Thực trạng & Giải pháp để tiến hành thúc đẩy quá trình Cổ phần hóa Doanh nghiệp ở nước ta hiện nay

mục lục Lời nói đầu Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên mọi lĩnh vực nhằm thực hiện thành công và thăng lợi. Để biến mục tiêu thành hiện thực thì khoa học kỹ thuật công nghệ phải tiên tiến, hiện đại, nền kinh tế quốc dân phải vững mạnh. Theo ý đó công cuộc đổi mới kinh tế nước nhà được khởi xướng năm 1986 đã mở ra một môi trường phát triển cho các thành phần kinh tế. Trong đó khu vực kinh tế nhà nước ngày càng phát triển mạnh mẽ về số lượng(

doc32 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1411 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp để tiến hành thúc đẩy quá trình Cổ phần hóa Doanh nghiệp ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tính đến năm 1989 tổng số DNNN đã lên tới 12000 DN). Quá trình hoạt động của các doanh nghiệp nhiều nên Chính phủ không thể kiểm soát một cách có hiệu quả hoặc quản lý khu vực còn quá nhiều ràng buộc, động lực lợi nhuận để kích thích cạnh tranh yếu, tâm lý công chức sợ trách nhiệm, tính khách quan của cơ chế thị trường đòi hỏi làm cho hiệu qủa kinh tế của DNNN ngày càng suy giảm. Đứng trước tình hình đó Đảng và nhà nước ta đã có chủ trương tổ chức lại cơ cấu nền kinh tế, đa dạng hoá các hình thức sở hữu mà trong đó chủ yếu là cổ phần hoá một bộ phận các DNNN để đảm bảo tính cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, tạo thêm động lực mới trong công tác quản lý DNV&N, tăng cường vai trò tự chủ cho người lao động, huy động thêm vốn cho DNNN. Chủ trương của Đảng và nhà nước ta đều có cơ sở khoa học, thực tế. Do đó vấn đề cổ phần hoá DNNN là đúng đăn, là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật phát triển kinh tế. Quá trình thực hiện cổ phần hoá DNNN được băt đầu từ năm 1992 theo quyết định 202/ CT của Chủ tịch hội đồng bộ trưởng( nay là Thủ tướng Chính phủ) nhưng cho tới nay vẫn còn những vướng măc chưa khăc phục được làm chậm tiến trình cổ phần hoá DNNN. Sau khi thu thập tài liệu và sự chỉ bảo của thầy PGS.PTS Vũ Phán em xin trình bày bài viết. Trong quá trình viết bài em không tránh khỏi những sai phạm xảy ra, rất mong sự góp ý của thầy để bài viết lần sau được hoàn thiện hơn. Bài viết bao gồm 2 chương: Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về cổ phần hoá DNNN- cổ phần hoá các DNNN là một yếu tố khách quan. Chương 2 : Thực trạng và giải pháp để tiến hành thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Chương I một số vấn đề lý luận cơ bản về cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước . cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước là một tất yếu khách quan. I. thực chất của quá trình cổ phần hoá 1. Quan niệm về cổ phần hoá Có người cho rằng thực chất cổ phần hoá DNNN là tư nhân hoá DNNN ... Trái lại có người cho là xã hội hoá tư liệu sản xuất thuộc sở hữu nhà nước: Theo quan điểm cổ phần hoá DNNN là tư nhân hóa DNNN thì hiện tượng này không phải ngẫu nhiên xuất hiện hoặc do sự áp đặt của ý muốn chủ quan. Trái lại nó có nguồn gốc sâu xa từ sự biến đổi của môi trường kịnh tế thế giới, khi quy luật cạnh tranh và quy luật hiệu quả được đưa lên hàng đầu và tính thực dụng của các chính sách kinh tế ngày càng được đề cao . Nó cũng thể hiện ước muốn cải cách và đổi mới nền kinh tế nhằm nâng cao hiệu năng doanh nghiệp tránh được những nhược điểm cố hữu mà doanh nghiệp quốc doanh thường hay măc phải. Thật vậy, có hai cách hiểu về sự tư nhân hoá đó là theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Tư nhân hoá theo nghĩa rộng được LHQ định nghĩa: " Là sự biến đổi tương quan giữa nhà nước và thị trường trong đời sống kinh tế của một nước theo hướng yêu tiên thị trường ". Theo cách hiểu này thì toàn bộ những chính sách luật lệ, thể chế nhằm khuyến khích và mở rộng khu vực kinh tế tư nhân hay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, giảm bới sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị cơ sở, để cho thị trường đóng vai trò điều tiết đáng kể thông qua các quy luật khách quan của nó, đều được coi là các biện pháp tư nhân hoá. Tư nhân hoá theo nghĩa hẹp thường dùng để chỉ quá trình giảm bớt quyền sở hữu nhà nước hoặc sự kiểm soát của Chính phủ trong một doanh nghiệp. Song một vấn đề đặt ra là phải phân biệt giữa tư nhân hoá và cổ phần hoá. Tư nhân hoá là biến một tài sản sở hữu công thành tài sản sở hữu tư, có thể diễn ra cả với DNNN và tập thể. Còn cổ phần hoá đa dạng sở hữu hoá tài sản từ chấp nhận nhiều người góp vốn cùng sở hữu hoá tài sản- sở hữu hỗn hợp. Mặt khác, phương pháp tư nhân hoá là hoặc bán tài sản của DNNN cho tư nhân là hoặc hoặc thậm chí là cho không tư nhân đó. Còn phương pháp cổ phần hóa là huy động nhiều chủ thể đầu tư thuộc các thành phần khác nhau cùng là chủ thể trong một thành phần kinh tế cùng góp vốn để chuyển đổi từ một chủ sở hữu sang đa chủ sở hữu. Còn ý kiến xã hội theo nghĩa truyền thống: Là biến tài sản sở hữu tư nhân thành sở hữu tập thể hoặc sở hữu toàn dân. Vấn đề đặt ra là xã hội hoá và công hữu hóa có khác nhau không? Thực chất công hữu hoá về tư liệu sản xuất nói lên trình độ xã hội hóa của nó, hay xã hội hoá là thước đo của hình thức công hữu hoá. Do đó xã hội hoá tư liệu sản xuất dưới 2 hình thức tập thể và sở hữu toàn dân. Sự phát triển hợp quy luật theo tuần tự là sở hữu tư nhân lên đa dạng sở hữu của các tư nhân và tiếp theo. Quan hệ sản xuất ấy nảy sinh là do chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi mà có. Vì lẽ đó không phải chỉ có các nước XHCN cổ phần hoá một số DNNN mà bản thân các nước TBCN cũng có. Phải chăng đó là việc con người tự sửa chữa, tự điều chỉnh mình cho phù hợp với quy luật khách quan. Vậy cổ phần hoá DNNN là một khái niệm mà chúng ta cần xem xét cả khía cạnh khách quan và chủ quan: * Về khách quan: cổ phần hoá DNNN đó là do đòi hỏi khách quan của kinh tế thị trường. Đó cũng là đòi hỏi khách quan của quy luật Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong sự phát triển của xã hội loài người. Kinh tế thị trường với nhiều chủ sở hữu khác nhau đứng đối diện nhau. Đa sở hữu thuộc đa thành phần là quan hệ sản xuất đang thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển hiện nay. Nhưng ngoài ra các quy luật thị trường đang làm vỡ tung một số DNNN được dựng nên mà đáng ra không nên có, buộc chúng ta phải nhận thức lại và hành động lại . * Về phía chủ quan: Đối với nước ta với khối lượng 12000 DNNN nhà nước không kham nổi, không gánh mãi được với gáng nặng ngân sách nhà nước bao cấp để duy trì những xí nghiệp lẽ ra không nên có nên chúng ta cần chuyển hình thức sở hữu cho nó. Cạnh tranh trong cơ chế thị trường để nó có thể tồn tại và phát triển hoặc phá sản để nhà nước tập trung tiền vào các hoạt động khác có hiệu quả hơn. Tóm lại, Cổ phần hoá là gì ? ta có thể tạm đưa ra khái niệm về cổ phần hoá là một nội dung của đa dạng hoá các loại hình sở hữu, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, là qúa trình chuyển đổi hình thức sở hữu của một đơn vị kinh tế quốc doanh nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao hơn. 2. Các mô hình về công ty cổ phần. Khái quát lịch sử ra đời của công ty cổ phần theo sơ đồ sau: hình thái kinh doanh một chủ hình thái kinh doanh một chủ hình thái chung vốn hình thái Công ty cổ phần Chuyển hoá sự ra đời cuả các hình thái trên găn liền với sự ra đời và phát triển của chế độ tín dụng trên đã góp phần thúc đẩy sự tập trung tư bản bằng cách đẩy nhanh quá trình tuần hoàn và chu chuyển các loại vốn, tăng nhanh quy mô sản xuất và xã hội hóa sở hữu trong nền kinh tế thị trường TBCN với sự ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng đã làm cho hệ thống tín dụng ( Bao gồm tín dụng thương nghiệp và ngân hàng )chuyển biến một cách cơ bản. Quy mô và nhịp độ các vụ giao dịch cũng như huy động vốn đầu tư ngày càng nhanh thì uy tín cuả tín dụng ngày càng mở rộng. Cùng với sự mở rộng và phát triển của thương nghiệp thế giới, quy mô tích luỹ và và tái sản xuất của tư bản công nghiệp tăng lên, ngoài các loại kỳ phiếu thương nghiệp thông qua ngân hàng đã hình thành và lưu thông các loại chứng khoán có giá khác như cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu kho bạc, văn tự cầm cố, giấy tờ sở hữu bất động sản. Tín dụng ngân hàng ngày càng phát triển và ăn sâu trong các hoạt động kinh doanh thì các loại chứng khoán này ngày càng phát triển và cấu thành thị trường. Lúc đầu có kẻ môi gíơi đầu cơ kiếm lời cho đến khi hình thành các sở giao dịch, trong đó các ngân hàng đóng vai trò chính. Như vậy, sự phát triển của chế độ tín dụng đã tạo cơ sở cho việc hình thành thị trường vốn đầu tư và thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng đã tạo tiền đề cho sự hình thành các công ty cổ phần. Sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán đã giúp cho các công ty mở rộng và ngày càng xâm nhập mạnh mẽ ra hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế thị trường TBCN. Thị trường chứng khoán là trọng tâm phản ánh trạng thái hoạt động của các công ty trong nền kinh tế thị trường. Sự phát triển của loại hình công ty cổ phần đánh dấu sự chuyển hướng nền kinh tế từ trạng thái vay mượn chủ yếu qua ngân hàng hoặc chung vốn sang huy fđộng vốn trên thị trường tài chính. Các công ty cổ phần là nguồn cung cấp sản phẩm cho sự phồn vinh của thị trường này. Đổi lại sự thịnh vượng của thị trường tài chính tạo điều kiện cho các công ty cổphần sing sôi nảy nở . Ngay từ thời kỳ phát triển ban đầu của sở giao dịch và thị trường chứng khoán Anghen đã nhận định : " Ngày nay sở giao dịch có một tầm quan trọng lớn hơn nhiều và ngày càng tăng;những sự thay đổi ấy, trong sự phát triển về sau của chúng có xu thế tích tụ vào tay những nhà giao dịch chứng khoán toàn bộ nền sản xuất, công nghiệp cũng như nông nghiệp và toàn bộ lưu thông cả những phương tiện giao thông liên lạc cũng như chức năng trao đổi . Như vậy sở giao dịch trở thành người đại biểu tiêu biểu nhất của nền sản xuất TBCN ". Sự mở rộng thì trường thế giới bằng việc chinh phục các thuộc địa làm cho khối lượng tín dụng được huy fđộng theo truyền thống ngày càng không đáp ứng đủ so với các yêu cầu tăng nhanh về quy mô thương mại và sản xuất. Tình hình đó đã làm cho các hình thức công ty cổ phần trong thương mại và ngân hàng lần lượt ra đời như là kết quả của tín dụng ngân hàng và tín dụng thương nghiệp. Như vậy nó đã tạo ra cơ csở tín dụng cần thiết cho sự hình thành công ty cổ phần trong các ngành công nghiệp mà trước hết là các ngành cần khối lượng đầu tư rất lớn như: Chế tạo máy, đường săt, khai khoáng. Có thể nói chế độ tín dụng dựa trên sự phát triển hệ thống ngân hàng cổ phần và có sự tiếp xúc của các công ty thương mại cổ phần đã duy trì hoạt động có hiệu của thị trường tài chính và thúc đẩy các công ty cổ phần trong các ngành công nghiệp ra đời hoạt động và phát triển. Do những ưu điểm của nó, hình thái công ty cổphần mới ra đời đã lần lượt chiếm hết ngành này sang ngành khác, từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. ở thời đại của mình Ang ghen đã nhận xét rằng:với tốc độ tích luỹ ngày càng tăng và các tư bản cá biệt không thể sử dụng hết vào công việc kinh doanh cuả mình,cùng với lượng tư bản tiền tệ được giải phóng do đám người thực lợi tăng lên " ở tất cả những nơi nào trước đây chưa có, người ta đều lập ra các hình thức mới được pháp luật thừa nhận là những công ty trách nhiệm hữu hạn còn trách nhiệm của các cổ đông trước đây là vô hạn thì nay ít nhiều được giảm bớt " ( 8 trang 546) . Ang ghen viết tiếp : " Do đó công nghiệp dần dần biến thành những xí nghiệp cổ phần. Lần lượt hết ngành này đến ngành khác phải chịu số phận đó. Trước hết là công nghiệp đường săt, ngành hiện nay cần những khoản đầu tư khổng lồ ( trước kia là ngành mỏ nếu ngành này chưa có các hình thức xí nghiệp cổ phần). Rồi đến công nghiệp hoá chất, cũng như ngành chế tạo máy móc "... "Hãng cá thể thông thường ngày càng trở thành giai đoạn chuẩn bị nhằm đưa xí nghiệp tới một trình độ đủ lớn để trên cơ sở xí nghiệp đó mà thành lập công ty cổ phần) "... " Đối với các hãng buôn lẻ cũng đều như thế "... " Hàng loạt ngân hàng và cơ quan tín dụng mới hết thảy đều ở hình thức công tycổ phần có trách nhiệm hữu hạn. Cả ngân hàng cũ cũng được cải tổ thành công ty cổ phần "... "Trong lĩnh vực nông nghiệp cũng vậy. Các ngân hàng phát triển một cách không tưởng tượng được, ngày càng trở thành chủ nợ cầm cố; cùng với những cổ phiếu của chúng quyền sở hữu tối cao thật sự về ruộng đất đã chuyển về tay sở giao dịch và điều đó cũng diễn ra với mức độ lớn hơn khi ruộng đất rơi vào tay bọn chủ nợ "... "Tiếp đến mọi khoản đầu tư nước ngoài đều tiến hàng dưới hình thái công ty cổ phần "... "Rồi đến việc khai thác thuộc địa . Ngày nay việc này là chi nhánh thực sự của sở giao dịch " (8 trang 546). Nếu sự phát triển của chủ nghĩa tư bản được hình dung là quá trìng tích luỹ vốn và mở rộng băt đầu từ thương nghiệp, sau đó là công nghiệp nhẹ và nông nghiệp rồi vươn sang các ngành công nghiệp nặng thì có thể nói rằng hình thái công ty cổ phần là " Bà đỡ " cho sự ra đời các ngành công nghiệp nặng. Trải qua thời gian, hình thái công ty cổ phần ngày càng hoàn thiện phát triển và đa dạng hoá. Có thể nói hình thức công ty cổ phần là một phát minh quan trọng nhất trong lịch sử phát triển các hình thái tổ chức doanh nghiệp kể từ cuộc cách mạng trong công nghiệp của chủ nghĩa tư bản chứ không chỉ là sản phẩm thụ động của sự phát triển nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường công ty cổphần là một sản phẩm tự nhiên quá trình phát triển kinh tế theo những nấc thang nhất định từ hình thái kinh doanh một chủ đến hình thái kinh doanh chung vốn. * Đặc điểm của công ty cổ phần. Về mặt pháp lý: Công ty cổphần là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân mà vốn kinh doanh do nhiều người đóng góp dưới hình thức cổ phần. Khác với doanh nghiệp chung vốn, các cổ đông chỉ có trách nhiệm với các cam kết tài chính của công ty trong giới hạn số tiền mà họ đóng góp. Khi công ty bị phá sản thì họ cũng chỉ bị mất số tiền mà họ đầu tư vào công ty mà thôi. Nhờ đặcđiểm của công ty cổ phần mọi cổ đông bây giờ chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn và công ty là một hình thức pháp lý đầy đủ, thuận lợi để kinh doanh. Như trong việc thu hút vốn nó có thể khai thác được ngay cả những số tiền thấp nhất trong công chúng.Nhà kinh tế học Samueson đã chỉ ra rằng " Sản xuất lớn có hiệu quả về mặt kỹ thuật và một công ty lớn là một cách có lợi để các nhà đầu tư chia sẻ các rủi ro không thể khăc phục được của đời sống kinh doanh. Không có trách nhiệm pháp lý hữu hạn và công ty, thì điều đơn giản là nền kinh tế thị trường không thể thu hái lợi ích có được khi những lương tư bản lớn cần được thu hút vào những công ty với quy mô có hiệu quả, sản xuất ra nhiều loại sảnphẩm bổ sung cho nhau, chia sẻ những rủi ro và sử dụng tốt nhất các kết quả nghiên cứu của những đơn vị đơn vị nghiên cứu lớn và kiến thức quản lý " (Kinh tế học 12 trang 80) . Về mặt huy động vốn: Công ty cổ phần đã giải quyết hết sức thành công như: Thứ nhất: Việc mua cổ phiếu không những đem lại cho cổ đông lợi tức cổ phần mà còn hứa hẹn mang lại cho cổ đông một khoản thu nhập lớn Việc tăng giá trị cổ phiếu khi công ty làm ăn có hiệu quả. Thứ hai: Các cổ đông có quyền tham gia được quản lý theo điều lệ của công ty và được pháp luật đảm bảo, điều đó làm cho quyền sở hữu của các cổ đông trở nên cụ thể và có sức hấp dẫn hơn. Thứ ba: Các cổ đông có quyền được ưu đãi trong việc mua cổ phiếu mới phát hành của công ty trước khi đem bán rộng rãi cho công chúng. Ngoài ra hình thái công ty cổ phần đã thực hiện được việc tách quan hệ sở hữu ra khỏi quá trình kinh doanh, tách quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng tạo nên một hình thái xã hội hoá sở hữu của đông đảo quần chúng ở một bên còn bên kia là các tầng lớp, các nhà quản lý kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng tư bản xã hội cho các công cuộc kinh doanh quy mô lớn. C. Mác đã chỉ ra rằng : " Quyền sở hữu của tư bản bây giờ hoàn toàn tách khỏi chức năng của tư bản trong qúa trình tái sản xuất thực cũng hệt như chức năng đó thể hiện thông qua người quản lý tách khỏi quyền sở hữu tư bản " (7 trang 535). 3. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước chuyển sang loại công ty cổ phần mà mô hình chủ yếu là đa dạng hóa các hình thức sở hữu : Sở hữu tập fthể, sở hữu tư nhân, sở hữu nhà nước.Song tựu chung lại là chuyển 100% vốn nhà nước sang các công ty cổ phần mà nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đó . II. Tính tất yếu khách quan của cổ phần hoá DNNN trong công nghiệp nước ta hiện nay. 1. Thực trạng hệ thống DNNN ở nước ta hiện nay. Tính đến tháng 6 năm 1996 theo số liệu thống kê của bộ kế hoạch và đầu tư số lượng DNNN là 5790 doanh nghiệp. Trong quá trình xăp sếp lại DNNN dần dần được củng cố, hoạt động có hiệu quả hơn số doanh nghiệp bị lỗ giảm từ 21,7% năm 1990 xuống 16,1% năm 1994. Thời kỳ 1991-1995 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của DNNN là 11,7% trong khi nền kinh tế là 8,2% bằng 1,5% tốc độ tăng trưởng bình quân chung của nền kinh tế, tỷ trọng GDP của DNNN tăng từ 33,3% lên 39,6% so với GDP của cả nước,thu nhập fngân sách nhà nước tăng bình quân 50,4% năm. Trong năm 1995 các doanh nghiệp nhà nước nộp ngân sách là 14940 tỷ đồng tăng 7,7 lần so với năm 1990 và tăng 33% tổng thu về thuế của ngân sách nhà nước . Nhưng thực tế các DNNN hoạt đông kém hiệu quả,tính năng thấp được tập trung bởi các nguyên nhân sau: Thứ nhất: Khu vực kinh tế nhà nước được sinh ra và trưởng thành trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp kéo dài hàng chục năm với các chính sách giao nộp,cấp phát các DNNN hoạt động trong điều kiện vốn được nhà nước cấp vật tư được nhận theo chỉ tiêu, sản phẩm được giao nộp theo kế hoạch được săp đặt trước. Các điều kiện vật chất được nhà nước cân đối theo chỉ tiêu định mức.Doanh nghiệp chỉ đơn thuần là một đơn vị sản xuất hàng hoá theo những kế hoạch của cấp trên mất đi tính tự chủ và khả năng cạnh tranh . Bởi vậy tính chủ động sáng tạo của một đơn vị kinh doanh không được thực hiện nên khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Khu vực kinh tế nhà nước đó sợ cồng kềnh bộc lộ tất cả những hạn chế về hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cơ cấu bộ máy yếu kém và không đồng bộ trong việc thích ứng với thị trường. Thứ hai : Các DNNN đã từ lâu không được đặt trong môi trường cạnh tranh, hoạt động sản xuất kinh doanh không găn với thì trường do đó chậm đổi mới công nghệ về nâng cao chất lượng sản phẩm . Trong nền kinh tế khó khănvừa dokinh tế vừa do lịch sử những sản phẩm của các doanh nghiệp này làm ra đều buộc xã hội phải chấp nhận mặc dù chất lượng thấp kiểu dáng xấu.Mặt khác do cơ chế bao cấp bù lỗ tràn lan làm cho hạch toán kinh tế trong các doanh nghiệp chỉ là hình thức,sản xuất không tính chi phí,hiện tượng lãi giả ,lỗ thật và chạy theo thành tích một cách phi hiệu quả hết sức phổ biến.Điều tất yếu xảy ra là trình độ tổ chức quản lý,trình độ công nghệ tiến chậm và khoảng cách so với thế giới ngày càng xa. Thứ ba: Tổ chức bộ máy DNNN không phù hợp do quan niệm về sở hữu đối với doanh nghiệp không rõ ràng không có sự phân biệt đầy đủ về quyền sở hữu nhà nước và quyền quản lý kinh doanh của giám đốc và tập thể người lao động . Tình trạng làm chủ tập thể chung chung thực chất là " vô chủ " diễn ra phổ biến ở các doanh nghiệp . Thứ tư: Việc phân phối thực ra không được thực hiện theo nguyên tăc phân phối theo lao động mà chủ yếu nhằn phục vụ cho chính sách xã hội mang nặng tính bình quân chủ nghĩa,không tạo được động lực kích thích người lao động trong DNNN nhằm nâng cao hiệu qủa công tác và năng suất lao động thêm vào đó đội ngũ cán bộ với kiến thức và trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Hiện nay đất nước ta đã chuyển sang giai đoạn mới vấn đề làm sao để đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế và nâng caođời sống nhân dân là nhiệm vụ tối quan trọng hàng đầu mà ngay từ năm đầu 1990 để nâng cao hiệu quả của các DNNN ,Đảng ta đã chủ trương thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần nhằm tạo thêm động lực mới trong công tác quản lý doanh nghiệp , huy động thêm vốn cho yêu cầu đầu tư phát triển và điều chỉnh cơ cấu DNNN . 2.Tính ưu việt của loại hình doanh nghiệp công ty cổ phần. * Cổ phần hoá DNNN một động lực phát triển sản xuất kinh doanh. - Cổ phần hoá DNNN tạo động lực mạnh mẽ cho nhà đầu tư, cho nền kinh tế bằng cách đa dạng hoá sở hữu khkông riêng gì cho DNNN được cổphần hoá mà còn góp phần đadạng hoá cả nền kinh tế. Nó chính là động lực của người đầu tư, người có cổ phần , người lao động tiếp thêm sức cho yêu cầu cạnh tranh thị trường vì mục đích lợi nhuận vì quyết tâm tìm hiệu quả tối ưu cho đồng vốn đầu tư của mỗi chủ thể kinh tế cả pháp nhân và cá nhân trong hoạt động kinh tế .Việc đa dạng hóa sở hữu cũng đặt tiền đề cho việc đổi mới kế hoạch hoá phù hợp với cơ chế thị trường hàng hoá cạnh tranh. Cổ phần hoá DNNN mở ra triển vọng xây dựng thị trường vốn lành mạnh phong phú. Việc thu hút vốn cổ phần của các thành phần kinh tế khác và việc bán hàng hoá cổ phiếu sẽ đảm bảo thu hút và bổ sung thêm vốn cho các doanh nghiệp,đỡ gánh nặng cho ngân sách nhà nước và trong nhiều trường hợp còn tạo điều kiện cho nhà nước giúp bớt vốn ở lĩnh vực này để điều sang lĩnh vực khác quan trọng hơn. Cổ phần hoá sẽ góp phần tích cực cho việc hình thành thì trường vốn lành mạnh rồi tiến đến hình thành thị trường chứng khoán, một yêu cầu cần thiết cho việc vận hành của nền kinh tế thị trường . Hình thành những điều kiện thuận lợi mới để cơ cấu lại nền kinh tế. Việc cổ phần hoá sẽ mở rộng đa dạng sở hữu sẽ có thêm điều kiện mới cho việc mạnh dạn cơ cấu lại nền kinh tế phân bổ theo nhiều thành phần kinh tế .Từ đó có kế hoạch hoá lại nền kinh tế dựa trên động lực sở hữu của nhiều thành phần kinh tế, việc phân công lao động do tác động cuả thị trường cạnh tranh khi đó sẽ toát lên quan điểm sử dụng hiệu quả sức lao động theo quan điểm kinh tế hoá sức laođộng của nền kinh tế hoá mở ra thị trường sức lao động để đáp ứng moị yêu cầu phát triển đa dạng nền kinh tế quốc dân. Góp phần cải tiến quản lý kinh tế có hiệu quả hơn, bởi nó khăng định vai trò của hội đồng quản trị là tổ chức thay mặt tất cả các cổ đông, quản lý với tư cách người chủ thật sự với động cơ tất cả vì hiệu qủa của đồng vốn vì quyền lợi lợi nhuận của các cổ đông. Mặt khác hạn chế sự can thiệp phi kinh tế của các cơ quan hành chính tránh sự chỉ đạo đa tuyến.Đồng thời tạo điều kiện cho sự phân biệt chức năng quản lý kinh doanh với chức năng quản lý kinh doanh nhà nước, đáp ứng tốt yêu cầu quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường, tạo thế chủ động cho người bỏ vốn đầu tư trong mọi bài toán hiệu quả đối với đồng vốn của mình củng cố động lực cạnh tranh của nền kinh tế. Cổ phần hoá DNNN sẽ giúp cho người lao động ở đó thực hiện quyền làm chủ tốt hơn.Khi người lao động là thành viên của công ty cổ phần thì họ trở thành người làm chủ thực sự, có quyền lợi riêng gắn chặt với lợi ích chung cuả doanh nghiệp khi đó người lao động sẽ làm việc với tinh thần trách nhiệm cao hơn. Người lao động khi có quyền và trách nhiện cao hơn sẽ tạo môi trường thuận lợi cho việc đào tạo , bồi dưỡng đội ngũ nhà kinh doanh mới phù hợp với đòi hỏi của thị trường đáp ứng được yêu cầu đối tác với nứơc ngoài trong xu thế mở cửa hợp tác liên doanh liên kết. Tạo môi trường vừa cạnh tranh vừa tập hợp theo xu hướng hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh với mụcđích lợi nhụân cao. Việc đa dạng hoá sở hữu của từng công ty và của cả nền kinh tế ngoài việc tạo động lực mạnh cạnh tranh theo hướng lợi nhụân hiệu quả còn tạo được đòn bẩy kích thích vừa cạnh tranh, vừa liên kết kinh tế, tập hợp để hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh chuyên ngành hoặcđa ngành có thể mạnh về thì trường, về vốn nhằm mục đích thu hoạch được hiệu quả ngày một cao hơn. Đây là kinh nghiệm có thực ở các nước công nghiệp phát triển và các nước NIC. Ngoài ra nó còn tạo tiền đề và triển vọng cho việc hình thành các công ty, các tập đoàn đa quốc gia của nền kinh tế thế giới hiện nay. Khuyến khích và đảm bảo cạnh tranh bình đăng để phát triển trong khuôn khổ luật pháp quy định ... Bảo đảm tốt việc thực hiện chính sách xã hội. Tóm lại cổ phần hoá là một hứơng ra tốt có nhiều lợi ích thực tế cho nhà nước, cho người lao động và cho toàn xã hội, đó là giải pháp để thoát khỏi cảnh bế tăc của một số DNNN. Xong vấn đề quan trọng hơn là hình thành và phát triển thị trường chứng khoán. III. Những nội dung cơ bản của tiến trình cổ phần hoá DNNN công nghiệp ở nước ta hiện nay. Tiến trình cổ phần hoá DNNN được biểu hiện qua các giai đoạn sau: 1. Giai đoạn đầu: Trọng điểm cải cách của giai đoạn này là nông nghiệp đồng thời thực hiện việc mở rộng quyền tự chủ trong các doanh nghiệp, khuyến khích kinh doanh dưới nhiều hình thức sở hữu. Sau khi cải cách kinh tế ở nông thôn thu được kết quả, trọng điểm cải cách dần dần chuyển sang thành ph, cải cách ở thành phố lại băt đầu bằng việc mở rộng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp. Dưới cơ chế kế hoạch truyền thống các doanh nghiệp không những có quyền tự chủ trong kinh doanh mà còn không có quyền đối với lợi ích . Theo lối suy nghĩ truyền thống thì sau khi thực hiện công hữu hoá tư liệu sản xuất trung tâm kinh tế cao của cả nước vừa có quyền chi phối các nguồn lực xã hội, vừa có khả năng năm giữ các nhu cầu của xã hội, từ đó căn cứ vào thông tin của các nhu cầu này để tổ chức săp xếp một cách toàn diện. Cùng với việc phát triển của sản xuất, việc phân công lao động theo chiều sâu và sự đa dạng hoá nhu cầu của xã hội hơn nữa khối lượng thông tin về nhu cầu xã hội ngày càng lớn, phức tạp và diễn biến nhanh nên trung tâm kinh tế cao nhất rất khó thu thập và sử lý kịp thời đầy đủ những thông tin này, từ đó dẫn đến tình trạng không khớp giữa sản xuất với nhu cầu, hiệu quả kinh tế thấp, không phát huy được tính tích cực của người kinh doanh và người sản xuất . Tóm laị , trong giai đoạn đầu cải cách doanh nghiệp chủ yếu tập trung vào việc giữ lại lợi nhuận và xây dựng cơ chế khen thưởng theo chỉ tiêu sản xuất và hiệu quả kinh tế . Các doanh nghiệp nhà nước tuy có quyền tự chủ song vẫn chưa chịu sự khống chế của kế hoạch mang tính mệnh lệnh tập trung cao độ . 2. Giai đoạn hai: Nhà nước đã từng bước chuyển phương thức quản lý doanh nghiệp từ quản lý trực tiếp thông qua kế hoach mang tính mệnh lệnh là chính sang phương thức quản lý gián tiếp là chính các doanh nghiệp mở rộng hơn nữa quyền tự chủ trên các phương diện như: Nhân sự , giữ lại một phần lợi nhuận ... , phần lớn các doanh nghiệp được quyền định giá thành sản phẩm vượt mức và quỷền tự chủ đầu tư trong mức độ cho phép. Nhưng lại xuất hiện hiện tượng hưởng lãi nhưng không chịu lỗ trong các doanh nghiệp. 3. Giai đoạn ba. Trọng điểm của giai đoạn này là điều chỉnh và xem xét lại nền kinh tế quốc dân do hành loạt nguyên nhân như cải cách không đông bộ, khả năng quản lý vĩ mô kém, cơ chế tự điều tiết của kinh tế vi mô chưa hình thành, hệ thống thị trường và cơ chế thị trường chưa được kiện toàn. Do đó để đẩy nhanh tốc độ cải cách thúc đẩy tiến trình cổphần hoá DNNN thành hiệnthực cần phải phối hợp đồng bộ chỉnh thể, chủ yếu là làm tốt việc cải cách thể chế quản lý tài sảnnhà nước, chế độ lao động nhân sự, từng bước hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội,hoàn thiện và đưa vào pháp quy thị trường các yếu tố sản xuất, thúc đẩy sự di chuyển của các yếu tố sản xuất, cải cách hơn nữa thể chể đầu tư tiền tệ, xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa ngân hàng vàdoanh nghiệp, tạo môi trường bên ngoài thuận lợi cho cải cách doanh nghiệp hay cổ phần hoá DNNN. Chương II Thực trạng và giải pháp để tiến hành thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. I. Những quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nướcViệt Nam về quá trình cổ phần hoá. 1.Hệ thống quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với quá trình cổ phần hoá. Cổ phần hoá một số DNNN là một chủ trương lớn của nhà nước Việt Nam về đổi mới doanh nghiệp.Thật vậy, trong nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp thứ 4 Quốc Hội khoá IX (12/1993) đã khẳng định : "đổi mới cơ bản tổ chức và cơ chế tổ chức DNNN thực hiện các hình thức cổ phần hoá thích hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất để thu hút thêm các nguồn vốn tạo thêm động lực,ngăn chặn tiêu cực thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả ". Đảng cộng sản Việt Nam trong nhiều Nghị quyết của Đại hội Đảng và của Hội Nghị Ban Chấp Hành Trung Ương từ khóa VII đến khoá VIII đã đề ra nhiều định hướng chủ trương về cổ phần hoá: "Triển khai tích cực và vững chăc việc cổ phần hoá DNNN để huy động thêm vốn,tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả làm cho tài sản của nhà nước ngày càng tăng không phải để tư nhân hoá. Bên cạnh những doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sẽ có nhiều DNNN năm đa số hoặc năm tỷ lệ cổ phần chi phối gọi thêm cổ phần hoặc bán thêm cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp . Tuỳ từng trường hợp cụ thể, vốn huy động được phải dùng để đầu tư để mở rộng sản xuất kinh doanh " (Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII) " Đối với các DNNN không cần năm 100% vốn, cần lập kế hoạch cổphần hoá dể tạo động lực phát triển thúc đẩy làm ăn có hiệu quả. Sửa đổi bổ sung các quy định, kiện toàn tổ chức chỉ đạo cổ phần hóa các cấp. Thí điểm bán cổ phần cho người nước ngoài . Khuyến khích nông dân sản xuất nguyên liệu mua cổ phần ở các doanh nghiệp chế biến nông sản " ( Nghị quyết hội nghị lần 4 ban chấp hành trung ương đảng khóa VIII). Ngoài ra là một số văn bảnpháp quy điều chỉnh quá trình cổ phần hoá như văn bản như văn bản: + Chương trình cổ phần hoá thí điểm : Quyết định số 143 HĐBT 10/5/1990 của Hội đồng Chính phủ. - Luật công ty ban hành ngày 21/12/1990. - Quyết định số 202 ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ( Thủ tướng Chính phủ) về chủ trương thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần . Chỉ thị số 84 TTg ngày 4/8 /1993 của Thủ Tướng chính phủ yêu cầu triển khai và tiến hành có kết quả việc thí điểm cổ phần hoá các DNNN và các hình thức đa dạng hoá sở hữu đối với DNNN . - Quyết định số 84/TTg ngày 4/3/1993 về "Hướng dẫn đẩy mạnh chương trình thí điểm chuyển các xí nghiệp quốc doanh thành công ty cổ phần ". Chương trình cổ phần hoá mở rộng . - Luật công ty ban hành ngày 21 /12/1990 - Nghị định số 28/CP ngày 7/3/1996 của Chính phủ về việc " Chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần ". - Thông tư 50TC - TCGN ngày 30/8/1996 của bộ tài chính "Hướng dẫn các vấn đề về tài chính về việc bán và phát hành cổ phiếu trong khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần theo ngị định số 28/CP". - Quyết định 01/CPH ngày 9/6/1996 của Bộ trưởng trưởng ban cổ phần hoá trung ương " Các thủ tục để chuyển DNNN thành công ty cổ phần". - Nghị định 25CP ngày 26/3/1997 của Chính phủ về " Sửa đổi một số điều trong nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 ". - Chỉ thị 20-1998 /CT- TTg ngày 2ă/1998 " Về đẩy mạnh xăp sếp lại DNNN ". Trong đó nghị định 28CP ngày 7/5/1996 của Chính phủ là văn bản pháp lý cao nhất cho đến nay quy định một cách tương đối và toàn diện mục tiêu nguyên tắc, phương pháp các chính sách ưu đãi và tổ chức thực hiện cổ phần hoá. Qua các văn bản pháp lý nêu trên ta nhận thấy từ năm1991 cổ phần hoá DNNN đã trở thành một chủ trương xuyên suốt,là một nhiệm vụ quan._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0673.doc