Thực trạng & Giải pháp phát triển của kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 2 PHẦN NỘI DUNG I - Một số quan niệm cơ bản về KTTN 3 II - Thực trạng phát triển của KTTN ở nước ta hiện nay 6 1 - Những cơ hội 6 2 - Những thách thức đặt ra 7 III - Những giải pháp nhằm phát triển KTTN 12 KẾT LUẬN 14 LỜI MỞ ĐẦU Hơn 20 năm qua, đặc biệt là từ khi thực hiện  chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế thị trường, nước ta đã có nhiều giải pháp tích cực khơi thông nguồn lực trong nước, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển bình

doc14 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1874 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp phát triển của kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đẳng. Do vậy, cùng với khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân (KTTN) ngày càng phát triển nhanh cả về số lượng và hiệu quả hoạt động. Để thấy rõ vai trò của kinh tế tư nhân, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã khẳng định: "phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần". Thực tế trong những năm qua, phải nói rằng khu vực KTTN ngày càng chiếm được vị thế quan trọng trong phát triển kinh tế khu vực kinh tế tư nhân đã có đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Có những doanh nghiệp (DN) đã vươn lên chiếm lĩnh thị trường trong nước và nước ngoài bằng những sản phẩm và thương hiệu uy tín với khách hàng. Cục diện mới của kinh tế tư nhân đã mở ra. Kinh tế tư nhân tăng nhanh, góp phần quan trọng giải quyết việc làm cho xã hội, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong GDP cũng như trong đầu tư phát triển và đang vững vàng trong cạnh tranh, hội nhập. Năm 2003, kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân) chiếm 38,96% GDP; 26,4% giá trị sản xuất công nghiệp (năm 2002); 79,9% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ; trên 2/3 hàng hóa xuất khẩu... Đến hết năm 2006, cả nước có khoảng 230.000 doanh nghiệp tư nhân đăng ký theo Luật Doanh nghiệp; gần 3 triệu hộ kinh doanh cá thể công thương nghiệp và dịch vụ; khoảng 14.000 trang trại và hơn 12 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hóa, tạo ra sinh khí mới năng động, sáng tạo trước nay chưa từng có cho nền kinh tế. Trong nhiều ngành kinh tế, kinh tế tư nhân đang giữ vị trí chủ yếu trong sản xuất và xuất khẩu, như gạo, hải sản, chè, cà phê, hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ, v.v... với hiệu quả cao rõ rệt. Một tầng lớp xã hội mới, doanh nhân, đã bắt đầu hình thành, được xã hội công nhận và tôn vinh là "chiến sĩ xung kích thời bình”. Với những vai trò to lớn như vậy,dưới đây em xin trình bày những thực trạng và giải pháp nhằm phát triển KTTN ở nước ta hiện nay dựa trên những tài liệu thu thập được. PHẦN NỘI DUNG I - Một số quan niệm cơ bản về KTTN Theo Các Mác, nhà tư bản là những người chủ sở hữu vốn, tư liệu sản xuất..., bóc lột công nhân làm thuê, chiếm đoạt giá trị thặng dư do lao động không được trả công của công nhân làm thuê tạo ra. Nhà tư bản là những người sống và làm giàu hoàn toàn dựa vào giá trị thặng dư bóc lột được của công nhân làm thuê, chứ bản thân họ không hề tham gia lao động. Ở đây cần phân biệt 2 điểm: - Thứ nhất, phân biệt nhà tư bản với tư cách là kẻ bóc lột với nhà tư bản với tư cách là người quản lý doanh nghiệp. Nhà tư bản với tư cách là kẻ bóc lột chính là kẻ không lao động, chỉ sống và làm giàu nhờ chiếm đoạt giá trị thặng dư do công nhân làm thuê tạo ra. Còn nhà tư bản với tư cách là người quản lý doanh nghiệp thì anh ta có lao động quản lý, vì vậy mà anh ta được hưởng lương quản lý. Lương của người quản lý doanh nghiệp thậm chí rất cao so với lương của người công nhân bình thường. - Thứ hai, phân biệt nhà tư bản với chủ doanh nghiệp tiểu chủ. Nhà tư bản là kẻ sống và làm giàu chỉ dựa trên việc chiếm đoạt giá trị thặng dư bóc lột được, mà không hề có hoạt động lao động. Còn chủ doanh nghiệp tiểu chủ là người ít nhiều trực tiếp lao động cùng với công nhân. Người chủ doanh nghiệp tiểu chủ không thể thoát ly hoạt động lao động trực tiếp. Người công nhân làm việc trong các doanh nghiệp tiểu chủ thì không phải là lao động làm thuê, mà là thợ bạn. Họ là thợ vì họ là công nhân, nhưng đồng thời họ là bạn của người chủ doanh nghiệp tiểu chủ vì họ và chủ đều là những người lao động. Điểm phân biệt cơ bản thứ hai giữa nhà tư bản với chủ doanh nghiệp tiểu chủ là đối với nhà tư bản thì thu nhập từ lao động quản lý của họ (nếu nhà tư bản còn trực tiếp quản lý doanh nghiệp), dù thu nhập này cao hơn nhiều lần thu nhập của người công nhân, vẫn chỉ là một phần không đáng kể so với tổng giá trị thặng dư mà nhà tư bản bóc lột được từ lao động không được trả công của công nhân làm thuê. Còn đối với chủ doanh nghiệp tiểu chủ thì thu nhập từ lao động của họ là một phần quan trọng để duy trì cuộc sống và sản xuất của gia đình họ. Với quan niệm như trên, ở nước ta hiện nay chưa có những nhà tư bản chỉ sống và làm giàu nhờ chiếm đoạt giá trị thặng dư bóc lột được của công nhân làm thuê. Những chủ doanh nghiệp tư nhân đang bỏ nhiều vốn kinh doanh, thuê nhiều lao động và tất nhiên thu được một món lợi nhuận không nhỏ, nhưng họ vẫn là những người lao động trực tiếp: trực tiếp quản lý doanh nghiệp, trực tiếp lao động sản xuất một phần nào đó để làm ra hàng hóa, nhằm làm giàu cho mình và cho xã hội. Những người chủ doanh nghiệp như vậy thực chất chỉ là những tiểu chủ ở những mức độ khác nhau, trình độ khác nhau. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hóa có nhiều thành phần, trong đó có cả thành phần cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư nhân, nhưng về nguyên tắc chế độ xã hội – chính trị không phải là chế độ bóc lột và giai cấp bóc lột không phải là giai cấp thống trị. Đây là nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế tất yếu đi theo xu hướng gắn bó với nhau trong quan hệ hợp tác trong đó tính chất xã hội chủ nghĩa là chất mới, là tính chủ đạo. Và xã hội ta là cộng đồng những công dân bình đẳng, nằm trong khối liên minh nhân dân và dân tộc xây dựng chế độ mới. Quan hệ giữa người bỏ vốn kinh doanh hợp pháp với người làm công ăn lương không còn là quan hệ cưỡng bức giữa người bóc lột và người bị bóc lột, mà là quan hệ hợp tác tự nguyện giữa người có vốn kinh doanh với người có sức lao động nhưng không có vốn. Trong nền kinh tế theo chế độ hợp tác có định hướng xã hội chủ nghĩa, mọi thành phần kinh tế làm ăn hợp pháp đều góp phần xây dựng CNXH ở những mức độ khác nhau, đều nằm trong quan hệ liên kết, hợp tác nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó phù hợp với luận đề mác-xít rất cơ bản: các hình thức kinh tế tư hữu nhỏ không bao giờ là một phương thức sản xuất độc lập; tính chất của nó bị quy định bởi tính chất của quan hệ sản xuất (hay chế độ sở hữu) thống trị trong phương thức sản xuất nhất định. Hiện nay trong giới nghiên cứu ở nước ta đang có nhiều cách lý giải khác nhau về KTTN: Có người cho KTTN đồng nghĩa với “kinh tế tư bản tư nhân”, có người lại đồng nhất KTTN với kinh tế ngoài quốc doanh. Quan điểm hiện nay được ĐCSVN nêu ở Hội nghị trung ương 5 (khoá IX) tháng 3 – 2002, rằng: “KTTN gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và khuyến khích TBTN hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân”… Như vậy, do chưa có sự thống nhất chung, nên đến nay ta vẫn có thể hiểu khái niệm KTTN qua các cấp độ khác nhau:  - Theo cấp độ khái quát nhất: KTTN là khu vực kinh tế nằm ngoài quốc doanh (ngoài khu vực kinh tế nhà nước), bao gồm cả các doanh nghiệp trong và ngoài nuớc, trong đó tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư.  - Theo cấp độ hẹp hơn: KTTN gồm có kinh tế cá thể, tiểu chủ và KTTBTN.  Từ hai cách hiểu trên, chúng tôi tạm đi đến nhận thức mang tính khái quát chung về KTTN như sau:  KTTN là khu vực kinh tế gắn liền với các loại hình sở hữu tư nhân. Trong đó các chủ thể của nó tự chủ tiến hành sản xuất kinh doanh vì lợi ích trực tiếp của cá nhân, hay tập thể cá nhân hoạt động dưới những hình thức kinh tế khác nhau, dù có thuê hay không thuê mướn lao động.  Đây là khu vực kinh tế bao gồm nhiều trình độ và hình thức kinh tế khác nhau.  Từ quan điểm cho rằng nền kinh tế mới là nền kinh tế nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tất yếu chúng ta thừa nhận rằng mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, đều nằm trong liên minh nhân dân cách mạng, trong chế độ hợp tác do Đảng lãnh đạo; và Đảng phải bao gồm những người tiên tiến, tích cực cả về kinh tế và chính trị, của tất cả các thành phần kinh tế. II - Thực trạng phát triển của KTTN ở nước ta hiện nay 1 - Những cơ hội: Từ năm 2000 trở lại đây, khu vực kinh tế tư nhân (KVKTTN) nói chung, doanh nghiệp tư nhân (DNTN) nói riêng, đang phát triển mạnh, đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đang ngày càng khẳng định vai trò động lực của mình. Với việc thi hành Luật Doanh nghiệp và hàng loạt các biện pháp cải cách khác, môi trường kinh doanh ở nước ta trong mấy năm gần đây đã có những cải thiện quan trọng theo hướng mở rộng quyền tự do kinh doanh của người dân trên nguyên tắc doanh nghiệp và người dân được tự do kinh doanh tất cả những lĩnh vực mà luật pháp không cấm, khuyến khích người dân làm ăn, kinh doanh làm giàu cho mình và cho đất nước, khuyến khích mọi doanh nghiệp tham gia các ngành xuất khẩu, chú trọng hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa... Chính trong môi trường đó, KVKTTN và đặc biệt là DNTN đã nhanh chóng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của đất nước trên các mặt: tạo công ăn việc làm, tăng vốn đầu tư phát triển, mở rộng xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, thúc đẩy phát triển các thị trường, đổi mới kinh tế và hành chính... KVKTTN phát triển nhanh chóng trong thời gian qua còn do tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, khởi đầu từ khi chúng ta đổi mới, và đặc biệt phát triển từ giữa thập kỷ 1990, khi nước ta lần lượt tham gia ASEAN, ASEM, APEC và không ngừng mở rộng quan hệ song phương với các nước khác trên thế giới. Thị trường các nước mở rộng dần cho các sản phẩm của Việt Nam đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam (DNVN), trong đó có KVKTTNTN phát triển sản xuất, kinh doanh các sản phẩm của mình trên các thị trường khu vực và quốc tế. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh thị trường trong nước còn hạn hẹp do tình trạng nước nghèo, mức thu nhập và khả năng tiêu dùng còn thấp, các DNVN rất thiếu "đầu ra". Các quan hệ thương mại và đầu tư rộng mở cũng tạo cho DNVN cơ hội có các đối tác làm ăn, cơ hội học hỏi kinh nghiệm quản lý, tiếp thu công nghệ của họ, đào tạo nguồn nhân lực cho mình và trưởng thành dần qua hợp tác và cạnh tranh. Khi nước ta tham gia WTO, các cơ hội này lại càng mở rộng, những rào cản sẽ được dỡ bỏ, các DNVN sẽ có vị trí bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trên thị trường các nước. Họ sẽ có quyền không chỉ xuất nhập khẩu, tiếp nhận đầu tư, mà còn mở rộng nhiều phương thức hợp tác khác và đầu tư ra các thị trường nước ngoài, khai thác tối đa những lợi thế cạnh tranh của mình và tận dụng sự phân công lao động quốc tế, tham gia mạng lưới kinh doanh và chuỗi giá trị toàn cầu theo cách có lợi nhất cho mình. Tham gia WTO cũng thúc đẩy nước ta cải thiện mạnh mẽ môi trường pháp lý, chính sách cho kinh doanh, tạo thuận lợi cho cạnh tranh và phát triển của mọi doanh nghiệp. 2 - Những thách thức đặt ra: Tuy nhiên, trong bước đường phát triển vừa qua cũng như trong thời gian tới, khu vực kinh tế này còn phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, trở ngại: Một là, bản thân KVKTTN và các DNTN của nước ta nhìn chung còn nhỏ, yếu, mới hình thành, rất thiếu các nguồn lực cần thiết cũng như thiếu sự liên kết để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển. Trong DNTN của chúng ta có tới 95% thuộc quy mô nhỏ và vừa (theo tiêu chí của nước ta là có dưới 300 lao động và/hoặc dưới 10 tỉ đồng vốn), trong đó khoảng 50% thuộc quy mô nhỏ hoặc cực nhỏ (dưới 100 lao động và/hoặc dưới 5 tỉ đồng vốn). Cái yếu của DNTN ở nước ta thể hiện rõ nhất ở năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh nhìn chung còn thấp so với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp các nước xung quanh. Họ cũng yếu hơn phần lớn các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trong cùng lĩnh vực về quy mô, về khả năng tiếp cận các nguồn lực và kinh nghiệm thương trường. Do nhỏ, yếu, DNTN nước ta vừa rất khó đương đầu với cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường trong nước và quốc tế, vừa dễ bị tổn thương trước những biến động thị trường. Hơn 80% DNTN ở nước ta mới ra đời sau khi Luật Doanh nghiệp 1999 được thi hành nên họ còn rất thiếu kinh nghiệm thương trường, chưa đủ thời gian để trưởng thành, trong khi đã phải đối phó với áp lực cạnh tranh ngày càng mạnh. Hầu hết các DNTN ở nước ta đều thiếu những nguồn lực cơ bản cần thiết cho họ: nguồn vốn, đất đai, công nghệ, kỹ năng quản lý, nhân lực có chất lượng, thị trường, thông tin... và cả mối quan hệ với các đối tác quan trọng. Bản thân họ không thể có đủ nguồn lực, lại gặp khó khăn rất lớn trong việc tiếp cận với các nguồn lực có sẵn ở bên ngoài doanh nghiệp, kể cả những nguồn đã được Nhà nước cam kết hỗ trợ, ưu đãi hoặc giành quyền bình đẳng khi tiếp cận. Tình trạng thiếu nguồn lực của DNTN bị kéo dài đã hạn chế rất lớn sự phát triển của họ. Tuy trong thời gian qua, DNTN đạt tốc độ phát triển nhanh trên một số lĩnh vực, nhưng điều đó cũng do điểm xuất phát của họ rất thấp. Nếu tính tới hàm lượng tăng trưởng, DNTN khó sánh được với DNNN, còn tính cả về hàm lượng và chất lượng, họ khó sánh được với FDI, nhất là trong phát triển công nghiệp và các lĩnh vực đòi hỏi nguồn vốn lớn. Do vậy, DNTN vừa khó cạnh tranh, vừa khó là đối tác bình đẳng với DNNN, FDI và doanh nghiệp các nước khác. Cho tới nay, số DNTN trưởng thành, đạt quy mô kinh tế hiệu quả còn chiếm tỷ lệ rất thấp trong DNTN ở nước ta. Ngay trong số DNTN đã trưởng thành cũng không ít doanh nghiệp đang lúng túng về chiến lược và nguồn lực để tiếp tục phát triển trong thời gian tới. DNTN cũng chưa thiết lập được sự liên kết giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế với nhau trong từng ngành, giữa các ngành liên quan, hoặc trong từng vùng để tạo thế mạnh của tính hệ thống và hiệu quả của sự phối hợp. Từng DNTN mới chỉ dựa vào sức mình là chính, chưa khai thác, sử dụng được sức mạnh của sự liên kết vốn rất cần thiết, nhất là đối với các doanh nghiệp (DN) nhỏ và vừa. Thực tế đây cũng là vấn đề chung của các doanh nghiệp Việt Nam, với những mạng lưới kinh doanh chưa được hình thành đầy đủ, thiếu những doanh nghiệp thật mạnh có khả năng làm trụ cột, đầu đàn tạo sự liên kết, hợp tác vững chắc để nhân thêm sức mạnh trong cạnh tranh quốc tế. Hai là, môi trường kinh doanh trong nước còn nhiều khó khăn và thiếu bình đẳng. Tình trạng này kéo dài đã lâu nhưng chậm được khắc phục, khiến cho môi trường kinh doanh luôn là thách thức lớn nằm ngoài khả năng kiểm soát của DN. Trong môi trường kinh doanh ở nước ta hiện nay, trở ngại lớn nhất của KVKTTN và DNTN là ở 5 mặt sau: + Việc gia nhập thị trường tuy đã được cải thiện nhiều do Luật Doanh nghiệp nhưng vẫn còn đòi hỏi chi phí cao về tiền của và thời gian. Do vậy, vẫn còn có khó khăn cho nhiều người, nhiều vùng khi muốn lập thêm DN mới. Hiện nay, ngoài khâu đăng ký kinh doanh là nhanh chóng và ít tốn kém nhất, các DN mới ra đời còn phải qua 3 khâu (khắc dấu, đăng ký mã số thuế, mua hóa đơn) trước khi có thể bắt đầu hoạt động, với tổng thời gian 50 - 60 ngày và chi phí khoảng 3 - 5 triệu đồng, tương đương với 49% thu nhập bình quân đầu người trong 1 năm ở nước ta. Ngoài ra, quyền kinh doanh của DNTN trong một số lĩnh vực cũng còn bị hạn chế, hoặc do các quy định về điều kiện kinh doanh hoặc do quy hoạch ngành, vùng ở một số nơi, hoặc do các rào cản thực tế khác. + Còn những rào cản lớn về pháp lý và hành chính trong quá trình hoạt động của DN. Hệ thống luật pháp và chính sách của nước ta còn những nhược điểm: thiếu minh bạch, thiếu nhất quán, thiếu ổn định, khó tiên liệu; tổ chức thực thi lại kém. Hệ thống hành chính của ta kém hiệu quả, với tình trạng can thiệp hành chính vào hoạt động của DN phổ biến và kéo dài. Sự yếu kém, nhũng nhiễu của không ít công chức đã làm vô hiệu hóa những chính sách tốt và cam kết cải cách của Nhà nước. Nhiều vướng mắc của DN trong lĩnh vực thanh tra, kiểm tra, thuế, phí, hải quan, đất đai... kéo dài đã lâu nhưng rất chậm được giải quyết. Đó là những vấn đề chung của mọi loại hình DN ở nước ta, nhưng đối với DNTN, những vấn đề này còn nặng nề hơn do sự phân biệt đối xử vẫn tồn tại trên thực tế. + Tiếp cận các nguồn lực rất khó khăn và tốn kém. Như đã nêu trên, DNTN rất khó tiếp cận với các nguồn lực cần thiết, và họ phải trả giá rất cao để tiếp cận với các nguồn lực đó. Trong khi đó, các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại được tiếp cận dễ dàng hơn, với những điều kiện ưu đãi và chi phí thấp hơn nhiều. Thực tế này gây nên sự bất bình đẳng lớn cho DNTN, làm cho họ mất đi nhiều cơ hội thị trường, tăng rủi ro và giảm đáng kể khả năng đầu tư của họ. + Chi phí kinh doanh ở nước ta khá cao so với các nước trong khu vực, khiến cho DNTN của ta khó có thể giảm giá thành để nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời chi phí cao cũng hạn chế khả năng sinh lời, làm giảm động lực và nguồn lực trong kinh doanh, cản trở nhiều người đi vào hoạt động thương trường hoặc tích lũy thêm vốn cho đầu tư mới. So với các nước trong khu vực, chi phí kinh doanh ở nước ta cao về nhiều mặt. Các dịch vụ hạ tầng như đất đai, nhà xưởng, điện, thông tin liên lạc, giao thông vận tải... đều có mức giá cao, chất lượng dịch vụ lại thấp, khiến cho chi phí thực tế đối với DN càng lớn. Chi phí vốn cao về lãi suất, phí tiếp cận, lại khó vay trung hạn, dài hạn nên thêm đắt đỏ cho các DN cần vốn để đầu tư. Chi phí hành chính, chi cho các dịch vụ cần thiết, nhiều khoản chi không được tính vào giá thành để trừ thuế... càng làm tăng chi phí thực tế của DN. Những nguyên nhân cơ bản của tình trạng chi phí kinh doanh cao ở nước ta như quản lý yếu kém, độc quyền kinh doanh của một số DNNN trong một số lĩnh vực... chậm được khắc phục, nên tình trạng này kéo dài và trở thành gánh nặng lớn đối với DNTN. + Thiếu hệ thống dịch vụ và tổ chức hỗ trợ DN. Hệ thống dịch vụ phát triển kinh doanh, hệ thống tổ chức hỗ trợ DN rất cần thiết đối với KVKTTN, đặc biệt là các DN nhỏ và vừa, các DN phi hình thức. ở nước ta, cả 2 hệ thống này đều chưa được phát triển, vừa thiếu, vừa yếu, vừa kém về chất lượng. Ba là, thách thức của môi trường kinh doanh quốc tế trong tiến trình hội nhập. Là nước đi sau, doanh nghiệp tham gia sâu vào thị trường thế giới, nước ta và các doanh nghiệp, đặc biệt là KVKTTN gặp không ít trở ngại trong quan hệ với cộng đồng kinh doanh quốc tế trên thế giới.Trước hết, môi trường kinh doanh quốc tế chứa đựng nhiều điều kiện không thuận lợi cho các nước đang phát triển như nước ta. Sự bất công, bất bình đẳng không những không giảm mà còn có chiều hướng tăng lên trên nhiều lĩnh vực. Các nước lớn, các công ty đa quốc gia nắm quyền chi phối thị trường đã luôn tìm cách lái thị trường thế giới theo hướng có lợi cho họ. Trong khi các nước đang phát triển luôn luôn gặp sức ép đòi phải mở cửa thị trường, thì trong thực tế các rào cản thuế và phi thuế, các hàng rào kỹ thuật lại ngày càng được các nước phát triển dựng lên nhiều hơn, gây trở ngại cho xuất khẩu của các nước đang phát triển. Nước ta và KVKTTN của nước ta thậm chí còn phải chịu sự phân biệt đối xử từ những thủ tục như chứng minh năng lực sản xuất, kiểm tra tại doanh nghiệp... do một số nước bạn hàng tạo thêm. Trong điều kiện như vậy, khoảng cách với bạn hàng, sự hạn chế của KVKTTN do thiếu thông tin, hiểu biết, kinh nghiệm, kỹ năng, phương tiện trong kinh doanh quốc tế càng đẩy chúng ta vào thế khó khăn hơn. Trong tiến trình hội nhập quốc tế hiện nay, chúng ta còn đang bị sức ép rất lớn về thời gian. Nước ta cần hội nhập sớm, nhưng DN ta lại có quá ít thời gian để chuẩn bị. Chúng ta phải chấp nhận cạnh tranh toàn cầu ngay từ bây giờ, trong khi năng lực cạnh tranh của chúng ta còn thấp và phải mất nhiều thời gian, công sức để cải thiện. Chúng ta phải cố gắng để theo kịp trình độ phát triển ở một số nước khác, nhưng do thế giới bên ngoài thay đổi nhanh, nên tốc độ và chất lượng thay đổi của chúng ta khó theo kịp họ. Dù tốc độ tăng trưởng GDP, tăng trưởng xuất khẩu của nước ta hiện nay có khá cao, thì với hàm lượng tăng nhỏ hơn, năng suất lao động thấp hơn nhiều nước khác, trên thực tế chúng ta vẫn đang tụt lại xa hơn sau họ. Thực tế đó còn khiến chúng ta kém khả năng ứng phó với các biến động của thị trường và dễ bị tổn thương hơn... Nhìn chung, chặng đường trước mắt của KVKTTN nước ta còn rất dài và đầy gian nan. Tuy nhiên, với quyết tâm cao và đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, với lực lượng doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đang trưởng thành, đầy ý chí vươn lên làm giàu cho mình và cho đất nước, với bản lĩnh và tài năng của mình, với sự liên kết, hợp tác ngày càng phát triển giữa các DNVN với nhau và với cộng đồng kinh doanh quốc tế, chắc chắn KVKTTN Việt Nam sẽ vượt qua mọi thách thức, giành những thắng lợi lớn hơn trong kinh doanh, phát triển nhanh và vững chắc để làm một động lực mạnh đưa nền kinh tế nước ta phát triển và hội nhập. III - Những giải pháp nhằm phát triển KTTN Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã chỉ rõ: tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân trên một số mặt cơ bản sau: - Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân; khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi và định hướng, quản lý sự phát triển của kinh tế tư nhân theo pháp luật, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Các hộ kinh doanh cá thể được nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển ở cả nông thôn và thành thị; khuyến khích các hộ liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý và tâm lý xã hội để các doanh nghiệp của tư nhân phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm, không hạn chế về quy mô, nhất là trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước; khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. - Bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của cả người lao động và người sử dụng lao động. Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở pháp luật và tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái. Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục các chủ doanh nghiệp nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, gắn bó với lợi ích của đất nước và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. - Tăng cường lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và các hiệp hội doanh nghiệp đối với kinh tế tư nhân nói chung cũng như trong từng doanh nghiệp. - Sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp và một số quy định chưa thống nhất giữa các văn bản pháp luật đã ban hành về những vấn đề liên quan đến kinh tế tư nhân theo hướng xoá bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế; bao đảm thể hiện đồng bộ, nhất quán các quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân, tính cụ thể, minh bạch và ổn định của pháp luật; tiếp tục tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong luật pháp, thủ tục hành chính. Quy định rõ những ngành nghề, lĩnh vực kinh tế tư nhân không được phép kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện; khi thay đổi các quy định cần có thời gian chuyển tiếp và chính sásh bổ sung để doanh nghiệp thích ứng, giảm thiểu thiệt hại cho người kinh doanh. - Tập trung sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế về cơ hội và khả năng lựa chọn các điều kiện để phát triển; tiếp tục tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, sửa đổi những quy định chưa phù hợp với trình độ, quy mô kinh doanh để kinh tế tư nhân có thể thụ hưởng những chính sách ưu đãi của nhà nước đối với các ngành, vùng, các sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển không phân biệt thành phần kinh tế; chú trọng tạo điều kiện, hỗ trợ những doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Tiếp tục hoàn thiện và tăng cường quản lý nhà nước. Chức năng quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân là : xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý và ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với các đơn vị sản xuất, kinh doanh; xây dựng quy hoạch và trợ giúp đào tạo cán bộ quản lý cho doanh nghiệp; giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, chế độ, chính sách nhà nước của doanh nghiệp, nắm chắc tình hình đăng ký kinh doanh và hoạt động của các hộ kinh doanh và doanh nghiệp. - KTTN được Đảng, Nhà nước và xã hội xác định là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân thống nhất, phát triển lâu dài góp phần vàp sự tăng trưởng, phát triển kinh tế đất nước vì mục tiêu chung "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". PHẦN KẾT LUẬN Thực tiễn 20 năm đổi mới đã chứng minh vai trò to lớn của kinh tế tư nhân trong tiến trình phát triển của đất nước. Để kinh tế tư nhân tiếp tục phát triển và đóng góp ngày càng tích cực cho nền kinh tế nước ta trong những năm tới, đòi hỏi các ngành, các cấp, các địa phương cần có những giải pháp có tính khả thi, đồng bộ cả trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Hy vọng rằng, với những giải pháp trên có thể phần nào cải thiện được tình trạng khó khăn hiện nay của các DNTN, giúp cho các doanh nghiệp này có thể vững vàng hơn khi bước vào hội nhập kinh tế thế giới, sẵn sàng sánh ngang với các cường quốc năm châu. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0203.doc
Tài liệu liên quan