Thực trạng đầu tư đổi mới công nghệ của ngành dệt may Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Xu thế hội nhập đã đến, các ngành kinh tế đang xoay mình theo sự vận động của kinh tế thị trường. Ngành dệt may là ngành được xem trọng trong suốt những năm qua và cả thời gian tới. Hàng dệt may Việt Nam đã tìm được đường đến với các thị trường trên thế giới, song việc xác lập một chỗ đứng vững chắc trên các thị trường ấy không phải là dễ dàng. Để làm được điều đó chúng ta không thể không xét tới việc đầu tư đổi mới công nghệ để đẩy mạnh sự phát triển của ngành dệt may Vịêt Nam. Đề t

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2266 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng đầu tư đổi mới công nghệ của ngành dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài được viết nhằm đưa ra thực trạng và giải pháp về đầu tư đổi mới công nghệ ngành dệt may Việt Nam. I.NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ 1.Công nghệ và đổi mới công nghệ 1.1.Công nghệ Công nghệ là hệ thống các kiến thức về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin. Hoặc công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp, bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và sử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp. Cũng có thể hiểu công nghệ là sản xuất là cách thức sản xuất theo phương pháp xác định là do con người sáng tạo ra và vận dụng vào quá trình sản xuất với hệ thống máy móc, thiết bị kỹ thuật tương ứng. Theo nghĩa rộng, người ta quan niệm cả yếu tố kiến thức, phương tiện vật chất, con người và tổ chức đều là các nội dung cơ bản cấu thành công nghệ. Như vậy công nghệ gồm bốn thành phần cơ bản là: -Các kiến thức được tổ chức như các khái niệm, phương pháp, thông số, công thức, bí quyết…Nhờ các kiến thức được tổ chức này người ta mới biết cách thức cụ thể tiến hành chế tạo sản phẩm, dịch vụ. Người ta quan niệm bộ phận này là phần thông tin của công nghệ -Năng lực của con người về công nghệ như kỹ năng, kinh nghiệm, tính sáng tạo, khả năng làm chủ công nghệ...Bộ phận này được quan niệm là yếu tố con người. -Các phương tiện vật chất gồm các cơ sở vật chất, thiết bị, máy móc, công cụ, phương tiện…phù hợp với đòi hỏi của công nghệ cụ thể. Người ta quan niệm bộ phận này là phần kỹ thuật -Các thiết chế tạo nên bộ khung tổ chức của công nghệ như thẩm quyền, trách nhiệm, các quan hệ, liên kết…Bộ phận này được quan niệm là phần tổ chức của công nghệ. 1.2.Đổi mới công nghệ 4Lựa chọn phương pháp đổi mới công nghệ Có hai phương pháp đổi mới công nghệ là cải tiến và hoàn thiện dần công nghệ đã có hoặc thay thế dần công nghệ cũ bằng công nghệ mới. Phương pháp cải tiến và hoàn thiện dần công nghệ đã có cho phép cải tiến nâng cao trình độ và hiện đại hoá từng phần công nghệ đang áp dụng trong điều kiện không thay đổi nhiều về trang thiết bị công nghệ, về trình độ người lao động…nên không cần nhiều vốn đầu tư, không làm xáo trộn nhiều các hoạt động sản xuất. Tuy nhiên tình trạng này sẽ dẫn đến tình trạng kỹ thuật công nghệ chắp vá, không đồng bộ nên không dẫn đến những thay đổi lớn về sản phẩm, năng suất và hiệu quả. Mặt khác, chi phí kinh doanh cho hoạt động cải tiến và hoàn thiện công nghệ đang áp dụng, thay thế những trang thiết bị cần thiết tuy không quá lớn như đổi mới công nghệ nhưng nếu c?ng d?n chi phi d? u tu đổi mới công nghệ thì khá lớn. Điều này đòi hỏi phải kéo dài thời gian sử dụng công nghệ cũ nhằm thu hồi vốn đầu tư, không chấm dứt chu kỳ công nghệ ở thời điểm thích hợp, làm giảm hiệu quả kinh doanh vì khi đã chuyển giai đoạn chín mồi thì việc tiếp tục kéo dài chu kỳ sống của công nghệ không đem lại hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. Thay thế công nghệ cũ bằng công nghệ mới đòi hỏi đầu tư lớn, tạo ra thay đổi lớn trong sản xuất cũng như quản trị nhưng nếu đúng thời điểm sẽ là giải pháp đúng đắn làm tăng kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Việc lựa chọn áp dụng phương pháp đổi mới công nghệ cụ thể gắn với chu kỳ sống của công nghệ, khả năng sáng tạo của lực lượng nghiên cứu, khả năng đầu tư cho nghiên cứu, chi phí đầu tư đổi mới công nghệ và đặc biệt là quan điểm tính toán và đánh giá hiệu quả kinh doanh. 4Chuyển giao công nghệ Trong điều kiện chưa đủ trình độ sáng tạo công nghệ mới thì việc nghiên cứu chuyển giao công nghệ giữ vai trò quan trọng đối với quá trình đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Nội dung chủ yếu của chuyển giao công nghệ bao gồm: Xác định thời điểm cần đưa công nghệ mới vào áp dụng. Thời điểm này phụ thuộc vào chu kỳ sống và tác dụng của công nghệ hiện tại đối với sản xuất, khả năng về tài chính gắn với việc đổi mới công nghệ, sự sẵn sàng đổi mới của các nhà quản trị cao cấp… Nghiên cứu và dự báo về các nhân tố tác động đến công nghệ mới: thị trường sản phẩm, tình trạng cạnh tranh, khả năng về các nguồn lực… Đánh giá tính thích hợp của công nghệ mới về kỹ thuật, kinh tế và khả năng tài chính để lựa chọn công nghệ tối ưu Tìm kiếm thông tin cụ thể về thị trường công nghệ mới, về các đối tác đang có ý định chuyển giao công nghệ, về các rào cản có thể trong quá trình chuyển giao… Các nghiên cứu tiếp theo là nghiên cứu dự án tuân theo các yêu cầu về nghiên cứu đầu tư hay liên doanh tuỳ theo cách thức chuyển giao mà doanh nghiệp lựa chọn. 2.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đổi mới công nghệ 2.1.Chỉ tiêu định lượng Tỷ trọng máy móc thiết bị đuợc hiện đại hoá (Ihd) Ihd = (DGhd/vốn đầu tu đổi mới công nghệ trong kỳ)*100% DGhd = Ghd1 = Ghd0: mức gia tăng máy móc thiết bị hoạt động trong kỳ Ghd1: giá trị máy móc thiết bị hiện đại kỳ báo cáo Ghd0: giá trị máy móc thiết bị hiện đại kỳ gốc Chỉ tiêu gia tăng năng suất lao động (Iw) Chỉ tiêu này phản ánh mức độ tăng truởng về năng suất lao động của doanh nghiệp nhờ ĐMCN và nó đuợc tính bằng tỷ lệ giữa mức gia tăng năng suất lao động với vốn đầu tu ĐMCN trong kỳ Iw = (Dw/vốn đầu tu đổi mới công nghệ trong kỳ)*100% Trong đó D=w1- w0: mức gia tăng năng suất lao động Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả ĐMCN tác dụng đến mức gia tăng lợi nhuận (Iln) Iln = (DLN/vốn đầu t đổi mới công nghệ trong kỳ)*100% Mức tăng lợi nhuận đuợc tính bằng DLN = LN1 - LN0 2.2.Chỉ tiêu định tính Các chỉ tiêu định tính phản ánh khái quát, rất khó luợng hoá nhung lại phản ánh những biến động quan trọng về chất đối với kinh tế xã hội, doanh nghiệp, cơ cấu lao động, trình độ lao động….do đổi mới công nghệ đem lại. Để đánh giá tác dụng của đổi mới công nghệ tới chất luợng của nền kinh tế, chúng ta dùng một số các chỉ tiêu sau: -Số công ăn việc làm mới đuợc tạo nhờ đổi mới công nghệ -Trình độ quản lý đuợc nâng lên, cung cấp sản phẩm đa dạng hoá, phuơng pháp, kỹ thuật được cải tiến…. -Tăng thị phần cũng nhu uy tín của doanh nghiệp do giảm giá thành, nâng cao chất luợng sản phẩm -Đóng góp của đổi mới công nghệ trong việc thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nuớc, các ngành kinh tế. Thực tế việc phân chia chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định luTợng chỉ mang tính chất tuơng đối vì một số chỉ tiêu định tính có thể luợng hoá đuợc trong khi có những chỉ tiêu định luợng lại gặp khó khăn trong thống kê số liệu.Chính vì vậy, để đánh giá chính xác, toàn diện về thực trạng và hiệu quả đổi mới công nghệ chúng ta cần kết hợp cả hai chỉ tiêu định tính và định lượng II.TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỆT MAY 1.Vai trò và vị trí của ngành dệt may trong nền kinh tế Dệt may vẫn là một trong những ngành có tiềm năng xuất khẩu cao và sẽ giữ vững vai trò này trong 10 năm tới. Trong giai đoạn 2000-2004, Dệt may tuy tốc độ phát triển không đều song luôn giữ ở mức hơn 8% và ngày càng mở rộng quy mô, phát triển từ 16.089 chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong GDP cả nước, tăng từ 5.88% năm 2000 lên 6.55% năm 2002 và có những bước đột phá vào 2 năm 2003 và 2004. Đến 2004 Dệt may Việt Nam đã chiếm đến 8.04% tổng sản phẩm quốc nội. Mặc dù tỷ trọng Dệt may so với giá trị sản xuất công nghiệp và công nghiệp chế biến không tăng rõ nét như so với GDP nhưng Dệt may cũng vẫn khẳng định vị trí của mình trong công nghiệp cũng như công nghiệp chế biến với tỷ trọng hàng năm lần lượt trên 7.5% và 9.5%. Trong giai đoạn 31/12/2000 -31/12/2004 kim ngạch xuất khẩu Dệt may tăng 231.8%, tương đương mức tăng bình quân 23.4%/năm. Điều này cho thấy Dệt may vẫn xứng đáng là “mũi nhọn xuất khẩu” của nước ta. Việt Nam hiện là ngành sử dụng nhiều lao động nhất, khoảng gần 2tr lao động, gần 5% trong tổng lực lượng lao động toàn quốc. Đối với một đất nước có nguồn lao động dồi dào như nước ta (40.8055tr lao động, giải quyết công ăn việc làm là điều khó khăn, do đó Dệt may không những đóng vai trò quan trọng trong khía cạnh kinh tế mà còn trong khía cạnh xã hội. Với gần 2000 doanh nghiệp và hàng chục nghìn cơ sở nhỏ của các thành phần kinh tế như tạo công việc trồng bông, trồng dâu-nuôi tằm, Dệt may đã giải quyết việc làm cho những đối tượng có thu nhập thấp, đối tượng đang được nhà nước đặc biệt quan tâm. Như vậy trong điều kiện nước ta hiện nay, ngành Dệt may vẫn đóng vai trò chiến lược trong phát triển kinh tế bởi chính sự đóng góp tích cực của ngành. 2. Đặc điểm của ngành dệt may Là ngành truyền thống ở Việt Nam. Trong bối cảnh của nền kinh tế tuy đang tiến hành CNH- HĐH song vẫn còn mang nét nông nghiệp lạc hậu, ngành dệt may Việt Nam có những đặc điểm cơ bản như: 4Sự phân bố rộng Ngành dệt may được phân bố và phát triển trên toàn vùng lãnh thổ Việt Nam, từ Bắc đến Nam và phân bố thành 3 khu vực: miền Bắc, miền Trung , miền Nam trong đó: Bảng 1: phân bố các doanh nghiệp dệt may trong cả nước Khu vực Số tỉnh, thành phố Tổng số DN DNNN DNTN DN ĐTNN Hội vien VITAS Miền Bắc 25 285 140 106 39 112 Miền Trung 16 58 30 19 9 27 Miền Nam 20 688 61 324 303 312 ∑ 64 1031 231 449 351 451 4Thu hút nhiều lao động và yêu cầu trình độ không cao Với gần 2000 doanh nghiệp dệt may thuộc các thành phần kinh tế, dệt may tạo công ăn việc làm cho 2tr lao động, trong đó 80% là lao động nữ(chưa kể số lao đông sản xuất nguyên liệu,trồng bông, trồng bông, trồng dâu nuôi tằm...). Một trong những khó khăn đối với ngành là nguồn nhân lực. Đối với lao động trực tiếp sản xuất, phần lớn là người ngoại tỉnh, lao động phổ thông (hơn 60%), trình độ văn hoá thấp, trình độ khi vào doanh nghiệp là dưới cơ bản. Hầu hết các doanh nghiệp phải tự đầu tư công nghệ trước khi đưa vào dây chuyền sản xuất. Tuy nhiên, một thế mạnh của lao động ngành dệt may là trẻ, dễ đào tạo khi có điều kiện. Bên cạnh đó, lực lượng lao động quản lý cũng có trình độ chuyên môn thấp, hầu hết trưởng thành từ sản xuất. Do vậy kinh nghiệm được hình thành, tích luỹ ở mỗi doanh nghiệp một khác chất lượng cũng không đều.Với trình độ trên các doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn trong quản lý, tổ chức sản xuất như: -Nhận thức về pháp luật, chính sách lao động, nội quy kỷ luật, khoa học công nghệ tiên tiến. -Trình độ văn hoá và tay nghề của cán bộ quản lý hạn chế dẫn đến tổ chức sản xuất kém hiệu quả, năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém. 4Sản phẩm mang tính tổng hợp Dệt may và ngành nghề công nghiệp có sự kết hợp chặt chẽ cuả ngành công nghiệp dệt và công nghiệp may, hai ngành này có mối quan hệ hữu cơ với nhau tuy nhiên mỗi ngành lại có công nghệ riêng và tạo rất nhiều sản phẩm khác nhau, phục vụ tiêu dùng như sợi, vải lụa, vải bạt, vải màn, quần áo dệt kim, len, khăn...Nói chung những sản phẩm chính của dệt may Việt Nam đều có sự tăng lên về số lượng và cải thiện về chất lượng.Sản phẩm dệt may rất phong phú và đa dạng về chủng loại, quy cách chất liệu được đưa ra thị trường. Chính sự đa dạng về chủng loại, mẫu mã khiến các doanh nghiệp không thể đào tạo vào tất cả các sản phẩm. Doanh nghiệp phải có sự lựa chọn sản phẩm chính và công nghệ thích hợp. 4Thị trường tiêu thụ ngày càng khắt khe. -Thị trường trong nước: Thị trường trong nước gồm thị trường nông thôn và thị trường thành thị. Hai thị trường này khác biệt nhau khá lớn về nhu cầu hàng dệt may. Thị trường nông thôn chiếm ~80% dân số song lại có thu nhập bình quân đầu người thấp, nhu cầu của thị trường này là bền, chắc, phục vụ tại chỗ và quan trọng là giá cả phải chăng. Tại thị trường nay doanh nghiệp dệt may ít có chỗ đứng, không phải do chất lượng mà giá cả. Hàng Trung Quốc nhập lậu vào Việt Nam, tuy chất lượng không bằng nhưng giá thấp hơn. Thị trường thành thị yêu cầu chủ yếu là kiểu dáng, mẫu mốt, giá cả không là vấn đề cốt lõi. Nhưng trên thị trường này hàng dệt may vẫn có chỗ đứng chưa vững chắc. Ngoài một số doanh nghiệp có sự đầu tư khá cao về thiết kế, tìm hiểu thị hiếu người tiêu dùng và đã xây dựng được thương hiệu như Nhà Bè, May 10, Việt Thy...thì đa số các doanh nghiệp còn lại chưa tạo được hình ảnh với người tiêu dùng.Một phần lớn thị trường này là các sản phẩm dệt may Trung Quốc cao cấp, Hàn Quốc, Hồng Kông. -Thị trường xuất khẩu Hàng dệt may đã tìm được đường đi đến các thị trường trên thế giới, song việc xác lập một chỗ đứng chắc chắn trên các thị trường ấy không phải dễ dàng. Sóng gió đến với các doanh nghiệp vào cuối 2000 - đầu 2001, khi hầu như toàn ngành dệt may thiếu đơn đặt hàng, các doanh nghiệp buộc phải đặt giá gia công 30-40% đến mức không còn lợi nhuận. Trong khi đó thị trường EU là thị trường truyền thống, hàng dệt may Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với các nhà xuất khẩu lớn khác là Trung Quốc. Không chỉ với Trung Quốc hàng dệt may Việt Nam còn phải cạnh tranh với hàng dệt may từ nhiều nước khác, nhất là khi EU bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may của các nước thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Trên các thị trường truyền thống năm 2002 hàng dệt may Việt Nam tuy đã phục hồi, dẫn đến sự tăng trưởng 3% song vẫn rất chậm chạp. thị trường Hồng Kông có tốc độ tăng trưởng cao, kim ngạch tuyệt đối vẫn tăng chưa đáng kể so với các thị trường lớn khác. Thị trường Mỹ tuy đã có những tín hiệu lạc quan thông qua việc xuất khẩu những lô hàng tương đối lớn của Dệt Thành Công, Dệt Thắng Lợi, May Việt Tiến, May Phương Đông…song không phải là dễ tính. Theo đánh giá của các chuyên gia trong tương lai gần, Việt Nam chưa thể hy vọng kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng đột biến vào thị trường này Bảng 2: kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 1995-2002 Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 KNXK 850 1.150 1.500 1.451 1.764 1.892 1.962 1.050 Nguồn: Tổng công ty dệt may VN III.THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM 1.Khái quát về thực trạng sản xuất kinh doanh ngành dệt may (2001-2005) 1.1.Thực trạng sản xuất kinh doanh ngành dệt may (theo số liệu của tổng công ty dệt may VN tới 31/12/2005) 1.1.1.Ngành dệt may Việt Nam Ngành dệt may có gần 2000 doanh nghiệp, trong đó 307 doanh nghiệp Nhà nước, 1170 doanh nghiệp tư nhân và 470 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo công ăn việc làm cho gần 2tr lao động, giá trị sản xuất ~29.144 tỷ đồng(chiếm 10% công nghiệp chế biến) và kim ngạch xuất khẩu đạt 4.386 tr đôla(chiếm 16.5% kim ngạch xuất khẩu cả nước) Hình vẽ 1.1.2.Tổng công ty dệt may Việt Nam-Vinatex Trong tổng công ty dệt may Việt Nam hiện nay ngành kéo sợi chiếm 7%, sản phẩm dệt chiếm 50% và nhuộm hoàn tất chiếm trên 7% năng lực ngành dệt Việt Nam và sản phẩm may chiếm khoảng 30-35% năng lực toàn ngành may. Cho nên vai trò cuả Vinatex có tác động rất lớn đến chiến lược của ngành dệt may Việt Nam. Nhà nước đã đặt trọng trách vô cùng nặng nề lên vai Vinatex trong việc tập hợp lực lượng cùng các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các liên doanh mà Vinatex đang chi phối hoặc tham gia cổ phần để phát huy sức mạnh toàn ngành, đảm bảo mục tiêu mà ngành dệt may đã đề ra đến năm 2010. 1.2.Thực trạng về năng lực thiết bị, công nghệ sản xuất Ngành dệt may là một trong những ngành công nghiệp có lịch sử phát triển lâu đời nhất nước ta. Trong quá trình phát triển, việc đầu tư nhiều giai đoạn làm cho thiết bị và công nghệ ngành dệt may rất đa dạng. Hiện nay, vẫn còn những cơ sở sử dụng những thiết bị được sản xuất từ những năm 1930-1940. Theo đánh giá chung của Bộ công nghiệp, phần lớn giá trị máy móc thiết bị sản xuất công nghiệp chỉ còn 30% so với giá trị ban đầu đã lạc hậu hơn 30 năm. Đối với ngành dệt may, thiết bị máy móc cũ khá nhiều, 45% thiết bị máy móc cần phải nâng cấp và 30% cần thay thế. Trình độ công nghệ của từng lĩnh vực trong dệt may lại không đồng đều, lĩnh vực dệt kim và may mặc có trình độ công nghệ khá trong khi đó công nghệ kéo sợi chủ yếu từ lạc hậu đến trung bình, phần lớn máy móc dệt thoi ở mức công nghệ trung bình. -Thiết bị công nghệ kéo sợi Chủ yếu là trung bình và lạc hậu, 10% thiết bị được đầu tư từ các nước có trình độ tiên tiến( Tây Âu và Nhật Bản) và sử dụng trong vòng 5 năm gần đây,11% thiết bị đã được sử dụng từ 5-10 năm được đầu tư từ Tây Âu, Ấn Độ, Nhật Bản,33% thiết bị được sử dụng từ 10-20 năm chất lượng trung bình và tuỳ thuộc vào trình độ quản lý sử dụng của doanh nghiệp. Thiết bị công nghệ may mặc Những năm đầu tiên phát triển, ngành công nghiệp dệt may tổ chức may dây chuyền bằng các máy may đạp chân, dần dần được trang bị bằng máy may công nghiệp của Trung Quốc, Liên Xô, Cộng hòa liên bang Đức, Hunggary.Ngành may liên tục mở rộng đầu tư sản xuất và đổi mới công nghệ để đáp ứng yêu cầu chất lượng thị trường thế giới ngày càng nâng cao. Đặc biệt trong vòng 5 năm trở lại đây, cùng với viếc mở rộng thị trường Hoa Kỳ, ngành may đã phát triển khá nhanh và đầu tư lượng khá lớn thiết bị máy móc mới. Hiện nay, toàn ngành có 1446 doanh nghiệp may với ~750000 máy may các loại và trình độ công nghệ đánh giá chung là khá. Lĩnh vực may đổi mới trên 90% thiết bị và công nghệ. Phần lớn thiết bị các công đoạn cắt, may, hoàn tất sản phẩm và sản xuất phụ kiện may... được nâng cấp, đổi mới. Một số công ty đã áp dụng công nghệ tin học vào một số khâu trong sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm. -Thiết bị công nghệ in nhuộm Đối với lĩnh vực này, chất lượng sản phẩm không chỉ phụ thuộc vào thiết bị mà còn phụ thuộc vào công nghệ, bao gồm: hoá chất, thuốc nhuộm, quy trình công nghệ...Không có thiết bị máy móc tốt thì không có sản phẩm tốt nhưng không có công nghệ cao thì cũng không có vải in nhuộm chất lượng cao được. Có thể nói máy móc tốt chỉ chiếm 50% còn công nghệ và bí quyết nghề in nhuộm chiếm tới 50% còn lại trong chất lượng sản phẩm.Thiết bị tẩy, nhuộm, in hoa và hoàn tất chủ yếu nằm ở các DNNN và hầu như 100% đều phải nhập ngoại. -Thiết bị công nghệ dệt kim Dệt kim là một trong những mặt hàng chủ yếu xuất khẩu đi Mỹ nên có lợi thế về nguồn vốn đầu tư hơn lĩnh vực dệt thoi và kéo sợi.Lĩnh vực dệt kim đã được nâng cấp được tỷ lệ lớn thiết bị dệt.Những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của dệt may nước ta sang Mỹ cao góp phần thúc đẩy dệt kim tăng trưởng khá (trung bình hơn 12%/năm). Chính vì thế trình độ công nghệ của ngành dệt kim được đánh giá ở mức trung bình khá. 1.3.Thực trạng về nguồn nhân lực dệt may Ngành dệt may Việt Nam hiện đang sử dụng gần 2tr lao động trong các dây chuyền công nghiệp. Tuy nhiên chất lượng lao động lại đặt ra nhiều vấn đề đối với các doanh nghiệp dệt may, nguồn nhân lực trình độ chưa cao , khả năng đào tạo nguồn nhân lực lại hạn chế 1.3.1 thực trạng cơ cấu nguồn lực dệt may Dệt may là ngành đòi hỏi khéo léo, chăm chỉ nên cơ cấu có sự khác biệt rõ giữa tỷ trọng nam và nữ. Trong toàn ngành dệt may, lao động nam ngành dệt chiếm 5,72%, nam ngành may chiếm 17,30% ; trong khi đó lao động nữ ngành dệt chiếm 12,8% và nữ ngành may chiếm 64,7%.Có thể thấy tỷ lệ lao động nữ ngành dệt gấp đôi lao động nam; trong ngành may thì sự chênh lệch càng lớn, lượng lao động nữ gấp ba lần lao động nam. Điều này yêu cầu các doanh nghiệp ngành dệt may phải tổ chức làm việc hợp lý, phù hợp với điều kiện sức khoẻ của nữ giới. Một thực trạng đáng buồn của ngành dệt may Việt Nam là thu hút lượng lao động lớn nhưng chất lượng không cao. Trong ngành dệt, lượng lao động qua đào tạo chỉ chiếm 35,1%, trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học chiếm 7%. Trong ngành may, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp hơn, chỉ chiếm 18,24% tổng số lao động, trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học cũng chỉ dừng lại ở mức 4,16%. Nguồn nhân lực hạn chế về trình độ là một cản trở rất lớn để các doanh nghiệp dệt may tiến hành đổi mới công nghệ. Những công nghệ, thiết bị mới chỉ phát huy hiệu quả khi có lực lượng lao động làm chủ được công nghệ. Không những thế, độ bền của thiết bị cũng bị phụ thuộc vào việc những người lao động vận hành máy móc, việc tu sửa, bảo dưỡng thường xuyên của doanh nghiệp, ý thức bảo vệ tài sản chung của doanh nghiệp...Mặc dù, trình độ ban đầu của lực lượng lao động tham gia vào các doanh nghiệp dệt may còn thấp song tuổi đời của họ còn khá trẻ nên việc đào tạo và đào tạo lại sẽ không gặp nhiều khó khăn. Trong lĩnh vực may, lao động có độ tuổi dưới 30 chiếm đến 64,2%. Lao động dưới 30 tuổi và 34,4% lao động từ 31-40 tuổi.Lực lượng lao động trẻ lại chính là đối tượng cần được đào tạo nhất vì họ chính là tương lai của doanh nghiệp, nhưng lại thiếu kinh nghiệm, chưa phải là những người thợ lành nghề. Lao động trẻ rất cần sự hướng dẫn của những thế hệ đi trước, đặc biệt trong tình trạng đa số các doanh nghiệp vẫn chọn hình thức tự đào tạo. Thực trạng cơ cấu nguồn lực của dệt may Việt Nam phản ánh rõ đặc trưng của ngành: phần lớn là lao động nữ, độ tuổi lao động trẻ và trình độ còn thấp. Tuy nhiên, trong tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt ở cả thị trường trong nước và ngoài nước thì các doanh nghiệp dệt may phải đầu tư ngay vào lực lượng lao động, để lực lượng này trở thành nguồn lực công nghệ. Điều đáng quan tâm trong nguồn nhân lực của các doanh nghiệp dệt may là nguồn nhân lực công nghệ. Họ là một trong những nhân tố quan trọng không những quyết định sự thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn là hạt nhân của quá trình đổi mới công nghệ ở doanh nghiệp. Đồng thời do hạn chế về trình độ nên năng lực của họ mới chỉ dừng lại ở vận hành và tiếp thu công nghệ một cách thụ động, chưa phát huy được vai trò sáng tạo và đổi mới công nghệ. 1.3.2.Khả năng đào tạo nguồn lực công nghệ ngành dệt may Trong khi chiến lược phát triển ngành dệt may rất quy mô thì công tác chuẩn bị nhân lực cho ngành lại chưa được các ngành các cấp quan tâm. Ở cấp đại học, hầu như chưa chú ý khôi phục việc đào tạo kỹ sư ngành dệt may; trình độ cao đẳng và trung cấp mới có hai trường của Tổng công ty dệt may Việt Nam trước đây được nâng cấp, số lượng đào tạo chưa được nhiều. Hiện nay toàn ngành dệt may chỉ có 4 trường đại học với năng lực mỗi năm khoảng 2000 công nhân, không thể đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp thậm chí khi về doanh nghiệp phải tự chấp nhận tự đào tạo lại. Chính vì thế, các nhà máy, công ty may vẫn lựa chọn phương thức tự đào tạo tại doanh nghiệp. Vì đào tạo không có bài bản nên số lao động thay thế hàng năm chất lượng không cao, năng suất lao động thấp. Do đó, để hoàn thành các đơn hàng bắt buộc doanh nghiệp phải tuyển dụng nhiều lao động, thực hiện 3 ca và 4 kíp. Ngành dệt may có lực lượng lao động dồi dào, dễ đào tạo, giá rẻ nhưng năng suất lao động còn thấp. Hàng triệu lao động nhưng chủ yếu là tự đào tạo, thiếu bài bản nên tình trạng thiếu lao động có tay nghề tiếp tục phổ biến. Số lượng công nhân có tay nghề cao còn thấp, số cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật được đào tạo đúng với thực tiễn càng hiếm hơn. Các cơ sở đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp. Tăng cường đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn lao động nhằm giúp họ trở thành những người làm chủ công nghệ thực sự là một giải pháp có hiệu quả. 2.Thực trạng về đầu tư đổi mới công nghệ ngành dệt may giai đoạn 2001-2005 2.1.Khối lượng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ Trong ngành dệt may, xét về cơ cấu vốn đầu tư phát triển thì có thể nói vốn đầu tư cho máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ chiếm tỷ trọng lớn, thường từ 50-70% trong tổng số vốn đầu tư toàn ngành. Vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ ngành dệt may cũng có xu hướng ngày càng tăng lên cùng với vốn đầu tư phát triển ngành nói chung. Bảng3: Vốn đầu tư đổi mới công nghệ của Vinatex Năm Tổng mức đầu tư Vốn đầu tư ĐMCN Tỷ trọng(%) 2000 2.066,8 1.126,0 54,48 2001 3.157,0 1.774,0 56,19 2002 2.111,8 1.036,0 48,89 2003 1.245,3 598,0 48,02 2004 1.514,6 709,6 46,85 2005 1.863,4 808,9 43,41 Tổng cộng 11.948,9 6.052,5 TB:50,65 Giai đoạn 2000-2005, vốn đầu tư đổi mới công nghệ của Vinatex là 6.052,5 tỷ đồng chiếm 50% trong tổng số vốn đầu tư. So với giai đoạn 1996-2000, với tổng số vốn đầu tư là 7.335 tỷ đồng, đầu tư đổi mới công nghệ chiếm 91% tổng số vốn đầu tư. Sự giảm tỷ trọng đầu tư cho đổi mới công nghệ của Vinatex cũng là thực trạng chung của ngành dệt may Việt Nam. Giai đoạn 1996-2000 toàn ngành tập trung mạnh mẽ mọi tiềm lực để đầu tư hiện đại hoá và đổi mới máy móc thiết bị để nâng cao năng lực sản xuất. Cho nên đến giai đoạn 2000 đến nay, ngành dệt may không phải đầu tư nhiều vốn để đổi mới công nghệ mà bắt đầu đầu tư chiều sâu cho sản xuất. Theo báo cáo kết quả khảo sát về đổi mới công nghệ tại 64 doanh nghiệp dệt may Việt Nam trong 3 năm từ 2001-2003 (trong đó, có 53 doanh nghiệp cung cấp thông tin thông tin tài chính về đổi mới công nghệ), mức đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp đã được cải thiện hơn những năm trước đây khá nhiều. Tính lượng vốn đầu tư đổi mới công nghệ trung bình cho mỗi doanh nghiệp dệt may trong 3 năm là 5,09 tỷ đồng, tuy nhiên lượng vốn đầu tư cụ thể lại rất khác nhau ở mỗi doanh nghiệp bất kể thành phần kinh tế là Nhà nước , tư nhân hay 100% vốn nước ngoài mà chủ yếu dựa vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Trung bình mỗi doanh nghiệp dệt may giành ra 2,9% doanh thu để đầu tư vào đổi mới công nghệ; song lại có sự khác biệt rất xa ở mỗi doanh nghiệp. Không tính những doanh nghiệp mới đi vào hoạt động thì có 12 doanh nghiệp có tỷ lệ đầu tư đổi mới công nghệ trên tổng doanh thu cao trên 5%, Tổng công ty dệt Đông Nam(29,81%), công ty dệt kim Đông Xuân(25%),công ty dệt nhuộm vải Phước Thịnh(24,61%), công ty dệt 8/3(11,2%), công ty dệt may Hà Nội (9%)... Trong đó, chỉ có công ty Phước Thịnh là đầu tư liên tục và đều đặn qua 3 năm. Các doanh nghiệp còn lại chủ yếu do mua máy móc thiết bị, công nghệ tại một thời điểm nên tỷ lệ trung bình trong 3 năm bị đẩy cao lên. Như vậy, xét về quy mô vốn đầu tư đổi mới công nghệ của toàn ngành hay của từng doanh nghiệp dệt may đều cho thấy có sự tăng lên. Đây là một tín hiệu đáng mừng cho trình độ khoa học công nghệ của ngành dệt may. 2.2.Phương thức đầu tư đổi mới công nghệ Hiện nay đa số các doanh nghiệp kết hợp một số phương thức đổi mới công nghệ để tạo hiệu quả cao, rất ít doanh nghiệp chỉ sử dụng một phương thức đổi mới công nghệ. Trong đó, phương thức tự tổ chức nghiên cứu triển khai thường được tiến hành song song với vịêc mua công nghệ mới nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng và vận hành công nghệ. Qua khảo sát về đổi mới công nghệ tại 64 doanh nghiệp dệt may làm dẫn chứng. Theo khảo sát này cho thấy phương thức mà các doanh nghiệp dệt may sử dụng để đổi mới công nghệ vẫn đa số mang tính khép kín, sự liên doanh liên kết với bên ngoài đã có nhưng còn ít. Phương thức các doanh nghiệp sử dụng nhiều nhất là mua công nghệ từ nguồn ngoài nước và bắt chước, thiết kế lại theo mẫu, 54% số doanh nghiệp tham gia khảo sát đều lựa chọn hai phương thức này. Đây cũng là đặc trưng nổi bật của một ngành công nghiệp mang tính gia công và phụ thuộc vào đối tác nước ngoài về công nghệ, nguyên liệu và mẫu mã sản phẩm Bảng4: Phương thức thực hiện đổi mới công nghệ của 64 doanh nghiệp dệt may Việt Nam STT Phương thức Tỷ lệ DN tiến hành 1 Tự tổ chức NC&TK trong nội bộ DN 32% 2 Hợp tác với các cơ quan khoa học trong nước 26% 3 Hợp tác với các cơ quan khoa học nước ngoài 5% 4 Bắt chước, thiết kế lại theo mẫu 54% 5 Mua công nghệ từ nguồn trong nước 20% 6 Mua công nghệ từ nguồn ngoài nước 54% 7 Liên kết, liên doanh với các DN trong nước 20% 8 Liên kết, liên doanh với các DN ngoài nước 23% 9 Thuê tư vấn trong nước 18% 10 Thuê tư vấn nước ngoài 3% 2.3.Nguồn vốn đầu tư đổi mới công nghệ 4Nguồn vốn trong nước Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, ngành dệt may là một trong những ngành chủ đạo và ưu tiên phát triển, song nguồn vốn ngân sách đầu tư cho ngành và đầu tư cho đổi mới công nghệ chiếm tỷ trọng rất ít ỏi. Dù nguồn vốn này tăng lên qua các năm nhưng vẫn không vượt quá 0,6% lượng vốn đầu tư đổi mới công nghệ của Vinatex. Nguồn vốn tự có và vốn khấu hao cơ bản của doanh nghiệp dệt may khá nhỏ bé so với lượng vốn cần huy động sản xuất kinh doanh cũng như đổi mới công nghệ. Thực tế này là do hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chưa cao, tiềm lực còn nhỏ bé nên khả năng tích luỹ thấp. 4Nguồn vốn đầu tư nước ngoài Trong giai đoạn 1991-1996 đầu tư nước ngoài vào ngành dệt đạt 985, 76 triệu $ với tổng số dự án là 58, trong đó dưới hình thức liên doanh, hợp danh có tổng vốn đầu tư là 126, 77 triệu$ chiếm 12,86%. Cùng thời kỳ, đầu tư nước ngoài vào ngành may là 88 dự án với tổng số vốn đầu tư là 189, 46 triệu $, hình thức liên doanh, hợp danh chiếm 35,13% và hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 64,87% 2.4. Nội dung đầu tư đổi mới công nghệ Trong 5 năm qua số lượng máy móc thiết bị của toàn ngành có sự tăng lên đáng kể. Thiết bị kéo sợi nồi cọc toàn ngành đã tăng lên gấp đôi từ 1.050.000 cọc sợi năm 2000 lên 2.200.000 cọc sợi năm 2004. 4Thiết bị kéo sợi Thiết bị công nghệ kéo sợi của ngành được nâng cấp theo từng giai đoạn cụ thể với lượng vốn đầu tư khác nhau. Trong giai đoạn này nhiều dự án đầu tư về sợi đã đưa vào vận hành sản xuất như nhà máy sợi mới 26.000 cọc sợi của công ty dệt Thành Công, công ty dệt Chiến Thắng, dệt Nha Trang Vào năm 2004 ngành dệt có 2.215.000 cọc sợi (15000 rô to), trong đó đầu tư mới gần 500.000 cọc sợi, sản xuất 220.000 tấn sợi /năm. tiểu ngành kéo sợi đã sản xuất được nhiều chủng loại sản phẩm có chất lượng khá đáp ứng yêu cầu kỹ thuật và góp phần nâng cao năng suất lao động toàn ngành. Tuy nhiên, theo đánh giá chung của các chuyên gia thì trình độ công nghệ cuả tiểu ngành vẫn ở mức trung bình và lạc hậu do đó cần đầu tư hơn nữa để cải thiện tình hình. 4Thiết bị, công nghệ dệt thoi Giai đoạn 1996 đến nay toàn ngành đã có khoảng hơn 6000 thiết bị mới được đầu tư với lượng vốn lên tới 78, 5 triệu $. Việc đầu tư đổi mới và hiện đại hoá trang thiết bị dệt thoi đã phát huy tác dụng mạnh mẽ, hiện tại tiểu ngành có 16.750 máy dệt, sản xuất 700 triệu m2 vải, 30.000 tấn khăn bông các loại. 4Thiết bị, công nghệ ngành may Trong giai đoạn 1996T-2004, toàn ngành lại tiếp tục đầu tư cho máy móc thiết bị ngành may. tính đến năm 2004 toàn ngành có771.447 máy may các loại, phân bổ phần lớn ở các doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. trong khi đa, tại các doanh nghiệp tư nhân số máy may rất ít, chỉ khoảng 250 doanh nghiệp là có từ 400 đến 1000 máy may còn lại hơn 300 doanh nghiệp chỉ hầu hết là 100 đến 400 máy. 3.Một số kết luận từ thực trạng 3.1.Đánh giá kết quả Tron._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docE0058.doc
Tài liệu liên quan