẩm, các hộ cơ khí, hộ may thêu gặp phải.Về phía chủ hộ và lao động ngành nghề: trình độ cũng như táy nghề của lao động quyết định năng suất lao động, tới chất lượng sản phẩm làm ra, và ảnh hưởng tới kết quả hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động ngành nghề. Hiện tại nhiều lao động ngành nghề còn yếu về trình độ tay nghề cũng như kiến thức về sản xuất kinh doanh gây kìm hãm sự phát triển ngành nghề trong hộ nông dân. Về cơ sở hạ tầng tuy được đầu tư không ngừng từ nhiều năm nay nhưng cơ sở hạ tầng trên địa bàn xã Liêm Chính còn kém chưa đáp ứng được nhu cầu của nền sản xuất của nhân dân trong xã. Mạng lưới đườg giao thông tuy được bê tông hoá nhựa hoá nhưng bề rộng của các đường trục chính vẫn rất nhỏ hẹp, nước sạch tuy đã được cung cấp từ ba năm nay nhưng giá thành một m3 nước còn ở mức cao chưa khuyến khích người dân sử dụng phục vụ cho sản xuất hơn nữa giá điện chung ở xã Liêm Chính còn cao( 750 đồng/Kwh ) làm tăng chi phí sản xuất làm giảm hiệu quả sản xuất. Những khó khăn trên đây là cơ bản mà hộ ngành nghề gặp phải bên cạnh đó ngành nghề trong hộ nông dân còn gặp phải khó khăn về thị trường về vốn, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh. Việc tìm ra những khó khăn đánh giá lợi thế mà ngành nghề hộ nông dân có được để từ đó tìm cách tháo gỡ những khó khăn vướng mắc mà hộ sản xuất kinh doanh ngành nghề gặp phải, tận dụng và phát huy những lợi thế có được sẽ gúp cho ngành nghề hộ nông dân phát triển lên đó là cơ sở khoa học của định hướng và giải pháp phát triển ngành nghề cho hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý - tỉnh Hà Nam 3.2.2. Định hướng mục tiêu phát triển ngành nghề cho hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý - tỉnh Hà Nam 3.2.2.1.Quan điểm trong việc chỉ đạo phát triển ngành nghề cho hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý - tỉnh Hà Nam Chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, trong đó, phát triển ngành nghề cho hộ nông dân nhằm từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn sang công nghiệp và dịch vụ là một bộ phận quan trọng. Đại hội VIII đã nêu“ phát triển các ngành nghề làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm tiểu thủ công nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu…”. Nghị quyết IV của Ban chấp hành trung ương khoá VIII cũng xác định rõ “ phát triển mạnh các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn”. Các quan điểm trong việc chỉ đạo phát triển ngành nghề cho hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý - tỉnh Hà Nam đó là: Phát triển ngành nghề cho hộ nông dân phải gắn liền với những đặc điểm, điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế – xã hội và cơ sở hạ tầng của địa phương không chỉ đạt mục tiêu về kinh tế – xã hội mà còn phải đảm bảo môi trường, bảo tồn và duy trì các di sản văn hoá của ịa phương. Vì vậy phát triển ngành nghề trong các hộ nông dân là do chính các hộ nông dân quyết định, Nhà nước và chính quyền ở địa phương chỉ có vai trò hỗ trợ bằng nhiều biện pháp để phát triển ngành nghề trong hộ tốt hơn. Phát triển ngành nghề trong hộ nông dân phải có sự kết hợp chặt chẽ với công nghiệp thành thị, sư hài hoà công nghệ và phương thức sản xuất giữa sự kết hợp công nghệ hiện đại với công nghệ truyền thống. - Phát triển ngành nghề trong hộ nông dân phải gắn chặt với sản xuất nông nghiệp. Hai ngành kinh tế này có mối quan hệ chặt chẽ về lao động, nguyên liệu thị trường…Nông nghiệp cung cấp nông sản cho chế biến, ngược lại công nghiệp và dịch vụ cung cấp trang thiết bị, cung cấp đầu vào cho quá trình sản xuất nông nghiệp. Phát triển công nghiệp và dịch vụ trong các hộ nông dân là động lực xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, tăng thu nhập, chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương, là con đường thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn. 3.2.2.2.Mục tiêu phát triển ngành nghề cho hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý - tỉnh Hà Nam -Về tổng giá trị sản xuất hàng năm tăng15% đến năm 2010 đạt 443960 ngàn đồng một hộ. -Tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt 15%. -Thay đổi cơ cấu kinh tế xã: tỷ lệ giá trị ngành nông nghiệp giảm dần đến năm 2010 chỉ chiếm dưới 10% trong tổng giá trị sản phẩm toàn xã, ngành công nghiệp và dịch vụ là hai ngành chủ yếu đến năm 2010 chiếm tới trên 90% tính bình quân mỗi năm tăng15%. -Tỷ lệ hộ ngành nghề đến năm 2010 đạt 97% trong tổng số hộ của xã. -Cơ bản xoá đói đến năm 2006 và từng bước tiến lên làm giàu. -Giảm tỷ lệ thất nghiệp hàng năm5%. 3.2.2.3. Định hướng phát triển ngành nghề cho hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý - tỉnh Hà Nam Thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn xã Liêm Chính, chuyển dần cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trong nông nghiệp sang ngành công nghiệp và dịch vụ và trở thành hai ngành kinh tế chủ đạo của xã phấn đấu đưa xã trở thành xã công nghiệp – dịch vụ đến năm 2010.Trên cơ sở đó định hướng phát triển ngành nghề cho các hộ nông dân được tập trung vào các vấn đề sau: a. Phát huy lợi thế và thuận lợi của địa phương, huy động mọi nguồn lực từ bên trong bên ngoài, phát triển mạnh các nghề có lợi thế so sánh, có tiềm năng phát triển nhằm thu hút nhiều lao động dư thừa trong xã, giải quyết tốt nạn thất nghiệp, giúp nâng cao đời sống nhân dân. Các ngành nghề mà hộ nông dân trong xã có lợi thế là rất lớn đặc biệt là dịch vụ và công nghiệp chế biến. - Đối với dịch vụ: các hộ cần phải nhận thấy rõ lợi thế to lớn khi nằm ngay trên thị trường tiêu thụ với đầy đủ nhu cầu của mọi loại hàng hoá từ hàng nông sản thực phẩm tới hàng hoá phục vụ nhu cầu giải trí vui chơi hưởng thụ của người dân. Vấn đề là làm sao hộ dịch vụ phải có hình thức kinh doanh dịch vụ hàng hoá đa dạng phù hợp với đối tượng khách hàng tiêu dùng, không ngừng thay đổi hình thức dịch vụ để thu hút khách hàng bằng việc khuyến mại, giảm giá khi mua nhiều hàng, áp dụng phương thức trả dần đối với những khách hàng lớn đáng tin cậy, tạo uy tín cho khách hàng bằng thái độ dịch vụ lịch sự chu đáo, sản phẩm dịch vụ có chất lượng. - Đối với ngành chế biến nông sản – thực phẩm: các hộ sản xuất bánh kẹo đã sản xuất nhiều năm nay có nhiều bạn hàng truyền thống, thị trường đầy ra cho sản phẩm ngày càng được mở rộng, nhưng trước xu thế khoa học kĩ thuật bùng nổ nhanh như hiện nay, hộ sản xuất bánh kẹo muốn tạo dựng thương hiệu có tiếng cho sản phẩm bánh kẹo của mình thì cần phải thay đổi công nghệ dây chuyền sản xuất bánh kẹo đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm phù hợp với thị hiếu nhu cầu của người tiêu dùng. Với các hộ làm đậu, nấu rượu thì hai năm gần đây giá cả đầu vào nông sản cho hai nghề này không ổn định luôn tăng ở mức cao làm giảm hiệu quả sản xuất và thực tế có nhiều hộ đã chuyển sang làm nghề khác có thu nhập cao hơn, chính vì thế để phát triển kinh tế hộ tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách tích cực ở địa phương nên chăng các hộ từ hoạt động làm nghề này nếu thấy nghề trước đó mình gắn bó mà đem lại hiệu quả không cao cho hộ trong khi đó hộ cũng có am hiểu về nghề khác mà mình dự định chuyển sang làm, có đủ năng lực vốn đủ nhận thức và có tay nghề, các hộ nên chuyển sang làm nghề khác tốt hơn nghề cũ nếu thấy hợp lý và có đủ điều kiện. - Đối với ngành công nghiệp – xây dựng – vận tải, cơ hội phát triển cho ngành này rất nhiều. Các hộ cơ khí gò hàn cần hướng vào cung cấp các sản phẩm cơ khí phục vụ cho nhu cầu ở địa phương mặt khác không ngừng sản xuất ra các sản phẩm phục vụ cho thị trường ngoài xã. Sản xuất cơ khí muốn phát triển lên với quy mô lớn thì các hộ làm cơ khí cần phải đẩy mạnh tìm hiểu thị trường đầu ra, ổn định thị trường đầu vào, tạo năng lực vốn lớn, trình độ tay nghề người lao động phải cao mới có thể làm ra được các sản phẩm cơ khí có giá trị cao. b. Củng cố các ngành nghề hiện có, khôi phục các ngành nghề truyền thống đang bị mai một dần nhưng có tiềm năng phát triển, từng bước mở rộng quy mô sản xuất. c. Nâng cao chất lượng và giá trị của các sản phẩm làm ra, đa dạng hoá các hình thức kinh doanh dịch vụ, đa dạng hoá các sản phẩm được sản xuất ra. d. Mở rộng địa bàn tiêu thụ sản phẩn nhất là các sản phẩm từ chế biến nông sản. e. Gắn kết chặt chẽ giữa công nghiệp thủ công với công nghiệp hiện đại, giữa sản xuất và tiêu thụ, giữa phát triển kinh tế – xã hội với bảo vệ môi trường đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả. 3.2.3. Một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành nghề cho hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính - thị xã Phủ Lý - tỉnh Hà Nam Trên cơ sở kết quả điều tra ngành nghề trong hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính, từ những yếu tố có tác động trực tiếp gián tiếp tới quá trình phát triển kinh tế ngành nghề, chúng tôi đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển ngành nghề cho hộ nông dân trên địa bàn xã như sau: Từ yếu tố chủ quan của hộ ngành nghề. Việc ra quyết định sản xuất kinh doanh, sự thành côg hay thất bại trên thương trường sản xuất kinh doanh đều nằm trong các quyết sách của chủ hộ ngành nghề. Như vậy trình độ, năng lực của chủ hộ quyết định chủ yếu sự phát triển ngành nghề trong hộ. Xuất phát từ điều này, vấn đề đặt ra là làm sao không ngừng nâng trình độ tay nghề, trình độ sản xuất kinh doanh, trình độ quản lý, khả năng nắm bắt thời cơ… cho các thành viên của hộ đặc biệt là chủ hộ ngành nghề. Thời đại công nghệ khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin như hiện nay đòi hỏi hoạt động ngành nghề các hộ phải năng động chủ động tránh thụ động kém nhạy bén, phải nắm bắt được thị trường mở rộng các mối quan hệ bạn hàng. Để làm tốt được việc này cần kết hợp nhiều giải pháp song song. Một mặt UBND xã thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn nông cao nhận thức sản xuất kinh doanh về quản lý về kĩ thuật về khoa học, cho các hộ ngành nghề tham quan các mô hình hộ ngành nghề giỏi trong xã trong tỉnh để cho các chủ hộ học hỏi kinh nghiệm, nâng cao nhận thức kĩ thuật. UBND xã phải là cầu nối giữa hộ ngành nghề với các thông tin về sự biến động giá cả, thị trường, chính sách… được đăng tải trên các thông tin đại chúng hàng ngày bằng hệ thống loa đài thông tin của xã nhằm giúp các chủ hộ cập nhập những thông tin cần thiết ảnh hưởng tới hoạt động ngành nghề.Mặt khác hộ ngành nghề phải nhận thức rõ vai trò của việc nâng cao tay nghề, năng lực, trình độ, khả năng nắm bắt thông tin để các hộ tự chủ phấn đấu làm tốt những việc trên chính là tự giúp mình có khả năng phát triển trước những biến cố bên ngoài. Từ những yếu tố khách quan. Trong quy hoạch của xã Liêm Chính đến năm 2015 đã được hội đồng nhân dân các cấp thông qua: sản xuất nông nghiệp sẽ ngày càng thu hẹp về diện tích, áp lực tăng dân số, giải quyết việc làm và nhiều vấn đề kinh tế- xã hội khác đè nặng lên nhiệm vụ của lãnh đạo địa phương đòi hỏi phải xây dựng những chính sách phát triển ngành nghề hộ nông dân trên xã phù hợp với yêu cầu đã đặt ra trong tiến trình đô thị hoá và quá trình công nghiệp hoá nông thôn. Cần làm ngay các biện pháp hỗ trợ để chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế của xã như tiếp tục thực hiện tốt chính sách giảm thuế, giảm giá điện cho các hộ ngành nghề. Hiện tại các hộ ngành nghề trong xã vẫn chịu mức giá điện chung của toàn xã là 750 đồng/kwh, trong khi các phường trong thị xã Phủ Lý chỉ có mức giá 450 đồng/Kwh đó là một bất hợp lý gây ảnh hưởng xấu tới chi phí đầu vào của hoạt động ngành nghề cũng như hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh toàn xã. Nên chăng UBND xã cần phải thực hiện ngay việc giảm giá điện đúng với mức giá chung là 450 đồng/Kwh, thêm vào đó cần phải có hỗ trợ chi phí về điện với các hộ gặp khó khăn nhất thời do sản xuất kinh doanh không tốt mà không chi trả ngay được tiền điện. Hỗ trợ về tài chính cho các hộ có khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng thiếu vốn. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng người nghèo và các quỹ hội cựu chiến binh, quỹ hội phụ nữ, quỹ xoá đói giảm nghèo, cần gắn kết hơn nữa với các hộ ngành nghề bằng chính sách cho vay thông thoáng linh động hơn. Hộ ngành nghề luôn luôn có nhu cầu lớn về vốn, mà bước đầu sản xuất kinh doanh đem lại lợi nhuận chưa cao, do đó các tổ chức tín dụng cần phải ưu đãi cho vay vốn với lãi suất thấp, thời gian dài, thủ tục nhanh gọn mới hỗ trợ được nhu cầu về vốn.Cần tập trung nguồn lực hiện có kết hợp với các nguồn lực từ TW, từ tỉnh, từ bên ngoài để hiện đại hoá gao thông trong xã, mở rộng các tuyến đường liên thôn, liên xã, hoàn thành nhanh việc giải phóng mặt bằng cho thi công các trục đường giao thông trong quy hoạch giao thông thị xã Phủ Lý nhằm tăng sự thu hút với hộ ngành nghề , tạo điều kiện tốt cho lưu thông hàng hoá dịch vụ. Về nguyên liệu cho sản xuất kinh doanh, hàng hoá cho dịch vụ. Đặc thù địa phương xã Liêm Chính sản xuất nông nghiệp cho chế biến nông sản ít chủ yếu sản xuất cho tiêu dùng do đó nguyên liệu đầu vào cho chế biến hầu hết phải mua ngoài. Trong khi đó, chi phí đầu vào chiếm phần lớn giá thành sản phẩm làm ra do đó khi có biến động về đầu vào gây ảnh hưởng xấu tới việc phát triển ngành nghề chế biến nông sản. Tương tự như vậy, ngành cơ khí cũng phải nhập mua máy móc trang thiết bị các nguyên liệu sắt thép từ ngoài. Bởi vậy cần có sự bảo hiểm hỗ trợ về giá đối với một số mặt hàng nguyên vật liệu chính. Hình thành mối quan hệ ràng buộc với các nhà cung cấp nguyên vật liệu như hỗ trợ tín dụng, bao tiêu sản phẩm theo hợp đồng kinh tế đề nhằm mục đích ổn định đầu vào cho sản xuất. Về thị trường, phải không ngừng gắn kết sản xuất với thị trường tiêu thụ bằng các biện pháp như: luôn nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi các hình thức kiểu dáng mẫu mã sản phẩm theo thị hiếu người tiêu dùng. Có hình thức khuyến mại với những khách hàng mua nhiều sản phẩm và với những khách hàng thân quen. Cần xúc tiến hoạt động Marketing nhằm quảng bá mở rộng sản phẩm trên thị trường qua các hội chợ, qua các phương tiện thông tin đại chúng. Thị trường là yếu tố sống còn với sản xuất dịch vụ, những biện pháp trên cần phải tiến hành đồng thời và liên tục có như vậy mới giảm được tính thụ động trong sản xuất kinh doanh ngành nghề. Về môi trường: để đảm bảo phát triển bền vững các hộ ngành nghề phải có ý thức hơn trong việc bảo vệ môi trường sống như môi trưòng nước, đất, không khí. Chất thải của các hộ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp luôn gây ô nhiễm môi trường gây ảnh hưởng xấu cho các thành viên trong hộ cũng như cho mọi người xung quanh. Chính quyền địa phương cũng cần chấn chỉnh lại hoạt động của các hộ gây ô nhiễm nghiêm trọng đến đời sốnga con người như tình trạng tiếng ồn, bụi, ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí, với các hộ muốn thay đổi công nghệ nhưng gặp khó khăn, địa phương cần hỗ trợ một phần để giúp hộ mua trang thiết bị máy móc công nghệ mới ít gây ô nhiễm có hiệu quả kinh tế – xã hội – môi trường hơn. Xã cũng cần hướng dẫn tuyên truyền về tác hại của ô nhiễm môi trường tới các mặt để các chủ hộ có sự nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng trong việc bảo vệ môi trường sống. Bên cạnh những giải pháp nêu trên các cấp, các ngành, các cơ quan đoàn thể cần làm tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Cần nắm bắt kịp thời xu thế vận động và phát triển của địa phương mà cụ thể là ngành nghề trong hộ nông dân mà đề ra những chính sách, biện pháp phù hợp kịp thời nhằm kích thích kinh tế hộ phát triển bền vững theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Trên đây là hướng giải pháp đưa ra để thúc đẩy phát triển ngành nghề trong hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính. Các giải pháp trên cần được phối hợp thực hiện một cách đồng bộ nhịp nhàng đạt được hiệu quả kinh tế- xã hội- môi trường. Chương iv Kết luận và kiến nghị 4.1. Kết luận Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là một trong những mục tiêu trọng tâm của đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước mà Đảng và Nhà nước, toàn dân ta đang lỗ lực thực hiện thành công đến năm 2020. Công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn với trọng tâm phát triển các ngành nghề chế biến nông sản – thực phẩm, phát triển công nghiệp và dịch vụ vùng nông thôn, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn tăng tỷ trọng của sản xuất công nghiệp, giải quyết việc làm cho người lao động, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân. Liêm Chính là xã có lợi thế lớn để phát triển ngành nghề trong các hộ nông dân, nằm ngay trên trung tâm kinh tế văn hoá - xã hội của tỉnh Hà Nam lại có lời thế về địa lý địa hình do đó mà ngành nghề hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính những năm qua phát triển không ngừng đạt được hiệu quả cao và ngày càng có vai trò quan trọng đối với hộ nông dân, đối với kinh tế xã. Hiện tại đất thổ cư và đất sản xuất nông nghiệp ngày càng thu hẹp ở Liêm Chính, tham gia làm ngành nghề là lối thoát cho phát triển và thực tế năm 2003 toàn xã Liêm Chính có 87.57% số hộ làm ngành nghề, tuy một số hộ nhận đất nông nghiệp để sản xuất nhưng giá trị đem lại của ngành nông nghiệp là không đáng kể, thu nhập làm ngành nghề trong các hộ là chủ yếu. Ngành nghề giải quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động trên địa bàn xã, trung bình một hộ ngành nghề giải quyết chỗ làm cho 2.52 lao động cao hơn nhiều so với sản xuất nông nghiệp, trong đó giải quyết cho 0.628 lao động làm thuê ngoài Với con số này nói lên rằng hộ ngành nghề đã tại việc làm cho lao động trong hộ, cho lao động thuê vào làm. Tổng giá trị sản phẩm sản xuất kinh doanh tạo ra của hộ ngành nghề không ngừng tăng lên qua các năm, bình quân mỗi nămtăng 12.78% đóng góp quan trọng vào tổng giá trị sản phẩm sản xuất kinh doanh của toàn xã Liêm Chính, vào quá trình phát triển của địa phương. Năm 2003 bình quân một hộ ngành nghề tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất kinh doanh đạt 126201 ngàn đồng gấp gần hai lần giá trị mà hộ thuần nông tạo ra trong năm từ đó tỷ trọng sản xuất nông nghiệp ngày càng giảm trong cơ cấu kinh tế xã Liêm Chính. Kinh tế ngành nghề phát triển cả về quy mô và số lượng, ngày càng có nhiều hộ nông dân chuyển từ làm nông nghiệp sang làm ngành nghề bởi vì trong nhận thức hiện nay ở đa số hộ nông dân sản xuất nông nghiệp không làm cho kinh tế hộ gia đình khá lên được, chỉ đủ ăn, lao động nông nghiệp lại vất vả hiệu quả thấp nên muốn phát triển kinh tế hộ cần phải tham gia làm kinh tế phi nông nghiệp có hiệu quả hơn. Đó là lý do làm cơ cấu kinh tế xã chuyển dịch dần theo hướng tỷ trọng sản xuất ngành nghề chiếm vị trí ngày càng cao trở thành một ngành quan trọng. Sản xuất ngành nghề đem lại thu nhập cao cho hộ nông dân, cho lao động, đạt 18079 ngàn đồng một hộ ngành nghề và 7111 ngàn đồng cho một lao động, mức thu nhập này cao hơn nhiều so với những hộ thuần nông. Thu nhập cao giúp hộ nông dân nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, giảm tỷ lệ nghèo đói trên địa bàn xã Liêm Chính và phấn đấu kinh tế ngành nghề phát triển sẽ giúp kinh tế địa phưng phát triển, giải quyết cơ bản tình trạng đói nghèo ở xã đến năm 2006. Thu nhập cao đã làm cho kinh tế hộ khá hơn nhiều so với trước kia. Ngành nghề phát triển đã đem lại hiệu quả cao cho hộ nông dân đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế của hộ nói riêng, phát triển kinh tế – xã hội ở Liêm Chính nói chung, giải quyết tốt việc làm tạo thu nhập cao và đó cũng là tinh thần của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên hoạt động ngành nghề trong hộ nông dân xã Liêm Chính chưa khai thác triệt để lợi thế của mình để đẩy nhanh quá trình phát triển ngành nghề, nhiều hộ còn gặp phải những khó khăn nhất định. 4.2. Kiến nghị Để phát triển ngành nghề cho hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam, cần phải tháo gỡ những khó khăn vướng mắc mà hộ gặp phải phát huy lợi thế sẵn có. + Đối với chính quyền: Nhà nước cần ban hành những chính sách phù hợp hướng trọng tâm vào hỗ trợ khuyến khích, ưu đãi cho ngành nghề phát triển. Nhà nước cần có chính sách thuế hợp lý, chính sách tín dụng linh hoạt lãi suất thấp, thủ tục vay nhanh gọn khuyến khích hộ nông dân vay vốn đâu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. UBND xã cần lỗ lực thực hiện các dự án phát triển cơ sở hạ tầng trong quy hoạch thị xã Phủ Lý đã được hội đồng nhân dân các cấp thông qua, ngoài ra chính quyền xã cần giảm giá điện ngay, tăng cường phục vụ các dịch vụ công cộng. + Xã cần phải tổ chức thực hiện các lớp tập huấn đào tạo nghề với các trung tâm cơ sở chuyên đào tạo ngành nghề. + Các cấp lãnh đạo trong xã phải có tâm huyết với địa phương, thường xuyên quan tâm theo dõi đánh giá các vấn đề kinh tế xã hội trên đại bàn xã để đề ra các giải pháp thực hiện và hướng dẫn giúp đỡ, khuyến khích tạo điều kiện cho ngành nghề phát triển. +Về phía chủ hộ sản xuất: các hộ sản xuất phải nhận thức rõ vai trò của mình, không ngừng nâng cao trình độ tay nghề đúc rút học hỏi kinh nghiệm lao động, kinh nghiệm làm ăn. Phải không ngừng tìm hiểu đánh giá nhu cầu thị hiếu cũng như sở thích của người tiêu dùng để tạo ra các sản phẩm hàng hoá sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Phiếu I Trường đại học nông nghiệp i – Hà Nội Khoa kinh tế & PTNT -----***------ Phiếu điều tra ngành nghề hộ nông dân xã Liêm Chính Rất mong được sự giúp đỡ của các hộ gia đình! Người phỏng vấn: Nguyễn Xuân Khoát Ngày phỏng vấn:.../.../2004 I. Thông tin cơ bản về hộ: - Họ và tên chủ hộ: Tuổi: ……. Nam Š Nữ Š - Địa chỉ: Xóm............................Thôn ......................................................... - Trình độ văn hóa:........................................................................................ - Tổng số nhân khẩu của hộ...... người - Số lao động của hộ................. người - Diện tích đất của hộ................m2 II. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ ngành nghề - Ngành nghề của hộ Chế biến nông sản thực phẩm Š : Mộc Š Bánh đa Š Bún Š Đậu phụ Š Xay xát Š Công nghiệp và xây dựng Š : Chế tạo công cụ,dụng cụ Š Chế tạo máy Š May Š ThêuŠ Buôn bán dịch vụ Š : Dịch vụ đầu vào cho sản xuất Š Buôn bán Š Dịch vụ tổng hợp Š Dịch vụ phi hàng hoá Š - Số năm hoạt động: 1 năm Š 1- 3 năm Š 3 - 5 năm Š 5 - 7 năm Š 7 - 10 năm Š >10 năm Š - Tổng số tiền mua sắm thiết bị, đầu vào xây dựng cơ bản đưa vào sản xuất là ... trđ - Tổng số vốn................ tr đ.Trong đó Vay Š Tự có Š Tiền Š Cố định Š Vốn 30 tr. Š - Năm 2003 vừa qua gia đình sản xuất bao nhiêu tháng? ………(tháng) - Giá trị sản phẩm sản xuất trong một tháng?............. tr.đ - Giá trị sản phẩm sản xuất trong một năm ?......... tr.đ - Tổng các khoản chi phí cho sản xuất trong 1 tháng?.. tr.đ - Giá sản phẩm... 1000đ/1 đơn vị sản phẩm - Giá bán sản phẩm hiện nay là: Cao Š Thấp Š Trung bình Š - Sản phẩm tiêu thụ: Chậm Š Nhanh Š Trung bình Š Trong gia đình Š Bán ở x㠊 Bán ở ngoài x㠊 Xuất khẩu Š - Sản phẩm của hộ được tiêu thụ theo hình thức: Bán buôn Š Bán lẻ Š Người tiêu dùng Š - Hộ có theo dõi thị trường về sản phẩm mình sản xuất hay không: Có Š Không Š - Giá đầu vào lên xuống thất thường: Đúng Š Không Š - Hộ có muốn mở rộng quy mô sản xuất: Có Š Không Š - Không có đủ vốn: Đúng Š Không Š - Vốn hiện nay đang vay bao nhiêu?... Với lãi suất/1tháng?... Vay từ nguồn nào? Vay theo: Dài hạn Š Trung hạn Š Ngắn hạn Š - Muốn vay ngân hàng hay các quỹ tín dụng, hiệp hội... theo: Dài hạn Š Trung hạn Š Ngắn hạn Š Vì sao? - Thuê lao động của hộ: Có Š Không Š - Số lao động thuê.................... người/ngày - Hộ gặp khó khăn gì trong sản xuất kinh doanh: Có Š Không Š - Khó làm khâu gì? - Thiếu máy móc thiết bị: Có Š Không Š - Thiếu kinh nghiệm quản lý: Có Š Không Š - Thiếu mặt bằng sản xuất: Có Š Không Š - Thiếu lao động có kỹ thuật: Có Š Không Š - Cơ chế chính sách chưa thật tốt: Có Š Không Š - Cơ sở hạ tầng địa phương còn kém: Có Š Không Š III. Tác động ngành nghề: - Tới hộ:Hộ có trang bị: xe máy Š Tủ lạnh Š Điện thoại Š Ô tô Š tivi,vi deoŠ Cho địa phương: Ô nhiễm môi trường: Đất Š Nước Š Không khí Š Tham gia hoạt động nhân đạo trên xã: Có Š Không Š Có đóng góp cho phát triển xã: Có Š Không Š Kinh tế Š Văn hoá Š IV. ý kiến nguyện vọng, đề đạt của hộ ……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………..... Phiếu ii Trường đại học nông nghiệp i – Hà Nội Khoa kinh tế & PTNT -----***------ Phiếu điều tra hộ thuần nông xã Liêm Chính Rất mong được sự giúp đỡ của các hộ gia đình! Người phỏng vấn: Nguyễn Xuân Khoát Ngày phỏng vấn:.../.../2004 I. Thông tin cơ bản về hộ: - Họ và tên chủ hộ: Tuổi: … Nam Š Nữ Š - Địa chỉ: Xóm............................Thôn ......................................................... - Trình độ văn hóa:........................................................................................ - Tổng số nhân khẩu của hộ...... người - Số lao động của hộ................. người LĐ thuê ngoài….. - Diện tích đất của hộ................m2 - Tổng thu nhập của hộ/năm …………. trđ. Trong đó: thu từ trồng trọt………. Chăn nuôi…… ….. thuỷ sản…….. - Hộ có các tiện nghi sinh hoạt: tivi Š tủ lạnh Š xe máy Š vi deo Š điện thoại Š ôtô Š -Theo gia đình sản xuất nông nghiệp có: Khá được không? Có ˆ Không ˆ Là nguyên nhân kém phát triển Có ˆ Không ˆ Nguyện vọng của gia đình: Muốn giảm sự phụ thuộc về nông nghiệp Muốn Š Không Š Muốn có ngành nghề phi nông nghiệp Muốn Š Không Š Muốn kinh tế phát triển lên Muốn Š Không Š ý kiến khác:…………………………………………………………… ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9140.doc
Tài liệu liên quan