Thực trạng công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008

LỜI MỞ ĐẦU Chi Bảo hiểm xã hội là khâu cuối cùng trong việc thực hiện các chế độ Bảo hiểm xã hội và liên quan trực tiếp đến cuộc sống của người lao động. Chỉ có chi đúng, chi đủ, chi kịp thời và an toàn đến tay người tham gia Bảo hiểm xã hội mới đảm bảo quyền lợi của họ cũng như phát huy hết vai trò của chính sách Bảo hiểm xã hội. Công tác chi trả Bảo hiểm xã hội phản ánh chất lượng của dịch vụ bảo hiểm xã hội và trong một trừng mực nhất định, nó còn thể hiện tính ưu việt của một chế độ xã hội.

doc99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3735 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thuộc hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh được thành lập ngày 1-10-1997, trên cơ sở tách ra từ Bảo hiểm xã hội Hà Bắc cũ, có nhiệm vụ thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội. Đến tháng 1-2003 thực hiện thêm chính sách Bảo hiểm y tế trên địa bàn tỉnh. Đối tượng tham gia bảo hiểm ngày càng đông vì vậy vấn đề chi trả cũng gặp nhiều khó khăn, chẳng hạn như: đối tượng quản lý và nguồn kinh phí chi trả phức tạp, phương tiện và chi phí chi trả chưa đáp ứng đủ nên ảnh hưởng không nhỏ đến sự an toàn trong quá trình vận chuyển. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên và mong muốn được tìm hiểu và đóng góp một số ý kiến nhằm góp phần giải quyết những khó khăn đó, trong thời gian thực tập tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh nên em chọn đề tài: “Thực trạng công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008” để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Mục đích của đề tài là nghiên cứu, đánh giá công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội bắt buộc hiện nay ở Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh không bao gồm Bảo hiểm y tế. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác này trong thời gian tới. Kết cấu của chuyên đề, ngoài lời mở đầu và kết luận bao gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về Bảo hiểm xã hội và công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội. Chương II: Thực trạng công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008. Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh. Trong quá trình thực tập và viết chuyên đề tốt nghiệp, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô, các chú tại cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh và cô giáo hường dẫn Th.S Nguyễn Thị Chính. Bản thân em rất cố gắng, xong do thời gian và trình độ còn hạn chế, nên bài viết của em khó tránh khỏi những thiếu xót nhất định. Em mong được sự góp ý của các cô chú, các thày cô giáo để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC CHI TRẢ CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI 1.1. Khái quát chung về Bảo hiểm xã hội 1.1.1. Sự cần thiết và vai trò của Bảo hiểm xã hội 1.1.1.1. Sự cần thiết của Bảo hiểm xã hội Để thỏa mãn nhu cầu tối thiểu của con người như ăn, mặc, ở… con người phải lao động tạo ra những sản phẩm cần thiết. Của cải của xã hội càng nhiều thì mức thỏa mãn của con người càng cao, có nghĩa là việc thỏa mãn nhu cầu phụ thuộc vào khả năng lao động của con người. Trong thực tế cuộc sống, không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện sức khỏe, khả năng lao động và những may mắn khác để hoàn thành nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo cho mình và gia đình một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Ngược lại, người nào cũng gặp phải những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, thai sản, tai nan lao động, già yếu…, thiếu việc làm do ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác… khi rơi vào các trường hợp đó nhu cầu của con người không thế mà mất đi. Trái lại có cái còn tăng lên, thậm trí còn xuất hiện thêm nhu cầu mới. Bởi vậy, muốn tồn tại con người và xã hội phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau. Để khắc phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, người lao động phải được bảo trợ từ cộng đồng và xã hội. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển thành nhiều hình thức khác nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và công việc xã hội của nhà nước dưới các chế độ xã hội khác nhau. Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống Bảo hiểm xã hội đã có những cơ sở hình thành và phát triển. Qúa trình công nghiệp hóa làm cho đội ngũ làm công ăn lương tăng lên, cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập do lao động làm thuê đem lại. Sự hẫng hụt về tiền lương trong các trường hợp ốm đau, thai sản, già yếu, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, rủi ro… đã trở thành mối đe dọa đối với cuộc sống bình thường của những người không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền lương. Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc những người lao động phải tìm cách giải quyết bằng những hành động tương thân tương ái, đồng thời đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp để đảm bảo cuộc sống cho họ. Con người là trụ cột chính trong xã hội. Trong cuộc sống cũng như trong hoạt động kinh doanh thường gặp phải những rủi ro mà không ai có thể tránh khỏi. Khi gặp những rủi ro thì nhu cầu đối với con người và trong sản xuất không mất đi thậm trí còn tăng lên rất nhiều. Chính vì vây, cuộc sống của con người càng khó khăn hơn. Còn sản xuất thậm trí bị đình đốn. Khi đó người lao động trích một phần tiền lương, tiền công và người sử dụng lao động trích một phần lợi nhuận tạo thành một quỹ chung. Nhà nước cũng tham gia đóng góp vào quỹ. Qũy này dùng để hỗ trợ những người lao động khi không may họ bị tai nạn, ốm đau, gia cảnh khó khăn giúp họ ổn định cuộc sống, và Nhà nước cũng đứng ra quản lý quỹ này để đảm bảo tính khách quan, tính công bằng và chính xác. Như vậy, sự ra đời của BHXH là một tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của bất kỳ ai và để đáp ứng với sự phát triển chung của xã hội, đòi hỏi BHXH ngày càng được củng cố và hoàn thiện trong mỗi quốc gia cũng như trên toàn thế giới. BHXH giúp cho người lao động tham gia bảo hiểm khi gặp rủi ro nhanh chóng ổn định cuộc sống, tạo tâm lý ổn định và yên tâm làm việc để từ đó giúp người lao động nâng cao năng suất lao động, góp phần tăng thu nhập của họ trong tương lai đồng thời kích thích những người lao động chưa tham gia BHXH, hãy hăng hái tham gia. Và BHXH giúp cho sản xuất trong doanh nghiệp diễn ra liên tục, tránh được trường hợp đình công, đập phá máy móc của người lao đông. 1.1.1.2. Vai trò của Bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, vai trò đó được thể hiện qua các mặt sau: Đối với người lao động: Trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang ngày càng hoàn thiện quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa thì những “rủi ro” như ốm đau, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, thai sản, mất việc làm… lại diễn ra một cách thường xuyên và ngày càng phổ biến hơn và phức tạp hơn. Khi những rủi ro này xảy ra sẽ gây ra những khó khăn cho người lao động cả về vật chất lẫn tinh thần, ảnh hưởng không tốt cho cả xã hội. Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, BHXH sẽ góp phần giúp cho cá nhân người lao động gặp phải rủi ro, bất hạnh bằng cách tạo ra cho họ những thu nhập thay thế, những điều kiện lao động thuận lợi… giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, tạo cho họ một niềm tin vào tương lai. Từ đó, góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao động cũng như chất lượng công việc cho doanh nghiệp nói riêng và cho toàn xã hội nói chung. - Đối với người sử dụng lao động: Để có được sản phẩm phục vụ cho cuộc sống của con người và sự phát triển của xã hội thì cần phải có người tạo ra sản phẩm và nhờ vào quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm cần thiết cho con người, cho xã hội. Những người biết vận dụng sức lao động của công nhân để tạo ra sản phẩm cho xã hội đó chính là người sử dụng lao động. Muốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh được đảm bảo thì người chủ sử dụng lao động phải tạo được mối quan hệ tốt với người lao động, giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của người sử dụng lao động thật tốt để người lao động yên tâm tham gia lao động sản xuất và có niềm tin vào cuộc sống, từ đó lao động sản xuất hăng hái hơn, tạo ra nhiều sản phẩm tốt hơn làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của người sử dụng lao động đạt kết quả cao. Muốn vây, chủ sử dụng lao động phải tham gia đóng BHXH cho người lao động của mình để BHXH đảm bảo những khoản chi trả cần thiết, kịp thời đến người lao động khi họ gặp phải những rủi ro bất chắc như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp... Việc tham gia đóng BHXH cho người lao động của chủ sử dụng lao động là góp phần vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát triển hơn, nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp cũng như nâng cao thu nhập cho người lao động và góp phần vào phát triển kinh tế. - Đối với nền kinh tế: Góp phần gắn bó giữa giới chủ và giới thợ từ đó làm cho thị trường lao động phát triển lành mạnh, bền vững. Đặc biệt là mâu thuẫn vốn có của giới chủ và giới thợ về cơ bản được giải quyết và đây là tiền đề rất quan trọng giúp cho người lao động nâng cao năng suất lao động, phát huy sáng tạo, góp phần làm cho sản xuất ngày càng phát triển. Nhờ có chính sách BHXH mà quỹ BHXH được hình thành và tồn tích lại theo thời gian và bắt đầu những năm 60 của thế kỷ 20 quỹ BHXH ở các nước, đặc biệt là các nước phát triển đã trở thành một khâu tài chính trung gian vô cùng quan trọng góp phần đầu tư, phát triển, tăng trưởng kinh tế cho đất nước. - Đối với xã hội: Thứ nhất: cần phải khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt động dịch vụ, cơ quan BHXH là một “doanh nghiệp” sản xuất ra những dịch vụ “bảo hiểm” cho người lao động, một loại dịch vụ mà bất kỳ ai cũng cần đến. Thứ hai: với tư cách là một trong những chính sách xã hội của Nhà nước, BHXH sẽ bảo hiểm cho người lao động, hoạt động BHXH sẽ giải quyết những “trục trặc”, “rủi ro” xảy ra đối với người lao động góp phần phục hồi năng lực làm việc, khả năng sáng tạo của sức lao động. Sự góp phần này tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động cá nhân, đồng thời góp phần tích cực vào nâng cao năng suất lao động xã hội. BHXH đã gián tiếp tác động đến chính sách tiêu dùng của quốc gia làm tăng sự tiêu dùng cho xã hội. Thứ ba: với tư cách là quỹ tiền tệ tập trung, nhằm tác động mạnh đến hệ thống tài chính ngân sách Nhà nước, tới hệ thống tín dụng tiền tệ ngân hàng. Chính vì vậy, đặt ra một yêu cầu cho quỹ BHXH là phải tự bảo tồn và phát triển quỹ bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hình thức đầu tư phát triển tiền “nhàn rỗi” của quỹ. Phần này có tác động không nhỏ tới sự phát triển của đất nước, góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, góp phần tăng thu nhập cá nhân cho người lao động nói riêng và tăng tổng sản phẩm quốc nội cũng như tăng tổng sản phẩm quốc dân nói chung. Thứ tư: BHXH góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội, là công cụ phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Sự phân phối lại thu nhập này được phân phối theo hai cách: là phân phối theo chiều dọc và phân phối theo chiều ngang; phân phối giữa những người khỏe với người già, giữa nam với nữ, giữa người đang được hưởng trợ cấp với người chưa được hưởng trợ cấp và phân phối lại theo chiều ngang là mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế xã hội, giữa người có thu nhập cao với người có thu nhập thấp. Về mặt kinh tế, nhờ có tổ chức phân phối lại thu nhập mà đời sống của người lao động và gia đình họ luôn được đảm bảo trước những bất trắc, rủi ro xã hội. Về mặt xã hội do có sự “san sẻ rủi ro” của BHXH, người lao động chỉ phải đóng một khoản nhỏ trong thu nhập của mình vào quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn trang trải những rủi ro xảy ra, ở đây BHXH thực hiện nguyên tắc “lấy số đông bù số ít”. Tuy nhiên, tính kinh tế và xã hội của BHXH không tách rời nhau mà đan xen lẫn nhau. Khi nói đến bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình họ là nói lên tính xã hội của BHXH, ngược lại khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại đủ trang trải mọi rủi ro xã hội thì đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH. 1.1.2. Bản chất, chức năng và tính chất của Bảo hiểm xã hội 1.1.2.1. Bản chất của Bảo hiểm xã hội Với những vai trò của BHXH đã nêu ở trên thì bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây: - BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh tế của mỗi nước. - Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao đông- bệnh nghề nghiệp… Hoặc có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như tuổi già, thai sản… Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động. Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp những biến cố, rủi ro, sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ của Nhà nước. - Mục tiêu của BHXH là thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Nếu xét về yếu tố lịch sử thì BHXH được hình thành từ những năm 50 của thế kỷ 19. Tuy nhiên bây giờ vẫn chưa có một khái niệm thật chuẩn mực về BHXH vì các nhà khoa học và các nhà nghiên cứu vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau: Nếu đứng trên góc độ tài chính: thì BHXH là quá trình san sẽ rủi ro, san sẻ tài chính giữa các bên tham gia theo quy định thống nhất của pháp luật Nhà nước. Sự san sẻ rủi ro giữa những người khỏe mạnh với những người gặp sự kiện bảo hiểm, những người giàu với những người nghèo thông qua sự đóng góp vào quỹ tiền tệ tập trung, nằm ngoài ngân sách Nhà nước. Qũy này được hình thành chủ yếu do người lao động và người sử dụng đóng góp là chủ yếu, Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm và từ các nguồn khác nữa. - Nếu đứng trên góc độ pháp lý: BHXH là một cơ chế pháp định bảo vệ người lao động và gia đình họ thông qua việc sử dụng tiền đóng góp của người lao động tham gia bảo hiểm và gia đình họ khi người lao động gặp rủi ro. Khi người lao động hoặc gia đình họ gặp phải rủi ro, hoặc sự kiện bảo hiểm thì quỹ BHXH sẽ chi trả một khoản tiền giúp họ ổn định cuộc sống. - Theo tổ chức lao động quốc tế ILO: “BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với tất cả các thành viên của mình với những khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm nhiều về thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già và chết, y tế, thai sản”. - Thế giới quan niệm: “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội”. - Mối quan hệ giữa các bên tham gia BHXH cũng được xuất phát trên cơ sở quan hệ lao động và quan hệ quản lý xã hội, cụ thể: + Bên tham gia BHXH: có thể bao gồm người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước và có thể chỉ có người lao động và nhà nước. + Bên BHXH: thông thường là cơ quan chuyên trách do nhà nước đứng ra thành lập và bảo trợ, cơ quan này tổ chức hoạt động theo đúng khuôn khổ pháp luật. + Bên được bảo hiểm chính là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. Cơ sở chủ yếu của các mối quan hệ giữa các bên chính là quỹ tài chính BHXH vì quỹ này do tất cả các bên tham gia đóng góp và mức đóng của từng bên là do sự thỏa thuận giữa các bên sau đó được tiến hành luật hóa và cụ thể thực hiện. Đứng trên bình diện xã hội thì BHXH là quá trình sử dụng một phần tổng sản phẩm quốc nội để đảm bảo an toàn về kinh tế cho người lao động và toàn xã hội. Bởi vậy, quỹ tài chính BHXH là điều kiện tiên quyết để san sẻ rủi ro, san sẻ tài chính cho các bên tham gia. Mục đích chính của BHXH là nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của người lao động và gia đình họ trong trường hợp người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục đích này được tổ chức lao động quốc tế cụ thể hóa như sau: + Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất đi để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ. + Chăm sóc sức khỏe chống lại bệnh tật. + Xây dựng điều kiện sống đáp ứng nhu cầu của dân cư, nhu cầu đặc biệt của người già và trẻ em. Tất cả những mục đích nói trên, thế giới ngày nay đều thừa nhận và cho rằng góp phần đảm bảo ASXH cho từng nước và toàn thế giới. Qua đây có thể thấy, BHXH góp phần thực hiện mục tiêu đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ. BHXH là quá trình sử dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm trong nước(GDP) để thỏa mãn nhu cầu an toàn kinh tế cho người lao động và an toàn xã hội. BHXH mang cả bản chất kinh tế và cả bản chất xã hội. 1.1.2.2. Chức năng của Bảo hiểm xã hội - Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì quy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm hoặc mất khả năng lao động tạm thời, làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn hưởng theo đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH. - Phân phối và phân phối lại thu nhập giữa người lao động tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà có cả người sử dụng lao động. Các bên tham gia phải đóng góp vào quỹ BHXH. Qũy này được dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Như vậy theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những người có thu ngập cao và những người có thu nhập thấp… Thực hiện chức năng này có nghĩa BHXH đã góp phần thực hiện công bằng xã hội. - Góp phần kích thích người lao động hăng hái tham gia lao động sản xuất từ đó nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khỏe mạnh thì hăng hái sản xuất, lao động thì được chủ sử dụng lao động trả tiền công, khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và khi về già thì được BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ luôn được đảm bảo giúp họ yên tâm lao động sản xuất. Giúp tăng năng suất lao động xã hội. - Gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người lao động và xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động. Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó được điều hòa và giải quyết. Đối với Nhà nước và xã hội thì chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn. 1.1.2.3 Tính chất của BHXH - Tính khách quan phát sinh không đồng đều theo không gian và thời gian: Trong quá trình lao động sản xuất, người lao động có thể gặp nhiều biến cố, rủi ro khi đó người sử dụng lao động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn không kém như: sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, vấn đề tuyển dụng và hợp đồng lao động luôn được đặt ra để thay thế…Sản xuất càng phát triển thì rủi ro đối với người lao động càng nhiều và dẫn đến mối quan hệ chủ thợ ngày càng gay gắt. Để giải quyết vấn đề này nhà nước đứng ra giải quyết thông qua BHXH. BHXH ra đời hoàn toàn mang tính khách quan trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước. - BHXH có tính ngẫu nhiên: Tính chất này gắn chặt với tính ngẫu nhiên khi phát sinh sự kiện bảo hiểm. Phát sinh không đồng đều theo không gian và thời gian. Có một số sự kiện mang tính ngẫu nhiên vào thời điểm nhưng mang tính tất nhiên về thời gian. Từ những phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian và không gian ảnh hưởng đến mức trợ cấp BHXH theo từng chế độ cho người lao động. - BHXH vừa có tính kinh tế vừa có tính xã hội, vừa có tính nhân đạo nhân văn + Tính kinh tế: tính kinh tế được thể hiện ở chỗ. Qũy BHXH muốn được hình thành bảo toàn và tăng trưởng quỹ thì phải có sự đóng góp của các bên tham gia, phải được quản lý chặt chẽ và đúng mục đích. Mức đóng góp của các bên được tính rất cụ thể dựa trên sác xuất rủi ro, thiệt hại của tập hợp người tham gia BHXH. Đối với người sử dụng lao động, việc tham gia đóng góp vào quỹ BHXH cho người lao động mà họ sử dụng. Xét dưới góc độ kinh tế họ cũng có lợi vì không phải bỏ ra một khoản tiền cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Với nhà nước, BHXH làm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Đồng thời quỹ BHXH nhàn dỗi còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Và tính kinh tế còn được thể hiện đối với người lao động tham gia BHXH là có tham gia đóng góp mới được hưởng trợ cấp. Đồng thời về cơ bản đóng nhiều thì hưởng nhiều, đóng ít thì hưởng ít. + Tính xã hội: nhìn chung mọi người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH và BHXH có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi người lao động (tuy nhiên trong thời kì đầu chỉ áp dụng đối với công nhân viên chức hưởng lương). BHXH bảo hiểm cho mọi đối tượng lao động trong tất cả các ngành nghề, các vùng miền, thành phần kinh tế, địa phương… Điều đó thể hện tính xã hội rất rộng lớn. Bất kì một loại hình bảo hiểm nào kể cả bảo hiểm y tế… đều có tính nhân đạo và nhân văn, điều này được cả thế giới thừa nhận vì bảo hiểm nói chung và BHXH nói riêng luôn luôn đứng bên cạnh mỗi cá nhân, doanh nghiệp trong những lúc khó khăn nhất. 1.1.3. Đối tượng Bảo hiểm xã hội Tuy BHXH ra đời rất lâu, nhưng đối tượng Bảo hiểm xã hội vẫn có nhiều quan điểm chưa thống nhất. Đôi khi còn nhầm lẫn giữa đối tượng của BHXH với đối tượng tham gia BHXH. BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, bệnh tật, tai nạn, già yếu… Chính vì vậy, đối tượng của BHXH là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người tham gia BHXH. Còn đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động.Tuy vậy, tùy theo điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc là một bộ phận người lao động tham gia BHXH. Người lao động tham gia BHXH nhằm đảm bảo cuộc sống cho chính họ và gia đình họ khi họ gặp phải rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm. Còn người sử dụng lao động họ tham gia bảo hiểm để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng nhằm ổn định sản xuất. Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH đều thực hiện BHXH đối với các viên chức Nhà nước, những người làm công ăn lương. Vì khi đó BHXH chưa phát triển và những đối tượng này chỉ có một khoản thu nhập cố định đó là tiền lương của họ. Nếu họ không may gặp phải rủi ro, hoặc sự kiện bảo hiểm thì họ sẽ bị mất thu nhập, và không thể trang trải cuộc sống. Khi tham gia BHXH nếu họ không may gặp phải sự kiện bảo hiểm thì được quỹ BHXH chi trả giúp họ ổn định cuộc sống. 1.1.4 Các chế độ Bảo hiểm xã hội Chế độ BHXH là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với người lao động. Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy định được pháp luật hóa về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng cho từng trường hợp BHXH cụ thể. Chế độ BHXH thường được biểu hiện dưới dạng các văn bản pháp luật và dưới luật, các thông tư, điều lệ… Tuy nhiên, dù có cụ thể đến đâu thì các chế độ BHXH cũng khó có thể bao hàm được đầy đủ mọi chi tiết trong quá trình thực hiện chính sách BHXH. Vì vậy, khi thực hiện mỗi chế độ thường phải nắm vững những vấn đề mang tính cốt lõi của chính sách BHXH, để đảm bảo tính đúng đắn và nhất quán trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH. Theo khuyến nghị của ILO đã nêu trong Công ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm: Chăm sóc y tế Trợ cấp ốm đau Trợ cấp thất nghiệp Trợ cấp tuổi già Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp Trợ cấp gia đình Trợ cấp sinh đẻ Trợ cấp khi tàn phế Trợ cấp tử tuất Tùy theo điều kiện kinh tế xã hội của từng nước mà hệ thống này có thể thực hiện được toàn bộ hoặc cũng có thể thực hiện được một số chế độ nào đó. Nhưng một quốc gia được gọi là có hệ thống chế độ BHXH ít nhất thực hiện được 3 chế độ trong đó ít nhất phải có một trong năm chế độ sau chế độ (2) Trợ cấp ốm đau; (3) Trợ cấp thất nghiệp; (4) Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; (8) Trợ cấp cho người tàn phế; (9) Trợ cấp tử tuất. Có nhiều yếu tố khoa học tác động đến điều kiện, thời gian và mức hưởng trợ cấp trong từng chế độ, cũng như khả năng áp dụng bao nhiêu chế độ trong một hệ thống: như tiền lương, thu nhập của người lao đông, hệ thống tài chính quốc gia… Thời gian hưởng và mức hưởng trợ cấp BHXH nói chung phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và thời gian đóng phí BHXH của người lao động trên cơ sở tương ứng giữa đóng và hưởng. Đồng thời khả năng thanh toán còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán của quỹ tài chính BHXH. Để hình thành hệ thống chế độ này cần phải dựa trên những cơ sở nhất định như: cơ sở sinh học, cơ sở môi trường và điều kiện lao động, cơ sở kinh tế xã hội, luật pháp của từng nước. Sau đây là đặc điểm hệ thống các chế độ: - Chế độ chăm sóc y tế: Người lao động là người tạo ra của cải vật chất hoặc tinh thần cho xã hội bởi vậy muốn xã hội phát triển ổn định, bền vững thì trước hết quan tâm đến sức khỏe cho họ kể cả khi bình thường hay khi ốm đau, tai nạn. Bởi vậy, tổ chức lao động quốc tế coi đây là chế độ đầu tiên trong 9 chế độ BHXH. Mục đích là để bảo vệ và phục hồi cải thiện sức khỏe cho người lao động, từ đó tái sản xuất sức lao động cho họ giúp họ làm việc một cách bình thường. Đồng thời còn giúp bản thân gia đình họ ứng phó với các nhu cầu phát sinh cá nhân để đảm bảo cuộc sống. Chế độ này có đối tượng rất rộng bởi vì không chỉ có người lao động tham gia BHXH mà thậm chí cả vợ hoặc chồng con cái họ bởi lẽ nếu những người này được chăm sóc y tế có cuốc sống khỏe mạnh bình thường thì bản thân người lao động cũng yên tâm, phấn khởi tham gia sản xuất. Góp phần nâng cao năng suất lao động cá nhân. Đây là chế độ đặc thù trong 9 chế độ có đối tượng rộng nhưng BHXH sẽ tiến hành chi trả trợ cấp theo tất cả những chi phí phát sinh trong suốt thời gian điều trị chăm sóc những người được bảo vệ. Tuy nhiên để tránh chuộc lợi BHXH người ta quy định người tham gia BHXH phải có ít thất 1 thời gian nhất định có đóng BHXH. Đây là chế độ BHXH ngắn hạn vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính chất không hoàn trả. Những nước thiết lập quỹ BHYT thì mức phí phải nộp phụ thuộc chủ yếu 3 yếu tố: số người tham gia BHXH; số người được chăm sóc y tế hàng năm; chi phí bình quân một người được chăm sóc y tế hàng năm. - Chế độ trợ cấp ốm đau: Ốm đau là loại rủi ro rất phổ biến trong cuộc sống của mỗi con người và hầu như ai cũng gặp phải. Khi bị ốm đau bản thân người ốm và gia đình gánh chịu những chi phí phát sinh và nếu tham gia BHXH thì chế độ chăm sóc y tế gánh vác. Nếu ốm đau còn điều trị dài ngày thì nghỉ ốm sẽ mất thu nhập và thu nhập bị gián đoạn, khoản chế độ này sẽ được bù đắp hoặc thay thế bởi chế độ ốm đau. Bởi vậy mục đích của chế độ này là nhằm đảm bảo tính liên tục về thu nhập cho người lao động và gia đình họ, giúp họ ổn định cuộc sống. Việc quy định mức trợ cấp và thời gian trợ cấp tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của từng nước. Chế độ này cũng là chế độ trợ cấp ngắn hạn, vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính không hoàn trả. - Chế độ trợ cấp thất nghiệp Thất nghiệp là loại rủi ro nghề nghiệp mà trong cơ chế thị trường người lao động rất hay gặp phải đây là loại rủi ro có tác động rất lớn đến tất cả vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước… thất nghiệp do nhiều nguyên nhân khác nhau và hậu quả vô cùng nặng nề bởi vậy ngày nay tất cả các nước, tất cả các nhà kinh tế, nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng thất nghiệp là vấn đề nan giải khó giải quyết. Thất nghiệp luôn đi đôi với lạm phát. Mục đích của chế độ này góp phần ổn định thu nhập và tâm lý cho người lao động cũng như gia đình họ giúp người lao động bị thất nghiệp sớm có cơ hội và điều kiện quay trở lại thị trường lao động. Góp phần ổn định kinh tế xã hội của mỗi nước bởi vì thất nghiệp ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả những lĩnh vực này… Nếu quan sát thực trạng triển khai Bảo hiểm thất nghiệp ở tất cả các nước trên thế giới thì mức trợ cấp thất nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào những yếu tố sau: quỹ BHXH, tình hình biến động của thị trường lao động; chế độ tiền lương của quốc gia. Điều kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ. Mức trợ cấp thất nghiệp luôn luôn nhỏ hơn tiền lương, tiền công trước khi bị thất nghiệp nhưng phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động và gia đình họ trong thời gian người lao động bị thất nghiệp. Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp ngắn hay dài phụ thuộc vào thời gian tham gia BHXH của người lao động trước đó và tổ chức lao động khuyến cáo thời gian trợ cấp có thể 13-26 tuần trong 1 năm. Chế độ trợ cấp thất nghiệp cũng được coi là chế độ trợ cấp ngắn hạn, vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính không hoàn trả. Hiện nay, Bảo hiểm thất nghiệp được triển khai dưới 2 dạng chủ yếu đó là: triển khai độc lập với BHXH hoặc coi đó là một chế độ của BHXH. - Chế độ trợ cấp TNLĐ-BNN Đây là một trong những chế độ được triển khai sớm nhất trên thế giới cũng như ở Việt Nam bởi vì nó đáp ứng nhu cầu thực tế trước mắt của mọi người lao động, bởi lẽ đây là loại rủi ro có thể phát sinh bất cứ lúc nào, ở đâu. Hiện nay, trên thế giới có 178 nước triển khai chế độ này. Mục đích là góp phần đảm bảo thu nhập cho người lao độ._.ng, gia đình họ khi không may gặp tai nạn lao động…, phục hồi khả năng lao động cho người lao động từ đó giúp họ sớm quay lại thị trường lao động, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cả người lao động và người sử dụng lao động, trách nhiệm này thực hiện cả khi người lao động còn khỏe mạnh lẫn cả khi bị tan nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Đây là chế độ vừa mang tính ngắn hạn, vừa mang tính dài hạn nên việc quản lý rất khó khăn nó liên quan đến ngành nghề, giới tính, thời điểm xảy ra tai nạn, nơi sảy ra tai nạn… Bởi vậy khi luật hóa chế độ này phải hết sức cụ thể và sát với thực tiễn. - Trợ cấp hưu trí Trong hệ thống 9 chế độ thì chế độ trợ cấp hưu trí là một chế độ quan trọng nhất. Vì chế độ này liên quan đến tất cả người lao động trong xã hội từ khi bước vào độ tuổi lao động đến khi người ta chết. Đặc biệt là mức đóng và mức hưởng của chế độ này luôn luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng mức phí và trong tổng quỹ BHXH. Ngoài ra hoạt động thu, chi của chế độ này cũng có liên quan đến tất cả các cơ quan, các hoạt động BHXH. Chính vì vậy, chế độ hưu trí được đa số các nước áp dụng và cũng là một chế độ được thực hiện sớm nhất. Đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người lao động sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ lao động đối với xã hội. Thể hiện sự quan tâm của chính phủ, người sử dụng lao động không chỉ khi họ còn trẻ khỏe mà cả khi họ đã già yếu không thể lao động được nữa. Sự quan tâm này không chỉ thuần túy là nghĩa vụ và trách nhiệm mà còn là đạo lý của mỗi dân tộc, mỗi một chế độ chính trị xã hội. Ngoài ra, giúp cho người lao động tiết kiệm cho bản thân ngay từ trong quá trình lao động để đảm bảo ổn định cuộc sống khi về già, từ đó giảm bớt gánh nặng cho gia đình và người thân và cho xã hội. Đối tượng, mức trợ cấp và khoảng thời gian trợ cấp phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội của từng nước. Chế độ hưu trí là chế độ trợ cấp dài hạn được thực hiện ngoài quá trình lao động. Số tiền trợ cấp thông thường được cơ quan BHXH chi trả định kỳ theo tháng cho người về hưu. Chế độ hưu trí là chế độ mang tính chất hoàn trả và ít nhiều có sự tách biệt qúa trình đóng và hưởng vì người lao động tham gia đóng phí bảo hiểm trong suốt quá trình lao động và được hưởng trợ cấp khi về hưu. Điều này thể hiện tính kế thừa liên tục giữa các thế hệ người lao động để hình thành quỹ hưu trí. Vì vậy, việc xác định mức đóng, mức hưởng rất phức tạp. - Trợ cấp gia đình Chế độ này nhằm hỗ trợ cho người lao động đông con có điều kiện vật chất tối thiểu cần thiết để chăm sóc và nuôi dạy con cái. Khuyến khích người lao động tham gia BHXH và tạo nguồn lao động tương lai. Góp phần tạo sự bình đẳng trong xã hội và từ đó tạo sự ASXH, tính đến hết năm 2006 trên thế giới có trên 86 nước thực hiện trợ cấp gia đình. Đây là chế độ liên quan đến việc làm vì vậy đối tượng được trợ cấp chỉ bao gồm những người đang lao động và gia đình họ. Trong đó, chỉ có những lao động đông con mới được hưởng trợ cấp và trách nhiệm chủ yếu thuộc về người sử dụng lao động. Những người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đối với người lao động đông con gặp hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống bằng cách bổ xung các quyền lợi cho người được trợ cấp. Cụ thể là bổ sung vào tiền lương, tiền công thậm trí là bằng hiện vật thiết yếu. Tuy nhiên phần trợ cấp này là bao nhiêu và hình thức chi trả như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước. - Trợ cấp thai sản So với nam giới thì lao động nữ mang một số đặc điểm là thể chất tình trạng sức khỏe và tâm sinh lý có những đặc điểm khác hẳn với nam giới và thông thường là kém hơn nam giới. Bởi vậy, nó liên quan đến công việc mà nữ giới đảm nhiệm. Những công việc này ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng làm vợ, làm mẹ của lao động nữ. Nên nó chịu ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách BHXH. Vậy khi thiết kế chính sách BHXH cần phải chú ý đến chính sách sử dụng lao động nữ và chính sách đãi ngộ đối với họ. Trong hệ thống chính sách BHXH, lao động nữ không chỉ là đối tượng tham gia BHXH được hưởng trợ cấp mà họ còn là đối tượng nghiêm cứu để hoàn thành toàn bộ hệ thống BHXH nói chung. Thực hiện tốt chế độ trợ cấp thai sản sẽ bù đắp thay thế được nguồn thu nhập cho lao động nữ khi họ sinh đẻ và nuôi con nhỏ. Tái sản xuất cho lao động nữ và những thế hệ lao động kế tiếp, góp phần thực hiện quyền bình đẳng nam nữ và quyền phụ nữ nói chung. - Trợ cấp tàn tật Thực hiện chế độ này nhằm góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi người lao động không may bị tàn tật, từ đó góp phần đảm bảo an sinh xã hội, khuyến khích người lao động hăng hái tham gia BHXH. Đây cũng là một chế độ thể hiện tính nhân đạo nhất. Chế độ này vừa mang tính hoàn trả vừa mang tính không hoàn trả. Tuy nhiên, đây cũng là chế độ rất dễ bị lạm dụng trong khâu giám định y khoa. - Trợ cấp tử tuất Đây là một chế độ bảo hiểm nhân đạo nhất trong tổng số 9 chế độ BHXH cho nên hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thực hiện, thực hiện chế độ này nhằm góp phần khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống cho gia đình người lao động không may bị chết. Khuyến khích những người còn sống tham gia BHXH và góp phần đảm bảo ASXH cho đất nước. Chế độ này thường được các nước chia làm 2 phần: + Trợ cấp mai táng, chon cất cho người lao động bị chết. + Trợ cấp dài hạn cho vợ hoặc chồng, bố mẹ 2 bên theo luật quy định nhưng mức trợ cấp tối đa cho những người này không vượt quá tiền lương đang làm việc của người lao động khi còn sống. 1.1.5. Qũy Bảo hiểm xã hội 1.1.5.1 Khái niệm và đặc điểm của quỹ BHXH - Khái niệm: quỹ BHXH là quỹ tiền tệ độc lập, tập trung, nằm ngoài ngân sách Nhà nước. Qũy BHXH được hình thành chủ yếu từ sự đóng bằng tiền của các bên tham gia BHXH nhằm mục đích chi trả cho những người được BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do gặp các rủi ro, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. - Đặc điểm của quỹ BHXH: + Qũy BHXH ra đời và tồn tại với mục đích ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ. Qũy này hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nên quản lý theo nguyên tắc cân bằng thu-chi. + Phân phối quỹ BHXH mang tính chất hoàn trả và không hoàn trả. Tính hoàn trả thể hiện ở chỗ, người lao động là người tham gia và đóng BHXH đồng thời họ là đối tượng được nhận trợ cấp, họ được chi trả từ quỹ BHXH cho dù chế độ, thời gian trợ cấp và mức trợ cấp của mỗi người sẽ khác nhau tùy thuộc vào biến cố hoặc rủi ro họ gặp phải cũng như mức đóng và thời gian đóng BHXH của họ. Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ cùng tham gia và đóng BHXH, nhưng có người được hưởng trợ cấp nhiều lần, nhiều chế độ. Nhưng có người được hưởng ít lần hơn, thậm trí không được hưởng. Chính vì đặc điểm này mà một số đối tượng được hưởng trợ cấp BHXH nhiều hơn mức đóng của họ và ngược lại. Điều đó thể hiện tính xã hội của toàn bộ hoạt động BHXH. + Qúa trình tích lũy để bảo tồn quỹ và đầu tư quỹ là mang tính nguyên tắc cụ thể. Đặc điểm này xuất phát từ chức năng cơ bản nhất của BHXH là đảm bảo an toàn về thu nhập cho người lao động. Vì vậy, BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính, giảm giá trị do yếu tố lạm phát. Do đó, bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH trở thành yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt động của BHXH. + Qũy BHXH là hạt nhân của tài chính BHXH, và nó là khâu tài chính trung gian cùng với tài chính doanh nghiệp và NSNN hình thành nên hệ thống tài chính quốc gia chịu sự chi phối của pháp luật nhà nước. Tuy nhiên, mỗi khâu tài chính được tạo lập, sử dụng cho một mục đích riêng và gắn với một chủ thể nhất định. Vì vậy, chúng luôn độc lâp với nhau trong quản lý và sử dụng. + Sự tồn tại và phát triển của quỹ BHXH là do điều kiện kinh tế xã hội và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước. Kinh tế-xã hội ngày càng phát triển thì ngày càng có điều kiện thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH, nhu cầu thỏa mãn về BHXH ngày càng được nâng cao. Đồng thời kinh tế xã hội phát triển họ càng có điều kiện tham gia và đóng góp BHXH… 1.1.5.2 Nguồn hình thành quỹ BHXH Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ 3 nguồn sau + Người lao động đóng góp + Người sử dụng lao động đóng góp + Nhà nước bù thiếu Ngoài ra nó còn được hình thành từ một số nguồn khác như lãi đầu tư quỹ nhàn rỗi bổ sung thêm, sự đóng góp của các tổ chức quốc tế và các tổ chức từ thiện khác nếu có. Trong các nguồn hình thành nói trên thì người lao động và người sử dụng lao động đóng góp là cơ bản và chủ yếu. Thông thường nhà nước chỉ bù thiếu. Mức đóng BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định cân đối thu chi cho quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính toán một cách khoa học. Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi từ mức hưởng sau xác định mức phí phải đóng… Việc xác định mức phí đóng BHXH là khá phức tạp vì nó liên quan đến người lao động và người sử dụng lao động và Nhà nước. Phí BHXH được xác định theo công thức: P=f 1+f 2+f 3x Trong đó P-Phí BHXH f 1-Phí thuần túy trợ cấp BHXH f 2-Phí dự phòng f 3-Phí quản lý Vì vậy để xác định mức phí đóng BHXH phải dựa vào nhiều yếu tố, nhiều thông tin khác nhau về nguồn lao động, cơ cấu lao động theo ngành, độ tuổi, giới tính… Ngoài ra còn phải xác định được tuổi thọ bình quân của một quốc gia, xác suất ốm đau, tử vong của người lao động… 1.1.5.3 Mục đích sử dụng quỹ BHXH - Chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH: đây là khoản chi lớn nhất để thực hiện mục đích lớn nhất của BHXH. Thông thường trên thế giới giới khoản chi này luôn luôn chiếm 80 đến 85% quỹ BHXH. - Chi quản lý bộ máy: khoản chi này giúp cho cơ quan BHXH các cấp tổ chức và thực hiện thành công chính sách BHXH. Nội dung khoản chi này bao gồm: tiền lương cho cán bộ công nhân viên trong ngành và bồi dưỡng nghiệp vụ…. - Chi dự phòng: bảo hiểm nói chung và BHXH nói riêng khoản chi này cũng mang tính chất bắt buộc nhằm đảm bảo quỹ BHXH đủ lớn và an toàn. Đặc biệt là khắc phục kịp thời những biến động lớn trong hệ thống tài chính quốc gia có ảnh hưởng đến quỹ BHXH. - Chi đầu tư: khoản chi này bao giờ cũng được quản lý riêng và nó được lấy từ khoản chênh lệch thu > chi của Qũy BHXH và lấy từ lợi nhuận do đầu tư quỹ mang lại. Chi đầu tư bao gồm: vốn gốc, nguồn vốn bổ xung hàng năm và các khoản chi phí khác để thực hiện đầu tư. - Những chi phí phát sinh ngoài những khoản chi nói trên như chi phí về thanh lý, nhượng làm tài sản. - Nếu quỹ BHXH được hình thành từ 2 loại: quỹ BHXH ngắn hạn và quỹ BHXH dài hạn thì việc chi trả và việc quản lý thu sẽ được cụ thể hơn. + Qũy BHXH ngắn hạn chi cho các chế độ ngắn hạn: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh ngề nghiệp. + Qũy BHXH dài hạn chi cho các chế độ dài hạn như: hưu trí và tử tuất. 1.1.5.4 Đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH - Đầu tư là yêu cầu khách quan: do đặc thù người tham gia BHXH đóng phí trong một thời gian dài và rất lâu sau họ mới được hưởng chế độ trợ cấp dài hạn như: hưu trí, tử tuất. Đồng thời số người tham gia đóng phí và hưởng tại một thời điểm thường có sự chênh lệch dương (đôi khi khá lớn) nên quỹ BHXH tại một thời điểm nhất định có số tiền kết dư lớn. Mặt khác, quỹ BHXH cũng luôn phải đối mặt với những nguy cơ rủi ro, như việc tính toán mức đóng-mức hưởng của đối tượng không khoa học, những biến động xã hội đặc biệt dẫn đến việc bội chi quỹ; bị giảm giá trị do lạm phát thông thường, do lạm phát từ các cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước tác động…. - Những đặc thù đó đòi hỏi quỹ BHXH phải được chú trọng đến hoạt động đầu tư tăng trưởng để tránh việc bội chi. Sự quay vòng bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH là một đặc trưng cơ bản của hoạt động xã hội trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động đầu tư quay vòng vốn để bảo toàn và tăng trưởng giá trị quỹ BHXH là một yêu cầu cần thiết khách quan, đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển và phát huy tác dụng của chính sách BHXH trong việc đảm bảo ASXH và hỗ trợ cho nền kinh tế phát triển bền vững. - Lợi ích của hoạt động đầu tư quỹ BHXH: mang lại lợi ích cho chính quỹ BHXH, đảm bảo cho sự chi trả thường xuyên các đối tượng hưởng chế độ BHXH. Ngoài ra nguồn vốn lớn có được từ tín dụng quỹ BHXH sẽ hỗ trợ quan trọng để đầu tư, phát triển một số dự án phát triển kinh tế-xã hội của nhà nước, giúp thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. - Hiện nay quỹ BHXH thường được đầu tư vào các lĩnh vực như mua các loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu địa phương hoặc trái phiếu công ty; gửi tiết kiệm ở ngân hàng, mua kì phiếu ngân hàng; mua cổ phiếu; cho các công ty vay vốn; trực tiếp liên doanh hoặc ủy thác kinh doanh; kinh doanh bất động sản. Trong đó, mua trái phiếu chính phủ và gửi ngân hàng là an toàn hơn cả và được hầu hết các nước áp dụng. - Nguyên tắc đầu tư của quỹ BHXH: + Nguyên tắc quan trọng đặt lên hàng đầu trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH là an toàn (không chỉ đảm bảo được số vốn đầu tư mà còn giữ được giá trị thực sự của vốn), nhằm trước hết bảo toàn được quỹ, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho người lao động về chi trả BHXH. Nếu hoạt động đầu tư xảy ra tình trạng không an toàn thì gánh nặng đè lên vai Nhà nước dẫn đến mất ổn định xã hội-chính trị. Mất lòng tin ở nhân dân… + Khi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH cần đảm bảo tính hiệu quả: vì đầu tư không sinh lời thì không thực hiện được mục tiêu tăng trưởng quỹ và ảnh hưởng tới độ an toàn của quỹ và khả năng chi trả trong tương lai… + Phải chú trọng đến tính thanh khoản của dòng vốn (dễ luân chuyển vốn) vì quỹ BHXH luôn vận động không ngừng, đó là quá trình tạo lập và sử dụng quỹ để chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ BHXH. Tóm lại, đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH có vai trò quan trọng và góp phần đảm bảo quyền lợi cho người lao động, thực hiện ASXH. Song với sự vận động không ngừng của thực tiễn kinh tế, nội dung và hình thức đầu tư cần được tiếp tục nghiên cứu để hoạt động đầu tư quỹ BHXH đạt hiệu quả cao nhất, phục vụ sự phát triển bền vững của đất nước. 1.2. Công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội 1.2.1. Cơ sở và nguyên tắc chi trả Bảo hiểm xã hội - Cơ sở chi trả Bảo hiểm xã hội Chi BHXH là quá trình phân phối sử dụng các nguồn tài chính đã được tập chung vào quỹ BHXH nhằm mục đích chi trả cho các chế độ BHXH. Mà người lao động tham gia BHXH được hưởng nhằm mục đích ổn định cuộc sống của họ và gia đình họ khi họ gặp phải rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm… Việc chi trả các chế độ BHXH được xây dựng riêng cho từng chế độ và mỗi quốc gia có những cơ sở khác nhau nhưng cơ bản đều theo một khung nhất định. Các hoạt động chi trả các chế độ BHXH họ đều dựa vào luật, các văn bản, các quy định của nhà nước, các văn bản do cơ quan BHXH trung ương hướng dẫn. Đồng thời căn cứ vào đặc điểm kinh tế, nguồn chi và tiền lương đóng BHXH, điều kiện làm việc, mức độ rủi ro… để xây dựng một hệ thống pháp luật phù hợp với từng quốc gia. - Nguyên tắc chi trả Bảo hiểm xã hội BHXH là trụ cột chính trong hệ thống ASXH của mỗi quốc gia, là chỗ dựa cho người lao động lúc gặp khó khăn. Vậy để thực hiện chi BHXH một cách có hiệu quả cần đạt được mục tiêu chi đúng, chi đủ, chi an toàn và chi kịp thời đến tận tay đối tượng hưởng. Cần có hoạt động quản lý chi một cách có tổ chức theo đúng quy định của pháp luật. + Chi đúng là chi đúng đối tượng, đúng chế độ, đúng thời hạn … đảm bảo lợi ích cho người lao động. + Chi đủ: là chi đủ khoản tiền trợ cấp mà đối tượng đáng được hưởng. + Chi an toàn: là đảm bảo khoản tiền từ cơ quan BHXH đến tay người lao động không bị thất thoát. + Chi kịp thời: là chi đúng thời điểm người lao động cần sự trợ giúp của BHXH. Nó giúp người lao động yên tâm hơn vào cơ quan BHXH nói riêng và pháp luật của nhà nước nói chung. 1.2.2. Phân cấp chi trả Công tác chi trả các chế độ BHXH được tổ chức theo ngành dọc, từ Trung ương đến địa phương. Tránh tình trạng chống chéo, đảm bảo hiệu quả cao trong công tác chi trả. Cơ quan BHXH Trung ương chịu trách nhiệm quản lý chung, cấp và ứng tiền cho đơn vị cấp dưới để chi trả cho các đối tượng hưởng. Ban hành các Luật, các thông tư, quyết định giúp cho công tác chi trả được thuận tiện hơn. Cơ quan BHXH tỉnh chịu trách nhiệm toàn diện trong việc chi trả, quyết toán các chế độ BHXH trên địa bàn tỉnh quản lý. Trực tiếp chi trả và quyết toán các chế độ ốm đau, thai sản, chi trả các chế độ BHXH nhận trợ cấp một lần cho người lao động do BHXH tỉnh quản lý thu BHXH. Cơ quan BHXH huyện tổ chức chi trả và quyết toán chế độ ốm đau, thai sản, chi trả các chế độ nhận trợ cấp một lần cho người lao động do BHXH huyên quản lý thu BHXH và các trường hợp tỉnh ủy quyền. Chi hưu trí, trợ cấp BHXH hàng tháng trên địa bàn. Chi trả các chế độ BHXH cho người lao động có hồ sơ đề nghị giải quyết hưởng BHXH nộp tại BHXH huyện. 1.2.3. Phương thức chi trả và quy trình chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội 1.2.3.1. Phương thức chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội Tùy thuộc vào mô hình của hệ thống BHXH và cơ sở lập luận thể chế tài chính của mỗi quốc gia mà người ta lựa chọn phương thức chi trả BHXH một cách cụ thể. Một số yếu tố thường được cơ quan BHXH xem xét để quyết định phương pháp chi trả: - Sự phát triển của cơ sở hạ tầng - Chi phí dịch vụ - Sự an toàn về tài chính - Sự thuận tiện cho cơ quan BHXH và người hưởng trợ cấp Tuy nhiên xét một cách tổng quát thì có hai phương thức chi trả: đó là phương thức chi trả trực tiếp và phương thức chi trả gián tiếp; tùy thuộc vào từng địa bàn cụ thể, tùy loại đối tượng hưởng mà cơ quan BHXH có thể lựa chọn phương thức chi trả khác nhau. - Phương thức chi trả trực tiếp: Đây là phương thức chi trả trợ cấp BHXH trực tiếp cho đối tượng hưởng BHXH không qua các đại lý trung gian, việc chi trả này là do cơ quan BHXH, cán bộ của ngành trực tiếp thực hiện, chi trả đến tận tay đối tượng hưởng BHXH. Khi thực hiện công tác chi trả đòi hỏi cán bộ làm công tác chi trả phải có trách nhiệm chuẩn bị mọi công việc có liên quan đến việc chi trả từ khâu nhận danh sách đối tượng hưởng, lên kế hoạch và thông báo thời gian chi trả cho từng địa bàn hoặc đơn vị được phân công phụ trách. Đồng thời họ cũng phải chuẩn bị tiền để chi trả và thanh toán sau khi chi trả. Quy trình chi trả trực tiếp Đối tượng hưởng Cán bộ chi trả Khi thực hiện phương thức chi trả trực tiếp thì có ưu điểm và nhược điểm như sau: + Ưu điểm: Do cơ quan BHXH trực tiếp chi trả với từng đối tượng hưởng BHXH cho nên đã xác lập được quan hệ giữa cơ quan BHXH với đối tượng hưởng. Do đó sẽ nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, hoàn cảnh của từng đối tượng. Đồng thời tuyên truyền giải thích các chế độ chính sách cho các đối tượng. Phát hiện được những bất hợp lý để tìm ra biện pháp và hướng giải quyết thỏa đáng. Thực hiện chi trả trực tiếp còn giúp cho cơ quan BHXH kiểm tra và quản lý chặt chẽ được đối tượng sẽ nắm bắt được tình hình tăng, giảm để từ đó kịp thời điều chính hoặc phát hiện trường hợp hưởng không đúng hoặc hưởng trùng chế độ. Do nắm bắt được đối tượng quản lý cho nên việc chi trả được thực hiện một cách nhanh gọn, đầy đủ, chính xác, đảm bảo được quyền lợi của đối tượng hưởng, tạo niềm tin và sự phần khởi cho người dân nói chung. Phương thức chi trả trực tiếp tạo điều kiện thanh quyết toán của cơ quan BHXH được kịp thời, khắc phục được hiện tượng dây dưa, tồn đọng của các đại lý chi trả. Đặc biệt tránh được kẽ hở trong khâu thanh toán, quyết toán cũng như tiêu cực khác trong khâu chi trả. + Nhược điểm: Không thể tiến hành chi trả nhiều đơn vị, nhiều địa điểm trong cùng một thời gian, thời gian chi trả bị kéo dài. Đòi hỏi lịch trình công tác của cán bộ phải khoa học, chính sách đầy đủ. Đối với những khu vực vùng sâu, vùng xa, hải đảo thì việc chi trả cũng gặp nhiều khó khăn về phương tiện đi lại cũng như là phương tiện vận chuyển tiền, cũng như phương tiện đảm bảo an toàn cho tiền. Phương thức chi trả được thực hiện đúng kỳ và đủ số thì nguồn kinh phí chi trả phải được đảm bảo đầy đủ về số lượng và thời gian. Vấn đề này đòi hỏi cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan BHXH với kho bạc và ngân hàng. Phương thức này làm tốn nhiều cán bộ cho công tác chi trả nên chi phí quản lý tăng. - Phương thức chi trả gián tiếp Là phương thức chi trả thông qua các đại lý chi trả, thông qua Ngân hàng, thông qua bưu điện hoặc các đại lý chi trả Phương thức chi trả thông qua các đại lý chi trả: thì cơ quan BHXH phải ký hợp đồng trách nhiệm với một số cá nhân làm đại diện chi trả, những cá nhân này thường là những người đang hưởng chế độ BHXH có trách nhiệm uy tín ở địa phương và được cơ quan chính quyền địa phương giới thiệu. Hàng tháng, các đại lý chi trả sẽ nhận danh sách đối tượng hưởng và tiền từ cơ quan BHXH cấp huyện, hoặc có thể nhận tay ba qua kho bạc hoặc bưu điện. Sau mỗi kỳ chi trả sẽ có quyết định thanh quyết toán đối với đại diện chi trả. Quy trình chi trả thông qua các đại lý chi trả: BHXH Đối tượng hưởng Đại lý chi trả Phương thức chi trả thông qua ngân hàng hoặc bưu điện: tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội của từng nước, từng vùng và đặc điểm của từng chế độ, mà có thể áp dụng phương pháp nào sao cho phù hợp. Cơ quan BHXH sẽ chuyển tiền và danh sách đối tượng hưởng cho Ngân hàng hoặc bưu điện. Nếu chuyển vào Ngân hàng thì cơ quan BHXH sẽ chuyển tiền vào Ngân hàng sau đó Ngân hàng sẽ chuyển tiền vào các tài khoản cá nhân của họ. Nếu thông qua đường bưu điện thì nhân viên bưu điện sẽ chuyển đến tận tay đối tượng hưởng thông qua đường bưu điện. Khi thực hiện phương thức chi trả gián tiếp thì có ưu điểm và nhược điểm sau: + Ưu điểm: Thực hiện phương thức này thì cơ quan BHXH sẽ chi trả được tất cả các địa bàn, xã phường, thị trấn trong phạm vi tỉnh, thành phố trong cùng một thời điểm. Cán bộ làm đại lý chi trả là những người của địa phương. Vì vậy mà thường xuyên nắm bắt được tình hình của đối tượng hưởng do đại lý phụ trách, cho nên sẽ kiểm soát và phản ánh được kịp thời cho cơ quan BHXH. Cắt giảm đối tượng bị chết, điều chỉnh lại các đối tượng hưởng các chế độ mà không theo đúng quy định. Các đại lý chi trả thường là do ủy ban nhân dân giới thiệu với cơ quan BHXH, được sự giúp đỡ của chính quyền địa phương giúp cho công tác chi trả được thực hiện một cách thuận lợi và hiệu quả nhất. + Nhược điểm: Nếu chi trả gián tiếp thì cơ quan BHXH không nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của đối tượng hưởng để giải quyết, giải đáp những thắc mắc cho họ. Đại lý này ở địa phương giới thiệu, có nhiều người đại lý không có ý thức tốt thực hiện các quy định của ngành về quản lý tài chính như số tiền lĩnh không đầy đủ, danh sách chi trả và phiếu lĩnh tiền chưa có chữ ký của đối tượng hưởng. Một số đại lý chi trả còn thu thêm tiền đối tượng. Lệ phí chi trả cho các đại lý thường thấp, không khuyến khích được các đại lý chi trả. Điều kiện đi lai khó khăn trong quá trình thực hiện chi trả. Mặc dù, phương thức này có thể tiến hành đồng thời trên các địa bàn nhưng việc chi trả cho đối tượng trong phạm vi một xã lại có thể kéo dài. Đặc biệt là trên địa bàn có số đối tượng đông, vì vậy việc thanh quyết toán đối với cơ quan BHXH sau mỗi thời kỳ chi trả thường chậm chễ so với quy định. Quy trình chi trả thông qua Ngân hàng, Bưu điện: BHXH Đối tượng hưởng Ngân hàng, Bưu điện 1.2.3.2. Quy trình chi trả Quy trình chi trả là sự kế tiếp các khâu có liên quan đến công tác chi trả nhằm theo dõi sự vận động của đồng tiền từ khi ra khỏi quỹ BHXH đến tay đối tưởng hưởng BHXH. Đến khi thu hồi chứng từ về và bảo toàn chúng. Xem xét dưới góc độ nghiệp vụ thì quy trình phụ thuộc chặt chẽ vào cơ chế quản lý, vào phương thức vận hành từng loại chế độ BHXH. Quy trình chi trả gồm có: Quy trình chi trả các đối tượng hưởng trợ cấp BHXH hàng tháng và quy trình chi trả các đối tượng hưởng trợ cấp BHXH một lần. 1) QUY TRÌNH CHI TRẢ CÁC ĐỐI TƯỢNG HƯỞNG TRỢ CẤP BHXH HÀNG THÁNG. Đơn vị sử dụng lao động BHXH các tỉnh, thành phố, trực thuộc trung ương Người lao động BHXH huyện Đại lý chi trả xã, phường Đối tượng hưởng BHXH hàng tháng 111 6 7 5 4 2 4 BHXH trung ương Qũy BHXH Bộ tài chính NSNN 3 2) QUY TRÌNH CHI TRẢ CÁC ĐỐI TƯỢNG HƯỞNG TRỢ CẤP 1 LẦN Kho bạc NH NHNN & PTNT Tỉnh Kho bạc NH NHNN & PTNT Huyện BHXH Tỉnh Đơn vị SDLĐ trên địa bàn Huyện quản lý Đối tượng hưởng BHXH 5 3 1 3 3 2 1 4 BHXH Huyện 1.2.4. Cơ sở vật chất phục vụ công tác chi trả Để phục cho hoạt động BHXH nói chung và công tác chi trả các chế độ BHXH nói riêng thì BHXH cần phải có một hệ thống cơ sở vật chất khác loại như: trụ sở làm việc, trang thiết bị văn phòng, phương tiện đi lại, phương tiện bảo quản tiền như két bạc để chống trộm, máy tính, máy in, máy photo, thanh sắt, máy thông báo trộm cắp, hệ thống phòng cháy, xây dựng mạng lưới thông tin…. Thì cơ quan BHXH cần thiết phải trang bị, phục vụ cho công tác chi trả như công tác văn thư, in ấn và quản lý dữ liệu. Nguồn vốn để đầu tư cơ sở vật chất do NSNN cấp và do cả tiền lãi từ hoạt động đầu tư phát triển quỹ . Để quản lý việc đầu tư xây đựng cơ bản thì cơ quan BHXH và ban quản lý dự án đầu tư ở các tỉnh phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý về lĩnh vực xây dựng. Bộ xây dựng, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ tài chính, tổng cục đầu tư và phát triển, quỹ hỗ trợ phát triển… để cùng tổ chức triển khai giám sát toàn bộ hoạt động về xây dựng cơ bản. Ngoài việc đầu tư xây dựng cơ sở làm việc thì cơ quan BHXH còn phải đầu tư để mua sắm các phương tiện vận chuyển, đi lại để phục vụ cho công tác chi trả được an toàn thuận lợi như trang bị xe ô tô, xe máy, bình xịt cay để chống trộm… Tùy theo điều kiện của từng quốc gia cũng như điều kiện của từng vùng mà trang bị cơ sở vật chất khác nhau. 1.2.5. Lệ phí chi trả Lệ phí chi trả BHXH là một khoản kinh phí do cơ quan BHXH Trung ương quy định để chi trả thù lao cho cán bộ tham gia trong quá trình chi trả các chế độ BHXH. Ngoài ra, khoản lệ phí này còn có thể được thực hiện để chi văn phòng phẩm cần thiết cho công tác chi trả hay chi ấn chỉ, biểu mẫu, chi bù đắp hao mòn phương tiện cá nhân, tăng ca, tăng giờ. BHXH trực thuộc trung ương sẽ thực hiện các mức chi cụ thể cho BHXH quận, huyện, thị xã và BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trực tiếp chi cho phù hợp, không được vượt quá mức lệ phí và tỷ lệ phí chi trả mà cơ quan BHXH Trung ương đã quy định sẽ cấp các lệ phí chi hàng quý, căn cứ vào số thực tế chi về BHXH của cơ quan BHXH tỉnh, thành phố. Hàng tháng, các cơ quan BHXH cấp địa phương phải có bản kê về lệ phí chi trả đã thực hiện để thanh quyết toán và hàng tháng, hàng quý phải có bản tổng hợp để quyết toán với cơ quan BHXH cấp trên theo đúng quy định, không được kê số liệu mà không có chứng từ. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHI TRẢ CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮC NINH GIAI ĐOẠN 2005-2008 2.1 Vài nét về Bảo hiểm xã hội Việt Nam và Bảo hiểm xã hội Bắc Ninh BHXH ở nước ta là một trong những chính sách quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước, góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, xây dựng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trên thực tế BHXH Việt Nam ra đời ngay từ thời pháp thuộc nhưng phải đến sau Cách mạng Tháng tám thành công, trên cơ sở hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chính phủ đã ban hành một loạt các sắc lệnh quy định về chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí cho cán bộ, công nhân viên chức như: sắc lệnh 105/SL ban hành ngày 14/03/1947; sắc lệnh 77/SL ban hành ngày 22/05/1950. Những quy định về BHXH của Nhà nước ở thời kỳ này là cơ sở cho sự phát triển của BHXH sau này. Năm 1959 hiến pháp của nước ta ra đời đã thừa nhận công nhân viên chức có quyền hưởng trợ cấp BHXH, quyền này được cụ thể hóa trong điều lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân, viên chức Nhà nước, ban hành kèm theo Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961 và điều lệ đãi ngộ quân nhân ban hành kèm theo nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 của Chính phủ. Đây được coi là văn bản pháp luật đầy đủ và toàn diện về BHXH lúc bấy giờ quy định các quyền lợi của người lao động. Ngày 22/06/1993 Chính phủ ban hành Nghị định 43/CP quy định về chế độ BHXH cho người lao động trong các thành phần kinh tế. Điểm nổi bật trong giai đoạn này là Nghị định 19/CP ban hành ngày 16/02/1995 quy định về việc thành lập BHXH Việt Nam. Từ đây, BHXH Việt Nam đã có vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế -xã hội của đất nước. BHXH Việt Nam được thành lập theo Nghị định 19/CP đã trở thành 1 cơ quan có tư cách pháp nhân trực thuộc Chính phủ, được tổ chức theo ngành dọc từ Trưng ương đến địa phương để thực hiện tất cả các nhiệm vụ về BHXH. Đến ngày 29/06/2006, Luật BHXH Việt Nam ra đời, kể từ đây, ngành BHXH đã có đủ căn cứ, cơ sở pháp luật để hoạt động và phát triển. Sau khi luật BHXH ra đời, Nhà nước đã ban hành rất nhiều Quyết định, Thông tư, Nghị định để nhằm hoàn thiện các chính sách về BHXH từ đó góp phần ổn định thu nhập, đời sống cho nhân dân lao động. Ngày 22/08/2008 Chính phủ ban hành Nghị định số 94/2008/NĐ-CP quy định về cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Đến nay, cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam được tổ chức và quản lý theo hệ thống dọc, tập trung thống nhất từ trung ương đến địa phương, gồm có: + Ở trung ương là BHXH Việt Nam + Ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc BHXH Việt Nam. + Ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là BHXH huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc BHXH tỉnh. Cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam được thể hiện qua sơ đồ sau: Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức BHXH Việt Nam Phòng tổ chức hành chính Trung tâm công nghệ thông tin BHXH QUẬN, HUYỆN, THỊ XÃ Phòng BH tự nguyện Trung tâm lưu trũ Ban thi đua khen thưởng Ban chi Ban KH_TC Ban thu Phòng giám định chi PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC HỘI ĐỒNG QUẢN LÝ THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ TỔNG GIÁM ĐỐC PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC Ban kiểm tra Văn phòng Ban hợp tác quốc tế Ban tổ chức Ban câp sổ, thẻ Ban thực hiện chính sách BHXH Tạp trí BHXH Trường đào tạo nghiệp vụ BHXH Viện khoa học BHXH Ban thực hiện chính sách BHYT Ban tuyên truyền GIÁM ĐỐC BHXH TỈNH Phó giám đốc Phòng chế độ BHXH Phòng KH-TC Phòng thu BHXH Phòng CNTT Phòng kiểm tra Báo BHXH Phó giám đốc Từ khi thực hiên luật BHXH, BHXH Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, số người tham gia BHXH đã tăng lên, tính đến cuối năm 2008, cả nước có 8,527 triệu người tham gia BHXH bắt buộc, chiếm gần 70% số lao động thuộc d._.ng cường số lượng đi đôi với chất lượng để phát triển toàn diện công tác BHXH. - Chuẩn bị nội dung để thực hiện tốt BHTN theo luật BHXH, triển khai luật BHYT có văn bản hướng dẫn các bộ ngành trung ương. - Thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ của ngành, quản lý sử dụng quỹ BHXH, BHYT hợp lý, hiệu quả và an toàn. 3.1.2 Nhiệm vụ trọng tâm - Ngành sẽ tập trung công tác đào tạo nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng quỹ, việc chi trả các chế độ BHXH, phối hợp chặt chẽ giữa các ngành đơn vị hữu quan nhằm đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BHXH, BHYT, chuẩn bị mọi điều kiện để triển khai thực hiện BHYT tự nguyện và BHTN một cách tốt nhất vào năm 2009. - Mở rộng đối tượng tham gia BHXH, BHYT ở khu vực ngoài quốc doanh, ngoài công lập và khu vực nông nghiệp nông thôn. Đối với BHYT tập trung vào BHYT hộ gia đình, giữ vững BHYT học sinh, đảm bảo tăng số lượng đi đôi với chất lượng. Tạo đà cho bước phát triển BHYT toàn dân theo tinh thần nghị quyết Đaị hội của Đảng. - Việc giải quyết các chế độ BHXH được thực hiện theo hướng giảm bớt đầu mối, người sử dụng lao động và người thụ hưởng các chế độ BHXH không phải qua nhiều khâu. - Tăng cường phối hợp giữa các đơn vị trong và ngoài ngành để thực hiện tốt các chế độ BHXH. Nêu cao ý thức trách nhiệm và tinh thần chuyên môn nghiệp vụ, và phối hợp chặt chẽ, đồng bộ thực hiện có hiệu quả cơ chế quản lý mới của BHXHVN và luật BHXH. - Năm 2009 thực hiện theo chỉ thị của BHXHVN là chuyển xét duyệt các chế độ BHXH ngắn hạn xuống BHXH các huyện. Hướng dẫn cho BHXH huyện thực hiện tốt nhiệm vụ này. -Phối hợp chặt chẽ với ngành y tế tổ chức tốt công tác kiểm tra, thanh tra liên ngành nhằm nâng cao hiêu quả trong việc quản lý, sử dụng quỹ BHYT. Tăng cường công tác giám định chi phí KCB, thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra cơ sở KCB thực hiện chế độ KCB BHYT, có các biện pháp kiềm chế bội chi quỹ KCB, phát hiện và xử lý kịp thời các biểu hiện lạm dụng, đảm bảo sử dụng quỹ an toàn và hiệu quả; tiếp tục hướng dẫn, điều chỉnh chuyển đổi thẻ cho các đối tượng đăng ký KCB ban đầu từ bệnh viện đa khoa tỉnh sang các cơ sở KCB trên địa bàn thành phố . - Thực hiện tốt các công tác quản lí tài chính, kế toán và nâng cao năng lực trình độ chuyên môn, phục vụ ngày càng tốt hơn người hưởng lương hưu và các chế độ BHXH, BHYT. Thực hành tiết kiệm và phòng chống tham nhũng trong công tác của ngành . - Làm tốt công tác kiểm tra và tự kiểm tra của BHXH cấp huyện và các phòng nghiệp vụ, phối hợp với thanh tra liên ngành, chủ động tổ chức thực hiện việc kiểm tra theo chương trình, kế hoạch cũng như các yêu cầu đột xuất của ngành. - Tích cực nghiên cứu, từng bước áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý các mặt hoạt động nghiệp vụ; tiếp tục triển khai cài đặt và hướng dẫn sử dụng các chương trình phần mềm CNTT theo chỉ đạo của BHXH Việt Nam, xây dựng hệ thống mạng LAN cho BHXH các huyện thành phố. - Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, tập trung vào Luật BHXH làm cho các cấp, các ngành, chỉ sử dụng lao động và người tham gia nhận rõ được quyền lợi, trách nhiệm của mình để chủ động tham gia . Tích cực phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng, đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, làm cho công cụ tuyên truyền thực sự trở thành động lực thúc đẩy sự nghiệp BHXH, BHYT phát triển. - Kiện toàn công tác tổ chức cán bộ, chú trọng công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ công chức, phấn đấu xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần trách nhiệm và có thái độ phục vụ nhân dân tốt. Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính, chuyển nhanh chuyển mạnh sang phương thức phục vụ đối tượng và cơ sở, thực hiện tốt cơ chế “một cửa” trong toàn ngành . Tổ chức và đẩy mạnh các phong trào thi đua, mỗi cán bộ công chức cần nêu cao ý thức xây dựng khối đoàn kết thống nhất vì lợi ích chung, đảm bảo cho cả hệ thống hoạt động có chất lượng và hiệu quả cao, phấn đấu thực hiện tốt mục tiêu theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp và Luật BHXH. 3.2 Thuận lợi và khó khăn trong quá trình tổ chức chi trả các chế độ BHXH tỉnh Bắc Ninh 3.2.1 Thuận lợi Kể từ khi đi vào hoạt động (trên cơ sở tách từ BHXH Hà Bắc cũ) BHXH tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện tốt nhệm vụ do BHXHVN giao cho, cho đến nay luôn có nhiều điều kiện thuận lợi cho BHXH tỉnh Bắc Ninh thực hiện tốt nhiệm vụ, có thể thấy những nhân tố đó là: - Luôn được sự hướng dẫn một cách chủ động của BHXHVN, và được quy định rõ nhiệm vụ, chức năng lâu dài cũng như trong từng giai đoạn cụ thể giúp BHXH tỉnh Bắc Ninh có được định hướng hoạt động cho mình một cách có hiệu quả. - Bên cạnh được sự quan tâm của BHXHVN thì BHXH tỉnh Bắc Ninh còn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của quận Ủy, HĐND, UBND tỉnh, sự chỉ đạo của ban Giám đốc, các phòng nghiệp vụ của BHXH tỉnh Bắc Ninh; sự phối hợp chặt chẽ của ban ngành lãnh đạo cac huyện, thị xã, các cơ quan đơn vị trên địa bàn tỉnh nên năm 2008 BHXH tỉnh Bắc Ninh đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Đặc biệt trong việc thực hiện chi trả BHXH và trợ cấp hàng tháng cho các đối tượng hưởng. - Ngay từ khi bắt đầu hoạt động BHXH tỉnh Bắc Ninh đã có số đối tượng quản lý rất rõ ràng, rành mạch, số tiền trợ cấp cho từng loại đối tượng, các thông tin liên quan rất cụ thể, chi tiết tạo cho công tác của BHXH tỉnh được thực hiện rõ ràng hơn. - Mọi thủ tục hành chính ngày càng nhanh chóng, ngắn gọn, công tác thực hiện nhiệm vụ ngày càng được rút gọn mà vẫn đảm bảo hiệu quả. - Sự hiểu biết của người lao động trên địa bàn tỉnh ngày càng được nâng cao, thuận lợi hơn cho công tác mở rộng phạm vi đối tượng tham gia BHXH tại đơn vị. - Đầu tư trang thiết bị ngày càng được hiện đại, áp dụng khoa học công nghệ vào công tác quản lý, đội ngũ cán bộ nhiệt tình, có trách nhiệm, hăng hái trong công việc. - Kinh tế nước ta ngày càng phát triển, thu nhập người dân ngày một được nâng cao, tiền lương làm căn cứ đóng BHXH cũng tăng do đó số thu cũng tăng theo. Đồng thời, các thành phần kinh tế ngày càng đa dạng, ngày càng có nhiều có nhiều công ty ra đời làm cho số lao động cũng tăng. Điều này giúp cho ngành BHXH nói chung và BHXH tỉnh Bắc Ninh nói riêng không ngừng mở rộng đối tượng tham gia và tăng nguồn thu cho quỹ BHXH, từ đó làm tăng khả năng chi trả của quỹ, tránh tình trạng vỡ quỹ. 3.2.2 Khó khăn Bất kể thực thi một nhiệm vụ nào, đảm đương một chức năng nào hay làm một công việc gì, đi liền với thuận lợi bao giờ cũng có những khó khăn. Tuy nhiên căn cứ vào mức độ khác nhau mà khó khăn nhiều hay ít. BHXH tỉnh Bắc Ninh trong quá trình tổ chức chi trả các chế độ BHXH đã gặp phải những khó khăn như sau: - Khó khăn đầu tiên mà bất kể cơ quan BHXH nào cũng gặp phải đó là đối tượng quản lý phức tạp. Kể từ khi có chính sách BHXH áp dụng cho người lao động, cho đến nay không ngừng sửa đối, mở rộng đối tượng có thể tham gia. Khi kinh tế càng phát triển thì đối tượng của BHXH càng nhiều hơn, theo đó càng có nhiều chế độ, mức chi trả sẽ rất linh động và đòi hỏi chính xác càng cao hơn. Tỉnh Bắc Ninh có nhiều khu công nghiệp nên đối tượng ngoài quốc doanh lại càng nhiều, việc quản lý đối tượng cũng gặp nhiều khó khăn. - Khó khăn thứ hai là về phương tiện và chi phí thực hiện chi trả. Mặc dù, BHXH tỉnh đã có những đầu tư về phương tiện đi lại, vận chuyển kinh phí chi trả nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nên nó ảnh hưởng không nhỏ đến việc an toàn trong quá trình vận chuyển. Chi phí phục vụ chi trả không thể thiếu, hơn nữa khi ký hợp đồng với các đại lý chi trả đã xác định khoản tiền mà BHXH tỉnh Bắc Ninh trả cho họ. Khi hoạt động đầu tư quỹ BHXH còn hạn chế nên không có khoản nào để bù đắp chi phí chi trả ngoài sự cấp kinh phí từ cấp trên. - Khó khăn thứ ba là Nguồn kinh phí chi trả phức tạp, yêu cầu phải chính xác. Có đối tượng nhận tiền trợ cấp từ ngân sách nhà nước nhưng có đối tượng lại hưởng từ quỹ BHXH, có những chế độ hai nguồn cùng chi. Bởi thực tế quỹ BHXH đang dần đảm nhiệm vai trò của mình mà bớt gánh năng cho NSNN, đây là khó khăn của BHXHVN nên BHXH tỉnh Bắc Ninh không thể tránh khỏi. - Khó khăn thứ tư là nhiều chính sách không đồng bộ liên quan đến nhiều chính sách khác. Hệ thống chính sách quy định về BHXH do Chính phủ ban hành, bộ Lao đông Thương binh và xã hội hướng dẫn, thông tư liên ngành, rồi hướng dẫn của BHXHVN… khiến cán bộ BHXH phải tiếp nhận một khối lượng lớn các văn bản. Hơn nữa chính sách BHXH liên quan đến nhiều chính sách khác, đôi khi những chính sách này mâu thuẫn, chồng chéo nhau khiến cán bộ BHXH khó khăn trong quá trình xét duyệt chi trả trợ cấp cho đối tượng hưởng. - Trong các khó khăn mà BHXH tỉnh Bắc Ninh gặp phải có một khó khăn từ phía các doanh nghiệp và người sử dụng lao động. Đó là tình trạng nợ phí BHXH cho người lao động của doanh nghiệp, có một số doanh nghiệp chưa tích cực tham gia BHXH. Thậm trí có tình trạng lẩn tránh đóng BHXH của người lao động. Số nợ BHXH của một số doanh nghiệp vẫn còn để đến cuối quý, cuối năm gây khó khăn trong quá trình chi trả các chế độ BHXH cho người lao động. Nhận thức của một số bộ phận người lao động chưa đầy đủ về quyền lợi và lợi ích của BHXH khi họ tham gia đối với cuộc sống của họ và gia đình không chỉ trong hiện tại và tương lai nên nhiều lao động không tham gia hoặc không muốn tham gia. - Tình trạng bội chi quỹ BHXH, BHYT gây khó khăn trong công tác chi trả. Ngoài những khó khăn trên BHXH tỉnh Bắc Ninh còn gặp phải những khó khăn khác nhưng BHXH tỉnh đã cố gắng khắc phục. 3.3 Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác chi trả các chế độ BHXH tại BHXH tỉnh Bắc Ninh. Qua sự đánh giá công tác chi trả các chế độ BHXH tỉnh Bắc Ninh cũng như những mặt thuận lợi và khó khăn em đưa ra những kiến nghị và giải pháp dưới đây với mục đích nâng cao hiệu quả của công tác chi trả các chế độ BHXH tại BHXH tỉnh Bắc Ninh. 3.3.1 Kiến nghị - Kiến nghị chung + Tiếp tục củng cố và hoàn thiện nội dung công tác chi trả mà đơn vị đang thực hiện. Nhìn chung, BHXH tỉnh Bắc Ninh đang thực hiện tốt công tác chi trả các chế độ BHXH. + Đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ làm công tác chi trả. Tuy trình độ cán bộ chi trả đã đảm bảo tốt công việc chi trả, xong luôn có những văn bản mới, những quy định mới đòi hỏi phải được cập nhật và tập huấn. + Tăng cường thông tin tuyên truyền. Đây là cách mà cơ quan BHXH tác động vào tâm lý nhân dân nói chung, những người tham gia BHXH nói riêng để họ nhận ra ý nghĩa của chính sách BHXH. + Đầu tư phương tiện tin hoc, có trang web của BHXH tỉnh thật đầy đủ, nối mạng với BHXH các huyện và BHXHVN để được hướng dẫn, giải thích, chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ. + Đầu tư đầy đủ phương tiện đi lại để đảm bảo an toàn tiền mặt trong quá trình chi trả. + Phối hợp với các cấp các ngành trong tổ chức thực hiện, sự giúp đỡ của các tổ chức có thẩm quyền để việc chi trả được thực hiện một cách thuận lợi. - Kiến nghị với BHXH các cấp 1) Kiến nghị đối với BHXH Việt Nam Hiện nay số người tham gia BHXH ở nước ta vẫn còn ít. Theo thống kê, năm 2005 ở Việt Nam số lao động tham gia BHXH mới chiếm khoảng 15%, còn lại 85% lực lượng lao động chưa được tham gia BHXH, như vậy tiềm năng mở rộng đối tượng tham gia BHXH còn nhiều. Mở rộng đối tượng tham gia BHXH là nhân tố trực tiếp tác động đến cân đối quỹ, trước hết là tăng thu cho quỹ. Đối với các chế độ dài hạn người lao động đóng BHXH nhưng phải sau 1 thời gian thì mới được hưởng trợ cấp của chế độ đó. Tăng số người tham gia đối với chế độ này có tác dụng đến tăng thu của quỹ, vì vậy nó là nhân tố trực tiếp tác động đến cân đối của quỹ BHXH. Muốn tăng số người tham gia phải có nhiều giải pháp, nhiều điều kiện. Nhưng giải pháp quan trọng nhất có tính chất cơ sở pháp lý đó là người lao động chỉ được phép tham gia BHXH khi văn bản pháp luật của Nhà nước cho phép. Như vậy, muốn tăng số người tham gia BHXH , trước hết phải mở rộng đối tượng tham gia BHXH, tức là mở rộng điều kiện để người lao động được tham gia BHXH. Ở nước ta hiện nay, theo quy định của luật BHXH thì điều kiện để được tham gia BHXH cũng đã được mở rộng đến mọi người lao động có quan hệ lao động; có hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên hoặc hợp đồng lao động không xác định thời hạn và áp dụng với các đơn vị có sử dụng từ 1 lao động trở lên. + Cần sớm nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp quy quy định về điều kiện hưởng, mức hưởng các chế độ BHXH bắt buộc cũng như việc hướng dẫn tổ chức chi trả và quản lý chi trả các chế độ sao cho phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo tốt nhất cho quyền lợi người lao động. + Tăng cường kiểm tra và xử lý các trường hợp giả mạo hồ sơ, khai man tuổi đời, khai man thời gian công tác và làm giả giấy tờ của cơ quan y tế nhằm hưởng lợi từ chế độ; giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo… + Tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng và ứng dụng hệ thống thông tin hiện đại, ứng dụng phần mềm vào công tác quản lý chi trả; luôn đảm bảo cho việc quản lý, điều hành, thống kê, lưu trữ được chính xác… để từ đó có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành + Đẩy mạnh hơn nữa công tác triển khai thực hiện mô hình “ một cửa liên thông”, áp dụng linh hoạt các mô hình thí điểm hiệu quả vào từng địa phương sao cho phù hợp. + Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ ngành. + Tăng cường công tác quản lý đối tượng tham gia và đối tượng hưởng các chế độ BHXH ngắn hạn. Cần có các chính sách mở rộng, động viên thêm đối tượng tham gia BHXH, không chỉ đối với lao động thuộc khu vực Nhà nước, các doanh nghiệp mà cả đối với lao động ở các thành phần kinh tế khác. + Sớm triển khai và hoàn thiện ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác chi trả trong toàn Ngành như: xây dựng website; sử dụng phầm mềm quản lý thu, chi, phần mềm kế toán cho Ngành BHXH nhằm quản lý tốt đối tượng tham gia, tình hình chi trả… nhằm đem lại hiệu quả cao, giúp bộ máy tổ chức quản lý trở lên gon nhẹ hơn. + Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của từng đơn vị, từng cá nhân; có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời đến các địa phương. Trong xây dựng văn bản, chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ cần có sự đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động, đơn vị sử dụng lao động và mọi người dân khi tham gia BHXH. + Cần phối hợp với BHXH các tỉnh, thành phố thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra nhằm kịp thời phát hiện và chấn chỉnh các sai phạm trong công tác chi trả, xử lý nghiêm với các trường hợp vi phạm. 2) Đối với BHXH tỉnh Bắc Ninh + Tăng cường sự phối hợp chỉ đạo, quản lý cấp ủy, cấp chính quyền các cấp trong tổ chức chi trả, quản lý đối tượng hưởng; tiếp tục chỉ thị 15- CT/TW ngày 26/5/1997 của Bộ Chính trị về tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế độ BHXH. + Xây dựng, chỉ đạo BHXH các huyện thực hiện tốt công tác chi trả BHXH. Tổng hợp số liệu chi trả các chế độ BHXH bắt buộc theo định kỳ hàng tháng, hàng quý, hàng năm. Giải quyết các vướng mắc trong quá trình thực hiện chế độ kịp thời báo cáo lên BHXH Việt Nam. + Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng cần thiết cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. + Thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, nắm bắt tình hình tổ chức thực hiện công tác chi trả của BHXH các quận, huyện; kịp thời xử lý các vướng mắc phát sinh. Kỷ luật nghiêm với những hiện tượng tiêu cực lạm dụng quỹ BHXH, đồng thời nhanh chóng chuyển đổi tác phong làm việc, thực hiện “cơ chế một cửa” tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng tham gia BHXH. + Đầu tư trang thiết bị, phương tiện một cách hợp lý, tạo điều kiện làm việc và kỹ năng sử dụng vi tính một cách thành thạo nhằm nâng cao hiệu quả làm việc; từng bước đưa công nghệ thông tin vào quản lý, thay thế dần các phương thức quản lý truyền thống đã lỗi thời. 3) Đối với BHXH huyện + Tăng cường phối hợp với các đơn vị sử dụng lao động do mình trực tiếp quản lý trong khâu tổ chức chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức – phục hồi sức khỏe và TNLĐ-BNN. Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra đột xuất hoặc định kỳ việc thực hiện các chế độ BHXH tại đơn vị sử dụng lao động; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. + Lựa chọn phương thức chi trả hợp lý, phù hợp với tình hình thực tiễn và điều kiện cụ thể tại địa bàn quản lý, sao cho luôn đảm bảo nguyên tắc chi đúng, chi đủ, chi kịp thời và đảm bảo an toàn tiền mặt. + Thực hiện cải cách hành chính trong công tác chi trả, công khai quy trình, thủ tục, hồ sơ; quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng cán bộ, đơn vị. 3.3.2. Giải pháp Đi liền với kiến nghị em xin đề ra những giải pháp cụ thể để thực hiện tốt những kiến nghị đó. - Tiếp tục củng cố và hoàn thiện nội dung công tác chi trả mà đơn vị đang thực hiện Để tiếp tục thực hiện những gì mà BHXH tỉnh Bắc Ninh đã và đang làm về thực hiện công tác chi trả bằng cách sử dụng hai phương thức là chi trả trực tiếp và chi trả gián tiếp thông qua các đại lý chi trả, thông qua hệ thống Ngân hàng và bưu điện, vẫn giữ nguyên tiến độ giải quyết các chế độ BHXH cho đối tượng hưởng, tiếp nhận tiền từ BHXH VN nhanh chóng. Tuy nhiên, với đòi hỏi của công việc ngày càng cao, vấn đề ở đây là củng cố hoàn thiện những gì mà BHXH tỉnh Bắc Ninh đã làm được. Như vậy, đây không phải là một vấn đề đơn giản. Hàng năm, BHXH tỉnh phải ký hợp đồng với các đại lý mới, giữ lại các đại lý làm ăn có hiệu quả, nhưng đại lý nào làm ăn không có hiệu quả nên chấm dứt hợp đồng, bởi năng lực của các đại lý này cũng hết sức quan trọng, ảnh hưởng tới quá trình chi trả cho các đối tượng. Bên cạnh đó xắp xếp lại lịch chi trả hợp lý hơn, khoa học hơn, thuận tiện cho đối tượng hưởng lại vừa thuận tiện cho cán bộ chi trả. - Đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ làm công tác chi trả Để thực hiện chi trả có hiệu quả, tuy hiện tại khả năng của cán bộ đã đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, nhưng thực tế luôn đặt ra những đòi hỏi mới đòi hỏi cán bộ BHXH luôn phải chú trọng đến công tác đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, thông qua quá trình tự học hoặc thông qua quá trình tập huấn của BHXHVN. Thực chất, để làm được nội dung này đòi hỏi sự nổ lực không chỉ của của cá nhân cán bộ chi trả chế độ BHXH mà nó còn là nhiệm vụ của BHXH cấp trên. Đối với BHXH cấp trên phải nêu cao vai trò cán bộ chi trả thấy rõ được vai trò quan trọng của họ, trang bị cho họ sự nhiệt huyết và lòng yêu nghề. Đây là điều kiện tiên quyết đến sự thành công của bước tiếp theo để đào tạo chuyên môn. Các văn bản mới, những sửa đổi, hướng dẫn thực hiện công việc tốt hơn… Qúa trình đào tạo có thể diễn ra ngay tại cơ quan BHXH tỉnh Bắc Ninh và cũng có thể ở BHXHVN. Ngoài ra cán bộ chi trả BHXH cần nâng cao trình độ bản thân bằng cách tự tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm của cán bộ chi trả của các tỉnh khác, những nơi điển hình để làm tốt công tác chi trả. - Tăng cường thông tin tuyên truyền Công tác chi trả BHXH rất cần được sự thông cảm hiểu biết của đối tượng. Thông tin tuyên truyền không chỉ có vai trò quan trọng đối với toàn bộ nghiệp vụ BHXH mà nó còn ảnh hưởng lớn đến hiệu quả công tác chi trả các chế độ BHXH. Vì vậy, nên thực hiện hoạt động tuyên truyền, nhưng trong quá trình phải xác định nội dung tuyên truyền là gì? thông thường, khi tuyên truyền về công tác chi trả cần phải làm cho người tham gia BHXH hiểu được những chính sách BHXH, sau đó tuyên truyền về nghiệp vụ chi trả. Để thực hiện tốt công tác này, trước tiên phải chuẩn bị đầy đủ, chính xác nội dung tuyên truyền. Tiếp theo là lựa chọn phương pháp tuyên truyền. Phương pháp tuyên truyền hợp lý thì việc tuyên truyền mới thực sự có hiệu quả. Tại BHXH tỉnh Bắc Ninh thực hiện một số biện pháp tuyên truyền như: đài phát thanh, đài truyền hình, thông qua công đoàn cơ sở hoặc thông qua các đại lý chi trả BHXH để giúp người tham gia BHXH hiểu được công tác chi trả hoặc tổ chức các đợt tuyên truyền và cổ động về BHXH và thực hiện tốt công tác tuyên truyền cần phải có kinh phí thực hiện, đội ngũ tuyên truyền thực sự có năng lực, có hiểu biết về công tác chi trả và phải có phương tiện phục vụ việc tuyên truyền. Việc tuyên truyền phải diễn ra thường xuyên đều đặn mới đạt hiệu quả cao. Mặc dù tham gia BHXH là đảm bảo quyền lợi của người lao động nhưng không phải người lao động nào cũng hiểu được đầy đủ tính chất và chức năng của nó. Vì vậy, nâng cao nhận thức về các chính sách BHXH của Nhà nước ta cho người lao động đặc biệt là những lao động phổ thông có trình độ còn hạn chế là điều kiện cần thiết để chính sách BHXH đi vào cuộc sống. Đồng thời, thông qua sự hiểu biết một cách đúng đắn về tác dụng cũng như lợi ích của BHXH đối với người lao động và gia đình họ sẽ giúp BHXH có điều kiện thực hiện và phát triển rộng rãi trong từng đối tượng dân cư. Hiện nay, nhiều lao động trong các doanh nghiệp tư nhân đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các công ty trách nhiệm hữu hạn chưa tham gia BHXH cho người lao động hoặc còn trốn nộp BHXH. Do nhận thức của người lao động còn hạn chế, họ chưa thấy được lợi ích khi được tham gia BHXH nên họ không đòi hỏi quyền lợi được tham gia. Chính vì vậy, hoạt động tuyên truyền là vô cùng quan trong với nhiều hình thức gián tiếp như: báo chí, internet, sách báo... đồng thời các cán bộ BHXH có thể trực tiếp xuống các đơn vị sử dụng lao động. Một mặt, tuyên truyền, phổ biến kiến thức chính sách BHXH, mặt khác vận động mọi người lao động và các chủ sử dụng lao động tham gia BHXH vì lợi ích lâu dài của người lao động. BHXH Việt Nam nói chung và BHXH tỉnh Bắc Ninh nói riêng cần tổ chức tuyên truyền phổ biến chính sách BHXH dưới hình thức các cuộc thi như: thi tuyên truyền viên giỏi, thi tìm hiểu về luật BHXH, chính sách BHXH hay đơn giản chỉ là tìm hiểu một chế độ BHXH nào đó trong hệ thống 6 chế độ BHXH mà Việt Nam đang áp dụng hiện nay, hoặc một cuộc thi sáng tác văn học hay các bài hát về BHXH ở Việt Nam. Có như vậy thì BHXH mới được tuyên truyền và tác động đến người dân một cách thường xuyên và liên tục hơn, từ đó mới có tác dụng đến sự ham hiểu biết về BHXH làm cho BHXH được tìm hiểu một cách sâu rộng hơn, gây sự chú ý của nhiều đối tượng, nhiều tầng lớp xã hội hơn. Góp phần nâng cao nhận thức của toàn xã hội về BHXH một cách chính xác và hiệu quả nhất. - Đầu tư phương tiện tin học Khi mà công nghệ thông tin đại chúng đang bùng nổ, khoa học được áp dụng rộng rãi để giảm chi phí xã hội, ngành BHXH cũng không nằm ngoài quy luật này Hiện nay, BHXH tỉnh Bắc Ninh đã được trang bị máy vi tính hiện đại, mọi sổ sách chứng từ đều được quản lý và sử lý trên máy vi tính, hoàn thiện việc áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động BHXH theo chỉ đạo của BHXHVN là xây dựng hệ thống mạng LAN cho BHXH huyện, thành phố. - Đầu tư cho phương tiện đi lại và công tác đảm bảo an toàn về tiền mặt trong quá trình chi trả. Cần đầu tư phương tiện đặc chủng phục vụ công tác chi trả như két an toàn, xe chuyên dụng cho quá trình vận chuyển tiền, sự phối hợp của các đơn vị hữu quan trong việc vận chuyển kinh phí, thái độ làm việc nghiêm túc, trung thực của cán bộ chi trả, không để xây ra hiện tượng tiêu cực thất thoát. - Phối hợp với các cấp các ngành trong tổ chức thực hiện chi trả Đây là biện pháp rất hiệu quả khi thực hiện chi trả các chế độ BHXH. Để thực hiện tốt biện pháp này, trước tiên bản thân BHXH tỉnh phải làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với các đơn vị đó, trên cơ sơ xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau giữa BHXH tỉnh và các cơ quan tổ chức có liên quan. Các cơ quan này như UBND huyện, phòng giáo dục và đào tạo, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, kho bạc nhà nước, công an nhân dân … Ngoài việc thực hiện tốt các giải pháp trên BHXH tỉnh Bắc Ninh cần sự giúp đỡ quan tâm của các cấp lãnh đạo, các ban ngành đoàn thể cũng như sự tin tưởng của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh để có thể đạt kết quả tốt nhất trong việc chi trả các chế độ BHXH nói riêng cũng như công tác BHXH nói chung. - Nâng cao công tác thanh tra, kiểm tra. Thanh tra, kiểm tra BHXH là hoạt động không thể thiếu, về bản chất cũng là việc xem xét, đánh giá việc tuân thủ pháp luật cũng như tính hiệu quả trong vận hành của nội bộ hệ thống. Công tác thanh, kiểm tra là hết sức quan trọng trong khi quản lý việc tham gia BHXH của chủ sử dụng lao động cho lao động mà họ sử dụng. Cơ quan BHXH cần phối hợp với các ban ngành chức năng có liên quan thực hiện các cuộc kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất đối với các đơn vị, doanh nghiệp nhằm hạn chế trường hợp như: nộp chậm hay chốn đóng BHXH của các chủ sử dụng lao động, đảm bảo quyền lợi BHXH cho người lao động. Một mặt công tác thanh tra, kiểm tra yêu cầu người chủ sử dụng lao động phải đóng BHXH đầy đủ cho người lao động mà họ thuê mướn, mặt khác, thanh kiểm tra còn giúp người lao động được hưởng một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời những quyền lợi BHXH mà họ được hưởng khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tuổi già... Ngoài ra công tác thanh tra, kiểm tra còn đảm bảo sự công bằng trong việc thực hiện chính sách BHXH, đặc biệt là giữa những chủ sử dụng lao động với nhau. Để tránh tình trạng chủ sử dụng lao động này đóng mà chủ sử dụng lao động kia lại không đóng. Công tác thanh, kiểm tra là công cụ hữu hiệu góp phần đảm bảo cho các kế hoạch BHXH đặt ra như kế hoạch thu, chi BHXH, kế hoạch đầu tư tiền nhàn dỗi từ quỹ BHXH. Bởi vì trong quá trình thực hiện chính sách BHXH chỉ thông qua công tác thanh tra mới có thể phát hiện ra được những sai sót để có thể điều chỉnh kịp thời, đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch. Công tác thanh kiểm tra, nhằm hoàn thiện các quyết định quản lý trong việc thực hiện chính sách BHXH, thẩm định tính đúng, sai của đường lối chiến lược, kế hoạch, tính phù hợp của phương pháp quản lý đang áp dụng từ đó có những điều chỉnh kịp thời. Chính vì vai trò của công tác thanh tra, kiểm tra là vô cùng quan trọng nên việc thực hiện thanh tra, kiểm tra trong việc thực hiện chi trả các chế độ BHXH là rất quan trọng trong các vấn đề như: cân đối thu – chi quỹ, đối tượng hưởng, thời gian thụ hưởng... tất cả những vấn đề này nhằm hoàn thiện và điều chỉnh sao cho chế độ hưu trí được thực hiện một cách đúng đắn và phù hợp với định hướng, chính sách của nhà nước. KẾT LUẬN Trong điều kiện kinh tế thị trường của nước ta hiện nay, BHXH có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm đời sống cho người lao động, ổn định mọi mặt đời sống kinh tế xã hôi. Những chính sách BHXH thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với người lao động, giúp họ yên tâm làm việc, góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước giầu đẹp văn minh. Khẳng định được vai trò không thể thiều trong hệ thống chính sách xã hội của Nhà nước ta-nhà nước của dân, do dân và vì dân. Qua tìm hiểu về thực trạng chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh ta thấy được công tác chi trả đối với mỗi đơn vị cơ sở của toàn ngành BHXH phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như thời điểm, phương thức thanh toán, số tiền chi trả và thái độ làm việc của cán bộ chi trả. Tất cả những yếu tố trên đều ảnh hưởng nhất định đến sự thành công của công tác chi trả. Qua quá trình thực tập và tìm hiểu công tác của BHXH tỉnh Bắc Ninh trong thời gian từ năm 2005-2008, em nhận thấy được tầm quan trọng của công tác chi trả các chế độ BHXH nói riêng và của hệ thống BHXH nói chung. Với phạm vi của chuyên đề cũng như thời gian thực tập không nhiều, em đã cố gắng thể hiện chính xác và rõ ràng nhất công tác chi trả tại BHXH tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008. Tuy nhiên, do trình độ hiểu biết có hạn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, em mong nhận được sự chỉ bảo của các thày cô giáo và các bạn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn Th.S Nguyễn Thị Chính và sự giúp đỡ tạo điều kiện của BHXH tỉnh Bắc Ninh đã giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập của mình. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2009 Sinh viên thực tập Trần Thị Lan TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Kinh tế Bảo hiểm, Nhà xuất bản Thống kê – Trường Đại học Kinh tế quốc dân năm 2008. Tạp chí về Bảo hiểm xã hội Giáo trình An sinh xã hội, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân năm 2008. Điều lệ BHYT năm 2005 ban hành kèm theo Nghị định 63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 của Chính phủ. Điều lệ BHXH năm 2005 ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ. Luật BHXH ban hành ngày 29/6/2006 của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyết định 815/QĐ-BHXH ngày 6/6/2007 của BHXH Việt Nam và một số Quy định kèm theo. Quyết định 845/QĐ- BHXH ngày 18/6/2007 của BHXH Việt Nam và một số Quy định kèm theo. Báo cáo tổng kết chi hàng năm giai đoạn 2005-2008 của BHXH tỉnh Bắc Ninh Báo cáo tình hình hoạt động các năm 2005-2008 của BHXH tỉnh Bắc Ninh Và một số tài liệu tham khảo khác. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ASXH : An sinh xã hôi BHTN : Bảo hiểm thất nghiệp BHXH : Bảo hiểm xã hội BHYT : Bảo hiểm y tế BQ : Bình quân HĐND : Hội đồng nhân dân NSNN : Ngân sách Nhà nước NLĐ : Người lao động TNLĐ-BNN : Tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp UBNN : Uỷ ban nhân dân BHXHVN : Bảo hiểm xã hội Việt Nam ASXH : An sinh xã hội ĐT : Đối tượng MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1: Tình hình chi trả trợ cấp ốm đau ở BHXH tỉnh Bắc Ninh 53 giai đoạn 2005-2008 53 Bảng 2.2: Tình hình chi trả trợ cấp thai sản của BHXH tỉnh Bắc Ninh 55 Bảng 2.3 Tình hình chi trả trợ cấp chế độ TNLĐ-BNN 58 Bảng 2.4: Mức hưởng trợ cấp TNLĐ-BNN bình quân một tháng cho một 60 đối tượng tại BHXH tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008 60 Bảng 2.5 : Tình hình chi trả trợ cấp hưu quân đội của BHXH tỉnh 61 Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008 61 Bảng 2.6: Tình hình chi trả trợ cấp hưu công nhân, viên chức của BHXH tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008. 64 Bảng 2.7: Tình hình chi trả trợ cấp cho cán bộ xã phường của BHXH 66 tỉnh Bắc Ninh 66 Bảng 2.8 Tình hình chi trả trợ cấp mất sức lao động của BHXH tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008 67 Bảng 2.9: Chi trợ cấp 91 của BHXH tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008 68 Bảng 2.10: Tình hình chi trả trợ cấp mai táng của BHXH tỉnh Bắc Ninh 70 giai đoạn 2005-2008 70 Bảng 2.11: Tình hình chi trả trợ cấp tuất định suất cơ bản của BHXH 71 tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008 71 Bảng 2.12: Tình hình chi trả trợ cấp tuất nuôi dưởng của BHXH tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008 73 Bảng 2.13: Tình hình chi trả trợ cấp tuất một lần của BHXH tỉnh Bắc Ninh 75 NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN Ngày tháng năm 2009 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31474.doc
Tài liệu liên quan