Thực trạng & Giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào EU

Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xk hàng dệt may việt nam vào EU Lời mở đầu ******** 1.Tính tất yếu Cùng với sự phát triển của lịch sử loài người, các hoạt động kinh tế diễn ra với quy mô ngày càng lớn, phạm vi các quan hệ kinh tế ngày càng rộng, tính chất của chúng ngày càng phức tạp, trình độ phát triển của chúng ngày càng cao. Hoạt động thương mại quốc tế ra đời sớm nhất trong các quan hệ kinh tế quốc tế, ngày nay nó vẫn giữ vị trí trung tâm trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Có th

doc40 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1253 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể nói các sản phẩm dệt may có vai trò quan trọng trong nhu cầu sinh hoạt của con người. Khi cuộc sống con người càng được nâng cao thì họ càng chú ‎y nhiều đến nhu cầu ăn mặc. Vì vậy, thị trường dệt may thế giới ngày càng diễn ra sôi động và mang tính cạnh tranh gay gắt. Đặc biệt, từ 31/12/2004 Hiệp định ATC về buôn bán hàng dệt may hết hiệu lực, chế độ hạn ngạch dệt may toàn cầu MFA kéo dài hàng thế kỷ chấm dứt đã tạo nên một cục diện hoàn toàn mới cho ngành dệt may, theo đó, các nước thành viên của WTO được tự do xuất khẩu hàng dệt may vào EU mà không bị kiểm soát hạn ngạch. Việt Nam tuy chưa phải là thành viên của WTO nên không được hưởng quy chế này, nhưng ngày 01/01/2005, EU đã k‎y thoả thuận chính thức bãi bỏ hạn ngạch dệt may đối với Việt Nam. Đây là bước đột phá quan trọng trong việc nâng quan hệ kinh tế thương mại vốn rất tốt giữa Việt Nam và EU lên tầm cao mới, tạo điều kiện cho kim ngạch buôn bán hai chiều tăng mạnh trong các năm tiếp theo. Mặt khác, ngành công nghiệp dệt may sẽ có thêm điều kiện tiếp tục phát triển trên con đường hội nhập quốc tế. 2. Mục đích nghiên cứu Giúp chúng ta có được một cách nhìn tổng quát về tình hình xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU, đề ra các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU. 3.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu -Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU Các mặt hàng may mặc xuất khẩu vào EU mới chỉ tập trung vào các mặt hàng dễ làm như áo jacket, sơ mi… còn các mặt hàng có giá trị , đòi hỏi kỹ thuật cao hơn như complet hay các loại áo sơ mi cao cấp thì ít doamh mghiệp có thể sản xuất được. - Tình hình thị trường nhập khẩu dệt may EU (trước và sau khi bãi bỏ hạn ngạch). - Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU. 4.Phương pháp nghiên cứu Sử dụng các phương pháp của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, cũng như các phương pháp quy nạp và diễn giải, so sánh và lịch sử. Đặc biệt các phương pháp mô hình hoá và các phương pháp phân tích của kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vi mô được sử dụng khi tiếp cận các vấn đề kinh tế cụ thể . 5. Kết cấu đề tài Trong đề tài, ngoài phần lời mở đầu và kết luận, kết cấu bao gồm: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa Chương 2: Tình hình thị trường nhập khẩu dệt may EU Chương 3: Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU Chương 4: Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu hàng hóa 1.1. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu hàng hoá 1.1.1.Khái niệm Hoạt động xuất khẩu là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước thông qua hành vi mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia khác nhau trên thế giới. Xuất khẩu là một bộ phận cơ bản của hoạt động ngoại thương, trong đó hàng hoá và dịch vụ được bán, cung cấp cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ. Vì vậy khi nghiên cứu dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên mà các doanh nghiệp áp dụng khi bước vào lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Mọi công ty luôn hướng tới xuất khẩu những sản phẩm và dịch vụ của mình ra nước ngoài. Do vậy mà xuất khẩu được xem như chiến lược kinh doanh quốc tế quan trọng của các công ty. Xuất khẩu còn tồn tại ngay cả khi công ty đã thực hiện được các hình thức cao hơn trong kinh doanh. 1.1.2. Đặc điểm - Xuất khẩu hàng hoá thể hiện sự kết hợp chặt chẽ và tối ưu các khoa học quản lý kinh tế với các nghệ thuật kinh doanh, giữa nghệ thuật kinh doanh với các yếu tố khác của từng quốc gia, như yếu tố luật pháp, kinh tế văn hoá… hơn nữa hoạt động xuất khẩu hàng hoá nhằm khai thác lợi thế so sánh của từng nứơc, khai thác các nguồn lực cho phát triển, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, gia tăng tiến bộ xã hội và góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập hoá,quốc tế hoá. - Trong điều kiện hiện nay, xuất khẩu hàng hoá là một trong những mục tiêu đang trở nên cấp bách và tạo cho nhiều quốc gia có cơ hội thuận lợi trong quá trình đẩy nhanh sự phát triển kinh tế văn hoá xã hội. - Hoạt động xuất khẩu hàng hoá diễn ra giữa hai hay nhiều quốc gia, và trong môi trường kinh doanh mới và xa lạ. Vì vậy, chúng ta không thể lấy kinh nghiệm trao đổi hàng hoá thông thường trong một quốc gia để áp đặt hoàn tòan cho hoạt động trao đổi hàng hoá với nước ngoài. - Hoạt động xuất khẩu được tiến hành có thể bởi tư nhân hoặc doanh nghiệp nhà nước nhằm đáp ứng các mục đích hoặc nhu cầu của họ, mục đích kinh doanh tư nhân chủ yếu là nhằm tối đa hoá lợi nhuận, còn đối với các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ có nhiều mục tiêu khác nhau như văn hoá, ngoại giao, chính trị… Do đó, kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ có thể hiện hoặc không hoàn toàn hướng về lợi nhuận. 1.1.3. Các hình thức của hoạt động xuất khẩu. 1.1.3.1. Xuất khẩu trực tiếp. Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu các hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước, xuất khẩu ra nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Ưu điểm của hình thức này là lợi nhuận thu được của các doanh nghiệp thường là cao hơn các hình thức khác, có thể nâng cao uy tín của mình thông qua quy cách và phẩm chất hàng hoá, có thể tiếp cận trực tiếp thị trường, nắm bất được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Bên cạnh đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải ứng trước một lượng vốn lớn để sản xuất hoặc thu mua và rủi ro kinh doanh là rất lớn. 1.1.3.2. Xuất khẩu gia công uỷ thác. Theo hình thức này các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng ra nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho các doanh nghiệp gia công, sau đó thu hồi thành phẩm để xuất khẩu cho bên nước ngoài. Doanh nghiệp này sẽ được hưởng phí uỷ thác theo thoả thuận với các doanh nghiệp trực tiếp chế biến. Hình thức này có ưu điểm là không cần bỏ vốn vào kinh doanh nhưng vẫn thu được lợi nhuận, ít rủi ro, việc thanh toán được bảo đảm vì đầu ra chắc chắn. Bên cạch đó nó đòi hỏi nhiều thủ tục xuất và nhập khẩu do đó cần phải có những cán bộ kinh doanh có kinh nghiệm và thông thạo nghiệp vụ xuất nhập khẩu. 1.1.3.3. Xuất khẩu uỷ thác Đây là hình thức mà các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng ra đóng vai trò trung gian xuất khẩu làm thay cho các đơn vị sản xuất những thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng và hưởng phần trăm theo giá trị hàng xuất khẩu đã được thoả thuận. Ưu điểm của hình thức này là mức độ rủi ro thấp, ít trách nhiệm, người đứng ra xuất khẩu không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng. Đặc biệt là không cần bỏ vốn ra để mua hàng, nhận tiền nhanh, ít thủ tục và tương đối tin cậy. 1.1.3.4. Buôn bán đối lưu Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi có giá trị tương đương với giá trị của lô hàng đã xuất. Các loại hình buôn bán đối lưu bao gồm: hàng đổi hàng, trao đổi bù trừ, mua đối lưu, chuyển giao nghĩa vụ, mua lại sản phẩm. 1.1.3.5. Xuất khẩu theo nghị định thư Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá được ký kết theo nghị định thư giữa hai chính phủ. Ưu điểm của hình thức này là tiết kiệm được các khoản chi phí trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng, đảm bảo được thanh toán. 1.1.3.6. Xuất khẩu tại chỗ Đây là hình thức mà hàng và dịch vụ có thể chưa vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó cũng giống như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các đoàn ngoại giao, khách du lịch quốc tế v.v... Hoạt động này có thể đạt hiệu quả kinh tế cao do giảm bớt chi phí bao bì, đóng gói, bảo quản chi phí vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh. 1.1.3.7. Gia công quốc tế Gia công quốc tế là hình thức kinh doanh trong đó một bên nhập nguồn nguyên liệu bán thành phẩm (bên nhận gia công) của bên đặt gia công để chế biến thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu được phí gia công. Ưu điểm của hình thức này là giúp bên nhận gia công tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhận được các thiết bị công nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất. Hình thức này được áp dụng khá phổ biến ở các nước đang phát triển có nguồn nhân công dồi dào với giá rẻ, nguồn nguyên liệu sẵn có của các nước nhận gia công. 1.1.3.8. Tạm nhập, tái xuất Đây là hình thức xuất khẩu đi những hàng hoá đã nhập khẩu trước đây và chưa tiến hành các hoạt động chế biến. Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp có thể thu về một lượng ngoại tệ lớn hơn số bỏ ra ban đầu, không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào nhà xưởng, máy móc thiết bị, khả năng thu hồi vốn cao. 1.1.4 . Vai trò của hoạt động xuất khẩu: Xuất khẩu là hoạt động rất cơ bản của nền kinh tế quốc dân, là phương tiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế, vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng hoá đối với nền kinh tế đất nước thể hiện ở một số điểm sau : 1.1.4.1. Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước. Đất nước ta đang nỗ lực trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, chậm phát triển khó khăn và đòi hỏi một lượng vốn lớn. Vốn là yếu tố chủ yếu không thể thiếu được,là vấn đề sống còn với tiến trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước. tiến trình này đòi hỏi phải có nhiều vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, nhập khẩu máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ hiện đại ... phục vụ cho phát triển kinh tế. Nguồn vốn cho nhập khẩu có thể được hình thành từ nhiều nguồn như: Liên doanh đầu tư nước ngoài với nước ta Vay nợ, viện trợ, tài trợ Hoạt động du lịch, dịch vụ Xuất khẩu sức hàng hoá, lao động ... Trong đó nguồn quan trọng nhất là xuất khẩu hàng hoá. Bởi vì, các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vay nợ, viện trợ , tài trợ ... tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác. Ngoại tệ thu được qua các hoạt động du lịch, dịch vụ hiện nay chỉ là rất nhỏ so với nhu cầu về vốn của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xuất khẩu lao động không ổn định đang có xu hướng giảm dần . Do vậy , nguồn ngoại tệ quan trọng nhất chi dùng cho nhập khẩu chính là từ xuất khẩu. ở nước ta vai trò của xuất khẩu thể hiện qua khía cạnh này ngày càng tăng lên. Trong thời kỳ cơ chế kế hoạch hoá tập trung , xuất khẩu của ta còn rất nhỏ bé để phục vụ công nghiệp hoá chúng ta chủ yếu dựa vào nguồn viện trợ từ các nước XHCN anh em. Sau khi chuyển sang cơ chế mới, hoạt động xuất khẩu của nước ta đã có những bước tiến vợt bậc. Giai đoạn 1986 -1990 kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 7030 triệu USD, chiếm 75% tổng thu ngoại tệ của đất nước , thu về xuất khẩu đảm bảo 56% nhập khẩu. Giai đoạn 1991- 1997 , kim ngạch xuất khẩu cả nước đạt 32.909 triệu USD, chiếm 82% tổng thu ngoại tệ cả nước và đảm bảo 72% vốn cho nhập khẩu. 1.1.4.2. Đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Hoạt động xuất khẩu có ảnh hưởng rất lớn đến xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Với chiến lược " sản xuất hướng mạnh vào xuất khẩu" chúng ta phải coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển , thể hiện ở một số khía cạnh sau : - Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu và các ngành có liên quan phát triển. Chẳng hạn khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm,... - Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và ổn định. - Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất nâng cao năng lực sản xuất trong nước. - Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước thông qua việc thu hút vốn , kỹ thuật, công nghệ từ các nước t bản vào Việt nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước. - Thông qua xuất khẩu, các hàng hoá của ta có điều kiện tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, mẫu mã,chất lượng. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất sao cho hình thành được một cơ cấu sản xuất hợp lý luôn thích nghi với thị trường. 1.1.4.3. Góp phần tích cực vào việc giải quyết công ăn việc làm , cải thiện đời sống nhân dân. Khi còn nhiều sản phẩm được sản xuất ra để xuất khẩu thì đồng thời lượng việc làm cũng tăng. Thực tế đã chứng minh XK góp phần quan trọng vào giảm tỷ lệ thất nghiệp. Mặt khác hoạt động xuất khẩu thu về một ngoại tệ đáng kể để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú của nhân dân . Những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất còn kém như ô tô, xe máy v.v... đều qua con đường nhập khẩu đến với nhân dân . 1.1.4.4. Làm cơ sở để thúc đẩy và mở rộng các mối quan hệ kinh tế quốc tế của nước ta. Xuất khẩu là hoạt động cơ bản và là hình thức ban đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại. Do đó nó có mối quan hệ phụ thuộc với các quan hệ kinh tế đối ngoại khác như tín dụng, đầu tư, vận tải quốc tế,...Nếu xuất khẩu tăng sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động khác phát triển. Ngược lại, xuất khẩu chỉ có thể phát triển thuận lợi khi các quan hệ đó đã được khai thông và phát triển với mức độ tương ứng. Hoạt động xuất khẩu cùng với các quan hệ kinh tế quốc tế khác làm cho nền kinh tế nớc ta gắn chặt với nền kinh tế thế giới và tham gia vào phân công lao động quốc tế . Chính nhờ thông qua xuất khẩu và các quan hệ đối ngoại khác mà hiện nay nước ta đã thiết lập mối quan hệ đối ngoại với gần 200 nước trên thế giới , ký các Hiệp định thương mại với hơn 70 nước là thành viên của tổ chức kinh tế của thế giới và khu vực . 1.2. Các lý thuyết xuất khẩu hàng hoá 1.2.1. Lý thuyết truyền thống về thương mại quốc tế 1.2.1.1. Trường phái trọng thương và thương mại quốc tế Lý thuyết về thương mại quốc tế được coi là bắt đầu bằng các tác phẩm của trường phái trọng thương vào các thế kỷ 16 đến 18. Vào thời gian đó, vàng và bạc được sử dụng với tư cách là tiền tệ và tạo nên kho của cải của các quốc gia. Các tác giả lập luận rằng xuất khẩu đối với một quốc gia là rất có ích vì nó kích sản xuất trong nước, đồng thời làm gia tăng lượng của cải của quốc gia. Nhà nước phải phải khuyến khích sản xuất và xuất khẩu thông qua trợ cấp, đồng thời phải hạn chế nhập khẩu bằng các công cụ bảo hộ mậu dịch, đặc biệt đối với các ngành công nghiệp quan trọng. 1.2.1.2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith Adam Smith loại bỏ quan điểm cho rằng vàng, bạc, đá quý đại diện cho sự giàu có của một quốc gia. Ông cho rằng thương mại quốc tế đem lại lợi ích cho các bên tham gia, bên nào bị thiệt hại thì bên đó sẽ từ chối ngay và cơ sở của hoạt động trao đổi thương mại quốc tế là dựa vào lợi thế tuyệt đối của mỗi một quốc gia. Lợi thế tuyệt đối là lợi thế đạt được trong thương mại quốc tế khi mỗi một quốc gia tập trung chuyên môn hoá vào sản xuất và trao đổi những sản phẩm có chi phí sản xuất thấp hơn hẳn quốc gia khác và thấp hơn mức trung bình chung quốc tế, thì tất cả các quốc gia sẽ đều cùng có lợi và sẽ xuất khẩu mặt hàng mà quốc gia có lợi thế tuyệt đối. 1.2.1.3. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo David Ricardo cho rằng thương mại quốc tế vẫn có thể xảy ra và đem lại lợi ích cho các quốc gia ngay cả khi quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối hay không có lợi thế tuyệt đối. Quốc gia nên tập trung chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có hiệu quả sản xuất cao hơn (có lợi thế so sánh) và nhập khẩu những mặt hàng có hiệu quả sản xuất thấp hơn (không có lợi thế so sánh) so với quốc gia kia, sau khi trao đổi 2 quốc gia cùng có lợi. 1.2.1.4. Lý thuyết Heckscher-Ohlin Thương mại đem lại lợi ích cho các bên tham gia nếu như biết khai thác lợi thế so sánh của mình. Lợi thế so sánh giữa các quốc gia nảy sinh do sự khác biệt các yếu tố sản xuất, tạo ra sự khác biệt chi phí sản xuất. Các yếu tố sản xuất càng dồi dào thì chi phí sản xuất càng thấp và ngược lại. Nội dung định lý H-O : một quốc gia sẽ tập trung sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng nhiều một cách tương đối yếu tố sản xuất dồi dào và rẻ của quốc gia đó và nhập khẩu những mặt hàng có tình hình ngược lại. 1.2.2. Các lý thuyết mới về thương mại quốc tế 1.2.2.1. Thương mại dựa trên tính kinh tế theo quy mô Một trong những lý do quan trọng dẫn đến thương mại quốc tế là tính kinh tế theo quy mô. Sản suất được coi là có hiệu quả nhất khi được tổ chức trên quy mô lớn. Lúc đó một sự gia tăng đầu vào với tỷ lệ nào đó sẽ dẫn tới sự gia tăng đầu ra (sản lượng) với tỷ lệ cao hơn. 1.2.2.2. Thương mại dựa trên sự biến đổi công nghệ - Lý thuyết về khoảng cách công nghệ Posner dựa trên ý tưởng cho rằng công nghệ luôn luôn thay đổi dưới hình thức các phát minh và các sáng chế mới, và điều này tác động đến xuất khẩu của quốc gia. Ban đầu công nghệ mới ra đời ở các nước phát triển hoặc các nước công nghiệp gắn với công nghệ đó, sản phẩm mới cũng ra đời, nước phát minh có lợi thế tuyệt đối tạm thời về tiêu thụ sản phẩm đó tại thị trường trong nước và nước ngoài. Sau đó, các nhà sản xuất nước ngoài bắt chước công nghệ và cải tiến công nghệ sản xuất tại quốc gia nước ngoài có hiệu quả sản xuất cao hơn, lúc đó lợi thế so sánh về sản xuất sản phẩm lại thuộc về quốc gia nước ngoài, tức là nước có khả năng ứng dụng công nghệ với chi phí thấp hơn. Nhưng ở quốc gia phát minh, 1 sản phẩm mới lại có thể ra đời và quá trình đó lại được tiếp tục. - Lý thuyết vòng đời sản phẩm Thực chất lý thuyết vòng đời sản phẩm là sự mở rộng lý thuyết về khoảng cách công nghệ. Các phát minh có thể ra đời ở các nước giàu có, nhưng điều đó không có nghĩa là quá trình sản xuất sẽ chỉ được thực hiện ở các nước đó mà thôi. Các nhân tố cần thiết cho việc sản xuất một sản phẩm mới sẽ thay đổi tuỳ theo vòng đời của sản phẩm đó. 1.3. Kinh nghiệm xuất khẩu hàng dệt may sang EU của một số nước 1.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc Trung Quốc đã thực hiện các biện pháp hỗ trợ marketing xuất khẩu : chủ yếu được thực hiện bởi các văn phòng thúc đẩy xuất khẩu ở trong nước và các cơ quan thương vụ ở nước ngoài -Văn phòng thúc đẩy xuất khẩu ở trong nước : tư vấn và hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc đánh giá, phân tích và xử lý thông tin thị trường; tư vấn cho các doanh nghiệp trong việc lựa chọn sử dụng công nghệ sản xuất và nguyên liệu đầu vào; tư vấn cho các doanh nghiệp trong việc thiết kế mẫu mã kiểu dáng sản phẩm và lựa chọn quy mô sản xuất phù hợp; giải đáp thắc mắc của các doanh nghiệp về môi trường luật pháp và chính sách. -Cơ quan thương vụ Trung Quốc ở nước ngoài: hỗ trợ cho Chính phủ trong việc tham gia đàm phán và ký kết cá Hiệp định thương mại; hỗ trợ cho Chính phủ và doanh nghiệp trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại nhằm bảo vệ tối đa lợi ích các doanh nghiệp trong nước; cung cấp thông tin về thị trường nước ngoài cho các doanh nghiệp trong nước; hỗ trợ cho doanh nghiệp trong việc tìm kiếm khách hàng, ký kết hợp đồng và tạo lập kênh phân phối. Lợi thế của Trung Quốc: -Nhõn cụng dồi dào, lương thấp. -Năng suất khỏ cao, nhiều cụng ty cú quy mụ lớn nờn giỏ thành thấp. -Liờn tục đầu tư và hiện đại húa sản xuất. -Làm chủ sản xuất theo chiều dọc: từ nguyờn vật liệu cho đến thành phẩm. WTO dự bỏo: Trung Quốc nhanh chúng chiếm lĩnh 50% thị phần may mặc và vải sợi toàn cầu (trị giỏ tới 350 tỷ USD/năm) vào 2010 (hiện nay là 19%). Trung Quốc có lợi thế hơn chúng ta rất nhiều về trình độ quản lý, năng suất lao động, sản xuất nguyên phụ liệu, cơ khí ngành may và các dịch vụ liên quan. Đây sẽ là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nếu muốn tồn tại và phát triển được ở thị trường EU. Chính phủ Trung Quốc mới đây cho biết sẽ đánh thuế vào các sản phẩm may mặc xuất khẩu giá rẻ với mục đích kép: vừa giảm bớt lo ngại của các quốc gia khác vừa thúc đẩy các công ty trong nước cải tiến kỹ thuật, chuyển sang sản xuất các hàng hóa có giá trị gia tăng cao.   1.3.2. Kinh nghiệm của ấn Độ Thời điểm WTO dỡ bỏ chính sách hạn ngạch sẽ mở ra nhiều vận hội mới cho ngành dệt may Ấn Độ, đặc biệt là cánh cửa vào thị trường phương Tây. Ấn Độ cũng nỗ lực hết sức để tận dụng thời cơ tuyệt vời này. Nỗ lực hiện đại hóa ngành dệt may Hiện giờ Chính phủ và ngành dệt may đất nước này đang phối hợp chặt chẽ nhằm giúp cho dệt may Ấn Độ cất cánh. Ấn Độ đã cẩn thận đưa ra nhiều chiến lược cụ thể như kết hợp nông nghiệp với dệt may, đảm bảo nguồn cung bông đầy đủ phục vụ cho sản xuất chỉ và công nghiệp dệt, tránh tình trạng giá bông dao động làm ảnh hưởng tới giá cả sản phẩm dệt may. Nước này cũng cố gắng giảm phụ thuộc vào nhập khẩu bông từ Ai Cập, Sudan và Parkistan. Hiện nay các nhà máy, công ty dệt may Ấn Độ được điều hành bởi một thế hệ nhà quản lý mới, họ tập trung, quan tâm đến hoạt động sáp nhập nhằm nâng cao chất lượng và tiết kiệm chi phí. Trong khi đó, Chính phủ nước này cũng theo dõi sát sao hoạt động của ngành dệt may – lĩnh vực phát triển cực kỳ ngoạn mục, chỉ sau dịch vụ và sản xuất. Mặc dù, Ấn Độ đã chuẩn bị hàng năm để đón đầu thời điểm hạn ngạch được xóa bỏ, nhưng không hẳn mọi việc sẽ "xuôi chèo mát mái", họ còn phải cạnh tranh với Trung Quốc và Pakistan. Ấn Độ đầu tư gần 1,2 tỷ USD hiện đại hóa những nhà máy bị xuống cấp do quản lý yếu kém. 2 tỷ USD khác cũng được rút vào mua máy móc hiện đại, phục vụ cho dây chuyền sản xuất và hệ thống quản lý chất lượng, nhằm đạt được tiêu chuẩn quốc tế. Hiện nay, 70% nhà xưởng của Ấn Độ hiện đại hơn các cơ sở sản xuất của Trung Quốc hay Parkistan. Chính phủ Ấn Độ còn khuyến khích phát triển công nghiệp dệt bằng cách cho phép tự do vay vốn của nước ngoài. Hầu hết các nhãn hiệu dệt may nổi tiếng của châu Âu và Mỹ đều đó lập chi nhánh ở Ấn Độ, ngành này hy vọng lượng hàng xuất khẩu sẽ tăng với cấp số nhân. Nếu các kế hoạch diễn ra tốt đẹp, dệt may Ấn Độ hy vọng đến năm 2012 sẽ thu về 20 thậm chí 30 tỷ USD nhờ xuất khẩu dệt may so với 12 tỷ USD hiện nay.  Sẽ xuất khẩu 30 tỷ USD hàng dệt may Hội đồng xúc tiến xuất khẩu hàng dệt Ấn Độ tin tưởng chắc chắn công nghiệp dệt may sẽ hoàn thành mục tiêu có kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 30 tỷ USD mỗi năm. Ấn Độ đang nhắm vào thị trường dệt và quần áo may sẵn Mỹ. Một quan chức thuộc Hội đồng xúc tiến xuất khẩu may mặc Ấn Độ cho rằng, dỡ bỏ chính sách hạn ngạch đồng nghĩa với việc mở ra nhiều thách thức cũng như lựa chọn mới cho Ấn Độ trên thị trường Mỹ. Năm 2003, mặc dự chính sách hạn ngạch vẫn tồn tại, tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may vào Mỹ của Ấn Độ tăng 46,9%, đạt 458 triệu USD, trong khi tổng giá trị xuất khẩu vào Mỹ của nước này có khoảng 1,13 tỷ USD. Con số này sẽ còn tăng vọt sau tháng 1/2005. "Lần đầu tiên trong nhiều năm, các đơn đặt hàng sẽ không còn bị hạn chế bởi mức trần xuất khẩu, mà chỉ phụ thuộc vào khả năng của ngành dệt may và chất lượng sản phẩm của mỗi nước" - quan chức này nhận định. Giáo sư Tapas Mazumder, chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực dệt may ở Ấn Độ phát biểu: "Ấn độ có lợi thế truyền thống trong lĩnh vực dệt may. Bất chấp nước Anh nỗ lực giết chết ngành này trong thời thuộc địa để bảo vệ các cơ sở sản xuất của mình ở Manchester, Ấn Độ vẫn đạt được nhiều bước tiến quan trọng, hiện đại hóa thiết bị sản xuất, nâng cao chất lượng quản lý, biến ngành này ngang tầm quốc tế. Theo kết quả một cuộc điều tra gần đây, 24% người tiêu dùng Mỹ ưa thích sản phẩm dệt may của Ấn Độ hơn của Trung Quốc". Mục tiêu xuất khẩu 30 tỷ USD hàng dệt may là có thể thực hiện được do đến năm 2007, kim ngạch dệt may nước này sẽ đạt 15 tỷ USD; và với tốc độ tăng trưởng 40-42 %/năm, Ấn Độ hoàn toàn có thể trở thành nước xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới. Sở dĩ Ấn Độ đạt được tốc độ tăng trưởng ngoạn mục như vậy làà nhờ nhiều công ty của châu Âu, Mỹ đã chuyển sang Ấn Độ để tận dụng lợi thế chi phí rẻ ở đất nước này. 1.3.3. Kinh nghiệm của Indonesia Năm 2000, Indonesia thu 8,2 tỷ USD từ xuất khẩu dệt may, trở thành nước đứng thứ 10, nhưng năm ngoái đã tụt xuống thứ 17 với kim ngạch dệt may đạt 6,9 tỷ USD, chỉ chiếm 2,15% trong số 500 tỷ giá trị thương mại dệt may toàn cầu. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu giảm xuống thấp hơn rất nhiều so với mức kỷ lục 8,26 tỷ USD hồi cuối những năm 1990, dệt may vẫn là ngành đóng góp ngoại tệ nhiều nhất cho Indonesia, chỉ sau sản xuất khai thác dầu khí. Tổng giá trị sản xuất hàng dệt may Indonesia đạt hơn 15 tỷ USD và chỉ khoảng 1/3 hàng may xuất khẩu chịu ảnh hưởng sau khi chế độ hạn ngạch được xóa bỏ. Những nước không có quota vẫn chiếm 68% lượng hàng xuất khẩu. Benny Soetrisno, Chỉ tịch Hiệp hội May mặc Indonesia phát biểu rằng, triển vọng phát triển toàn ngành vẫn khá tốt, mặc dù các nhà sản xuất sẽ phải giảm giá bán từ 10-15% để tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Ông cũng nói thêm, trong nhiều năm qua Hiệp hội không ngừng tìm kiếm thị trường các nước khác nhau cho sản phẩm may, nên xóa bỏ quota là một bước đi đúng hướng. Do thị trường thế giới ngày càng có nhiều thách thức hơn, Indonesia cũng được lợi khi năm ngoái, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN đã bước đầu đi vào hoạt động. Thị trường này sẽ càng mở rộng hơn tới năm 2010 với sự tham gia của Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản. Cũng trong năm 2010, Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu á Thái Bình Dương sẽ hạ thuế quan cho hàng hóa xuất xứ từ các nước thành viên có thu nhập thấp. Chính phủ Indonesia đang thực hiện kế hoạch phát triểm Batam thành khu vực tự do thương mại để tất cả hàng may xuất khẩu có thể xuất phát từ đó, thay vì qua Singapore. Điều này sẽ giúp hạ chi phí cho nhà sản xuất, và chính quyền tỉnh Riau cũng có thể thu thuế, đẩy mạnh phát triển kinh tế. Rini Soewandi - Bộ trưởng Bộ Công nghiệp và Thương mại Indonesia nói: "Đã nhiều người đặt câu hỏi, liệu dệt may Indonesia có đi vào ngõ cụt? Trước sau như một, tôi luôn khẳng định, với một đất nước 220 triệu dân như Indonesia, dệt may sẽ không bao giờ rơi vào cảnh chợ chiều". Rõ ràng vị Bộ trưởng nhấn mạnh thế mạnh thị trường trong nước rộng lớn, nhưng Indonesia cũng không thể không lo lắng cho số phận ngành công nghiệp nhẹ này. Tổng Thư ký Liên đoàn Dệt, Da và May mặc thế giới cảnh báo: "Hiện nay Trung Quốc có khả năng đáp ứng đầy đủ nhu cầu mặc của cả thế giới. Công nghiệp dệt may ở đây chỉ cần có thêm một cú huých nhẹ sẽ phát triển tới độ sung mãn". Nhiều chuyên gia, lãnh đạo trong lĩnh vực dệt may đã từ lâu khuyến cáo doanh nghiệp và Chính phủ cần nỗ lực phối hợp để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, sẵn sàng đối mặt với áp lực cạnh tranh tự do trong quá trình toàn cầu hóa. Theo họ, những nước được hưởng lợi từ chính sách hạn ngạch như Indonesia phải lên trước kế hoạch cải thiện cơ sở hạ tầng, đồng thời đa dạng hóa nền kinh tế, sao cho những cải cách trong buôn bán dệt may thế giới sắp tới sẽ đem lại lợi ích lâu dài, và không đẩy ngành công nghiệp này lâm vào khủng hoảng. Đơn vị tính : Triệu USD Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may các nước STT Tên nước Kim ngạch xuất khẩu 1 Trung Quốc 50.000 2 ấn Độ 12.500 3 Bangladesh 4.000 4 Thái Lan 6.500 5 Indonesia 8.000 6 Việt Nam 2.000 Nguồn: Hiệp hội Dệt May Việt Nam Chương 2: Tình hình thị trường nhập khẩu dệt may EU 2.1. Những rào cản thương mại của EU 2.1.1.Hàng rào thuế quan Nói chung phần lớn hàng hoá của các nước được đánh theo Quy chế Tối huệ quốc(MFN), trường hợp được giảm thuế phổ biến là Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). Bên cạnh đó, EU còn áp dụng loại thuế chỉ đưa ra trong từng trường hợp nhằm thực hiện Luật thuế Đối kháng và Luật thuế Chống bán phá giá. Các sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu vào EU có mức thuế thay đổi trong phạm vi từ 0% đối với đậu nành và bách dầu, tới mức thuế 5% đối với chuối. Thuế cao (gấp 3 lần mức thuế trung bình giản đơn) được áp dụng đối với thịt, sản phẩm sữa, ngũ cốc… Tuy nhiên, thuế nhập khẩu trong các cơ chế ưu đãi mà EU tham gia cũng rất khác nhau. Trong vòng đàm phán Urugoay, EU chấp nhận thiết lập giá trần tính thuế đối với ngũ cốc. Theo chương trình GSP, EU chia các sản phẩm được hưởng GSP thành 4 nhóm với 4 mức ưu đãi khác nhau. Bốn nhóm sản phẩm của các nước đang phát triển được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập của EU được phân dựa trên mức độ nhậy cảm đối với bên nhập khẩu, mức độ phát triển của nước xuất khẩu, và những văn bản thoả thuận đã ký kết giữa hai nước, cụ thể như sau: Nhóm 1: Sản phẩm rất nhạy cảm bao gồm phần lớn nông sản và một số ít sản phẩm công nghiệp tiêu dùng như chuối tươi, chuối khô, dứa tươi, dứa hộp, quần áo may mặc, nguyên liệu thuốc lá, lụa tơ tằm… được hưởng mức thuế GSP bằng 85% thuế suất MFN. Đây là nhóm hàng EU hạn chế nhập khẩu. Nhóm 2: Sản phẩm nhạy cảm chủ yếu là thực phẩm, đồ uống, nguyên liệu, hàng thủ công (gạch lát nền và hàng sành sứ), hàng giày dép, hàng điện tử dân dụng, xe đạp, ô tô, đồ chơi trẻ em… được hưởng mức thuế GSP bằng 70% thuế suất MFN. Đây là nhóm mặt hàng EU không khuyến khích nhập khẩu. Nhóm 3: Sản phẩm bán nhạy cảm bao gồm thuỷ sản đông lạnh, một số nguyên liệu hoá chất, hàng công nghiệp dân dụng (điều hoà, máy giặt, tủ lạnh) được hưởng mức thuế GSP bằng 35% thuế suất MFN. Đây là nhóm mặt hàng EU khuyến khích nhập khẩu. Nhóm 4: Sản phẩm không nhạy cảm chủ yếu là một số loại thực phẩm, đồ uống (nước khoáng, bia rượu), nguyên liệu (than đá, dầu thô, cao su), nông sản (dừa cả vỏ, hạt điều), được hưởng mức thuế GSP bằng1-10% thuế suất MFN. Đây là nhóm mặt hàng EU đặc biệt khuyến khích nhập khẩu. Hiện nay EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hoá. Nội dung của chương trình là đẩy mạnh tự do hoá thương mại thông qua việc giảm dần thuế xuất nhập khẩu và xoá bỏ chế độ hạn ngạch và GSP vào cuối năm 2004. Như vậy từ năm 2005 hàng xuất khẩu của các nước đang và kém phát triển vào thị trường EU sẽ không được hưởng ưu đãi nữa. Hàng hoá Việt Nam sẽ phải cạnh tranh bình đẳng với hàng hoá của các nước khác, kể cả các nước phát triển và không phát triển. 2.1.2. Rào cản phi thuế quan 2.1.2.1. Biện pháp cấm nhập khẩu EU thường đưa ra lý do bảo vệ người tiêu dùng, bảo bệ môi trường và bảo vệ động thực vật để á._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0656.doc
Tài liệu liên quan