Thực trạng công tác quản lý thu Bảo hiểm xã hội tại cơ quan bảo hiểm xã hội huyện Phú Xuyên thành phố Hà Nội giai đoạn 2007 - 2009

Tài liệu Thực trạng công tác quản lý thu Bảo hiểm xã hội tại cơ quan bảo hiểm xã hội huyện Phú Xuyên thành phố Hà Nội giai đoạn 2007 - 2009: ... Ebook Thực trạng công tác quản lý thu Bảo hiểm xã hội tại cơ quan bảo hiểm xã hội huyện Phú Xuyên thành phố Hà Nội giai đoạn 2007 - 2009

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1303 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng công tác quản lý thu Bảo hiểm xã hội tại cơ quan bảo hiểm xã hội huyện Phú Xuyên thành phố Hà Nội giai đoạn 2007 - 2009, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG Sơ đồ 2.1.2.1. Sơ đồ vị trí BHXH huyện Phú Xuyên trong hệ thống BHXH Việt Nam . 29 Sơ đồ 2.1.4.1: Cơ cấu tổ chức BHXH huyện Phú Xuyên 32 Bảng 2.2.2.1: Số lượng lao động tham gia BHXH 2007 - 2009. 41 Bảng 2.2.2.2: Số lượng lao động tham gia BHXH tính đến năm 2009. 42 Bảng 2.2.2.3: Tình hình thu BHXH giai đoạn 2007 – 2009. 46 Bảng 2.2.2.4: Đánh giá các chỉ tiêu biến động số thu BHXH Phú Xuyên 47 Bảng 2.2.2.5: Tình hình thực hiện thu thực tế BHXH khối DNNN. 48 Bảng 2.2.2.6: Đánh giá tình hình thu khối DNNN. 49 Bảng 2.2.2.7: Tình hình thu khối Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh. 50 Bảng 2.2.2.8: Tình hình thu khối HCSN – Đảng , Đoàn thể. 51 Bảng 2.2.2.9: Tình hình thu khối xã, thị trấn. 52 Bảng 2.2.2.10: Tình hình thu đối với khối ngoài công lập, HTX và hộ kinh tế 53 Bảng 2.4.1: Tình hình nợ tính đến cuối năm. 59 LỜI MỞ ĐẦU Trên thế giới, Bảo hiểm xã hội (BHXH) đã xuất hiện cách đây rất lâu. Ngày nay, BHXH đã trở thành một công cụ hữu hiệu, mang tính nhân văn sâu sắc để giúp con người vượt qua những khó khăn, rủi ro phát sinh trong cuộc sống và trong quá trình lao động như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất khả năng lao động, già cả hoặc bị chết. Vì thế, BHXH ngày càng trở thành nền tảng cơ bản cho an sinh xã hội của mỗi quốc gia, của mọi thể chế Nhà nước và được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới. Từ năm 1986 nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sụ quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp với đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế xã hội. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII, Đảng ta đã xác định quan điểm phải giải quyết tốt việc “ thực hiện và hoàn thiện chế độ BHXH , đảm bảo đời sống người nghỉ hưu được ổn định từng bước được cải thiện”. tiếp đó là nghị quyết đại hội Đảng IX nhấn mạnh ” thực hiện chính sách xã hội đảm bảo an toàn cuộc sống mọi thành viên trong cộng đồng, bao gồm BHXH đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế”. Do đó, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước mở rộng và nâng cao việc đảm bảo vật chất góp phần ổn định đời sống cho người lao động cũng như gia đình họ trong trường hợp rủi ro xảy ra thông qua chính sách BHXH. Và BHXH là chỗ dựa đáng tin cậy của họ, quỹ BHXH sẽ đứng ra chi trả cho các tổn thất mà rủi ro đó đưa đến trong phạm vi của mình. Tuy nhiên, việc chi trả các chế độ BHXH có thực hiện được hay không hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng của quỹ BHXH mà quỹ BHXH có được dồi dào hay không lại phụ thuộc vào sự đóng góp của các bên tham gia BHXH gồm: người lao động, chủ sử dụng lao động và hỗ trợ của Nhà nước theo luật định. Do đó, công tác thu BHXH có ý nghĩa vô cùng quan trọng quyết định trong việc hình thành quỹ BHXH. Nhận thức thấy công tác thu trong BHXH là rất quan trọng và trong thời gian thực tập tại BHXH Huyện Phú Xuyên, được sự dẫn dắt chỉ bảo nhiệt tình của các cô chú trong cơ quan , em chọn đề tài: “Thực trạng công tác quản lý thu Bảo hiểm xã hội tại cơ quan BHXH huyện Phú Xuyên thành phố Hà Nội giai đoạn 2007 - 2009 ” làm chuyên đề thực tập của mình. Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của chuyên đề thực tập bao gồm 3 chương: Chương I : Lý thuyết cơ bản về BHXH và quản lý thu BHXH . Chương II : Thực trạng công tác quản lý thu BHXH tại cơ quan BHXH huyện Phú xuyên thành phố Hà nội giai đoạn 2005 đến nay. Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao công tác quản lý thu BHXH tại cơ quan BHXH huyện Phú xuyên. Em xin chân thành cảm ơn các bác lãnh đạo cùng tập thể các cán bộ ở Bảo hiểm xã hội huyện Phú xuyên và cô giáo hướng dẫn Th.s. Tôn Thị Thanh Huyền. đã giúp đỡ em trong quá trình thực tập và làm chuyên đề thực tập. Trong quá trình làm chuyên đề thực tập mặc dù em đã cố gắng nhưng chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong được các các cán bộ ở Bảo hiểm xã hội huyện Phú xuyên và cô giáo góp ý để em hoàn thiện hơn về kiến thức và nâng cao vốn hiểu biết của mình. Hà nội, ngày 26 tháng 04 năm 2010 Sinh viên Lê Thị Thu Trang. CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI. 1.1. Tồng quan về BHXH. 1.1.1. Nguồn gốc ra đời và Sự cần thiết khách quan của BHXH. Trong xã hội, con người muốn tồn tại, trước hết phải ăn mặc ở… Để thỏa mãn nhu cầu này, con người cần phải lao động sáng tạo không ngừng tạo ra của cải vật chất phục vụ những nhu cầu tối thiểu này.Của cải càng nhiều thì nhu cầu ngày càng tăng, có nghĩa là việc thỏa mãn nhu cầu phụ thuộc vào khả năng lao động của con người.Trong thực tế không phải lúc nào con người cũng đủ khả năng để lao động sản xuất đảm bảo cuộc sống ổn định, rủi ro thường mang tính bất ngờ nên có thể xảy ra bất cứ khi nào,chẳng hạn như: tai nạn lao động, ốm đau, thai sản, già yếu…và người lao động không thể làm chủ được tình huống này do đó dễ rơi vào tình trạng mất cân bằng trong cuộc sống. Bên cạnh đó, khi gặp phải rủi ro, những nhu cầu tối thiểu của con người không những không giảm đi mà còn gia tăng thậm chí còn xuất hiện thêm nhu cầu mới.Để giảm bớt rủi ro bất hạnh thì ngoài việc bản thân người lao động khắc phục, cần phải có sự hỗ trợ của cộng đồng và xã hội. Trải qua nhiều thời kỳ phát triển của xã hội, sự tương trợ cũng phát triển và mở rộng theo nhiều hình thức khác nhau. Thời kỳ công xã nguyên thủy, con người sống tập trung thành bầy đàn, hình thức sinh sống chủ yếu là săn bắn hái lượm, sản phẩm được phân phối bình quân cho mọi người nên khó khăn bất lợi của mỗi người được cả xã hội san sẻ. Đến thời kỳ xã hội phong kiến, quan lại thì dựa vào chế độ bổng lộc của nhà vua, còn dân cư thì dựa vào sự đùm bọc lẫn nhau trong họ hàng, cộng đồng làng xã, ngoài ra họ có thể đi vay đi xin. Tuy nhiên đó mới chỉ là khả năng, có thể có và cũng có thể không, không hoàn toàn chắc chắn. Sức sáng tạo của con người ngày càng tăng, xã hội cũng ngày càng phát triển lên trình độ cao hơn, xuất hiện nền kinh tế hàng hóa, mọc lên nhiều cơ sở sản xuất và nhu cầu nhân công gia tăng.Điều này làm cho xã hội xuất hiện hai giới cơ bản : giới những người thuê lao động (giới chủ) và giới những người lao động (giới thợ ). Giữa hai giới này tồn tại những mâu thuẫn rất gay gắt mà nguyên nhân chủ yếu là do bất đồng quan điểm trong việc thỏa thuận lợi ích hai bên. Trong số rất nhiều mâu thuẫn khác nhau thì mâu thuẫn sau càng trở nên gay gắt: + Mâu thuẫn về việc kéo dài thời gian lao động. + Mâu thuẫn về tiền lương tiền công. + Mâu thuẫn về thu nhập khi người lao động nghỉ việc. + Mâu thuẫn khi người lao động về già chết. Cuộc tranh giành diễn ra gay gắt và tác động đến nhiều mặt của đời sống, xã hội, hậu quả là sản xuất bị đình đốn, thể chế chính trị bị lung lay, các nguồn lực trong xây dựng sản xuất bị xâm phạm. Chính vì vậy, chính phủ các nước phải can thiệp bằng cách : + Thứ nhất, yêu cầu giới chủ trích một phần từ lợi nhuận của mình để đóng góp vào nguồn quỹ mang tính xã hội. + Thứ hai, vận động người lao động đóng góp một phần từ khoản thu nhập của mình nộp vào quỹ xã hội chung đó nhằm mục đích giải quyết khó khăn cho người lao động trong trường hợp không may có biến cố rủi ro xảy ra. Thời gian đầu cả giới thợ và giới chủ đều không chấp nhận cách giải quyết này, cuộc đấu tranh diễn ra càng gay gắt với quy mô rộng khắp hơn. Chính vì vậy Chính phủ các nước phải can thiệp lần hai, với tư cách là bên thứ ba đóng góp vào quỹ tài chính chung đó. Khi đó cả người lao động và giới chủ nhận thấy mình đều có lợi và mục đích ban đầu đã đạt được. Cả ba bên đưa ra bản cam kết về việc xây dựng và hình thành nguồn quỹ này nhằm bảo vệ người lao động khi rủi ro biến cố xảy ra. Tất cả những vấn đề trên được thế giới quan niệm là Bảo hiểm xã hội cho người lao động Như vậy, sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan, do sự đòi hỏi của cuộc sống và hoạt động sản xuất kinh doanh,khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH. Vì vậy BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan. Vì vậy khái niệm “ Bảo hiểm xã hội ” trở nên gần gũi gắn bó với mọi người đặc biệt là người lao động. Do đó có thể hiểu BHXH theo các cách như sau: - “ BHXH là sự tổ chức bảo đảm bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động không sử dụng được, thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và và các nguồn thu hợp pháp khác, nhằm góp phần đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội”. - “BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên trong xã hội thông qua một loạt các biện pháp công cộng ( bằng pháp luật, trách nhiệm của Chính phủ ) để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế xã hội do bị mất hoặc giảm thu nhập gây ra bởi ốm đau , mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật và chết đi. Hơn nữa, BHXH còn phải bảo vệ cho việc chăm sóc y tế, sức khỏe và trợ cấp cho các gia đình khi cần thiết”. Đây là khái niệm về BHXH của Tổ chức Lao động Quốc tế ( ILO ), phản ánh một cách tổng quan về mục tiêu, bản chất và chức năng của BHXH đối với mỗi quốc gia. Mục tiêu cuối cùng của BHXH là hướng tới sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội, thể hiện sự gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của cá nhân trong cộng đồng và của toàn xã hội đối với mỗi con người. Ngoài ra còn có một số khái niệm về BHXH xét trên các khía cạnh khác: + Xét trên khía cạnh pháp luật: BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ người lao động, sử dụng tiền đóng của người lao động, người sử dụng lao động, và được sự tài trợ bảo hộ của Nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, thai sản, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật ( hưu ) hoặc chết. + Xét trên giác độ tài chính: BHXH là thuật ( kỹ thuật ) chia sẻ rủi ro và tài chính giữa những người tham gia bảo hiểm theo quy định của Pháp luật. + Xét trên giác độ chính sách xã hội : BHXH là một chính sách xã hội nhằm đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động khi họ không may gặp phải các rủi ro xã hội , nhằm góp phần đảm bảo an toàn xã hội. 1.1.2. Đối tượng của BHXH: Ở đây cần phân biệt rõ đối tượng của BHXH và đối tượng tham gia BHXH. BHXH là một hệ thống đam bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu… Chính vì vậy đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của người lao động tham gia BHXH. Còn đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy vậy, tùy theo điều kiện kinh tế của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó. Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối với các viên chức Nhà nước, những người làm công hưởng lương. Việt Nam cũng không vượt khỏi thực tế này, mặc dù biết rằng như vậy là chưa công bằng với tất cả những người lao động. Nếu xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH, ngoài người lao động còn có người sử dụng lao động và cơ quan BHXH được sự bảo trợ của Nhà nước. Người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng. Còn cơ quan BHXH nhận sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động có trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với người lao động. Mối quan hệ ràng buộc này chính là đặc trưng riêng có của BHXH, nó quyết định sự tồn tại và phát của BHXH một cách ổn định và bền vững. 1.1.3. Bản chất của BHXH. Như đã trình bày ở trên, BHXH ra đời là do những mối quan hệ ràng buộc, những mâu thuẫn mà người lao động và người sử dụng lao động không thể giải quyết được, đòi hỏi Nhà nước phải đứng ra can thiệp.Bản chất của BHXH thể hiện ở những vấn đề sau đây: - BHXH là nhu cầu khách quan, là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa.Kinh tế càng phát triển thì hệ thống BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì vậy có thể cho rằng sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát triển của nền kinh tế hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh tế của mỗi nước. Một nền kinh tế càng phát triển,. đời sống nhân dân thấp kém không thể có một hệ thống BHXH vững mạnh được. Kinh tế càng phát triển, hệ thống BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, các hình thức BHXH ngày càng phong phú. - Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHX H có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH ( bên nhận nhiệm vụ BHXH ) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. - Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động , mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người: ốm đau, tai nạn…hoặc những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên: thai sản, tuổi già…Đồng thời những biến cố có thể xảy ra cả trong và ngoài quá trình lao động. - Phần thu nhập bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những rủi ro biến cố sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tập trung hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, gọi là quỹ BHXH Nguồn quỹ này do các bên tham gia đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn nhận được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.Như vậy, BHXH cũng là quá trình phân phối lại thu nhập. - Mục tiêu của BHXH là đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ, nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp mất hoặc giảm thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này được tổ chức ILO cụ thể hóa như sau: + Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ. + Chăm sóc sức khỏe và chống bệnh tật. + Xây dựng điều kiện sống đáp ứng nhu cầu của dân cư và các nhu cầu khác đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em. Tóm lại, BHXH mang cả bản chất kinh tế và bản chất xã hội.Về mặt kinh tế, nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của người lao động và gia đình họ luôn được đảm bảo trước những bất trắc rủi ro xã hội. Về mặt xã hội, do có sự san sẻ rủi ro của BHXH, người lao động chỉ phải đóng góp một phần nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có lượng vật chất đủ lớn để trang trải những rủi ro xảy ra, ở đây BHXH đã thực hiện nguyên tắc lấy số đông bù số ít. 1.1.4. Chức năng của BHXH. BHXH có chức năng chủ yếu sau: - Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH , nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH. - Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp, giữa những người khỏe mạnh đang làm việc và những người ốm yếu phải nghỉ việc. Thực hiện được chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. - Góp phần kích thích người lao động hăng say sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khỏe mạnh, tham gia lao động được người sử dụng lao động trả tiền lương tiền công. Khi ốm đau bệnh tật, tai nạn lao động, thai sản, hưu trí đã có BHXH trợ cấp thay thế phần thu nhập đã bị mất. Vì vậy họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định. Chính vì thế, người lao động an tâm làm việc và gắn bó với công việc hơn, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế.Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội. - Gắn bó lợi ích giữa người lao với người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội. Thông qua BHXH, những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương , tiền công, thời gian lao động… được điều hòa và giải quyết. Đặc biệt, cả hai giới đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần ổn định sản xuất kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển an toàn hơn. 1.1.5. Hệ thống các chế độ Bảo hiểm xã hội. Chế độ BHXH là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với người lao động. Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy định được pháp luật hóa về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng trường hợp BHXH cụ thể. Tuy nhiên, dù có cụ thể đến đâu thì các chế độ BHXH cũng khó có thể bao hàm được đầy đủ mọi chi tiết trong quá trình thực hiện chính sách BHXH. Vì vậy, khi thực hiện mỗi chế độ thường phải nắm vững những vấn đề mang tính cốt lõi của BHXH, để đảm bảo tính đúng đắn và nhất quán trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH. Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động Quốc tế đã nêu trong Công ước số 102 tháng 06 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm: Chăm sóc y tế Trợ cấp ốm đau Trợ cấp thất nghiệp Trợ cấp tuổi già Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp Trợ cấp gia đình Trợ cấp sinh đẻ Trợ cấp khi tàn phế Trợ cấp cho người còn sống Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH . Tùy theo điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ ( 3 ); ( 4 ); ( 5 ); ( 8 ); ( 9 ) Đặc điểm chủ yếu của hệ thống BHXH: - Các chế độ được xây dựng theo luật pháp mỗi nước. - Hệ thống các chế độ mang tính chất san sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính. - Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham gia BHXH và quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả thì mức chi trả sẽ là cao và ổn định. - Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ và tiền mặt được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh toán. Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH. - Các chế độ BHXH thường được điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết sự thay đổi của điều kiện kinh tế xã hội. Đối với Việt Nam hiện nay, cơ bản chúng ta quy định có 5 chế độ: 1. Chế độ ốm đau 2. Chế độ thai sản 3.Chế độ tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp 4. Chế độ tử tuất 5. Chế độ hưu trí Năm 2006, BHXH bước sang giai đoạn mới, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XI, ngày 26 tháng 6 năm 2006, Quốc hội thông qua một số Luật quan trọng trong đó có Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11 và chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký lệnh số 13/2006/L – CTN ban hành ngày 12/07/2006 về BHXH. Điểm mới của văn bản Luật này là, ngoài hình thức BHXH bắt buộc, việc mở rộng hình thức BHXH tự nguyện và hình thức bảo hiểm thất nghiệp, đã được quy định tại chương IV, chương V. Đây là đổi mới quan trọng trong chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước ta để tiến tới BHXH cho mọi người lao động ở bất cứ thành phần kinh tế nào cũng đều có nghĩa vụ tham gia và thụ hưởng những quyền lợi về chế độ BHXH đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Như vậy các chế độ BHXH bao gồm: + BHXH bắt buộc bao gồm các chế độ : ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất. + BHXH tự nguyện bao gồm các chế độ: hưu trí, tử tuất. + Bảo hiểm thất nghiệp bao gồm các chế độ: Trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm. Hiệu lực chung của Luật này là thi hành từ ngày 1/1/2007, thì BHXH tự nguyện có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2008 còn BHXH có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2009. Luật này không áp dụng với BHYT, bảo hiểm tiền gửi và các loại bảo hiểm mang tính kinh doanh. 1.1.6. Quỹ Bảo hiểm xã hội. 1.1.6.1. Khái niệm và đặc điểm quỹ BHXH. Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách nhà nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ là dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố, rủi ro. Chủ thể của quỹ chính là những người tham gia đóng góp để hình thành nên quỹ, do đó có thể bao gồm cả: người lao động và người sử dụng lao động và Nhà nước. Cần phân biệt giữa quỹ BHXH với NSNN.Giữa quỹ BHXH và NSNN giống nhau về: + Bản chất, chức năng, có quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình tạo lập và sử dụng. + Hoạt động của quỹ BHXH và NSNN đều không nhằm mục tiêu lợi nhuận. + Quá trình hình thành và sử dụng cả hai đều được biểu hiện dưới hính thức giá trị. + Việc thu chi đều được quy định bằng pháp luật và cơ chế quản lý phải tuân theo nguyên tắc cân đối thu chi… Tuy nhiên giữa quỹ BHXH và NSNN tồn tại những điểm khác nhau cơ bản: NSNN là tổng thể các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực chính trị của mình để tập trung một phần thu nhập quốc gia nhằm tạo lập quỹ tiền tệ của Nhà nước và phân phối sử dụng Ngân sách cho việc trang trải các chi phí bộ máy Nhà nước và thực hiện chức năng kinh tế xã hội theo kế hoạch của Nhà nước. Quỹ BHXH là tổng thể các mối quan hệ kinh tế xã hội phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ nhằm mục đích ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi không may gặp rủi ro, biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm, từ đó làm phát triển kinh tế xã hội quốc gia. NSNN ra đời tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước và thực hiện chức các chức năng kinh tế xã hội của Nhà nước.Bộ máy Nhà nước càng lớn, chức năng và nhiệm vụ càng mở rộng thì thu chi ngân sách càng lớn. Quan hệ phân phối của NSNN mang tính pháp lý rất cao và dựa vào quyền lực chính trị kinh tế của Nhà nước.Quan hệ phân phối này chủ yếu là phân phối lại, không mang tính chất hoàn trả và phản ánh lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia, nó chi phối các quan hệ, các lợi ích bộ phận và cá nhân nhằm đảm bảo cho nền kinh tế xã hội của đất nước phát triển ổn định. Trong khi đó, quỹ BHXH ra đời , tồn tại và phát triển gắn với sự phát triển kinh tế hàng hóa, với các mối quan hệ thuê mướn nhân công. Mặc dù thu chi BHXH đều được Nhà nước quy định bằng văn bản pháp luật nhưng chủ yếu dựa vào quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích giữa các bên tham gia theo nguyên tắc có tham gia mới được hưởng quyền lợi BHXH. Quan hệ phân phối của quỹ BHXH có tính pháp lý thấp hơn NSNN và mối quan hệ này trước hết phản ánh lợi ích của các bên tham gia BHXH, sau đó mới đến lợi ích xã hội. * Những đặc điểm chủ yếu của BHXH: + Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định. Kinh tế xã hội càng phát triển thì càng có điều kiện thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH, nhu cầu thỏa mãn về BHXH đối với người lao động càng được nâng cao. + Mục đích của quỹ BHXH là đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi không may người lao động gặp phải các biến cố rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động. Hoạt động của quỹ không nhằm mục tiêu lợi nhuận, không kinh doanh kiếm lời. + Phân phối quỹ vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính chất không hoàn trả. Tính chất hoàn trả thể hiện ở chỗ, người lao động là đối tượng tham gia và đóng góp BHXH đồng thời cũng là đối tượng nhận trợ cấp BHXH . Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ, cùng tham gia đóng góp BHXH nhưng có người được hưởng nhiều lần và nhiều chế độ khác nhau nhưng cũng có người được hưởng ít lần hơn thậm chí là không được hưởng. + Là hạt nhân , là nội dung vật chất của tài chính BHXH. Nó là khâu tài chính trung gian, cùng với NSNN và tài chính doanh nghiệp hình thành nên hệ thống tài chính quốc gia. Tuy các khâu luôn độc lập với nhau trong quản lý và sử dụng do mỗi khâu được tạo lập, sử dụng với mục đích riêng và gắn với một chủ thể nhất định. Nhưng tài chính BHXH, NSNN, và tài chính doanh nghiệp lại có quan hệ chặt chẽ với nhau và đều chịu sự chi phối của pháp luật nhà nước. + Quá trình tích lũy, đảm bảo an toàn quỹ BHXH là một vấn đề mang tính nguyên tắc, đặc điểm này xuất phát từ vấn đề đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động. Vì vậy đến lượt mình , BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính. Thực tế , nếu xét tại một thời điểm cụ thể nào đó, quỹ BHXH luôn tồn tại một lượng tiền nhàn rỗi để chi trả trong tương lai.Lượng tiền này có thể biến động tăng hoặc giảm giá trị do yếu tố lạm phát.Do đó vấn đề bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ trở thành yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt động của BHXH. 1.1.6.2. Nguồn hình thành quỹ BHXH . Quỹ BHXH được hình thành từ chủ yếu từ các nguồn sau: Người sử dụng lao động đóng góp. Người lao động đóng góp. Nhà nước đóng góp, hỗ trợ thêm. Các nguồn khác: lãi từ đầu tư từ phần quỹ nhàn rỗi, sự ủng hộ của những cá nhân, tổ chức từ thiện và các khoản thu hợp pháp khác. Sự phân chia về trách nhiệm đóng góp BHXH giữa người lao động và người sử dụng lao động không phải là phân chia rủi ro mà là lợi ích giữa các bên. Về phía người sử dụng lao động việc bỏ một khoản tiền nhỏ để đóng BHXH giúp họ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động. Đồng thời nó còn góp phần tạo ra mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ sử dụng lao động và người lao động. Về phía người lao động, sự đóng góp vào quỹ BHXH một phần là để tự bảo vệ mình , vừa thể hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, đông thời vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ. Về phía Nhà nước, sự tham gia đóng góp của Nhà nước nhằm thể hiện sự quản lý của Nhà nước đối với BHXH, đảm bảo cho chính sách được thực hiện nghiêm chỉnh, đúng quy định của pháp luật. Ở Việt Nam, quy định tại Mục 1 chương VI Luật BHXH từ điều 88 đến điều 97, quỹ BHXH bao gồm các quỹ thành phần sau: Quỹ ốm đau thai sản : do người sử dụng lao động đóng góp 3% trên quỹ tiền công tiền lương đóng BHXH của người lao động. Quỹ tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp : do người sử dụng lao động đóng góp bằng 1% quỹ tiền lương tiền công đóng BHXH của người lao động. Quỹ hưu trí và tử tuất được hình thành từ các nguồn: sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và hỗ trợ từ ngân sách nhà nước. Cụ thể như sau: + Hàng tháng, người lao động đóng BHXH vào quỹ hưu trí và tử tuất với mức đóng bằng tỷ lệ phần trăm (%) so với mức tiền lương tiền công tháng đóng BHXH như sau: từ tháng 01/ 2007 đến tháng 12/2009 là 5%, sau đó cứ mỗi năm lại tăng mức đóng lên 1% cho tới khi đạt mức 8%. Đối với người lao động làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cá nhân hoặc hợp đồng với tổ chức hoạt động dịch vụ xuất khẩu lao động đã tham gia BHXH bắt buộc mà chưa nhận trợ cấp BHXH một lần thì mức đóng từ tháng 01/2007 đến tháng 12/2009 là 16%, sau đó cứ 2 năm lại tăng lên 2% cho tới khi đạt đến 22%. + Người sử dụng lao động có mức đóng như sau: Từ tháng 01/2007 đến tháng 12/2007 mức đóng bằng 11% so với tiền lương tháng đóng BHXH, sau đó cứ 2 năm lại tăng lên 1% cho tới khi đủ 14 %. 1.1.6.3. Sử dụng quỹ BHXH. Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu để chi trả cho các mục đích sau: Chi trợ cấp cho các chế độ BHXH Chi phí cho sự nghiệp quản lý; Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Trong các nội dung trên thì chi trả trợ cấp BHXH theo các chế độ là lớn nhất và quan trọng nhất. Khoản chi này thực hiện theo luật định và phụ thuộc vào phạm vi luật định của từng hệ thống BHXH. Về nguyên tắc có thu mới có chi, thu trước chi sau.Vì vậy, quỹ chỉ chi cho các chế độ trong phạm vi có nguồn thu, thu của chế độ nào thì chi ở chế độ đó. Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH : Ngoài việc trợ cấp cho các đối tượng hưởng BHXH, quỹ BHXH còn được sử dụng để chi trả cho các khoản chi phí quản lý như : tiền lương cho cán bộ làm việc trong hệ thống BHXH, khấu hao tài sản cố định , văn phòng phẩm và một số khoản chi khác. Chi phí đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH: khoản chi này để đảm bảo các hoạt động đầu tư phần nhàn rỗi của quỹ BHXH được diễn ra bình thường và đạt hiệu quả cao. Về mặt kế toán, khoản chi này được trích ra trong tổng thu được từ lợi nhuận đầu tư. Ở Việt Nam , việc sử dụng quỹ BHXH được quy định cụ thể như sau: + Chi trả các chế độ BHXH cho người lao động theo quy định. + Đóng BHYT từ các quỹ thành phần: quỹ tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp đóng BHYT cho người nghỉ việc hưởng trợ cấp TNLĐ – BNN hàng tháng; quỹ hưu trí và tử tuất đóng BHYT cho người đang hưởng lương hưu. + Quỹ TNLĐ – BNN chi khen thưởng người sử dụng lao động thực hiện tốt công tác bảo hộ lao động, phòng ngừa TNLĐ – BNN. + Chi phí quản lý BHXH: được trích từ tiền sinh lời của hoạt động đầu tư quỹ, bao gồm các khoản chi thường xuyên và các khoản chi không thường xuyên. + Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH phải đảm bảo an toàn , hiệu quả và thu hồi được khi cần thiết, thường đầu tư vào các hình thức: mua trái phiếu, tín phiếu, công trái của Nhà nước, của Ngân hàng Thương mại, cho NHTM của Nhà nước vay, đầu tư vào các dự án công trình kinh tế trọng điểm quốc gia và đầu tư vào một số dự án có nhu cầu lớn về vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Các hoạt động tài chính quỹ BHXH trên chịu sự kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý Nhà nước về tài chính và chịu sự kiểm toán của cơ quan kiểm toán nhà nước. 1. 2.Những quan điểm cơ bản về Bảo hiểm xã hội Khi tiến hành tổ chức và thực hiện chính sách BHXH, các quốc gia đều lựa chọn hình thức, cơ chế, mức độ thỏa mãn các nhu cầu BHXH phù hợp với tập quán, khả năng trang trải và định hướng phát triển kinh tế xã hội của quốc gia mình, đồng thời cũng nhận thức thống nhất các quan điểm cơ bản về BHXH sau: 1.2.1. Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và quan trọng nhất trong chính sách BHXH. Mục đích chủ yếu của BHXH là nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ trước những rủi ro xã hộ._.i làm giảm hoặc mất thu nhập của người lao động. Thực chất, BHXH là một chính sách đối với con người, nhằm đáp ứng một trong những quyền và nhu cầu hiển nhiên của con người, nhu cầu an toàn về việc làm, an toàn lao động, an toàn xã hội… Từ quan điểm này cho thấy các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận tính xã hội cao của BHXH, do đó BHXH được coi là một hoạt động phi lợi nhuận mang tính nhân văn sâu sắc. Tại Việt Nam, đây được coi là một trong những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước trong hệ thống An sinh xã hội. 1.2.2. Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm tham gia BHXH cho người lao động. Người sử dụng lao động chính là các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân có thuê mướn lao động. Họ có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH và có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với người lao động mà họ đang sử dụng theo đúng pháp luật quy định. Làm như vậy, chủ sử dụng lao động sẽ tránh được những thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mình đang thuê mướn, bên cạnh đó cũng làm giảm bớt tình trạng tranh chấp, tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ và thợ, tạo ra sự yên tâm, tích cực sản xuất cho người lao động. 1.2.3. Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH. Mọi người lao động đều được bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi được trợ cấp BHXH. Khi những rủi ro không may xảy ra với người lao động thì họ là những người trực tiếp chịu tác động của rủi ro. Điều đó có nghĩa là người lao động phải có trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH để tự bảo hiểm cho mình. 1.2.4. Mức trợ cấp BHXH. Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: + Mức tiền lương trong giai đoạn đi làm của người lao động. + Mức độ suy giảm khả năng lao động ( tỷ lệ thương tật ) + Ngành nghề công tác + Thời gian công tác và đóng BHXH + Tuổi thọ bình quân của người lao động + Điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ Tuy nhiên, về nguyên tắc, mức trợ cấp phải thấp hơn mức lương lúc đang đi làm, nhưng thấp nhất cũng phải đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho người được hưởng. Quan điểm này vừa phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa phản ánh nguyên tắc phân phối lại quỹ BHXH cho người lao động tham gia BHXH. 1.2.5. Nhà nước quản lý thống nhất chính sách Bảo hiểm xã hội, tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHXH. BHXH là một bộ phận cấu thành các chính sách xã hội, nó vừa là nhân tố ổn định, vừa là động lực phát triển kinh tế xã hội, nên vai trò của Nhà nước là rất quan trọng. sự can thiệp của Nhà nước đã đảm bảo cho mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động được duy trì bền vững đồng thời đảm bảo mối quan hệ ba bên trong BHXH sẽ không bị phá vỡ. 1.3. Công tác quản lý thu Bảo hiểm xã hội. 1.3.1. Đặc điểm công tác thu và quản lý thu BHXH. Bảo hiểm xã hội là một hoạt động mang tính nhân văn nhân đạo sâu sắc, cũng giống như hoạt động của các quỹ tiền tệ , quỹ tín dụng khác đều thông qua cơ chế đóng góp trước hưởng sau tuy nhiên nó mang tính phi lợi nhuận, hoạt động không vì mục tiêu kiếm lời. Do đó, nó mang những đặc thù riêng . Sự tham gia và đóng góp vào quỹ BHXH hình thành nên mối quan hệ giữa 3 bên:bên tham gia BHXH, bên được BHXH, bên BHXH, giữa các bên có mối quan hệ rang buộc với nhau về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm trên cơ sở pháp luật BHXH . Do đó trong quá trình thực hiện thu BHXH đòi hỏi cơ quan BHXH phải theo dõi chặt chẽ kết quả đóng BHXH của từng đơn vị, cơ quan, doanh nghiệp theo từng tháng. Từ đó ghi nhận kết quả đóng cho từng người lao động. Công việc này đòi hỏi tính chính xác cao, thường xuyên, liên tục trong nhiều năm. Bên cạnh đó nghiệp vụ thu BHXH gắn với hoạt động cả đời người lao động, có tính kế thừa, do đó việc quản lý và lưu giữ sổ, bảng biểu là hoạt động không có giới hạn về mặt thời gian. Từ một số tính đặc thù của nghiệp vụ thu BHXH có thể rút ra một số đặc điểm đối với công tác thu và quản lý thu BHXH như sau: - Thu BHXH là khâu đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ hoạt động của hệ thống BHXH, nó có tính chu kỳ và thường lặp đi lặp lại theo thời gian. - Việc tổ chức và thực hiện công tác quản lý thu rất đa dạng, phức tạp do số lượng lao động, các đơn vị , tổ chức sử dụng lao động ngày càng tăng. - Mức phí BHXH thường được tính trên mức thu nhập hoặc mức tiền công, tiền lương của người lao động và phải được xác định là thu đúng, đủ, kịp thời để đáp ứng tốt nhất cho toàn bộ hoạt động của cả hệ thống. - Thu phí BHXH có thể thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp , có thể thu bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản. 1.2.2. Vai trò thu và quản lý thu BHXH. Công tác thu chi và quản lý thu chi BHXH ngày càng trở nên quan trọng, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của việc thực hiện chính sách BHXH. Trong phần viết này đề cập đến nghiệp vụ thu và quản lý thu BHXH. - Công tác thu BHXH là một hoạt động thường xuyên và đa dạng của ngành BHXH nhằm đảm bảo nguồn quỹ tài chính BHXH đạt được tập trung thống nhất. - Thu BHXH có vai trò như một điều kiện cần và đủ trong quá trình tạo lập cùng thực hiện chính sách BHXH, để chính sách được diễn ra thuận lợi. Bởi đây là đầu vào, là nguồn hình thành cơ bản nhất trong quá trình tạo lập quỹ BHXH. Đồng thời đây cũng là khâu bắt buộc đối với người tham gia BHXH thực hiện nghĩa vụ của mình, do vậy thu BHXH đòi hỏi độ chính xác cao, thực hiện thường xuyên liên tục, kéo dài trong nhiều năm, và có sự biến động về mức đóng cũng như số người tham gia. - Công tác thu BHXH vừa đảm bảo cho quỹ BHXH được tập trung về một mối vừa đóng vai trò như một công cụ thanh kiểm tra số lượng người tham gia BHXH biến đổi ở từng khối lao động cơ quan , ở từng đơn vị địa phương hoặc trên toàn quốc. Bởi công tác thu đòi hỏi được tổ chức tập trung thống nhất có sự ràng buộc chặt chẽ từ trên xuống dưới. Hơn nữa, hoạt động thu BHXH liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cả một đời người,có tính kế thừa cho nên công tác thu BHXH có vai trò hết sức quan trọng và rất cần thiết trong việc thực hiện chính sách BHXH. 1.2.3. Nguyên tắc. Căn cứ vào pháp luật và các văn bản dưới luật thì nguyên tắc thu BHXH phải đảm bảo đúng đối tượng, đúng mức thu , đồng thời phải đảm bảo công bằng giữa các đơn vị tham gia BHXH. Muốn vậy cần phải quán triệt những vấn đề sau đây: - Mức đóng BHXH của các cơ quan doanh nghiệp cần dựa trên quỹ lương của đơn vị, quỹ lương này bao gồm toàn bộ lương cứng và các khoản phụ cấp vào lương, đồng thời quỹ này phải chi trả cho tất cả các đối tượng tham gia đóng góp BHXH. - Quyết toán thu BHXH thường vào cuối năm nhưng trong năm đó số người tham gia và số đơn vị tham gia BHXH luôn biến động, vì vậy khi quyết toán phải căn cứ vào số liệu thực tế phát sinh chứ không tính vào mức bình quân. - Thu BHXH phải mang tính trực tiếp, hạn chế tối đa hiện tượng khoán thu để hưởng hoa hồng. - Về nguyên tắc, cơ quan BHXH phải quyết toán từng tháng, từng quý, từng năm nhưng đến cuối năm quyết toán, tất cả các số thu phải khớp với nhau và phải thực sự cân đối giữa NLĐ, NSDLĐ, loại hình doanh nghiệp, loại hình thu. Ngoài việc thu đúng của NLĐ và NSDLĐ, BHXH cần phải lập kế hoạch và lập dự toán trước phần ngân sách Nhà nước cấp bù vào đầu tháng, đầu quý, đầu năm, sau đó mới được quyết toán. Phần lãi trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH nhàn rỗi, về nguyên tắc phải được bù đắp vào quỹ BHXH để bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ, phần trích ra chi cho các mục đích khác như chi cho khen thưởng, chi quản lý và những khoản chi khác theo quy định của pháp luật. Các khoản tài trợ của các tổ chức, quỹ từ thiện, đặc biệt là các khoản nợ của người tham gia phải được hạch toán riêng, các khoản nợ đòi được phải tính tới lãi suất. 1.2.4. Quy trình tổ chức thu và phương thức thu BHXH. * Quy trình tổ chức thu BHXH : - Tổ chức thu được tiến hành qua các bước: + Người lao động và người sử dụng lao dộng đăng ký tham gia BHXH lần đầu với cơ quan BHXH được phân công quản lý. + Cơ quan BHXH trực tiếp nhận hồ sơ và danh sách lao động đăng ký tham gia. Cán bộ thu tiến hành thẩm định hồ sơ , rồi thông báo kết quả và mức đóng góp cho bên sử dụng lao động có tham gia BHXH. + Bên sử dụng lao động tiến hành đóng BHXH cho người lao động theo thỏa thuận với các bên tham gia BHXH. + Hàng tháng bên sử dụng lao động có trách nhiệm theo dõi và thông báo với cơ quan BHXH về những thay đổi so với đăng ký ban đầu. + Tiến hành công tác đối chiếu, kiểm tra các thông số liên quan giữa bên BHXH và bên tham gia BHXH. + Thực hiện chế độ báo cáo thu và báo cáo tổng hợp thu định kỳ theo quy định. - Tổ chức giải quyết các chế độ: thông qua các bước: + Khi có nhu cầu thanh toán BHXH, người thụ hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đề nghị được giải quyết thanh toán theo các thủ tục hiện hành tới các cơ quan BHXH. + Cơ quan BHXH các cấp tiến hành giám định, xét duyệt các hồ sơ từng trường hợp theo đúng các thủ tục hiện hành. + Thông báo cho người thụ hưởng hoặc người đại diện cho họ biết về việc đề nghị của họ có được giải quyết hay không. Nếu được giải quyết, tiến hành chi trả trợ cấp cho người thụ hưởng theo quy định của từng chế độ BHXH. + Người thụ hưởng hoặc người đại diện hoàn thiện thủ tục nhận trợ cấp BHXH cho các cấp theo quy định. + Định kỳ thực hiện tổng hợp báo cáo kết quả chi trả trợ cấp BHXH cho các cấp theo quy định. * Phương thức thu BHXH: một số hình thức thu BHXH hiện nay thường áp dụng ở các quốc gia: - Phương thức thu BHXH trực tiếp từ người lao động: thường được áp dụng ở các nước mà chế độ BHXH được phổ biến rộng rãi; việc sử dụng hệ thống tài khoản ở các ngân hàng để thanh toán cũng là phổ biến. Theo phương thức này, NLĐ và NSDLĐ đóng góp BHXH thông qua hệ thống chuyển khoản tại các Ngân hàng. - Phương thức thu BHXH gián tiếp qua hệ thống thuế, chủ yếu là thuế thu nhập. Phương thức này áp dụng ở các nước có hệ thống BHXH phát triển và hệ thống thuế thu nhập hoàn thiện, phổ biến. Như vậy, việc đóng BHXH được coi như là một khoản thuế phải nộp cho Nhà nước. - Phương thức thu BHXH gián tiếp thông qua các đơn vị sử dụng lao động. Đây là phương thức được sử dụng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Theo cách này, hàng tháng người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng góp BHXH cho người lao động của đơn vị mình cho cơ quan BHXH. Ngoài ra có thể thu BHXH thông qua hệ thống các đại lý cấp dưới. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU BHXH TẠI CƠ QUAN BHXH HUYỆN PHÚ XUYÊN THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2007 – 2009. 2.1. GIỚI THIỆU VỀ CƠ QUAN BẢO HIỂM HUYỆN PHÚ XUYÊN THÀNH PHỐ HÀ NỘI. 2.1.1. Quá trình hình thành hệ thống cơ quan BHXH Việt Nam. Việc bảo vệ người lao động trước những rủi ro ngẫu nhiên ở nước ta được Đảng và Chính phủ quan tâm, có quy định pháp luật từ những ngày đầu mới thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, thừa kế và phát huy đúng đắn truyền thống nhân ái vốn có của dân tộc ta, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm phong phú của các nước. Trong các cơ chế bảo vệ người lao động, nước ta đã sớm thực hiện các chế độ BHXH, vào loại sớm nhất so với nhiều nước trong khu vực. Hệ thống BHXH ở nước ta đã sớm bao gồm gần hết các chế độ cần thiết và gần đủ các chế độ như đang áp dụng ở các nước phát triển và đang phát triển. Chính phủ ta cũng ban hành nhiều văn bản pháp luật về BHXH. Sắc lệnh 54/ SL ngày 01/11/1945 quy định những điều kiện cho công chức về hưu; Sắc lệnh 105/SL ngày 14/06/1946 quy định về việc cấp học bổng cho công chức; Sắc lệnh 76/SL ngày 20/05/1950 quy định cụ thể hơn các chế độ trợ cấp hưu trí, thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn và tiền tuất đối với công chức…. Sau cách mạng tháng Tám thành công , trên cơ sở Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chính phủ đã ban hành một loạt các sắc lệnh quy định về các chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn , hưu trí cho công nhân viên chức nhà nước ( có sắc lệnh 19/ SL ngày 12/03/1947 ; Sắc lệnh ngày 20/05/1950 và sắc lệnh 77 / SL ngày 22/05/1950 ). Cơ sở pháp lý tiếp theo của BHXH được thể hiện trong Hiến pháp 1959, thừa nhận công nhân viên chức có quyền được trợ cấp BHXH. Quyền này được cụ thể hóa trong điều lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước, ban hành kèm theo Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 của Chính phủ. Suốt trong những năm tháng kháng chiến chống xâm lược, chính sách BHXH nước ta đã góp phần ổn định về mặt thu nhập, ổn định cuộc sống cho công nhân viên chức, quân nhân và gia đình họ, góp phần quan trọng trong việc động viên sức người sức của cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược thống nhất đất nước. Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường. Sự thay đổi này đòi hỏi có những thay đổi tương ứng về chính sách xã hội nói chung và chính sách BHXH nói riêng. Hiến pháp năm 1992 nêu rõ: “ Nhà nước thực hiện chế độ BHXH đối với công chức Nhà nước và người làm công ăn lương khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với người lao động”. Trong văn kiện Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã chỉ rõ, cần đổi mới chính sách BHXH theo hướng mọi người lao động và các thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng BHXH, thống nhất tách quỹ BHXH ra khỏi Ngân sách Nhà nước. Tiếp đến văn kiện đại hội Đảng lần thứ VIII cũng đã nêu rõ quan điểm cần phải “ Mở rộng chế độ BHXH đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế ”. Như vậy các văn bản nêu trên của Đảng và Nhà nước là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đổi mới các chính sách BHXH nước ta theo cơ chế thị trường. Căn cứ luật tổ chức chính phủ ngày 30/09/1992 và điều 150 Bộ luật lao động. Theo đề nghị của Bộ trưởng, trưởng ban tổ chức – cán bộ chính phủ, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 về việc thành lập cơ quan BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH Trung ương và các địa phương thuộc hệ thống lao động thương binh và xã hội và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam để giúp Thủ tướng chính phủ chỉ đạo công tác quản lý quỹ BHXH và thực hiện các chế độ, chính sách BHXH theo pháp luật của Nhà nước. Theo điều 2 của Nghị định này thì cơ quan BHXH Việt Nam có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ có con dấu riêng, có tài khoản, có trụ sở đặt tại thành phố Hà Nội.Quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước. Để phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước, phù hợp với điều kiện kinh tế đất nước, đảm bảo ổn định và thuận tiện cho việc giải quyết chế độ BHYT, Ngày 06/12/2002 Chính phủ ban hành nghị định số 100/ CP sửa đổi bổ sung nghị định 19/CP quy định cụ thể chức năng , nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Cùng với đó là việc sát nhập BHYT vào BHXH. 2.1.2. Sự ra đời và sự phát triển của cơ quan BHXH huyện Phú Xuyên. Sau khi BHXH Việt Nam ra đời trên cơ sở hợp nhất một phần vụ BHXH - Bộ Lao động thương binh và xã hội với Ban BHXH Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Từ đó BHXH các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương được thành lập trên cơ sở hợp nhất phòng BHXH thuộc Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh , thành phố với bộ phận làm công tác BHXH của Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố. Theo quyết định số 13A/ QĐ – BHXH – TCCB ngày 15/06/1995 thì Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tây được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/07/1995. Bảo hiểm xã hội huyện Phú Xuyên được thành lập theo Quyết định số 13B / QĐ – TCCB ngày 15/06/1995, là cơ quan nằm trong hệ thống tổ chức của BHXH Việt Nam trực thuộc BHXH tỉnh Hà Tây cũ, có nhiệm vụ tổ chức thực hiện các chính sách chế độ và quản lý tài chính BHXh trên địa bàn huyện Phú Xuyên. Bảo hiểm xã hội huyện Phú Xuyên chịu sự quản lý hành chính trên địa bàn lãnh thổ của Ủy ban nhân dân huyện Phú Xuyên. Bảo hiểm xã hội huyện Phú Xuyên có tư cách pháp nhân, có con dấu và có tài khoản riêng, có trụ sở đặt tại Thị trấn Phú Xuyên, huyện Phú Xuyên thành phố Hà Nội. Bảo hiểm xã hội huyện không có cơ cấu tổ chức trực thuộc. Sơ đồ 2.1.2.1. Sơ đồ vị trí BHXH huyện Phú Xuyên trong hệ thống BHXH Việt Nam . BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM BẢO HIỂM XÃ HỘI THÀNH PHỐ HÀ NỘI Phú Xuyên BẢO HIỂM XÃ HỘI QUẬN PHÒNG NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM XÃ HỘI HUYỆN Ứng Hòa Thạch Thất Mê Linh Hà Đông Thanh Oai Kế hoạch tài chính Chế độ chính sách Long Biên Thường Tín Quản lý thu Hành chính tổng hợp Kiểm tra Công nghệ thông tin Giám định chi Chương Mỹ Đan Phượng Mỹ Đức Phúc Thọ Tự nguyện Hoàn Kiếm Cầu Giấy 2.1.3. Nhiệm vụ và quyền hạn của BHXH huyện Phú Xuyên. Bảo hiểm xã hội huyện Phú Xuyên là cơ quan trực thuộc BHXH thành phố Hà Nội. Do vậy, phải thực hiện nhiệm vụ do BHXH cấp trên giao cho: - Hướng dẫn cơ quan , đơn vị sử dụng lao động lập danh sách lao động và các đối tượng đóng BHXH, BHYT ( nay gọi chung là Bảo hiểm xã hội ) của đơn vị, đồng thời đôn đốc , theo dõi biến động về lao động, tiền lương và mức thu nộp của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn huyện theo quy định của BHXH Việt Nam. - Tiếp nhận kinh phí, danh sách và tổ chức thực hiện chi trả trực tiếp hoặc thông qua mạng lưới đại lý chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ BHXH do BHXH tỉnh chuyển đến. Theo dõi việc thay đổi địa chỉ, danh sách đối tượng tăng giảm trong quá trình chi trả. - Thực hiện chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, lương hưu, tiền tuất cho từng đối tượng được hưởng chế độ BHXH trên địa bàn huyện Phú Xuyên. - Hoàn thiện danh sách chứng từ tiếp nhận để tiến hành cấp sổ ,thẻ BHXH, ghi sổ thu BHXH cho người lao động và các đối tượng ở cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp thuộc phạm vi được giao, - Tiếp nhận đơn thư tố cáo, khiếu nại về thực hiện chế độ chính sách BHXH của nhân dân, của các đối tượng theo quy định của Luật khiếu nại tố cáo và Luật BHXH. - Có kế hoạch kiểm tra định kỳ, đột xuất về việc thực hiện các chế độ BHXH của các đơn vị , các đối tượng được giao quản lý, - Tổ chức ký kết hợp đồng trách nhiệm và quản lý mạng lưới chi trả, mạng lưới thu BHYT tự nguyện các xã thị trấn. - Thực hiện các chế độ kế toán thống kê, báo cáo định kỳ theo quy định của pháp luật 2.1.4. Cơ cấu tổ chức của BHXH huyện Phú Xuyên thành phố Hà Nội. Tháng 7/1995, BHXH huyện Phú xuyên đi vào hoạt động độc lập, với số cán bọ trong biên chế là 6 người. Do mới thành lập nên các cán bộ phải làm một khối lượng công việc tương đối lớn, hơn nữa cơ sở vật chất lại thiếu thốn…nên công việc gặp không ít những khó khăn. Nhưng với nhận thức BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, liên quan đến số lượng lớn lao động trong xã hội nên BHXH Phú xuyên luôn phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ cấp trên giao phó, tạo sự tin tưởng cho những người tham gia bảo hiểm. Trong suốt thời gian qua, tất cả các cán bộ công chức trong cơ quan đã đoàn kết, nỗ lực cố gắng để vượt qua khó khăn, dần dần đi lên từng bước. Đội ngũ cán bộ nhân viên dần được tăng cường. Cho đến nay tổng số cán bộ công nhân viên chức của BHXH huyện Phú Xuyên là 12 đồng chí, có trình độ chuyên môn vững vàng, có đầy đủ phẩm chất năng lực , tận tâm với công việc. Trong đó : 1 đồng chí giám đốc và 1 đồng chí phó giám đốc. 5 đồng chí nữ, chiếm 41,6%. 6 đồng chí có trình độ đại học chiếm 50%. 2 đồng chí có trình độ chuyên môn. Với 12 cán bộ, BHXH huyện không chia thành các phòng ban mà cụ thể chia thành bốn bộ phận có chức năng nhiệm vụ riêng biệt. Đó là các bộ phận : thu , chi, chính sách và giám định BHYT. Cả bốn bộ phận này đều được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Giám đốc và Phó Giám đốc. Sự phân chia được thể hiện theo sơ đồ sau: Sơ đồ 2.1.4.1: Cơ cấu tổ chức BHXH huyện Phú Xuyên GIÁM ĐỐC PHÓ GIÁM ĐỐC Bộ phận thu Bộ phận chi Bộ phận chính sách Bộ phận giám định chi ( Nguồn: BHXH huyện Phú Xuyên) . Mỗi bộ phận có chức năng và nhiệm vụ như sau: Bộ phận chính sách: Nhiệm vụ chính của cán bộ công nhân viên chức ở bộ phận này là giải thích , hướng dẫn, giảu quyết mọi vấn đề về chính sách BHXH đã ban hành trong Luật BHXH cho các đối tượng tham gia BHXH. Cụ thể bộ phận này giải quyết các nhiệm vụ như sau: - Giải đáp những thắc mắc về thủ tục để làm các chế độ chính sách. - Giải quyết kịp thời mọi vấn đề về chế độ bảo hiểm xã hội cho đối tượng hưu trí hoặc mất sức lao động trên địa bàn quản lý Ví dụ như: Theo dõi các đối tượng chuyển đến, chuyển đi, cấp giấy xác nhận thời gian công tác thực tế, giải quyết các chế độ tử tuất… - Thống kê, lưu trữ tài liệu hồ sơ theo yêu cầu nghiệp vụ, đảm bảo khi cần có thể lấy dễ dàng. - Đề xuất những ý kiến với lãnh đạo để khắc phục những lệch lạc trong quá trình giải quyết hồ sơ, tài liệu một cách khoa học. - Quản lý con dấu của cơ quan và một số công việc khác, ví dụ như: công tác giao dịch, tạp vụ góp phần phục vụ công tác nghiệp vụ. Nói chung, bộ phận chính sách là trung tâm giải đáp những thắc mắc về thủ tục, chế độ chính sách nên đòi hỏi cán bộ làm công tác chính sách phải có hiểu biết cặn kẽ về các chế độ chính sách, cần có thái độ nhẹ nhàng, tận tình khi tiếp xúc với khách đến làm thủ tục. Cần lắng nghe, thấu hiểu tâm lý của khách để công việc được giải quyết nhanh nhất. Chắng hạn như đối tượng về hưu thường là những người cao tuổi nên có thể khó tính do đó nên ân cần , niềm nở khi tiếp đãi… Bộ phận thu: Tại BHXH huyện Phú xuyên, phụ trách bộ phận thu là Phó giám đốc. Thu BHXH là một nhiệm vụ quan trọng và là trọng tâm của ngành. Với phương châm thu đúng, thu đủ, kịp thời, các cán bộ ở bộ phận thu BHXH huyện Phú Xuyên phải luôn nỗ lực cố gắng. Nhiệm vụ chính của các cán bộ ở bộ phận thu BHXH Phú Xuyên là thu và đôn đốc thu BHXH đối với các đơn vị trên địa bàn quận. Mặt khác, cán bộ thu phải luôn bám sát cơ sở, kịp thời tháo gỡ khó khăn trong công tác thu BHXH. Hàng tháng, hàng quý, cán bộ thu sẽ căn cứ vào danh sách của đơn vị cơ sở thông qua đại diện cơ quan. Hàng tuần, cán bộ thu thường xuyên xuống cơ sở để làm nhiệm vụ đối chiếu, xác nhận số đã thu BHXH bao gồm kiểm tra tiền lương, tiền công đóng BHXH. Ngoài ra, bộ phận thu còn có nhiệm vụ mở rộng thu BHXH đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Ở đây, việc luôn thu nộp BHXH kịp thời đã tạo điều kiện để cho BHXH cấp trên giải quyết nhanh chóng công việc chi trả các chế độ BHXH đối với người lao động. So với các bộ phận khác thì yêu cầu đối với cán bộ thu cao hơn, đòi hỏi phải có sức khỏe, có năng lực chuyên môn, hiểu biết về nghiệp vụ, năng động, có khả năng giao tiếp thuyết phục tốt. Do đặc điểm của huyện Phú Xuyên có nhiều xã, thị trấn, nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh nên mỗi cán bộ thu được giao quản lý một số khối đơn vị nhất định để dễ dàng trong việc đối chiếu như: duyệt tờ khai, cấp sổ BHXH hoặc thanh toán các chế độ ốm đau, thai sản. Bộ phận chi: Phụ trách bộ phận chi trả BHXH là giám đốc, thủ trưởng cơ quan. Nhiệm vụ chính của bộ phận chi là chi trả các chế độ BHXH. Chi trả là khâu cuối cùng của công tác giải quyết các chính sách cho người lao động bị suy giảm sức lao động, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, thai sản , cho đối tượng hưởng lương hưu và các loại trợ cấp BHXH khi đã hoàn thành nghĩa vụ… Nhiệm vụ của bộ phận chi cụ thể như sau: - Tổ chức chi trả các chế độ BHXH theo phân cấp quản lý. - Đối chiếu chứng từ nghỉ ốm, nghỉ thai sản để thực hiện chi trả trợ cấp ốm đau thai sản cho các đối tượng đang đóng BHXH. - Tổ chức kiểm tra, xét duyệt quyết toán chi trả BHXH quý , năm trên địa bàn quận. - Phối hợp với chính quyền địa phương, các ban đại diện chi trả, quản lý đối tượng biến động trong địa bàn, lập danh sách chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH theo quy định của pháp luật. - Tiếp nhận, báo cáo kịp thời với BHXH thành phố các trường hợp hưởng lại trợ cấp BHXH hoặc điều chỉnh lương hưu. - Kiểm tra , giám sát việc chi trả lương hưu và trợ cấp cho các loại đối tượng, đảm bảo chi trả tận tay, đúng kỳ, đủ số và ngăn chặn những thiếu sót trong công việc. - Cuối tháng phải khóa sổ và làm báo cáo kết quả thu, chi trong từng tháng. - Hàng tháng, quý, năm phải báo cáo tổng hợp quyết toán để gửi lên cơ quan cấp trên theo đúng quy định của Nhà nước. Chi trả BHXH là một nhiệm vụ quan trọng, có liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày của người lao động đang được hưởng các chế độ BHXH. Do đó đòi hỏi cán bộ chi phải thành thạo chuyên môn nghiệp vụ kế toán, tính toán nhanh,chính xác, phục vụ các đối tượng hàng thàng đến lĩnh lương một cách nhiệt tình, chu đáo, để công tác chi trả thực hiện đúng người, đúng đối tượng, đúng chính sách, góp phần đảm bảo công bằng xã hội trong công việc thực hiện các chế độ BHXH của Đảng và Nhà nước ta. Bộ phận giám định chi: Nhiệm vụ của bộ phận giám định chi là thường trực tại bệnh viện để giám định việc khám chữa bệnh nội ngoại trú của đối tượng hưởng BHYT. - Giúp lãnh đạo cơ quan và cùng đi kiểm tra thường xuyên, đột xuất việc KCB tại các cơ sở KCB trong huyện theo phân cấp của BHXH tỉnh. - Lập báo cáo, biểu mẫu gửi BHXH tỉnh theo quy định về KCB. - Nhận chứng từ, thủ tục tổng hợp về khám chữa bệnh trái tuyến để thanh toán với BHXH tỉnh. - Kiểm tra chứng từ giám định chi khám chữa bệnh, thanh toán với bệnh viện hàng tháng, quý, năm. Cả bốn bộ phận thu, chi, chính sách và giám định chi đều đặt dưới sự lãnh đạo của giám đốc và phó giám đốc. Nhà quản lý này có vai trò trực tiếp chỉ đạo, phân công công tác cho cán bộ nhân viên trong cơ quan. Tất cả các giấy tờ muốn có dấu xác nhận của BHXH huyện đều phải thông qua giám đốc hoặc phó giám đốc cơ quan xét duyệt, ký tên sau đó mới đóng dấu. 2.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU TẠI BHXH PHÚ XUYÊN GIAI ĐOẠN 2007 - 2009. 2.2.1. Căn cứ thực hiện thu Bảo hiểm xã hội. Thực hiện Nghị định số 12 / CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ về việc ban hành điều lệ BHXH; Nghị định số 19/ CP ngày 16/02/1995 của Thủ tướng Chính phủ thành lập BHXH Việt Nam; Quyết định số 606/ TTg ngày 26/09/1995 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam ; Thông tư số 58 TC/ HCSN ngày 24/07/1995 hướng dẫn tạm thời phương thức thu nộp BHXH thì BHXH đã ra quy định về việc thu BHXH thuộc hệ thống BHXH Việt Nam ban hành kèm quyết định số 177/ BHXH ngày 30/12/1996 của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam như sau: Thứ nhất, về mức thu BHXH bằng 20% tổng quỹ lương hàng tháng, trong đó: - Cơ quan đơn vị hoặc chủ sử dụng lao động đóng 15% so với tổng quỹ lương của những người tham gia BHXH. - Người lao động đóng góp bằng 5% tiền lương hằng tháng. Riêng đối với người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài thực hiện theo thông tư số 05/TTLB ngày 16/01/1996 của Liên bộ tài chính và Bộ Lao động – Thương binh và xã hội hướng dẫn chế độ tài chính đưa lao động làm việc ở nước ngoài, quy định chủ sử dụng lao động đóng BHXH hàng tháng bằng 15% của hai lần lương tối thiểu cho người lao động. Thứ hai, tiền lương hàng tháng của người lao động để tính tiền nộp BHXH gồm có: Tiền lương chính theo ngạch, bậc, chức vụ, hoặc lương theo hợp đồng. Các khoản phụ cấp : chức vụ, khu vực, thời gian công tác, hệ số chênh lệch bảo lưu ( nếu có ) Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức Đảng, đoàn thể, hội quần chúng, thì tiền lương hàng tháng của người lao động và quỹ tiền lương của các đơn vị sử dụng lao động được xác định theo các quy định tại Nghị quyết số 35/ NQ / UBTVQH ngày 17/05/1993 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội khóa IX; Quyết định số 69/ QĐ – TW ngày 17/03/1993 của Ban Bí thư; Nghị định số 25/CP ngày 17/05/1993 của Chính phủ; Quyết định số 574/TTg ngày 25/11/1994 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số 05/CP ngày 26/01/1994 của Chính phủ. Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh , tiền lương tháng của người lao động và quỹ lương của đơn vị sử dụng lao động được xác định theo các quy định tại Nghị định số 26/ Cp ngày 23/05/1993 và Nghị định số 05/CP ngày 26/01/1994 của Chính phủ. Thứ ba, mức tiền lương tối thiểu của công chức, viên chức hành chính sự nghiệp, Đảng , Đoàn thể, lực lượng vũ trang theo Nghị định số 06/CP ngày 21/01/1997 của Chính phủ và người lao động trong các doanh nghiệp được quy định theo Nghị định số 26/CP ngày 23/05/1993 của Chính phủ. Còn mức tiền lương tối thiểu của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài , khu chế xuất, các văn phòng đại diện kinh tế, thương mại nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế hoặc tổ chức phi chính phủ, cơ quan thông tấn báo chí, phát thanh truyền hình nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam có thuê lao động người Việt tính bằng dolla Mỹ được quy định trong quyết định số 385/LĐ – TBXH – QĐ ngày 01/04/1996 của Bộ lao động thương binh và xã hội. Các mức lương tối thiểu nói trên nếu thay đổi theo quy định của Nhà nước thi BHXH tỉnh, huyện phải kịp thời điều chỉnh mức thu BHXH cho phù hợp với tiền lương trích nộp BHXH. Cũng theo quy định tại điều 8 – Nghị định 26/ CP ngày 25/03/1993 của Chính phủ , việc chi trả lương phải theo kết quả sản xuất kinh doanh , doanh nghiệp phải đảm bảo các nghĩa vụ đối với Nhà nước và trả lương cho người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Vì vậy, các trường hợp thực tế người lao động hưởng lương thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định thì đơn vị sử dụng lao động và người lao động đều phải đóng BHXH trên nền lương thấp nhất là lương tối thiểu theo quy định cho từng loại hình doanh nghiệp. Ngày 24/01/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 20/2002/QĐ – TTg chuyển BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam.Như vậy quỹ BHXH có thêm quỹ BHYT bắt buộc của những người lao động tham gia BHXH bắt buộc, mức đóng BHXH cũng có sự thay đổi theo, cụ thể: Mức thu BHXH, BHYT đối với người lao động tham gia BHXH bắt buộc theo Nghị định số 58/1998/NĐ – CP ngày 09/01/2003 và BHYT bắt buộc theo Nghị định số 58/ 1998 / NĐ – Cp ngày 13/08/1998 của Chính phủ quy định như sau: - Các doanh nghiệp cơ quan tổ chức đóng BHXH, BHYT bằng 23% tiền lương tháng ( BHXH : 20%, BHYT : 3% ) trong đó người lao động đóng bằng 6% tiền lương hàng tháng, người sử dụng lao động đóng bằng 17% so với tổng quỹ lương những người tham gia BHXH, BHYT. - Đối với cán bộ xã , phường thị trấn thì thực hiện chế độ BHXH theo quy đinh tại Nghị định số 06/1998 NĐ – CP ngày23/01/1988 của Chính phủ. Mức đóng BHXH, BHYT b._.ều có bài tập cụ thể để doanh nghiệp tham khảo, trong những lần mở lớp thì dành một phần thời gian để doanh nghiệp trao đổi, góp ý, không những về nghiệp vụ mà kể cả về góp ý thái độ phục vụ của cán bộ, viên chức. Qua đó sẽ nhận được rất nhiều ý kiến đóng góp bổ ích, đồng thời nắm bắt được đặc điểm riêng biệt của từng ngành nghề sản xuất mà bổ sung vào phương pháp quản lý phù hợp với tình hình thực tế chung của thành phố. Đối với đơn vị thì cách làm trên giúp đơn vị tiết kiệm được rất nhiều thời gian đến cơ quan BHXH hoặc điện thoại trình bày những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện và có thể cảm nhận được sự đồng thuận, yên tâm của các đơn vị khi trình bày những băn khoăn lo lắng được BHXH tiếp nhận, đồng cảm. Những buổi hội nghị chính là nơi gặp gỡ trao đổi hữu ích hai bên cùng có lợi. Đối với cán bộ, viên chức trong ngành thì việc tập huấn nghiệp vụ thường xuyên hơn, ngoài kế hoạch trong năm, nếu có văn bản chỉ đạo mới đều được triển khai cụ thể để trang bị kiến thức về nghiệp vụ thật vững chắc để cán bộ vững tin, xử lý trong những trường hợp cần thiết, nhất là khi đơn độc đi cơ sở hướng dẫn nghiệp vụ thu BHXH. Qua thực tế cho thấy phần lớn các đơn vị đều chưa hiểu rõ, thắc mắc nhiều vấn đề xung quanh Luật Lao động, Nghị định 12, 01, 113; Nghị định 63, Thông tư 21 hướng dẫn thực hiện y tế bắt buộc. Để đáp ứng được những yêu cầu thực tế như trên thì BHXH huyện Phú xuyên nên soạn thảo lại những vấn đề trọng tâm, in thành cuốn, hướng dẫn kỹ năng tiếp xúc đơn vị, kinh nghiệm giảng bài, kỹ thuật ghi chép mẫu biểu và thực hành bài tập có chấm điểm, nhận xét đánh giá năng lực chuyên môn, từ đó để có hướng sắp xếp công việc cho phù hợp với khả năng hiện có của tùng cán bộ, viên chức và xây dựng chương trình quy hoạch cán bộ kế thừa trong tương lai. Nếu thực hiện tốt được những kế hoạch trên thì trình độ nghiệp vụ sẽ được nâng cao, các cán bộ viên chức mạnh dạn hơn trong việc tiếp xúc doanh nghiệp, giải thích thoả đáng những yêu cầu của doanh nghiệp, hạn chế sức ép cho lãnh đạo. * Phối hợp với các ban ngành chức năng có liên quan - BHXH Phú xuyên cùng với ban thanh tra, Liên đòan Lao động thành phố, phòng lao động thương binh xã hội định kỳ kiểm tra việc thực hiện Bộ luật lao động tại các đơn vị sử dụng lao động. Đối với đơn vị cố tình tìm cách chây ỳ không thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH thì cơ quan BHXH kiến nghị với các ngành chức năng tiến hành kiểm tra và xử lý. - Phối hợp với Đảng uỷ các cơ quan đơn vị sử dụng lao động kiểm tra đôn đốc việc thực hiện nộp BHXH. - Việc phối hợp kiểm tra phải có văn bản báo cáo trình UBND Thành phố để xin ý kiến chỉ đạo. * Kết hợp công tác thu BHXH với việc giải quyết chính sách BHXH - Từ chối giải quyết các chế độ BHXH đối với những đơn vị không thực hiện nghiêm túc quy định nộp BHXH. Đến khi nào đơn vị thực hiện đầy đủ mới giải quyết. - Đối với những đơn vị thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trích nộp BHXH thì tạo điều kiện giải quyết kịp thời các chế độ cho người lao động, giải quyết theo cơ chế một cửa, đảm bảo trong vòng không quá một tháng kể từ khi nhận được hồ sơ của đơn vị sử dụng lao động. - Đối với những đơn vị gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh mà chưa có khả năng nộp BHXH và hứa sẽ nộp thì BHXH TP làm văn bản đề nghị với BHXH tỉnh cho phép doanh nghiệp nợ tiền nộp BHXH. Theo định kỳ cơ quan BHXH tiến hành nhắc nợ để đơn vị sử dụng lao động có kế hoạch nộp BHXH. - Đối với những đơn vị sử dụng lao động cố tình không nộp BHXH đúng hạn thì BHXH TP phối hợp với các ban ngành chức năng của Thành phố tiến hành lập biên bản. Đề xuất với Ngân hàng trích tiền từ tài khoản của đơn vị đó để nộp BHXH. - Cơ quan BHXH nên thường xuyên làm việc với đơn vị để tìm rõ nguyên nhân và có những biện pháp tháo gỡ vướng mắc trong khuôn khổ cho phép, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện tốt hơn chính sách BHXH. 3.1.2. Về tổ chức thu BHXH. * Tổ chức phân cấp quản lý thu BHXH hợp lý Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp có quy mô hoạt động tương đối lớn đòi hỏi phải yêu cầu quản lý tốt nên trực tiếp BHXH thành phố theo dõi và quản lý vì có đủ điều kiện kỹ thuật về công nghệ thông tin hơn so với các huyện, thị xã. Các DNNQD khác có đặc điểm đông về số lượng nhưng nhỏ bé về quy mô hoạt động, chịu sự quản lý Nhà nước ở cấp huyện, thị xã, thành phố quản lý. BHXH từ tỉnh thành phố đến huyện cần tiến hành phân công cán bộ chuyên quản thu BHXH, giao chỉ tiêu cụ thể và gắn với điểm thi đua phân loại cán bộ công chức đối với từng cán bộ thu để cán bộ thu mới tích cực bám sát cơ quan, doanh nghiệp để đối chiếu thu nộp BHXH, theo dõi kịp thời sự tăng giảm lao động và đốc thu, cùng đơn vị tháo gỡ khó khăn, tận tình hướng dẫn nghiệp vụ, đặc biệt đối với các đơn vị đăng ký mới, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho đơn vị làm thủ tục tham gia và giải quyết các chế độ BHXH. Thực hiện nguyên tắc có nắm chắc đối tượng mới triển khai thu BHXH. * Quy định nguyên tắc cho doanh nghiệp Việc quy định ngày nào trong tháng doanh nghiệp nộp Danh sách lao động và quỹ tiền lương trích nộp BHXH cho cơ quan BHXH là phù hợp sẽ đóng góp một phần quan trọng trong việc đối chiếu thu nộp BHXH. Đối với doanh nghiệp có lực lượng lao động đông, lao động thường xuyên biến động nên mạnh dạn áp dụng nguyên tắc: nộp chậm nhất là ngày 02 của tháng, nếu doanh nghiệp nộp trễ thời gian trên, mọi biến động như tăng giảm lao động trong tháng đều phải thực hiện ở tháng sau. Việc truy tăng lao động chỉ được chấp thuận truy ngược lại một tháng và kèm theo bảng cam kết không thanh toán mọi chế độ BHXH, BHYT trong thời gian truy tăng. Để nguyên tắc này có tính khả thi, BHXH huyện nên mở hội nghị hướng dẫn, giải thích. * Tuyên truyền quảng cáo về BHXH, BHYT Công tác thông tin tuyên truyền quảng cáo phải được thực hiện rộng rãi, nội dung tuyên truyền phải thích hợp với trình độ của người lao động và các đơn vị sử dụng lao động. Trong đó cần đặc biệt chú trọng đến việc thâm nhập thực tế, bám sát cơ sở đội ngũ cán bộ ngành BHXH, thông qua đó tuyên truyền dưới nhiều hình thức, đa dạng về thể loại và phong phú về nội dung là yếu tố hết sức quan trọng. Mỗi cán bộ chuyên quản phải thực sự là một tuyên truyền viên thường xuyên gặp gỡ, trao đổi giúp cho chủ sử dụng lao động và người lao động hiểu rõ về trách nhiệm, nghĩa vụ cũng như quyền lợi của mình để bản thân họ tự giác tham gia. Thực tế công tác này vừa qua còn chưa được quan tâm đúng mức, đặc biệt là với người lao động trong khu vực ngoài quốc doanh cho nên hiểu biết của họ về BHXH rất hạn chế, nhiều người không biết BHXH là gì và thường đồng nghĩa BHXH với các loại hình bảo hiểm kinh doanh khác, do vậy làm cho họ hiểu biết về BHXH để họ tự giác tham gia và đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của công tác thông tin tuyên truyền. Để làm tốt công tác tuyên truyền phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành, tổ chức quần chúng, các cơ quan thông tin đại chúng, trong đó các cấp ủy Đảng, chính quyền phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo để công tác tuyên truyền có hiệu quả. Cuối cùng công tác thông tin tuyên truyền quảng cáo phải đảm bảo sao cho chủ sử dụng lao động nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc tham gia BHXH cho người lao động, về phía người lao động phải thấy được tầm quan trọng của BHXH và nhận thức được tham gia BHXH là để bảo vệ quyền lợi của mình. Mặt khác, để đạt hiệu quả trong công tác tuyên truyền thì cơ quan BHXH địa phương, các tổ chức dịch vụ pháp lý cũng cần phải thông qua các kênh khác nhau để mở rộng các hình thức tuyên truyền pháp luật cho nhân dân, đặc biệt là giới thiệu các văn bản mới về BHXH có liên quan trực tiếp đến người lao động. Tăng cường công tác tuyên truyền thông qua các dịch vụ tư vấn cho các chủ doanh nghiệp về lợi ích và nghĩa vụ của doanh nghiệp trong việc thực hiện các quy định của Luật BHXH, giúp họ nhận thức được rằng doanh nghiệp có phát triển được thì phải phụ thuộc vào hiệu quả công việc và bảo vệ quyền lợi của người lao động cũng chính là bảo đảm sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Đồng thời các tổ chức dịch vụ pháp lý sẽ thông qua đó hỗ trợ người lao động đấu tranh yêu cầu giới chủ phải đảm bảo các cam kết trong hợp đồng lao động theo đúng quy định của pháp luật. Các tổ chức dịch vụ pháp lý cũng có thể lồng ghép hoạt động của mình với các cơ sở đào tạo nghề cho người lao động để trang bị cho họ kiến thức pháp luật cần thiết trước khi họ tham gia vào thị trường lao động. Ngoài ra còn có thể tổ chức các buổi tọa đàm giải đáp các vướng mắc về pháp luật cho người lao động. Soạn thảo, in ấn và phát hành miễn phí các tờ gấp về các chế độ chính sách BHXH cho người lao động. Để nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền cần phải thực hiện theo các hướng sau: - Về nội dung: ngoài tuyên truyền chính sách pháp luật và các chế độ BHXH, giải đáp hướng dẫn việc thực hiện các chế độ, kết quả các mặt hoạt động của ngành thì cần đặc biệt quan tâm đến nội dung mà lâu nay ít được đề cập đến đó là tuyên truyền về mục đích, bản chất nhân đạo nhân văn của BHXH. Nếu chúng ta làm được điều đó thì sẽ từng bước thay đổi được tâm lý nặng nề của họ hiện nay là bắt buộc phải đóng BHXH. Từ đó hình thành ở họ thái độ tự giác, tự nguyện tham gia BHXH và có trách nhiệm nộp BHXH. Trước đây chúng ta thường tuyên truyền nhiều về nội dung thu, chi, quản lý quỹ BHXH và giải quyết về BHXH là chưa đủ. Đó mới chỉ là biện pháp để thực hiện mục đích nhân đạo. Nội dung tuyên truyền mới chỉ dành cho nội bộ ngành, chưa thu hút được đông đảo người lao động, chủ sử dụng lao động và các thành viên khác trong xã hội. - Về hình thức tuyên truyền: Tạp chí BHXH Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng trong công tác tuyên truyền về BHXH. Thời gian qua, các bài viết chủ yếu là của các nhà quản lý BHXH, đội ngũ cộng tác viên chưa đáp ứng được số lượng, chất lượng bài viết. Và để phục vụ độc giả tốt hơn thì tạp chí BHXH Việt Nam phải đa dạng hóa nội dung và hình thức thực hiện. Trước hết là đội ngũ phóng viên, cộng tác viên phải có những bài viết với chất lượng cao, bài viết không dừng lại ở thông tin một cách đơn thuần những kết quả đạt được mà phải dựa trên sự phân tích khoa học, mang tính lập luận nghiệp vụ về BHXH. Bài viết đăng trên tạp chí phải đầy đủ thông tin cần thiết và chính xác cập nhật vì thế đòi hỏi đội ngũ biên tập viên, cộng tác viên trong và ngoài ngành phải có trình độ chuyên môn, trách nhiệm cao. Cần tăng cường phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng như Đài truyền hình, truyền thanh, báo chí, internet… để tuyên truyền sâu rộng hơn về BHXH. Nội dung tuyên truyền cần ngắn gọn, dễ hiểu và gây được sự chú ý của mọi người. Tổ chức thực hiện một số hình thức tuyên truyền trực quan sinh động: in tờ gấp, tranh cổ động, áp phích, sách hỏi đáp giới thiệu về pháp luật và các chế độ BHXH, phát hành rộng rãi đến từng đơn vị sử dụng lao động. Có biện pháp để thu hút các nhà chuyên môn, chuyên gia nổi tiếng trên các lĩnh vực: văn hóa, hội họa, nhạc kịch… để sáng tác các tác phẩm có tinh hoa văn hóa nghệ thuật cao, có nội dung tuyên truyền được quần chúng ưa thích. Các bài hát, bài thơ, các vở kịch, phim tranh cổ động phải được giàn dựng, thể hiện và trình bày công phu để giới thiệu rộng rãi đến toàn xã hội với cách tốt nhất là thông qua đài truyền hình, qua các hội thi. Tổ chức các hội nghị, các cuộc họp trong đó có các đại diện của cơ quan BHXH, chủ sử dụng lao động, đại diện của người lao động để nhằm mục đích tuyên truyền về BHXH giúp các bên tham gia hiểu rõ tính pháp luật của BHXH, nắm được quyền lợi và nghĩa vụ của mình, đồng thời qua đó thu thập tổng hợp các ý kiến thắc mắc đóng góp từ phía người lao động, chủ sử dụng lao động để đưa ra các biện pháp phù hợp với nguyện vọng của họ. Phấn đấu mỗi cán bộ BHXH là một tuyên truyền viên vì hơn ai hết họ hiểu rõ mục đích, bản chất, tác dụng và cách thức thực hiện các chính sách BHXH. Hiệu quả của tuyên truyền phải được đánh giá bởi mức độ ảnh hưởng thay đổi nhận thức, thái độ của đối tượng tham gia theo mục đích đã định, số lượng đối tượng được tuyên truyền, chi phí cho tuyên truyền. * Kiện toàn bộ máy tổ chức Thứ nhất, phải cải tiến bộ máy quản lý, bảo đảm mọi cán bộ đều tinh thông nghiệp vụ, nắm vững các chính sách của Nhà nước về BHXH. Muốn vậy trước hết cần phải tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, tăng cường và có kế hoạch trong việc quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ công chức của ngành để đáp ứng yêu cầu công việc. Đồng thời có tác phong làm việc tích cực, hiệu suất cao. Cùng với việc đào tạo, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, nhân viên trong ngành BHXH cần phải trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại để nâng cao hiệu quả công việc. Thứ hai, cần phải cải tiến lề lối làm việc, phân công cán bộ phụ trách từng địa bàn, từng doanh nghiệp, đôn đốc thu và kiểm tra tình hình chi BHXH. Trong thời gian tới cần hình thành một bộ phận chức năng riêng chuyên phụ trách việc theo dõi, quản lý tình hình tham gia BHXH ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh từ đó góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện BHXH ở khu vực này. Thứ ba, cần phải cắt giảm thủ tục hành chính rườm rà. Nhiều năm qua, ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh việc thu BHXH còn rất nhiều bất cập, ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động. Do đó, ngành BHXH cần đặc biệt quan tâm và cử những cán bộ có trình độ nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm cao phụ trách khối doanh nghiệp này. * Nâng cao hiệu quả công tác quản lý các đơn vị tham gia BHXH Cơ quan BHXH cần tổ chức điều tra, thống kê, tổng hợp, nắm chắc số liệu về số lượng các doanh nghiệp tham gia BHXH trên địa bàn hoạt động của mình. Trên cơ sở đó rà soát lại toàn bộ để xác định số lượng cụ thể các đơn vị doanh nghiệp thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, xác định cho được những vấn đề còn vướng mắc, biện pháp đã xử lý và đề xuất phương án xử lý tiếp theo. Gắn liền công tác thu với việc giải quyết chế độ chính sách BHXH, tuyệt đối không gây nhũng nhiễu, phiền hà cho đơn vị sử dụng lao động và người lao động. Trong tiếp xúc với các đối tượng, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải hết sức mềm dẻo, tạo cho họ cảm giác an toàn và thấy được lợi ích khi tham gia BHXH. Có chính sách động viên khuyến khích cho các đơn vị cơ sở có tỷ lệ thanh toán hai chế độ ốm đau và thai sản ở mức thấp, giành một phần kinh phí phù hợp để có chính sách vận dụng trong việc nghỉ điều dưỡng cho người lao động tham gia BHXH nhằm động viên tái sản xuất sức lao động. Có các văn bản, thông tư phù hợp đối với các đơn vị, doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn trốn tránh việc đóng BHXH cho người lao động, các đơn vị còn nợ đọng BHXH và có biện pháp cứng rắn đối với các đơn vị, doanh nghiệp cố tình trốn tránh không tham gia BHXH đúng nghĩa vụ. Đối với các đơn vị nộp chậm, nộp thiếu tiền BHXH thì chúng ta nên xem xét tình hình cụ thể của đơn vị. Nếu đơn vị thực sự gặp khó khăn thì đề nghị các cơ quan chức năng tạo điều kiện thuận lợi giúp họ nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn. Nếu đơn vị cố tình chiếm dụng quỹ trong khi có đủ khả năng nộp tiền BHXH thì phải có các biện pháp xử phạt nghiêm khắc. Chúng ta không thể dừng lại ở các biện pháp xử phạt hành chính vì nhiều đơn vị sẵn sàng chấp nhận nộp phạt nếu như họ thấy tiền lãi thu được do việc chiếm dụng quỹ BHXH vào hoạt động sản xuất kinh doanh lớn hơn số tiền họ phải nộp phạt mà trong một số trường hợp chúng ta phải mạnh dạn đề nghị các cơ quan thực thi pháp luật tiến hành truy tố họ vì không đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh mang tính chất thời vụ thì cần xác định thời điểm thu hợp lý để tạo điều kiện cho họ nộp đúng, nộp đủ. * Quan tâm hơn nữa đến đời sống cán bộ công nhân viên. BHXH là một ngành có tính chất đặc thù và có tầm quan trọng đối với nền kinh tế - xã hội. BHXH góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động, an ninh chính trị được giữ vững, xã hội phồn vinh. Vì vậy, BHXH Việt Nam cần nghiên cứu, xây dựng một khung lương phù hợp với đặc thù của ngành theo nguyên tắc làm nhiều hưởng nhiều, đúng với công sức đóng góp, tránh tình trạng bình quân. Làm sao ngoài lương cứng theo quy định của Nhà nước thì công chức, viên chức có một khoản lương mềm trên cơ sở đánh giá tinh thần làm việc, hiệu quả công việc, có phần thưởng xứng đáng với những người làm việc xuất sắc, có như vậy mới kích thích tinh thần làm việc, gắn bó với ngành, đem hết tâm huyết phục vụ ngành. 3.2. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN KIẾN NGHỊ. 3.2.1. Đối với Nhà nước. * Rà xét lại hệ thống văn bản, chính sách cho phù hợp Từ thực tế việc thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động ở Việt Nam nói chung và Phú xuyên nói riêng cho thấy còn nhiều vấn đề cần sớm được giải quyết nhằm thực hiện tốt hơn các chế độ BHXH cho người lao động. Trong đó việc chấn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật có vai trò hết sức quan trọng. Trước đây với hệ thống văn bản cồng kềnh được thiết kế bởi nhiều cơ quan chức năng của Nhà nước đã làm cho việc kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện các văn bản một cách khó khăn và tạo nên những sơ hở trong việc giải quyết các chế độ chính sách BHXH. Từ đó dẫn tới việc quản lý lỏng lẻo quỹ BHXH cho người lao động. Vì vậy, việc ban hành Bộ luật lao động bước đầu đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động BHXH ở nước ta. Tuy nhiên, BHXH là lĩnh vực hoạt động phức tạp liên quan tới quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động trong độ tuổi lao động nên việc ghép các chính sách BHXH vào trong Bộ luật lao động sẽ không phản ánh được hết những vấn đề cơ bản của BHXH. Nhằm bổ sung cho Bộ luật lao động, Chính phủ đã ra tiếp Nghị định 12/CP và 45/CP kèm theo Điều lệ BHXH hướng dẫn thi hành các điều khoản của Bộ luật lao động về BHXH. Mặc dù vậy, các văn bản chỉ đáp ứng được một phần yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thu nộp và quản lý quỹ BHXH trong giai đoạn hiện tại. Luật BHXH ra đời giúp cho việc thực hiện BHXH có đồng bộ và hiệu lực hơn, giúp cán bộ BHXH làm tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình và công tác quản lý cán bộ cũng được thuận lợi hơn. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay luôn có sự biến động để theo kịp kinh tế khu vực và thế giới thì Nhà nước cũng cần phải điều chỉnh các văn bản về hoạt động BHXH cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên thì Luật BHXH sẽ luôn là một trong những công cụ quan trọng góp phần vào công tác quản lý lao động, quản lý xã hội, thực hiện an toàn và tiến bộ xã hội. * Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp BHXH. Mọi hoạt động trong lĩnh vực kinh tế - xã hội nói chung, lĩnh vực BHXH nói riêng luôn cần có sự lãnh đạo của Nhà nước. Mục tiêu của ngành BHXH là phục vụ con người, vì lợi ích vật chất của người lao động. Mục tiêu đó suy cho cùng chính là mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và góp phần giữ vững thể chế chính trị của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, BHXH Việt Nam là ngành mới được thành lập, luật BHXH mới được ban hành sau 13 năm hoạt động, cơ chế quản lý tài chính BHXH cũng còn nhiều vấn đề chưa hợp lý, đội ngũ cán bộ còn chưa thành thạo về chuyên môn nghiệp vụ… Tất cả những vấn đề đó BHXH cần có sự chỉ đạo thường xuyên của Đảng và Nhà nước. Đối với BHXH Việt Nam, nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là hết sức cần thiết. Vì vậy Nhà nước cần tăng cường đầu tư kinh phí cho công tác này nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ công chức có chuyên môn nghiệp vụ cho ngành. Ngoài ra Chính phủ cần tăng cường sự điều hành với BHXH, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc ban hành các văn bản điều chỉnh hoạt động BHXH và đề ra các chính sách BHXH phù hợp, tránh tình trạng những hậu quả xấu không biết quy trách nhiệm cho ai, cho cơ quan nào. Tăng cường thanh tra, kiểm tra và kiểm soát việc thực hiện các chính sách BHXH để phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm hoặc những điểm không phù hợp với thực tế. 3.2.2. Đối với cơ quan BHXH. * Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên Trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế nước ta phát triển theo xu hướng hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Do vậy đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ. BHXH là một phần không thể thiếu trong hệ thống an sinh xã hội của mọi quốc gia ở mọi giai đoạn, vì vậy cần phải có kế hoạch và tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, lý luận về mọi mặt cho toàn bộ đội ngũ cán bộ công chức, nhân viên của ngành. Do đó để đáp ứng được yêu cầu về số lượng và nâng cao chất lượng cán bộ công chức, ngoài việc có kế hoạch đào tạo thì cần phải có các chương trình đào tạo chuyên môn phù hợp. Nghĩa là nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức BHXH một mặt phải đáp ứng yêu cầu của mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng trong mỗi thời kỳ phát triển, phù hợp với đối tượng, trình độ tiếp thu của người học, mặt khác phải phản ánh kịp thời những phát triển mới của lý luận và thực tiễn. Hiện nay trong cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam có trung tâm đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ BHXH, như vậy có thể thấy rằng những nội dung chuyên sâu về BHXH phục vụ cho việc phổ biến kiến thức đối với mọi công chức thuộc ngành BHXH đã do chính ngành đảm nhiệm, từ đó mới sát với yêu cầu thực tiễn của ngành. Tuy nhiên, để tạo ra đội ngũ cán bộ đủ chuyên môn nghiệp vụ cần phải chú ý tới một số mặt sau trong quá trình đào tạo: - Lựa chọn phương pháp đào tạo, bồi dưỡng thích hợp: Phương pháp cũng như công nghệ giảng dạy và học tập vừa phải thích hợp với nội dung, chương trình lại vừa phải thích ứng với trình độ, kiến thức và tư duy của đối tượng đào tạo, bồi dưỡng. Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng có vai trò hết sức quan trọng trong việc truyền tải nội dung, chương trình từ người dạy tới người học. Vì vậy, trên cơ sở mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng và khung chương trình, nội dung đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt thì cần phải tích cực nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng nhất là trong công tác giảng dạy phải vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật, vừa đòi hỏi có tính sư phạm cao. BHXH Việt Nam là ngành tổ chức đưa pháp luật BHXH vào thực tiễn, cán bộ công chức ngành BHXH Việt Nam là người tổ chức thực hiện pháp luật BHXH. Hơn nữa, pháp luật BHXH được hình thành qua nhiều thời kỳ phát triển, có nội dung hết sức đa dạng, phức tạp, thường xuyên thay đổi. Chính vì vậy, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức BHXH Việt Nam cần phải có tính đặc thù, luôn bám sát và gần với thực tiễn thì công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ mới mang lại hiệu quả thiết thực. - Bên cạnh việc xây dựng nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng BHXH cần thiết phải xây dựng đội ngũ giảng viên có trình độ, năng lực và kinh nghiệm thực tiễn trong nghiên cứu, giảng dạy đối với người học là cán bộ, công chức, ở bất kỳ cơ sở đào tạo nào cũng có mối quan hệ nhân quả giữa người dạy và người học. Đối với đặc thù riêng của nghiệp vụ BHXH trong thực tế chưa có cơ sở ở bên ngoài đào tạo chuyên sâu về BHXH và cũng chưa có đội ngũ giảng viên chuyên nghiệp am hiểu sâu rộng về BHXH. Chính vì vậy BHXH Việt Nam cần tiếp tục xây dựng đội ngũ giảng viên có đủ trình độ. * Nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ BHXH. BHXH là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với người lao động, mang ý nghĩa chính trị và thể hiện tính nhân văn sâu sắc, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, góp phần ổn định chính trị, an toàn xã hội và đảm bảo đời sống cho người lao động. Cơ quan BHXH có trách nhiệm tổ chức, hướng dẫn, đôn đốc thu nộp của chủ sử dụng lao động, người lao động, giải quyết các chế độ chính sách cho người lao động, chi trả tiền lương, tiền thưởng các chế độ cho các đối tượng… Để nhằm nâng cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm, hoàn thành nhiệm vụ chính trị của ngành, tạo niềm tin cho người lao động thì mỗi cán bộ công chức ngành BHXH phải luôn hoàn thiện, trau dồi đạo đức, phẩm chất, phong cách, thái độ trong việc thực hiện các mặt công tác. Mỗi cán bộ công chức phải xác định cơ quan BHXH là một đơn vị sự nghiệp, thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người lao động để có thể đảm đương được trách nhiệm của mình. Trong việc tổ chức hướng dẫn thu phải đảm bảo “thu đúng, đủ và kịp thời”. Giải quyết các chế độ phải đảm bảo “có đóng có hưởng”, đúng chế độ chính sách, đúng thủ tục, không phiền hà, đảm bảo nguyên tắc cải cách thủ tục hành chính theo phương thức “một cửa” nhanh gọn. Việc chi trả cho các đối tượng phải đảm bảo nguyên tắc “tận tay”, đúng kỳ, đủ số và đảm bảo an toàn cho quỹ BHXH, không mang tính chất ban ơn. 3. 2.3. Đối với cấp ủy, chính quyền địa phương. - Các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể phải tăng cường lãnh đạo giám sát, kiểm tra nhằm đảm bảo thực hiện đúng các chế độ BHXH đối với người lao động. Cấp ủy, chính quyền các cấp định kỳ nghe cơ quan BHXH báo cáo việc thực hiện các chế độ BHXH kịp thời uốn nắn và chấn chỉnh kịp thời các sai sót, coi đây là một trong các tiêu chuẩn bình xét tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh hàng năm. - Các ngành có liên quan, trước hết là Sở lao động - thương binh và xã hội, Liên đoàn lao động thành phố , Ban tổ chức chính huyện , Sở tài chính - vật giá, Kho bạc, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan BHXH trong quá trình triển khai tổ chức thực hiện các chế độ BHXH trên địa bàn huyện. - Không coi công tác tuyên truyền là công việc riêng của ngành BHXH mà đòi hỏi các cấp, các ngành, đoàn thể, các cơ quan thông tin đại chúng của thành phố ,tỉnh, huyện, hệ thống thông tin tuyên truyền ở các xã, phường cùng phối hợp, tăng cường công tác tuyên truyền giới thiệu về Bộ luật lao động và Luật BHXH, về những nội dung sửa đổi trong các chế độ BHXH, làm cho người lao động và người sử dụng lao động nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của chính sách BHXH, quyền lợi, nghĩa vụ khi tham gia BHXH giúp người lao động tự giác bảo vệ quyền lợi của chính mình. - Các cơ quan Thanh tra Nhà nước, Thanh tra tài chính, hệ thống kiểm tra của công đoàn, của BHXH phải đẩy mạnh tham gia thanh tra, kiểm tra về việc đóng BHXH của các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải thực hiện đóng BHXH theo quy định của Pháp luật, đồng thời kiểm tra việc đảm bảo quyền lợi hưởng BHXH đối với người lao động và đối tượng thụ hưởng BHXH của các cơ quan BHXH và các cơ quan khác có liên quan. - Các huyện ủy, thành ủy, UBND các huyện, thành phố phải lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy, chính quyền cơ sở thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, kịp thời việc quản lý đối tượng thụ hưởng BHXH và chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH cho đối tượng thụ hưởng BHXH ở các xã, phường, thị trấn nhằm tạo công bằng trong xã hội đem lại niềm tin cho người tham gia về công tác quản lý để từ đó tích cực tham gia và động viên người khác tham gia. - Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh, người chủ sử dụng lao động cần nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình trong việc thực hiện BHXH cho người lao động mà mình sử dụng. KẾT LUẬN Trong thời gian thực tập vừa qua, những vấn đề về lý luận và nội dung cơ bản trong quá trình thực hiện công tác thu và quản lý thu BHXH nói riêng và các nghiệp vụ BHXH nói chung đã giúp em phần nào củng cố những kiến thức đã học cũng như tăng cường tính thực tiễn trong việc nghiên cứu học tập của mình. Quá trình thực tập này cũng giúp em thêm nhận thức về tầm quan trọng của chính sách BHXH trong tổng thể các chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với sự ổn định và phát triển của xã hội. Trong tiến trình đổi mới đất nước ngày nay, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng bổ sung hoàn thiện các chính sách xã hội nói chung , chính sách BHXH nối riêng cho phù hợp với nền kinh tế của đất nước đang đổi mới. Đại hội X của Đảng đã đặt nhiệm vụ “xây dựng hệ thống BHXH, BHYT tiến tới BHYT toàn dân”, đồng thời yêu cầu phải “đổi mới hệ thống BHXH, đa dạng hóa hình thức bảo hiểm phù hợp với nền kinh tế thị trường”. Do đó, hoạt động BHXH đã thay đổi cơ bản về chất so với trước đây. Đổi mới về văn bản, đổi mới về hệ thống tổ chức bộ máy quản lý. Sau 10 năm thực hiện đổi mới chính sách BHXH, Quốc hội thông qua Luật BHXH, tạo hành lang pháp lý quan trọng trong tổ chức thực hiện chính sách BHXH trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Vị thế của nước ta cũng được nâng cao trên trường quốc tế khi trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Và việc Việt Nam gia nhập WTO đã tạo nên những thời cơ, vận hội phát triển sự nghiệp BHXH. Do thời gian hạn hẹp và đặc biệt trình độ nhận thức còn nhiều hạn chế, nên chuyên đề thực tập không khỏi thiếu sót, mắc những khuyết điểm nên em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Thầy, Cô, Ban lãnh đạo cùng các cán bộ cơ quan BHXH Phú xuyên để chuyên đề của em được hoàn thiện cũng như tích luỹ kiến thức cho quá trình sau này. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của Cô giáo Tôn Huyền cùng lãnh đạo và các cán bộ cơ quan BHXH Phú xuyên giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để em hoàn thành chuyên đề thực tập này. Em cũng chân thành cảm ơn các cô chú quản lý Trung tâm Thông tin thư viện Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã tạo điều kiện cho em tìm kiếm thông tin liên quan, giúp em hoàn thành chuyên đề này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS Nguyễn Văn Định , Giáo trình Bảo hiểm (2005), Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội. 2. PGS.TS Nguyễn Việt Vương , Giáo trình Kinh tế Bảo hiểm (2006) , Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội. 3. Báo cáo tổng kết tình hình thu BHXH năm 2009 của BHXH huyện Phú xuyên 4. Báo cáo tổng hợp thu BHXH , BHYT của cơ quan BHXH huyện Phú Xuyên từ năm 2005 đến năm 2009. 5. Tạp chí BHXH – Tạp chí của BHXH Việt Nam . 6. Quyết định số 13A / QĐ –TCCB của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam về việc thành lập BHXH Hà Tây (cũ ). 7. Quyết định số 13B/ QĐ – TCCB của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam về việc thành lập BHXH huyện Phú xuyên. 8. Giáo trình An sinh xã hội. Nhà xuất bản Trường Đại học Kinh tế quốc dân. 9. Luật lao động đã sửa đổi bổ sung năm 2007. 11. Luật Bảo hiểm xã hội số 71/ 2006/QH 11 ngày 29/06/2006. 12. Một số trang web: - www.vietbao.com - www.baomoi.com - www.ngoisao.net - www.vietnamnet.vn - www.tapchibaohiemxahoi.org.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26825.doc
Tài liệu liên quan