Thực trạng công tác kế hoạch và đề xuất nhằm hoàn thiện quy trình kế hoạch kinh doanh ở Công ty đầu tư thương mại và dịch vụ Thắng Lợi

Chương I: Những lý luận chung về công tác kế hoạch trong doanh nghiệp. I. Lịch sử của công tác kế hoạch hoá trong nền kinh tế quốc dân và trong doanh nghiệp. 1. Lịch sử công tác kế hoạch hoá trong nền kinh tế quốc dân: 1.1. Kế hoạch trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung: Lý luận và thực tiễn kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân được coi như một chính thể thống nhất đã xuất hiện cùng với sự phát triển và ngày càng hoàn thiện của nền kinh tế. Nó phản ánh tính chất của xã hội của lực lượng sản x

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1203 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng công tác kế hoạch và đề xuất nhằm hoàn thiện quy trình kế hoạch kinh doanh ở Công ty đầu tư thương mại và dịch vụ Thắng Lợi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uất hiện đại, sự thống trị của chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất. Ngay sau thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Mười Nga, V.I. Lênin đã nêu lên sự cần thiết phải vạch ra một kế hoạch kinh tế thống nhất và thi hành một chính sách kỹ thuật thống trị thống nhất. Trong năm đầu tiên, Liên Xô đã thông qua kế hoạch dài hạn- đó là kế hoạch điện khí hoá tập trung bao cấp. Công cuộc công nghiệp hoá ở Liên Xô, việc biến Liên Xô từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một cường quốc công nghiệp phát triển, việc tạo ra tiềm lực to lớn về sản xuất và khoa học kỹ thuật, được thực hiện trên cơ sở kế hoạch, do kết quả của việc hoàn thành liên tục các kế hoạch triển vọng và kế hoạch ngắn hạn. Những thành tựu to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa, toàn bộ khối cộng đồng xã hội chủ nghĩa không thể tách rời khỏi sự hình thành và phát triển của lý luận và thực tiễn kế hoạch hoá. Kế hoạch hoá xã hội chủ nghĩa đã trở thành công cụ để củng cố sự hợp tác quốc tế trong phạm vi của Hội đồng tương trợ kinh tế. ở nhiều nước đang phát triển, việc sử dụng phương pháp kế hoạch trong lãnh đạo nền kinh tế được coi như một điều kiện bắt buộc để khắc phục tình trạng lạc hậu, để đạt được sự độc lập về kinh tế. ở một số nước tư bản chủ nghĩa phát triển, những mưu toan nhằm điều tiết nền kinh tế cũng được tiến hành. Kế hoạch hoá xã hội chủ nghĩa là hình thức nhà nước lãnh đạo nền kinh tế bao gồm mọi lĩnh vực và mọi ngành kinh tế quốc dân. Do vậy, đối tượng của công tác kế hoạch hoá là nền sản xuất vật chất cũng như những lĩnh vực không sản xuất. Cơ sở của hệ thống kế hoạch hoá là kế hoạch phát triển kinh tế xã hội chung toàn quốc, tức là, cần phải coi toàn bộ nền kinh tế quốc dân như một chỉnh thể thống nhất. Một bộ phận hữu cơ của hệ thống kế hoạch hoá xã hội chủ nghĩa là kế hoạch hoá theo ngành và theo vùng lãnh thổ cũng như kế hoạch hoá trong từng liên hiệp, xí nghiệp, tổ chức cơ quan. Những tiền đề khách quan của công tác kế hoạch hoá này là tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại, chế độ sở hữu công cộng chiếm địa vị thống trị, cơ cấu chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa. Kế hoạch hoá đòi hỏi kết hợp tính chất pháp lệnh của các nhiệm vụ kế hoạch chủ yếu với việc sử dụng những phương pháp điều tiết nền kinh tế bằng giá cả, tín dụng, khuyến khích vật chất. Thông qua những tiền đề nêu trên, kế hoạch hóa tập trung có các chức năng chủ yếu sau: Thứ nhất, kế hoạch hoá sẽ củng cố và phát triển cơ sở của chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là vai trò sáng tạo của kế hoạch hoá trong việc khắc phục tình trạng lạc hậu về xã hội và kinh tế. Thứ hai, kế hoạch hóa nhằm phát hiện và dự kiến những nhu cầu của xã hội, kể cả nhu cầu của sản xuất lẫn những nhu cầu không có tính chất sản xuất để thoả mãn một cách đầy đủ nhu cầu đó và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân. Thứ ba, kế hoạch hoá đòi hỏi một quan điểm kinh tế quốc dân đồng bộ đối với việc tạo ra và sử dụng có hiệu quả các nguồn vật tư, lao động và tài chính. Thứ tư, kế hoạch hoá đảm bảo sự phát triển kinh tế cân đối, không có khủng hoảng, không có thất nghiệp và suy thoái sản xuất và điều chỉnh kế hoạch. Bản chất của hệ thống kế hoạch hoá tập trung là sự khống chế trực tiếp của chính phủ thông qua các quyết định mang tính pháp lệnh phát ra từ trung ương, cho nên nó mang tính cưỡng chế trực tiếp. Với phạm vi tiếp cận chi tiết cả vĩ mô, vi mô, trên mọi lĩnh vực: sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng…kế hoạch hoá tập trung mang tính pháp lệnh là chủ yếu. Hệ thống kế hoạch hoá tập trung này kéo dài và dần bị chuyển đổi cùng với sự thay đổi ngày càng mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới. Thông qua đó, chúng ta thấy rõ ưu điểm và nhược điểm của hệ thống kế hoạch hoá tập trung: Kế hoạch hoá tập trung đảm bảo tính kịp thời, nhanh chóng nghiêm túc trong việc thực hiện các mục tiêu của nền kinh tế. Thông qua việc nghiên cứu nhu cầu, kế hoạch hóa bảo đảm sự phân bổ các yếu tố nguồn lực theo yêu cầu của xã hội. Ngoài ra, kế hoạch hoá tập trung còn bảo đảm tính công bằng hợp lý trong sản xuất và phân phối. Tuy nhiên, kế hoạch hoá tập trung ngày càng bộc rõ tính gò bó, kém hiệu quả và nhạy bén, nền kinh tế có sức ỳ lớn kể cả các cơ quan quản lý và các đơn vị kinh tế; từ đó dẫn đến căn bệnh quan liêu, ỷ lại, ngồi chờ, thiếu tính sáng tạo trong sản xuất kinh doanh của các đơn vị và trong nền kinh tế. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến sự kém hiệu quả về mặt tài chính – kinh tế của hầu hết các doanh nghiệp trong cả nước. 1.2. kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường: Thực tiễn cho thấy rằng: cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp trong quản lý kinh tế từng được áp dụng ở nước ta và các nước khác trên thế giới đã không tạo ra được động lực phát triển, mà còn làm cho nền sản xuất xã hội bị suy yếu, làm giảm năng suất lao động xã hội, gây rối loạn trong phân phối, lưu thông; đồng thời, đẻ ra nhiều hiện tượng liên quan đến tiêu cực trong xã hội. Nền kinh tế các nước trên thế giới đều có sự chuyển đổi cho phù hợp với tình hình mới, xu hướng vận động từ một nền kinh tế tập trung mệnh lệnh sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước (còn gọi là kế hoạch hoá thị trường định hướng). Như vậy, đối tượng của kế hoạch đã thay đổi căn bản từ kế hoạch hoá một nền kinh tế tự cấp, tự túc sang kế hoạch hoá nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Sự đổi mới của nền kinh tế đòi hỏi phải nhận thức lại nội dung và phương thức kế hoạch hoá. Vai trò của kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân là phát huy tác dụng tích cực của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng nhanh, ổn định và có hiệu quả. Muốn vậy, khi phát triển nền kinh tế cần chú trọng những vấn đề sau: Một là, xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế xã hội với nội dung cốt lõi là hoạch định cơ cấu kinh tế hợp lý (bao gồm cơ cấu, thành phần) để định hướng phạm vi, quy mô phát triển của từng thành phần kinh tế. Để thực hiện việc đó, vấn đề cần chú ý là kinh tế quốc doanh sẽ phát triển với quy mô nào và ở những ngành nghề nào là hợp lý để vừa đủ sức làm chỗ dựa cho nhà nước chi phối nền kinh tế và không trở thành gánh nặng cho ngân sách. Còn kinh tế tập thể, tư nhân, cá thể sẽ phát triển mạnh ở những ngành nghề nào và không được kinh doanh những sản phẩm dịch vụ nào. Như vậy, sự phát triển của các thành phần kinh tế được đặt trong thế trận chung của nền kinh tế cả nước nhằm tạo được sự phân công lao động hợp lý giữa các thành phần kinh tế. Thứ hai, bảo đảm quyền tự chủ kế hoạch hoá cho các cơ sở thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế hàng hoá, các đơn vị sản xuất kinh doanh là chủ thể sản xuất hàng hoá. Hoạt động của họ hướng vào sản xuất và trao đổi trên cơ sở ngang giá nhằm thu lợi nhuận tối đa. Yêu cầu bức thiết là bảo đảm quyền tự chủ kế hoạch hoá cho các cơ sở để họ tự lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, phù hợp với nhu cầu thị trường. Xoá bỏ mọi hình thức áp đặt trong việc giao nhiệm vụ kế hoạch sản xuất kinh doanh không gắn với trách nhiệm lỗ, lãi đối với cơ sở. Mở rộng các quan hệ ngang thông qua hình thức hợp đồng, đơn đặt hàng, liên doanh liên kết giữa các thành phần kinh tế trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch. Nhà nước tác động đến hoạt động của các cơ sở chủ yếu bằng các biện pháp kế hoạch gián tiếp thông qua các đòn bẩy kinh tế, nhất là sử dụng linh hoạt, có hiệu quả công cụ thuế. Mặt khác, thực hiện các biện pháp đầu tư và tài trợ có trọng điểm để phát triển các ngành nghề cần khuyến khích, nhất là các sản phẩm mới, các sản phẩm mũi nhòn nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài nước và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới. Kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường thể hiện sự cố gắng một cách có ý thức của chính phủ nhằm đưa ra những phương án sử dụng và khai thác triệt để nguồn lực nhằm hướng nền kinh tế theo mục tiêu đã định trước. Chính điều này đã phản ánh tính gián tiếp của chính phủ khi tác động vào nền kinh tế thị trường. Trong suốt quá trình hoạt động của mình, kế hoạch chỉ mang tính chất vĩ mô (tiếp cận ở tầm vĩ mô), định hướng phát triển và kiểm tra, giám sát các hoạt động trong nền kinh tế. Do vậy, cách thức tiếp cận chủ yếu là đưa ra các phương án để khai thác, khuyến khích, huy động và sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực trong nền kinh tế bằng cách hướng dẫn, gợi ý, dẫn dắt các đơn vị thực hiện kế hoạch. Kế hoạch hoá định hướng là xác định một cách đúng đắn phương hướng, mục tiêu phát triển của nền kinh tế quốc dân và các biện pháp về cân đối vật chất, khoa học kỹ thuật, cơ chế chính sách để hướng dẫn các đơn vị kinh tế, cơ sở sản xuất kinh doanh phát triển theo phương hướng, mục tiêu đã đề ra. 2. Lịch sử công tác kế hoạch hoá trong doanh nghiệp : Từ đầu thế kỷ XIX đến khoảng những năm 1939, các lý thuyết về nền kinh tế trọng cung ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các quốc gia và tới từng doanh nghiệp – nghĩa là có cung ắt có cầu. Các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm để tung ra thị trường. Các nhà kinh tế học thời kỳ này ủng hộ tự do cạnh tranh, chống lại sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế. Họ tin chắc rằng, cơ chế thị trường tự phát sẽ bảo đảm thăng bằng cung cầu, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bình thường, tránh được những khủng hoảng kinh tế. Do không chịu sức ép của cầu hàng hoá, kế hoạch hoá đơn giản chỉ là những dự báo. Cùng thời kỳ, sau thắng lợi của cuộc cách mạng tháng mười Nga là sự xuất hiện của hệ thống kế hoạch hoá tập trung. Hệ thống này đòi hỏi thiết lập một khu công nghiệp nhà nước vận hành theo hệ thống phân phối đầu vào - đầu ra bằng các chỉ tiêu hiện vật ở cấp doanh nghiệp với sự chỉ đạo của hệ thống bảng cân đối. Hệ thống kế hoạch này tập trung để vắt ép các nền kinh tế và tập trung chúng vào các lĩnh vực ưu tiên, các giao dịch giữa các chủ thể kinh doanh không dựa trên các tính toán về lợi thế kinh tế, về cơ hội mà là việc giao nhận các sản phẩm hiện vật nhằm thực hiện các chỉ tiêu do nhà lập kế hoạch đưa ra. Kết quả là tạo ra sự tích luỹ rất lớn và tiết kiệm cao, song thiếu năng động về công nghệ vì cho ra đời các sản phẩm không gắn liền với sự khuyến khích của thị trường, hiệu quả kinh tế thấp vừa do không có các chỉ tiêu kinh tế tương đối, vừa không có sự trừng phạt đối với tính phi hiệu quả và sự khuyến khích đối với tính hiệu quả. Các doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh, nhất là trong logic nền kinh tế cầu. Từ những năm 1936, những lý thuyết về nền kinh tế trọng cầu xuất hiện, trước những sức ép ngày càng tăng của cầu, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng thừa trong nền kinh tế, mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp là làm sao đảm bảo sự tăng trưởng của doanh nghiệp bằng ít nhất sự tăng trưởng của cầu. Khi đó, hệ thống kế hoạch hoá trở nên hoàn chỉnh từ việc lập một dự báo, lập ngân sách hàng năm, rồi kiểm soát và kế hoạch hoá được chú trọng dưới các hình thức khác nhau ở cấp quốc gia, mỗi ngành nghề và mỗi doanh nghiệp. Cuối những năm 1950, do những đòi hỏi ngày càng khắt khe của nền kinh tế, hệ thống kế hoạch hoá càng trở nên hoàn thiện và đầy đủ. Kế hoạch chiến lược, kế hoạch dài hạn ra đời và có kế hoạch tác nghiệp đi kèm để đảm bảo hoàn thành các mục tiêu đề ra. Kế hoạch hoá chiến lược cho phép doanh nghiệp phát triển công nghệ mới, thâm nhập thị trường mới, phát triển sản phẩm mới, lựa chọn phương thức phát triển doanh nghiệp phù hợp với xu hướng quốc tế hoá. nó cho phép doanh nghiệp thay đổi, cải thiện và củng cố vị thế cạnh tranh trên thị trường. II. Nội dung của công tác kế hoạch hoá trong doanh nghiệp. 1. Sự cần thiết của kế hoạch hoá trong doanh nghiệp: Cũng như mọi phạm trù quản lý, công tác kế hoạch cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Mỗi cách tiếp cận đều xem xét kế hoạch theo một góc độ riêng và đều cố gắng lột tả bản chất của phạm trù quản lý này. Cách tiếp cận theo quá trình cho rằng, kế hoạch hóa hoạt động của doanh nghiệp là một quá trình liên tục, kể từ khi xây dựng kế hoạch cho tới khi tổ chức thực hiện kế hoạch nhằm đưa hoạt động của doanh nghiệp phát triển theo các mục tiêu đã xác định. Theo Steiner: “Kế hoạch là một quá trình bắt đầu bởi việc thiết lập các mục tiêu và quy định chiến lược, các chính sách và kế hoạch chi tiết để đạt được mục tiêu. Nó cho phép thiết lập các quy định và đưa vào thực thi, nó bao gồm một chu kỳ mới của việc thiết lập mục tiêu và quy định chiến lược được thực hiện hoàn thiện hơn nữa”. 1: Nguồn : Giáo trình “Chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp”. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đang đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu, giải quyết. Trong lĩnh vực kế hoạch, những năm qua vẫn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về vai trò và sự tồn tại khách quan của công tác này. Một số ý kiến khác cho rằng, trong cơ chế quản lý mới không còn chỗ đứng cho công tác kế hoạch, thị trường sẽ trực tiếp điều tiết và hướng dẫn doanh nghiệp trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế cơ bản; một số ý kiến lại cho rằng, bất luận trong điều kiện nào, công tác kế hoạch nói chung và công tác kế hoạch kinh doanh nói riêng vẫn tồn tại như yếu tố cấu thành cơ chế quản lý. Khi môi trường và điều kiện thay đổi thì cùng với các bộ phận khác của công tác quản lý, công tác kế hoạch cũng phải được nghiên cứu, đổi mới cho phù hợp. Thực tế cho thấy, sự tồn tại của công tác kế hoạch trong cơ chế quản lý mới là một tất yếu khách quan, trong điều kiện mới, kế hoạch cần phải được thay đổi và tăng cường, bởi lẽ, xét về mặt bản chất, kế hoạch là hoạt động chủ quan, có ý thức, có tổ chức của con người nhằm xác định mục tiêu, phương án, trình tự và cách thức tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Riêng đối với Việt Nam, thông qua các kỳ Đại hội Đảng đều xác định rõ: Mô hình kinh tế mà chúng ta đang hướng tới xây dựng là mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong đó, kế hoạch là một trong những công cụ điều tiết cùng tồn tại và cùng được cải tiến với các công cụ điều tiết khác của nhà nước với điều kiện kinh tế mới đòi hỏi. Trong một doanh nghiệp, kế hoạch điều tiết, bổ sung thị trường, nó có tính pháp lệnh, nhưng mềm dẻo, linh hoạt và bảo đảm hiệu qủa kinh tế – xã hội. Do vậy, nếu không có kế hoạch hoá, doanh nghiệp sẽ mất khả năng định hướng tương lai, không có khả năng dự báo nhu cầu thị trường và không xem xét hoạt động kinh doanh như một quá trình liên tục. Nhà kinh tế học người Anh, Roney cho rằng, hoạt động kế hoạch công ty là thực sự cần thiết nhằm hai mục đích: tấn công (tận dụng các cơ hội để tăng khả năng thành công của doanh nghiệp) và dự phòng (tức là tránh ra khỏi các rủi ro của thị trường). Ngoài ra, kế hoạch sẽ giúp doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả nhất nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược, khuyến khích các nhà quản lý thực hiện quyết định quản lý trong tương lai; cho phép doanh nghiệp đối phó với những thay đổi bất ngờ của môi trường bên ngoài; việc phân bổ quyền hạn và nghĩa vụ rõ ràng hơn và tăng khả năng kiểm tra của doanh nghiệp. 2. Quy trình kế họach kinh doanh trong doanh nghiệp. Quá trình kế hoạch hoá trong doanh nghiệp bao gồm các bước được thể hiện như sau: Sơ đồ 1: Quá trình kế hoạch trong doanh nghiệp. : Nguồn : Giáo trình “Chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp”. Lĩnh vực hoạt động Hệ thống các giá trị Nhiệm vụ Kế hoạch tác nghiệp ( ngắn hạn) Đánh giá điều chỉnh các pha kế hoạch Chương trình dự án ( trung hạn) Kế hoạch chiến lược (dài hạn) Các lĩnh vực hoạt động: Việc xác định các lĩnh vực hoạt động được tiến hành trên cơ sở so sánh những khả năng của doanh nghiệp trong các khu vực hoạt động khác nhau. Quá trình xác định khu vực hoạt động gồm : Phân tích các khả năng sẵn có. Xác định những nhân tố then chốt thành công của mỗi khu vực. Đối chiếu các khu vực mà doanh nghiệp có cơ may thành công nhất, thuận lợi nhất trong việc đầu tư. Đối chiếu với năng lực của bộ máy điều hành, nhiệm vụ của doanh nghiệp . Các hướng tăng trưởng của sản phẩm , thị trường, những thuận lợi trong cạnh tranh. Hệ thống các giá trị: Thông qua việc phân tích, đánh giá khả năng của các doanh nghiệp so với doanh nghiệp khác trên thị trường, đưa ra các chỉ tiêu giá trị cụ thể phù hợp với khả năng của doanh nghiệp và dự báo cụ thể cho một khoảng thời gian nhất định trong tương lai, làm sao để hệ thống các chỉ tiêu giá trị này có tính thực thi cao nhất. Tính hiện thực thể hiện ở chỗ, chỉ tiêu kế hoạch có cơ sở khoa học phù hợp với thực tế khách quan xí nghiệp, có điều kiện đảm bảo thực hiện được và hoàn thành tốt. Nhiệm vụ: Trên cơ sở các mục tiêu đã đề ra, và dựa vào ý muốn chủ quan của các nhà lãnh đạo cấp trên và cấp doanh nghiệp, nêu ra các nhiệm vụ của từng đơn vị cơ sở, từng bộ phận thực hiện. Trong suốt quá trình đó , cần có sự phối hợp giữa các nguồn lực bên trong và bên ngoài để nhiệm vụ đề ra được thực hiện và được hoàn thành tốt. Kế hoạch chiến lược : Phác thảo hình ảnh tương lai của doanh nghiệp trong các khu vực hoạt động và các khả năng có thể khai thác được. Kế hoạch chiến lược xác định các mục tiêu dài hạn, các chính sách, các giải pháp để thực hiện mục tiêu. Chương trình hoá chiến lược lựa chọn: Đây là quá trình mà theo đó các kế hoạch chi tiết, gắn bó bao trùm các hoạt động của doanh nghiệp được thiết lập, cho phép sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu phù hợp với chiến lược. Giai đoạn này bao gồm việc xác định chương trình, kế hoạch, các dự án thích ứng nhằm thực hiện chiến lược. Kế hoạch tác nghiệp và ngân sách: Quá trình này xử lý một cách chi tiết hơn dưới dạng tiền tệ các pha khác nhau đã ghi trong chương trình triển khai chiến lược. Kế hoạch là công cụ chỉ đạo và điều hành sản xuất. Còn ngân quỹ là các dự toán nhu cầu vốn về mua sắm các yếu tố sản xuất, về phục vụ bán hàng… Đánh giá và điều chỉnh: Mục đích của pha này là ghi nhận các tiến bộ đạt được khi đưa ra kế hoạch thực thi và điều chỉnh trong trường hợp cần thiết là những việc cần thiết của một hoặc nhiều bộ phận của kế hoạch. Việc đánh giá và điều chỉnh là những việc cần thiết để đảm bảo hoàn thiện liên tục quá trình quản lý. Kế hoạch là quá trình lặp lại nhiều lần và qua lại giữa mục đích và phương tiện nhằm điều chỉnh hành vi, hướng hoạt động thích ứng với mục tiêu và hoàn cảnh thường xuyên biến động. Quản lý là một quá trình liên tục bao gồm các khâu: Xác định các mục tiêu, tổ chức thực hiện các mục tiêu và kiểm tra đánh giá tình hình thực hiện các mục tiêu. Quá trình đó lập thành một chu trình quản lý với việc thực hiện các chức năng quản lý kế tiếp nhau. Trong doanh nghiệp, kế hoạch có một vai trò quan trọng, đóng vai trò quyết định trong việc tìm ra hướng đi (xác định mục tiêu) cho doanh nghiệp. Dưới đây là sơ đồ mô tả kế hoạch trong chu trình quản lý của doanh nghiệp (Xem trang sau). Trong chu trình này, lập kế hoạch là khâu đầu tiên với việc phác thảo các mục tiêu và phương châm thực hiện. Trong nền kinh tế thị trường phát triển đều xác định dự kiến (lập các đích và mục tiêu, quyết định các phương án…) là chức năng đầu tiên trong hệ thống các chức năng quản lý. Hoạt động này không những góp phần xác định đúng các mục tiêu hướng đi mà còn góp phần xác lập, đánh giá và lựa chọn các phương án phối hợp các nguồn lực bên trong và bên ngoài để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu sản xuất kinh doanh. Sơ đồ 2: Kế hoạch trong chu trình quản lý của doanh nghiệp .: (Nguồn: Giáo trình“ Chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp”) Kiểm tra vàđiều chỉnh Phối hợp các nguồn lực bên trong và bên ngoài Chỉ huy đơn vị hướng tới mục tiêu Tổ chức các nguồn lực thực hiện Lập kế hoạch (xác định các mục tiêu) 3. Hệ thống các kế hoạch của doanh nghiệp: Trong thực tế, hệ thống kế hoạch của doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường rất đa dạng, có thể phân loại theo các tiêu thức khác nhau. 3.1. Căn cứ theo thời gian, hệ thống kế hoạch doanh nghiệp gồm: Kế hoạch chiến lược: Thường từ 5 - 10 năm, nhằm xác định lĩnh vực hoạt động sẽ tham gia, đa dạng hoá hoặc cải tiến cho hoạt động trên các lĩnh vực hiện tại, xác định mục tiêu, chính sách và giải pháp dài hạn về tài chính, đầu tư, nghiên cứu phát triển, con người… Kế hoạch trung hạn: Thường từ 3-5 năm, nhằm phác thảo các chương trình trung hạn để thực hiện hoá các lĩnh vực, mục tiêu, chính sách, giải pháp được hoạch định trong chiến lược lựa chọn. Chương trình kế hoạch hoá hàng năm : Tuỳ theo cách thức tiếp cận của kế hoạch chiến lược và kế hoạch trung hạn, cách cụ thể được xác định theo chương trình hoặc phương án kế hoạch năm. Kế hoạch là sự cụ thể hoá nhiệm vụ sản xuất kinh doanh căn cứ vào định hướng mục tiêu chiến lược và kế hoạch trung hạn căn cứ vào kết quả nghiên cứu, điều chỉnh các căn cứ xây dựng kế hoạch phù hợp với điều kiện của năm kế hoạch. Kế hoạch tác nghiệp và các dự án: Thông thường, kế hoạch tác nghiệp có thể theo sản phẩm, lĩnh vực, theo bộ phận sản xuất hoặc theo thời gian…gắn liền với việc triển khai các phương án kế hoạch, còn các dự án cải tạo, hiện đại hoá các dây chuyền công nghệ, đào tạo, nghiên cứu, triển khai… lại gắn liền với việc thực thi các chương trình hoặc chương trình đồng bộ có mục tiêu. 3.2. Căn cứ vào mối quan hệ gắn bó giữa các loại hoạt động của kế hoạch doanh nghiệp, thì kế hoạch doanh nghiệp gồm: Bộ phận kế hoạch mục tiêu: Là bộ phận kế hoạch quan trọng nhất của doanh nghiệp, nhằm hoạch định các mục tiêu, chính sách và giải pháp về sản phẩm , thị trường, quy mô và cơ cấu các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó xác định các chỉ tiêu tài chính cơ bản nhằm xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh gắn với từng phương án được hoạch định. Các kế hoạch điều kiện (hỗ trợ) như lao động, vốn, đầu tư… nhằm xác định các mục tiêu, giải pháp, phương án huy động và khai thác các khả năng và nguồn lực thực hiện có hiệu quả các phương án kế hoạch mục tiêu. Kế hoạch điều kiện được xác định là căn cứ và gắn bó với kế hoạch mục tiêu. Kế hoạch đảm bảo tính đồng bộ trong mục tiêu, giải pháp và điều kiện thực hành các hoạt động quản lý kế hoạch. 4. Mối quan hệ giữa các kế hoạch bộ phận trong doanh nghiệp: Trong doanh nghiệp thường có 5 kế hoạch bộ phận. Đó là: - Kế hoạch Marketing. - Kế hoạch Tài chính - Kế hoạch sản xuất. - Kế hoạch Nhân sự. - Kế hoạch nghiên cứu và phát triển (R& D). Mối quan hệ giữa các kế hoạch bộ phận biểu diễn bởi sơ đồ sau: Sơ đồ 3: Mối quan hệ giữa các kế hoạch bộ phận trong doanh nghiệp : Kế hoạch R&D Kế hoạch sản xuất Kế hoạch Marketing Kế hoạch nhân sự Kế hoạch tài chính 4.1. Kế hoạch Marketing: Marketing là những gì doanh nghiệp làm để hiểu khách hàng của mình là ai? Họ cần gì và muốn gì? Và làm thế nào để thoả mãn nhu cầu của họ, đồng thời tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Kế hoạch Marketing là cơ sở của mọi kế hoạch tác nghiệp khác trong doanh nghiệp . Công việc được tiến hành từ việc dự báo nhu cầu đến việc xây dựng kế hoạch bán hàng, từ đó, có kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch dự trữ thành phẩm nguyên vật liệu. Ngoài ra, kế hoạch Marketing còn có vai trò phát triển sản phẩm mới, phát triển lực lượng bán hàng. Do vậy, kế hoạch Marketing có ảnh hưởng quan trọng đến kế hoạch sản xuất, kế hoạch tài chính, kế hoạch nhân sự và kế hoạch R&D. Trong lĩnh vực Marketing, kế hoạch được cụ thể hoá bằng các kế hoạch bộ phận: Kế hoạch bán hàng: Sau khi có kết quả dự báo bán hàng, doanh nghiệp ấn định mục tiêu kế hoạch cho từng nhóm sản phẩm , từng thị trường và cho toàn bộ doanh nghiệp. Sau đó, các nhà kế hoạch đưa ra kế hoạch bán hàng, đồng thời làm cơ sở cho kế hoạch Marketing khác. Kế hoạch phân phối: Kênh phân phối là con đường lưu thông hàng hoá từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Tuỳ theo đặc điểm sản phẩm, doanh nghiệp lựa chọn kênh phân phối thích hợp. Sau đó, người lập kế hoạch ấn định mục tiêu phân phối các mục tiêu kế hoạch bán hàng và lựa chọn kênh phân phối phù hợp. Mục tiêu phân phối có thể được thể hiện qua các chỉ tiêu về số lượng và giá trị. Ngoài ra, còn có kế hoạch khác như: kế hoạch quảng cáo, kế hoạch khuyến mại, kế hoạch phát triển lực lượng bán hàng, kế hoạch quan hệ công chúng. 4.2. Kế hoạch sản xuất và cung ứng: Sản xuất là điểm khởi đầu của quá trình sản xuất kinh doanh, là khởi điểm của toàn bộ nền kinh tế. Sản xuất là một trong những yếu tố tạo ra giá trị gia tăng, do đó, tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp. Kế hoạch sản xuất nhằm tối ưu hoá việc sử dụng các nguồn lực sẵn có để sản xuất ra một hoặc nhiều sản phẩm nhất định. Kế hoạch sản xuất đóng vai trò quan trọng trong hệ thống kế hoạch của doanh nghiệp, nó là căn cứ cho việc lập kế hoạch của các bộ phận khác. Trong kế hoạch sản xuất, các nhà kế hoạch thường lập các kế hoạch sau: Kế hoạch sản xuất và thương mại: Kế hoạch sản xuất và thương mại cho phép doanh nghiệp đưa ra các chính sách sản xuất và mua sắm, cung ứng cho hoạt động chung của doanh nghiệp hoặc cho từng nhóm sản phẩm, nhằm xác định một định hướng cho sự phát triển sản xuất và kinh doanh mà doanh nghiệp theo đuổi trong một thời gian tương đối dài. Kế hoạch sản xuất và thương mại thường đề cập tới 3 khía cạnh: + Chỉ tiêu từ kế hoạch bán hàng. + Các thông tin từ sản xuất + Kế hoạch dự trữ sản phẩm. Kế hoạch chỉ đạo sản xuất: Kế hoạch chỉ đạo sản xuất là kế hoạch trung gian giữa kế hoạch sản xuất và thương mại và kế hoạch về nhu cầu sản xuất. Kế hoạch này được lập cho mỗi sản phẩm hoặc các chi tiết của sản phẩm . Đây là kế hoạch tác nghiệp sản xuất trong thời gian ngắn. Kế hoạch chỉ đạo sản xuất có nhiệm vụ tập hợp các yêu cầu cụ thể của khách hàng, sau đó , đưa ra các mức sản xuất và thương mại thành các chương trình chỉ đạo sản xuất tương ứng phù hợp với khả năng sản xuất của doanh nghiệp. Kế hoạch nhu cầu sản xuất : Đây là kế hoạch nhằm xác định nhu cầu về các yếu tố sản xuất. Kế hoạch tổ chức sản xuất : Tổ chức sản xuất là việc tập hợp các quyết định mà các nguồn giá trị, các đơn vị sản xuất cần phải đưa ra để thực hiện một chu trình sản xuất nhất định. 4.3. Kế hoạch nhân sự: Kế hoạch hoá nguồn nhân lực là quá trình đánh giá một cách có hệ thống các yêu cầu về nguồn nhân lực để đảm bảo về số lượng, chất lượng cho từng công việc trong công ty để trong thời gian cụ thể thực hiện có hiệu quả các mục tiêu kinh doanh. Kế hoạch nhân sự nhằm hướng tới doanh nghiệp trả lời các câu hỏi sau: Chúng ta cần những người như thế nào? Khi nào chúng ta cần họ? Họ cần có những kỹ năng và chuyên môn gì? Chúng ta có sẵn những người thích hợp chưa và liệu họ có kiến thức chuyên môn phù hợp không? Khi có những thông tin trên, chúng ta cần phải làm như thế nào?…. Sau khi doanh nghiệp xác định được nhu cầu và nguồn cung lao động, doanh nghiệp phải có những điều chỉnh cần thiết, nếu như cung lao động mà vượt cầu thì doanh nghiệp không cần cung từ bên ngoài mà ưu tiên cho việc thoả mãn yêu cầu bằng nguồn nội bộ. Nếu cung lao động vượt cầu có nguy cơ tồn tại lâu dài thì doanh nghiệp sẽ thực hiện một số biện pháp để giảm dần dư cung. Nhưng ngược lại, nếu cung lao động không đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp thì doanh nghiệp phải tiến hành quy trình tìm kiếm nhân sự từ bên ngoài. Khi cung đã được cân đối với cầu thì kế hoạch nhân sự phải được thông qua bởi ban lãnh đạo doanh nghiệp và kế hoạch này sẽ là cơ sở cho doanh nghiệp tiến hành việc tuyển dụng,đào tạo và sắp xếp công việc. 4.4. Kế hoạch tài chính: Kế hoạch tài chính là một trong các kế hoạch trong tổng thể của doanh nghiệp. Nó cho phép cân đối các nguồn tài chính và thoả mãn nhu cầu về ngân sách cho việc thực hiện các kế hoạch chức năng khác. Kế hoạch tài chính là quá trình xác định các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp, báo cáo về các hoạt động tài chính, phân tích sự khác biệt giữa mục tiêu và tình hình tài chính hiện tại nhằm làm cho doanh nghiệp đạt được các mục tiêu tài chính đề ra. Kế hoạch tài chính có ý nghĩa quan trọng trong bất cứ một doanh nghiệp nào. Nó thể hiện các mục tiêu chiến lược dưới dạng các chỉ tiêu tài chính; xác định giới hạn cho việc thực hiện các kế hoạch khác; cung cấp thông tin để soạn thảo và điều chỉnh chiến lược chung của doanh nghiệp. Kế hoạch tài chính là phương tiện quan trọng để liên kết trong doanh nghiệp với bên ngoài như cổ đông, nhà quản lý, người phân phối, ngân hàng, nhà đầu tư… Hệ thống kế hoạch tài chính trong doanh nghiệp. Dự báo cân đối kế toán. Dự báo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Dự báo ngân sách tài chính. Dự báo những chỉ tiêu tài chính then chốt. Kết thúc quá trình bằng việc ứng dụng và kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch. 4.5. kế hoạch nghiên cứu và phát triển (R&D): trong các hoạt động đầu tư, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển thường đưa lại kết quả lớn. Hoạt động nghiên cứu và phát triển có thể được chia thành 3 loại: Nghiên cứu đổi mới sản phẩm nhằm tạo ra sản phẩm hoàn toàn mới trước các đối thủ cạnh tranh; Nghiên cứu cải tiến sản phẩm nhằm nâng cao chất lượng hay hoàn thiện các đặc tính của sản phẩm hiện có; Nghiên cứu, đổi mới công nghệ nhằm cải tiến quy trình sản xuất để phát triển chi phí hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm. Đổi mới sản phẩm yêu cầu hầu hết các kỹ năng (nghiên cứu khoa học cơ bản, xác định các thông số kỹ thuật, quản lý dự án, sản xuất thử nghiệm, thăm dò thị trường, đưa vào hoạt động chính); công ty phải có khả năng để tiến hành các hoạt động nghiên cứu cơ bản, sử dụng kết quả nghiên cứu để lựa chọn những sản phẩm có thể mang lại thành công cao nhất và đưa vào thực hiện bằng các dự án. Để có được những kỹ năng này cần có mức chi phí lớn, chỉ có những công ty hàng đầu trong một ngành mới có khả năng đổi mới liên tục và cũng chỉ có họ mới có thể gánh chịu được rủi ro. Cải tiến sản phẩm thường ít rủi ro hơn, công ty không phải đưa ra một sản phẩm hoàn toàn mới mà hoàn thiện những sản phẩm đã có. Đổi mới công nghệ khác với động cơ đổi mới và cải tiến sản phẩm trong khi đổi mới và cải tiến sản phẩm, mở rộng thị trường là mục tiêu chính thì đổi mới công nghệ nhằm chủ yếu là giảm chi phí hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm. Đổi mới công nghệ không phải lúc nào cũng đòi hỏi nghiên cứu khoa học - kỹ thuật cơ bản, nhưng lại cần các kỹ năng để khai thác được các thành tựu khoa học mới. Chương II: Thực trạng công tác kế hoạch ở Công ty Đầu tư Thương Mại và Dịch Vụ Thắng Lợi . I. Giới thiệu về Công ty Đầu tư Thương Mại và Dịch Vụ Thắng Lợi._.. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty. Công ty Đầu tư Thương Mại và Dịch Vụ Thắng Lợi là một doanh nghiệp đoàn thể trực thuộc văn phòng chính phủ được thành lập từ năm 1987. Trụ sở chính: 62- Giảng Võ- Quận Đống Đa- Thành phố Hà Nội. Tiền thân của Công ty là nhà khách dịch vụ thuộc ban quản lý Hợp tác xã mua bán Việt Nam (gồm : Hợp tác xã mua bán và các Hợp tác xã thủ công nghiệp và giao thông vận tải). Với chức năng chủ yếu là phục vụ khách ăn nghỉ trong ngành, đến năm 1990, do nhu cầu phát triển của nền kinh tế, Công ty đổi tên thành Trung tâm Thương Mại và Dịch vụ Tổng hợp. Ngoài việc kinh doanh nhà khách, Công ty còn kinh doanh thương mại cho phù hợp với nhu cầu thị trường, tạo điều kiện cho Công ty phát triển. Đến tháng 4 năm 1995, Công ty chính thức có tên Công ty Đầu tư Thương Mại và Dịch Vụ Thắng Lợi theo quyết định cho phép thành lập số 778/ QĐUB thành phố Hà Nội với trụ sở chính tại : 62- Giảng Võ- Đống Đa- Hà Nội. Công ty Thắng lợi là một doanh nghiệp quốc doanh trực thuộc Hội đồng Trung ương Liên Minh các hợp tác xã Việt Nam, được tiến hành hạch toán kinh tế độc lập, có đầy đủ tư cách pháp nhân, có tài khoản riêng tại ngân hàng, có con dấu riêng để giao dịch, có quyền hoạt động kinh doanh theo luật định và thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nhà nước, với cấp trên và với người lao động trong Công ty. Chức năng nhiệm vụ chính của Công ty Đầu tư Thương Mại và Dịch Vụ Thắng Lợi là kinh doanh thương mại và dịch vụ. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty Đầu tư Thương Mại và Dịch Vụ Thắng Lợi: Công ty Đầu tư Thương Mại và Dịch Vụ Thắng Lợi là một doanh nghiệp đoàn thể chịu sự quản lý của Hội đồng Trung ương Liên minh các hợp tác xã Việt Nam. Do đó, Công ty có những đặc thù riêng, ngoài việc đảm bảo mục tiêu phát triển kinh doanh của mình, còn phải phù hợp với mục tiêu chung của Hội đồng Trung ương Liên minh. Xác định rõ vị trí của mình, các cấp lãnh đạo của Công ty đã đề ra các chức năng nhiệm vụ sau: Được chủ động kinh doanh và hạch toán kinh tế theo luật doanh nghiệp, trên cơ sở chức năng nhiệm vụ quy định trong giấy phép và quyết định thành lập Công ty. Được đàm phán ký hợp đồng kinh tế với các tổ chức trong và ngoài nước. Thực hiện tốt mối quan hệ mua bán góp phần hoàn thiện nền kinh tế thị trường. Được đặt đại diện chi nhánh của Công ty ở trong và ngoài nước. Quản lý và sử dụng tốt nguồn vốn hiện có, tức là phải đảm bảo khả năng bảo toàn và phát triển nguồn vốn. Quản lý tốt đội ngũ cán bộ công nhân viên, góp phần nâng cao năng suất, đảm bảo không ngừng nâng cao thu nhập cho người lao động. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước, thể hiện bằng các khoản thuế mà Công ty hoàn thành hằng năm đối với ngân sách nhà nước. Chấp hành và tiếp nhận mọi chế độ và chính sách của nhà nước trong hoạt động kinh doanh. Tạo ra lợi nhuận để không ngừng mở rộng quy mô kinh doanh cả chiều rộng và chiều sâu. Đặc điểm kinh doanh và tổ chức bộ máy quản lý của Công ty. 3.1. Đặc điểm kinh doanh của Công ty: Công ty kinh doanh các ngành nghề chủ yếu sau: Kinh doanh thương mại: Bán buôn, bán lẻ, đại lý hàng hoá, chế biến hàng nông sản thực phẩm và hàng tiêu dùng. Kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá như: Thiết bị điện, xe máy, ôtô, máy vi tính… Lắp ráp sữa chữa thiết bị điện tử, thông tin, tin học. (2). Kinh doanh du lịch trong và ngoài nước: Với lợi thế đã có kinh nghiệm trong kinh doanh nhà đất trước đây, Công ty đã mở rộng sang kinh doanh du lịch trong và ngoài nước, đây là hoạt động kinh doanh tốt mang lại lợi nhuận cao cho Công ty trong điều kiện nền kinh tế mở cửa đã thu hút được nhiều khách trong và ngoài nước. (3). Hoạt động tư vấn đầu tư và ký kết hợp tác liên doanh: Để phù hợp với xu thế kinh doanh phát triển, Công ty đã tham gia tư vấn đầu tư cho các Công ty nước ngoài, bên cạnh đó Công ty còn ký kết các hợp đồng hợp tác liên doanh để định hướng phát triển cho tương lai nhằm thu lợi nhuận lâu dài. 3.2. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý: Công ty Đầu tư Thương Mại và Dịch Vụ Thắng Lợi là một đơn vị trực thuộc Hội đồng Trung ương Liên minh các hợp tác xã Việt Nam, đây là một doanh nghiệp nhà nước thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ một thủ trưởng trong điều hành quản lý sản xuất kinh doanh trên cơ sở phát huy hiệu lực quản lý kinh tế của các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở trong cả nước, nhận thấy việc phát huy nhân tố con người là cấp thiết, Công ty Thắng Lợi đã không ngừng đổi mới và từng bước cải tiến bộ máy và phong cách làm việc. Nhờ đó mà bộ máy quản lý của Công ty được tinh lọc gọn nhẹ, đạt hiệu quả cao, đảm bảo yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Hệ quản lý điều hành gồm: Giám đốc Công ty là người đứng đầu chịu trách nhiệm chỉ đạo toàn bộ quá trình kinh doanh, đại diện cho Công ty chịu trách nhiệm pháp lý đối với các tổ chức kinh tế khác và đối với hội đồng Trung ương. Các phó giám đốc thay mặt giám đốc điều hành công việc kinh doanh khi giám đốc đi vắng, trực tiếp phụ trách mảng công việc cụ thể. Tổng giám đốc: Chịu trách nhiệm chỉ đạo toàn bộ hoạt động kinh doanh của Công ty. Tổng giám đốc chịu trách nhiệm trước hội đồng liên minh các hợp tác xã. Phó tổng Giám đốc kinh doanh : Thay mặt cho tổng giám đốc điều hành công việc kinh doanh như giải quyết vấn đề đầu vào, đầu ra, lập kế hoạch kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm. Phó tổng giám đốc tài chính: Phụ trách tài chính trong Công ty và chịu trách nhiệm trước tổng Giám đốc. Sơ đồ 4: Mô hình tổ chức bộ máy quản lý của Công ty : Ban Giám đốc Các chi nhánh trực thuộc Các trung tâm trực thuộc Các phòng ban trực thuộc Văn phòng đại diện nước ngoài Cửa hàng kinh doanh Phòng kinh tế - tài chính. Phòng kinh tế thị trường. Phòng tổ chức hành chính. Phòng đầu tư và du lịch. (1). Các phòng ban trực thuộc: Phòng kế toán tài chính: + Nhiệm vụ chính là điều hoà, phân phối, tổ chức sử dụng vốn và nguồn vốn kinh doanh, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước, phân phối thu nhập, tích luỹ, tính toán và theo dõi hoạt động kinh doanh của Công ty dưới hình thức vốn tiền tệ để phản ánh cụ thể các chi phí bỏ ra, tính toán kết quả lỗ lãi. + Thu thập, tổng hợp, phân loại và xử lý những thông tin về hoạt động kinh doanh để cung cấp một cách chính xác, kịp thời đầy đủ phục vụ cho công tác quản lý. + Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch, tình hình sử dụng nguồn vốn, lập kế hoạch tài chính, phân phối các nguồn vốn bằng tiền, tình hình sử dụng vật tư, lao động và các chi phí khác cho hoạt động kinh doanh của Công ty. + Giúp giám đốc đưa ra quyết định, các đường lối mục tiêu kế hoạch phát triển đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế kinh doanh tại Công ty nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong công tác quản lý. Phòng kinh tế thị trường: Nghiên cứu khảo sát thị trường để có những thông tin chính xác kịp thời về nhu cầu thị hiếu, lượng hàng và lập kế hoạch kinh doanh một cách hợp lý, hiệu quả phù hợp với thị trường. Cụ thể: + Nghiên cứu khảo sát thị trường để có thông tin chính xác kịp thời về nhu cầu thị hiếu, lượng hàng đảm bảo cho hoạt động kinh doanh phát triển tốt, đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. + Lập các kế hoạch kinh doanh một cách hợp lý hiệu quả phù hợp với thị trường, từ đó, giúp giám đốc lựa chọn phương án kinh doanh có hiệu quả tối ưuvà tiềm năng hiện có. Phòng đầu tư và du lịch: Chức năng du lịch lữ hành, xây dựng kế hoạch đầu tư và hướng dẫn, tư vấn đầu tư cho các đối tượng trong nước và nước ngoài. Cụ thể: + Hoạt động du lịch bằng cách làm các tour du lịch trongvà ngoài nước, khai thác các truyền thống du lịch mới, làm các hoạt động du lịch với các mạng lưới trung tâm dịch vụ du lịch. + Hoạt động đầu tư cho các công ty nước ngoài và một số công ty trong nước, ký kết liên doanh để thu phí về tư vấn đem lại doanh thu cho Công ty. Phòng tổ chức hành chính: Có nhiệm vụ giúp giám đốc trong công tác tổ chức, điều hành cán bộ công nhân lao động hay điều hành công tác của cán bộ công nhân viên, ngoài ra còn đảm nhiệm chức năng văn phòng như: Văn thư, đánh máy, phục vụ tiếp khách, hội nghị… đánh giá kết quả sức lao động của cán bộ công nhân viên và thực hiện trả lương cho họ. Các phòng ban chức năng trong Công ty ngoài nhiệm vụ cụ thể có nhiệm vụ chung là tham gia gián tiếp trong hoạt động của các trung tâm chi nhánh thuộc Công ty như về : Kế toán, nhân sự, du lịch… thông qua giám đốc hoặc phó giám đốc để có kế hoạch hoạt động thống nhất đồng bộ từ trên xuống, đảm bảo cho bộ máy hoạt động thông suốt không trùng lặp. Ngoài ra, trong lĩnh vực du lịch, Công ty còn liên doanh với khách sạn Hà Nội Fortuna, liên doanh khách sạn Móng Cái và liên doanh với hãng Màn hình điện tử tại Thành phố Hồ Chí Minh. Mối liên hệ giữa công ty và các đơn vị trực thuộc được mô tả trong sơ đồ phần phụ lục. Đánh giá năng lực sản xuất kinh doanh của Công ty: 4.1. Đặc điểm nguồn nhân lực của Công ty: Công ty Đầu tư Thương Mại và Dịch Vụ Thắng Lợi là doanh nghiệp đoàn thể trực thuộc Liên minh Trung ương các Hợp tác xã Việt Nam, ra đời cách đây 15 năm, do vậy, lực lượng lao động của doanh nghiệp có tính chất trẻ; cụ thể, tình hình phân bố lực lượng lao động theo bộ phận được thể hiện trong biểu sau: Biểu 1: Tình hình phân bố lực lượng lao động theo bộ phận. Đơn vị: Người. stt Các phòng ban chức năng Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Ban giám đốc 03 03 03 Phòng tổ chức hành chính 20 20 16 Phòng đầu tư và du lịch 15 15 15 Phòng kinh tế thị trường 10 10 14 Phòng kinh tế tài chính 07 07 07 Các trung tâm trực thuộc 158 158 158 Các chi nhánh trực thuộc 95 95 95 Văn phòng đại diện 10 10 10 Cửa hàng kinh doanh 30 30 30 Tổng 348 348 348 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Công ty Đầu tư Thương Mại và Dịch Vụ Thắng Lợi ). Qua biểu trên ta thấy, tuy số lượng lao động trong Công ty không thay đổi, nhưng cơ cấu lao động bộ phận có chút thay đổi. Sự thay đổi đó là việc giảm lao động trong phòng hành chính trong Công ty – Lượng giảm này được giải quyết bằng chế độ nghỉ hưu và phần còn lại làm ở các doanh nghiệp khác, và sự tăng đáng kể lao động trong phòng kinh tế thị trường. Điều này được giải thích như sau: Hoạt động chủ yếu của Công ty Đầu tư Thương Mại và Dịch Vụ Thắng Lợi là xuất nhập khẩu hàng hoá, hoạt động du lịch và tư vấn đầu tư nước ngoài. Đây là các hoạt động đòi hỏi tính thị trường rộng và rõ nét. Do vậy, muốn mở rộng quy mô của mình, Công ty phải tiến hành các hoạt động thăm dò, nghiên cứu, tìm hiểu thị trường nhằm phục vụ cho quá trình kinh doanh của mình diễn ra theo đúng hướng. Ngoài ra, phòng kinh tế thị trường còn có nhiệm vụ quan trọng, đó là sau khi nghiên cứu, phân tích môi trường kinh doanh; phòng kinh tế thị trường dựa vào chuỗi số liệu phản ánh tình hình thực tế tại doanh nghiệp, lập các kế hoạch kinh doanh cho quý tới và cho cả năm. Do vậy, việc xác định các mục tiêu kế hoạch sao cho có tính thực tế nhất đòi hỏi phải có một đội ngũ lao động có chuyên môn và kinh nghiệm. Chính vì vậy, Công ty đã quyết định tăng lao động trong phòng ban này. Biểu 2: Cơ cấu lao động theo trình độ và giới tính. Đơn vị: Người STT Trình độ chuyên môn và giới tính Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1 Đại học và trên đại học 24 24 25 2 Cao đẳng, trung cấp 54 54 56 3 THPT 270 270 267 4 Lao động nam 192 190 198 5 Lao động nữ 156 158 150 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Công ty Đầu tư Thương Mại và Dịch Vụ Thắng Lợi ). Theo những số liệu trên cho thấy: Trình độ chuyên môn của cán bộ công nhân viên không được cải thiện qua ba năm. Năm 1999 và 2000 trình độ Đại học và trên Đại học chiếm 6.9% thì đến năm 2001 chiếm tỷ lệ: 7.2%. Trình độ cao đẳng và trung cấp năm 1999 và năm 2000 chiếm tỷ lệ là 15.52%, thì đến năm 2001 chiếm tỷ lệ 16.1%. Trong đó, có tới 150 người là lao động hợp đồng (chiếm 43,1%). Nhận xét: Qua phân tích thực trạng nguồn lao động của công ty cho thấy: Lực lượng lao động của công ty tuy ổn định nhưng trình độ lao động thì còn nhiều hạn chế. Có khá nhiều lao động ở trình độ phổ thông. Đây là khó khăn của công ty, trong thời gian tới, công ty cần đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ lao động cả về trình độ chuyên môn lẫn kinh nghiệm thực tế để nâng cao chất lượng phục vụ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường cạnh tranh. 4.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty : Thông qua những báo cáo tổng kết và những sơ kết về tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty Đầu tư Thương Mại và Dịch Vụ Thắng Lợi các năm 1999, 2000 và 2001, cho thấy, hoạt động kinh doanh của Công ty có nhiều chuyển biến theo hướng tiêu cực, không có lợi cho Công ty. Bức tranh toàn cảnh về tình hình kinh doanh của Công ty được thể hiện ở biểu sau: Biểu 3: Chỉ tiêu về vốn và kết quả kinh doanh của Công ty. Đơn vị tính: Triệu đồng. Stt Các chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1. Vốn cố định 14 940 15 099 15 383 2. Vốn lưu động 1 600 1 601 1 601 3. Tổng vốn pháp lý 16 540 16 700 16 993 4. Doanh thu 13 986 14 134 12 500 5. Tổng chi phí 13 361 13 509 12 200 6. Thuế 260.128 263.0 230.5 7. Lợi nhuận sau thuế 552.772 558.875 489.8125 8. Thu nhập bình quân/ người 0.7 0.8 0.7 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Công ty Đầu tư Thương mại và Dịch vụ Thắng Lợi). Doanh thu của Công ty năm 1999 là 13 986 triệu đồng, sang năm 2000 là 14 134 triệu đồng (tức là tăng 148 triệu đồng - chiếm1,06%) so với năm 1999, nhưng sang đến năm 2001 doanh thu chỉ là 12 500 triệu đồng nghĩa là doanh thu năm 2001 giảm 1 634 triệu đồng (tức là 11.56%) so với năm 2000. Lợi nhuận, do đó cũng giảm một cách đáng kể: từ 552,772 triệu đồng năm 1999 và 558,875 triệu đồng năm 2000 xuống còn 489,8125 triệu đồng năm 2001, nghĩa là giảm 69,0625 triệu (chiếm 12.36%) so với năm 2000. Cùng với đó thu nhập của cán bộ công nhân viên cũng có xu hướng giảm. Thu nhập bình quân đầu người của cán bộ công nhân viên năm 2000 là 0.8 triệu đồng, nhưng đến năm 2001 xuống còn 0.7 triệu đồng (tức là giảm 12.5%). Sở dĩ có sự giảm mạnh ở tất cả các chỉ tiêu trên có thể do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan. Theo phó giám đốc công ty thì nguyên nhân chính là: Những biến động mạnh của tình hình thế giới có tác động mạnh mẽ đến hầu hết các doanh nghiệp; đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh thương mại. Công ty Đầu tư Thương mại và Dịch vụ Thắng Lợi với hoạt động chính là du lịch và xuất nhập khẩu hàng hóa nên chịu tác động nhiều. Số lượng khách du lịch giảm đáng kể, nhất là sau sự kiện 11/9 của nước Mỹ, giá đôla có nhiều biến động, khách du lịch giảm một cách rõ rệt. Giá các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ lực của Việt Nam giảm cũng có tác động xấu tới doanh thu của doanh nghiệp. Những cạnh tranh gay gắt trên thị trường do nhiều đối thủ cạnh tranh cùng ngành mạnh và đa dạng, trong khi công ty còn có nhiều hạn chế về vốn, lao động,… Công tác thị trường kém, chất lượng dịch vụ còn nghèo nàn, chưa đáp ứng được nhu cầu phong phú, đa dạng của khách hàng. Tình hình thực hiện công tác kế hoạch của công ty: Các chỉ tiêu kế hoạch: Trong quá trình hoạt động của mình, công ty đã đề ra các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá các kết quả đạt được thông qua hệ thống các số liệu về: Giá trị sản lượng hàng hoá tiêu thụ. Số lượng sản phẩm tiêu thụ. Năng suất lao động bình quân. Tổng quỹ lương. Lợi nhuận và các khoản nộp ngân sách. Vốn đầu tư cơ bản được Nhà nước cấp… Cụ thể như sau: Lợi nhuận: Lợi nhuận sau thuế (lợi nhuận ròng) là khoản chênh lệch giữa tổng lợi nhuận trước thuế và thuế thu nhập của doanh nghiệp. Lợi nhuận ròng của công ty được tính theo công thức sau: Lợi nhuận ròng = Tổng lợi nhuận trước thuế – Thuế thu nhập của DN lợi nhuận ròng = Tổng lợi nhuận trước thuế – Thuế thu nhập của DN. Trong đó, tổng lợi nhuận trước thuế được tính như sau: Tổng lợi nhuận Lợi nhuận Lợi nhuận Lợi nhuận = hoạt động + hoạt động + hoạt động trước thuế kinh doanh tài chính. bất thường. Lợi nhuận của doanh nghiệp cho biết khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài việc xem xét khả năng thực tại của doanh nghiệp, nó còn được so sánh với năm trước để xem mức độ phát triển của công ty đến đâu. ở Công ty Đầu tư Thương mại và Dịch vụ Thắng Lợi như đã nêu trên, hiệu quả kinh doanh giảm rõ rệt qua các năm, cụ thể ở biểu bảng sau: Như vậy, lợi nhuận của công ty giảm qua các năm, năm 1999 là 552,772 triệu đồng tăng lên 558,875 triệu đồng năm 2000 nhưng giảm xuống còn 489,8125 triệu đồng năm 2001 (tức là giảm 12,36% so với năm 2000). Biểu 4: Đánh giá hiệu quả kinh doanh của công ty. Đơn vị tính: triệu đồng. stt Các chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1 Doanh thu 13361 14134 12500 2 Lợi nhuận 552,772 558,875 489,8125 3 Thuế nộp ngân sách 260,128 263 230,5 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Công ty Đầu tư Thương mại và Dịch vụ Thắng Lợi). 1.2. doanh lợi doanh thu: doanh lợi doanh thu của công ty được tính như sau: doanh lợi doanh thu = lợi nhuận/doanh thu. Doanh lợi doanh thu cho biết: trong một thời gian nhất định (thường là một năm); hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty là bao nhiêu; doanh lợi doanh thu cho biết một đồng doanh thu sẽ cho bao nhiêu đồng lợi nhuận. Doanh lợi doanh thu phải ≥0 thì phải hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty mới có hiệu quả. Chỉ số này càng cao càng có ý nghĩa. Thông qua hệ thống các chỉ số trên, cho thấy doanh lợi doanh thu của công ty khá thấp, chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của công ty không cao. (Bảng tính doanh lợi doanh thu được trình bày ở trang sau). Biểu 5: Bảng tính doanh lợi doanh thu: Stt Các chỉ tiêu đ. vị tính Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1 Lợi nhuận Triệu đồng 552,772 558,875 489,8125 2 Doanh thu Triệu đồng 13986 14134 12500 3 Doanh lợi doanh thu 0,04 0,04 0,04 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Công ty Đầu tư Thương mại và Dịch vụ Thắng Lợi). 1.3. Hiệu quả sử dụng lao động: chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động của Công ty được tính bằng hai chỉ tiêu; đó là chỉ tiêu Mức sinh lợi bình quân và chỉ tiêu Hiệu suất tiền lương. Hai chỉ tiêu này được tính như sau: * mức sinh lợi bình quân = Lợi nhuận/Số lao động. Mức sinh lợi bình quân cho biết trong kỳ (thường là 1 năm) làm được bao nhiêu đồng lợi nhuận. * Hiệu suất tiền lương = Lợi nhuận/ Tổng quỹ lương. Hiệu suất tiền lương phản ánh: để chi ra một đồng tiền lương thì doanh nghiệp có được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Thông qua các bảng biểu trên, ta đều thấy rằng hiệu quả sử dụng lao động không những không tăng mà còn giảm qua các năm. mức sinh lợi nhuận thấp, tiền lương công nhân giảm, nói chung, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thấp. Biểu 6: Hiệu quả sử dụng lao động. Stt Các chỉ tiêu Đ.vị tính Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1 Lợi nhuận Triệu đồng 552,772 558,875 489,8125 2 Lương bình quân Triệu đồng 0,7 0,8 0,7 3 Tổng quỹ lương Triệu đồng 243,6 278,4 243,6 4 Số lao động Người 348 348 348 5 Mức sinh lợi b/quân 1,6 1,61 1,41 6 Hiệu suất tiền lương 2,3 2,01 2,01 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Công ty Đầu tư Thương mại và Dịch vụ Thắng Lợi). 2. Nội dung – quy trình kế hoạch kinh doanh của Công ty: 2.1. Thời hạn tiến hành xây dựng kế hoạch: công tác xây dựng kế hoạch của Công ty Đầu tư Thương mại và Dịch vụ Thắng Lợi bao gồm: xây dựng các kế hoạch năm và các kế hoạch các quý trong năm. sơ đồ 5: thời hạn tiến hành xây dựng kế hoạch. Kế hoạch năm KH quý I KH quý II KH quý III KH quý IV Kế hoạch năm: Kế hoạch năm là kế hoạch sản xuất kinh doanh trong năm, thường bắt đầu xây dựng vào quý IV năm báo cáo. Vào cuối tháng 11 năm báo cáo, những người làm kế hoạch tổng hợp và cân đối để xây dựng định hướng kế hoạch cho năm sau để phục vụ cho việc giao kế hoạch chung vào đầu năm sau. Các chỉ tiêu kế hoạch hàng năm mang tính tổng quát: Lợi nhuận và các khoản nộp ngân sách. Số lượng và giá trị sản lượng hàng hoá tiêu thụ được Thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên. Ví dụ: Vào tháng 11 năm 2000, sau khi tổng kết kết quả hoạt động kinh doanh của 3 quý và dự kiến kết quả của quý IV năm 2000, dựa vào những chỉ tiêu chung mà liên minh trung ương các HTX Việt Nam đã đề ra, phòng kế hoạch đã đề ra những chỉ tiêu kế hoạch năm 2001 là: Biểu 7: Những chỉ tiêu kế hoạch năm 2001. Đơn vị tính: Triệu đồng. Stt Các chỉ tiêu Kế hoạch 1 Doanh thu 14150 2 Chi phí 13520 3 Lợi nhuận 559,84 4 Thuế nộp nhà nước 263,5 5 Tổng quỹ lương 278,4 6 Thu nhập b/quân /người 0,8 (Nguồn: kế hoạch định hướng năm 2001 của Công ty Đầu tư Thương mại và Dịch vụ Thắng Lợi). Kế hoạch quý: kế hoạch quý là kế hoạch sản xuất kinh doanh trong các quý được dự tính trên cơ sở kế hoạch năm, được tiến hành xây dựng ngay từ những ngày đầu tiên của quý tiếp theo. Đồng thời, cuối những quý đó, phải xây dựng các báo cáo ước thực hiện. Cụ thể là: Cuối quý II báo cáo ước thực hiện 6 tháng. Cuối quý III báo cáo ước thực hiện 9 tháng. Cuối quý IV báo cáo ước thực hiện cả năm. Báo cáo ước thực hiện này giúp công ty kiểm soát việc thực hiện mục tiêu đã định. Các bộ phận trực thuộc tự xây dựng và thực hiện kế hoạch quý. Sau đó đến cuối quý, các bộ phận gửi báo cáo ước thực hiện về công ty để công ty sơ kết tình hình thực hiện kế hoạch của quý đó, và dựa vào kết quả ước tính đó, đưa ra những chỉ tiêu kế hoạch cho quý tiếp theo. Trong kế hoạch quý này, kế hoạch được cụ thể bằng các kế hoạch tháng, trong đó nêu rõ các chỉ tiêu: số lượng và giá trị hàng hoá tiêu thụ được, doanh thu, lợi nhuận, khoản nộp ngân sách, … Riêng lĩnh vực du lịch, các hoạt động phụ thuộc nhiều vào mùa du lịch, do vậy, công ty tập trung vào kế hoạch marketing vào các mùa khác và chuẩn bị mọi cơ sở vật chất cho mùa du lịch - được chi tiết bằng các kế hoạch bộ phận. Ví dụ, kế hoạch hoạt động du lịch các quý/năm 2001 của Công ty Đầu tư Thương mạivà Dịch vụ Thắng Lợi được lập từ việc tính toán số lượng khách du lịch, tour du lịch, loại hình du lịch, đối tượng khách hàng,... (Kế hoạch hoạt động du lịch của Công ty Đầu tư Thương mại và Dịch vụ Thắng Lợi được trình bày ở trang sau). Biểu 8: kế hoạch hoạt động du lịch của Công ty Đầu tư Thương mại và Dịch vụ Thắng Lợi năm 2001: Stt Các chỉ tiêu đơn vị tính Quý I Quý II Quý III Quý IV 1 Doanh thu Triệu đồng 1200 1550 1328 985 2 Chi phí Triệu đồng 1085 1365 1180 900 3 Số khách du lịch Người 2100 2900 2350 1950 4 Lợi nhuận Triệu đồng 78,2 125,8 100,64 57,8 5 Thuế phải nộp Triệu đồng 36,8 59,2 47,36 27,2 (Nguồn: kế hoạch định hướng năm 2001 của Công ty Đầu tư Thương mại và Dịch vụ Thắng Lợi). Nhìn chung, về mặt lý thuyết xây dựng kế hoạch thì thời gian tiến hành xây dựng các kế hoạch như vậy là hợp lý, tuy nhiên, do những chậm chạp và rườm rà trong tổ chức và thực hiện. Do vậy, thực tế hoạt động diễn ra không khớp so với kế hoạch đề ra. 2.2. Quy trình kế hoạch kinh doanh của công ty: hiện nay, việc xây dựng kế hoạch kinh doanh của công ty diễn ra theo các bước sau: Sơ đồ 6: Quy trình kế hoạch kinh doanh của Công ty: Lập kế hoạch Phân tích, dự báo môi trường kinh doanh. Tổ chức thực hiện. Điều chỉnh và kiểm tra. Bước 1: Phân tích, dự báo môi trường kinh doanh: Phòng kinh tế thị trường dựa trên cơ sở số liệu của công ty kỳ trước, phân tích thực trạng công ty, xem xét điểm mạnh, điểm yếu của công ty; xem công ty đang đứng ở đâu trong thị trường. Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu thị trường để phân tích, dự báo môi trường kinh doanh. Đây là một bước quan trọng được thực hiện thường xuyên của công ty, nhất là vào cuối năm báo cáo, được thể hiện thông qua việc đánh giá các yếu tố bên trong và bên ngoài công ty. Công ty đã đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với bản thân; đó là: + Điểm mạnh: Công ty có ban lãnh đạo linh hoạt. Như đã nêu trên, Công ty Đầu tư Thương mại và Dịch vụ Thắng Lợi là một đơn vị trực thuộc Liên minh các Hợp tác xã Việt Nam, do vậy, Công ty luôn cố gắng giản thiểu chi phí, tinh lọc bộ máy quản lý nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong kinh doanh. Có nhiều thị trường dành cho các hoạt động kinh doanh mà Công ty lựa chọn (tức là thị trường mở). Có được điểm này là do Công ty có được một hệ thống các đơn vị trực thuộc ở nhiều vùng địa lý khác nhau, tạo nên một hệ thống thị trường đồng bộ và đa dạng. Có tiềm lực về Marketing: Trong bộ máy của mình, Công ty luôn chú trọng hoạt động nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, thông qua các hoạt động tại các Festival, Hội chợ - Triển lãm – Quảng cáo nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, hoạt động Marketing của Công ty vì thế cũng được nâng lên một bước. + Điểm yếu: Thiếu vốn để mở rộng hoạt động kinh doanh: Nguồn vốn kinh doanh của Công ty trong các năm 1999, 2000, 2001 không có sự thay đổi nhiều, hiện nay, lượng vốn ấy đã hạn chế tới việc mở rộng thị trường kinh doanh. Dịch vụ nghèo nàn: Với mỗi loại hình du lịch, Công ty chưa tạo ra các sản phẩm đặc thù, việc liên kết với các ngành, địa phương nơi có các tour du lịch nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ còn yếu. Hiệu quả kinh doanh thấp: Thông qua các bảng báo cáo tổng kết tình hình kinh doanh của Công ty cho thấy hiệu quả kinh doanh còn thấp, thậm chí mọi chỉ tiêu năm 2001 đều bị vỡ kế hoạch. Chất lượng lao động thấp: Hiện nay, nguồn lao động trong Công ty là khá ổn định, tuy nhiên, trình độ lao động thì còn nhiều hạn chế. Số lượng lao động phổ thông chiếm tỷ lệ lớn, và có một lượng không nhỏ lao động làm hợp đồng. + Cơ hội: Đời sống kinh tế phát triển, nhu cầu về các sản phẩm hàng hóa thương mại và dịch vụ càng đa dạng và phong phú. Trong điều kiện kinh tế đất nước đang hội nhập khu vực và thế giới: Việc Việt Nam gia nhập các tổ chức thế giới như WTO, AFTA... sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước có khả năng mở rộng thị trường, cũng như việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ... vào Việt Nam, từ đó, sẽ cải thiện được chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trong các doanh nghiệp trong nước. Được sự quan tâm, giúp đỡ của Liên minh trung ương các Hợp tác xã Việt Nam: Ngoài việc hỗ trợ về vốn, Liên minh luôn tạo điều kiện cho các Công ty trực thuộc có các mối quan hệ về kinh tế với nhau nhằm tạo đà cho sự phát triển của từng Công ty và cũng là sự phát triển chung của Liên minh. + Thách thức: môi trường cạnh tranh ngày càng trở lên gay gắt: Trong điều kiện nền kinh tế mở, có rất nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch và xuất nhập khẩu, trong đó có cả các công ty tư nhân, đã và đang tự chuyển mình cho phù hợp với tình hình mới. Do vậy, đây cũng là một thách thức lớn với Công ty trong điều kiện đầy khó khăn hiện nay. môi trường kinh doanh có nhiều biến động: Những biến động về kinh tế – chính trị của các quốc gia trên thế giới đều có tác động không nhỏ đến tình hình chung của thế giới và từng quốc gia. Sự biến động của tỷ giá hối đoái, chỉ số tiêu dùng,... sẽ có tác động đến tốc độ phát triển của mỗi ngành, nghề, cũng như sự phát triển chung. Vào năm gần đây, có nhiều biến động bất ngờ, đặc biệt là biến động về chính trị, đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh tế các nước. Do vậy, trong tương lai đây cũng là một thách thức đối với Công ty. Sau khi đánh giá thực trạng, Công ty tiến hành dự báo bán hàng và dự báo số lượng khách du lịch cũng như dự báo tổng doanh thu từ các hoạt động của mình. Phương pháp dự báo được sử dụng là phương pháp dự báo giản đơn. phương pháp này được sử dụng như sau: Gọi Ft+1: Dự báo bán hàng kỳ này. Dt : Yêu cầu thực tế kỳ trước. Khi đó, những dự báo cho kỳ này được tính bằng công thức sau: Ft+1 = Dt Bước 2: Dựa trên cơ sở những mục tiêu chung của Liên minh các Hợp tác xã Việt Nam và đặc biệt là những khả năng phát triển của mình, công ty lập ra các kế hoạch (các mục tiêu cụ thể). Việc lập kế hoạch được tiến hành theo 4 bước sau: Sơ đồ 7: các bước lập kế hoạch kinh doanh của Công ty. Xét duyệt XDKH chính thức Điều chỉnh KH Dự thảo KH Với thời gian thực hiện các bước trên như sau: B1: Hình thành kế hoạch dự thảo: kéo dài 3 tuần. B2: Điều chỉnh kế hoạch dự thảo: khoảng 2 tuần. B3+4: Xây dựng kế hoạch chính thức và trình xét duyệt: 1 tuần. Như vậy, tổng thời gian lập kế hoạch năm là 6 tuần,và được cụ thể hoá bằng các mục tiêu: Tổng doanh thu trên 14 tỷ đồng/năm. Hoàn thành nghĩa vụ nhà nước (nộp ngân sách từ 260 – 265 triệu đồng/năm). Thu nhập bình quân của cán bộ công nhân viên: từ 750.000 – 850.000 đồng/người/tháng. Lợi nhuận doanh nghiệp: khoảng 560 triệu đồng. sau khi xác định được mục tiêu cụ thể cho kế hoạch năm và kế hoạch quý, lập các kế hoạch tác nghiệp (tức là các kế hoạch Marketing, kế hoạch tài chính, và kế hoạch nhân sự cho các quý đó). Lịch trình xây dựng kế hoạch Marketing của Công ty Đầu tư Thương mại và Dịch vụ Thắng Lợi quý I/2000 như sau: Biểu 9: Lịch trình xây dựng kế hoạch Marketing của Công ty quý I/2000. Stt Nhiệm vụ Thời gian (tuần) 1 Thu thập thông tin về hoạt động du lịch của ngành và các đối thủ. 2 2 Xác định mục tiêu. 1 3 Kế hoạch quảng cáo và khuyếch trương sản phẩm (hội chợ - triển lãm, Internet là chính) 4 (Nguồn: kế hoạch định hướng năm 2000 của Công ty). - Bước 3: Tổ chức thực hiện: Sau khi có các mục tiêu cụ thể, kế hoạch được triển khai thực hiện theo phương thức “trừ dần”, nghĩa là, nếu kế hoạch quý trước hoàn thành trước thời hạn thì chuyển sang thực hiện kế hoạch quý sau; còn nếu không hoàn thành được kế hoạch quý trước thì phần không hoàn thành đó được gộp vào kế hoạch quý sau để thực hiện tiếp. - Bước 4: Điều chỉnh và kiểm tra: Cuối mỗi quý thực hiện, sau khi ước thực hiện kế hoạch, công ty tiến hành rà soát lại các chỉ tiêu và có sự điều chỉnh cho phù hợp ở quý sau. Công việc này giúp công ty thực hiện và kiểm soát được việc thực hiện kế hoạch. III. Đánh giá công tác kế hoạch của Công ty Đầu tư Thương mại và Dịch vụ Thắng Lợi. Trong những năm gần đây, do những thay đổi đột biến không dự đoán trước được của tình hình kinh tế - chính trị thế giới, kế hoạch đặt ra và thực tế thực hiện của nền kinh tế mỗi quốc gia và của mỗi doanh nghiệp cũng có nhiều biến động, Công ty Đầu tư Thương mại và Dịch vụ Thắng Lợi cũng không nằm ngoài quy luật đó. Dưới đây là bảng số liệu cho biết tình hình thực hiện kế hoạch so với kế hoạch đặt ra trong 3 năm 1999, 2000, 2001 như sau: Biểu 10: Tình hình xây dựng và thực hiện kế._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29886.doc