Thực trạng & Giải pháp quản lý nha nước mở rộng & phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam

Mục lục Lời Nói Đầu Vấn đề huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng .Thực tiễn sinh động của công cuộc đổi mới ở nước ta đã chỉ ra rằng, để đáp ứng yêu cầu về vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thì việc xây dựng thị trường chứng khoán ngày càng phát triển là hết sức cần thiết. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, khi Việt

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1212 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp quản lý nha nước mở rộng & phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO. Nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước đòi hỏi ngày càng nhiều vốn. Bên cạnh vốn trong nước, cần phải huy động vốn nhàn rỗi của dân cư trong nước và nước ngoài . Thị trường chứng khoán là công cụ đắc lực để huy động mọi nguồn lực có thể huy động được, khơi dậy mọi nguồn lực trong nước, khuyến khích dân cư tiết kiệm và hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư, thu hút đầu tư từ nước ngoài . Tuy nhiên, để thị trường chứng khoán ngày càng phát triển và hoạt động có hiệu quả, đòi hỏi nhà nước phải có các giải pháp quản lý chặt chẽ và phù hợp trong điều kiện hội nhập của Việt Nam hiện nay. Chính tính chất quan trọng, thực tiễn, phức tạp của vấn đề phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam đã gợi ý cho sinh viên có những nghiên cứu cụ thể rất bổ ích. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy đã giúp em nâng cao kiến thức và hoàn thành bài viết này. Trong khuôn khổ một bài viết ngắn, và những hiểu biết còn hạn chế về thị trường chứng khoán . Đề án chắc chắn không tránh khỏi nhiều sai sót. Kính mong thầy sửa chữa bổ sung để đề án hoàn chỉnh hơn. Chương I Những vấn đề cơ bản thị trường chứng khoán. I - Khái niệm và vai trò của chứng khoán. 1. Chứng khoán là gì? Chứng khoán là chứng chỉ thể hiện quyền của chủ sở hữu chứng khoán đối với người phát hành. Chứng khoán bao gồm : chứng khoán nợ (trái phiếu), chứng khoán vốn (cổ phiếu) và các chứng chỉ có nguồn gốc chứng khoán (chứng quyền, chứng khế, chứng chỉ thụ hưởng ...). Các chứng khoán do chính phủ, chính quyền địa phương và các công ty phát hành với mức giá nhất định. Sau khi phát hành, các chứng khoán có thể được mua đi bán lại nhiều lần trên thị trường chứng khoán theo các mức giá khác nhau tuỳ thuộc vào cung và cầu trên thị trường. 2. Các loại chứng khoán Chứng khoán là một danh từ chung để chỉ các loại chứng khoán : cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu. 2.1. Cổ phiếu Cổ phiếu là chứng khoán vốn, xác nhận quyền sở hữu một phần tài sản công ty của cổ đông. Cổ phiếu gồm hai loại chính: - Cổ phiếu thường: là cổ phiếu xác định quyền sở hữu của cổ đông trong công ty. Cổ phiếu thường được đặc trưng bởi quyền quản lí, kiểm soát công ty. Khi công ty giải thể hoặc phá sản, cổ đông sở hữu cổ phiếu thường sẽ được chia số tiền còn lại sau khi thanh toán các khoản nợ và thanh toán cho cổ phiếu ưu đãi. - Cổ phiếu ưu đãi: là cổ phiếu có cổ tức xác định được thể hiện bằng số tiền xác định được in trên cổ phiếu hoặc theo tỉ lệ phần trăm cố định so với mệnh giá cổ phiếu. Cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi không được tham gia bỏ phiếu bầu ra hội đồng quản trị. Khi công ty giải thể hoặc phá sản, cổ phiếu ưu đãi được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu thường. 2.2. Trái phiếu : Trái phiếu là chứng khoán nợ, người phát hành trái phiếu phải trả lãi và hoàn trả gốc cho những người sở hữu trái phiếu vào lúc đáo hạn. Trái phiếu có thể phân theo nhiều tiêu chí khác nhau: - Căn cứ vào chủ thể phát hành, trái phiếu gồm hai loại chính là: trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương (do chính phủ và chính quyền địa phương phát hành) và trái phiếu công ty (do công ty phát hành). - Căn cứ vào tính chất chuyển đổi, trái phiếu được chia thành loại có khả năng chuyển đổi (chuyển đổi thành cổ phiếu) và loại không có khả năng chuyển. - Căn cứ vào cách thức trả lãi, trái phiếu được chia thành các loại sau: + Trái phiếu có lãi suất cố định: là loại trái phiếu được thanh toán cố định theo định kỳ. + Trái phiếu với lãi suất thả nổi: là loại trái phiếu mà khoản lãi thu được thay đổi theo sự biến động của lãi suất thị trường hoặc bị chi phối bởi biểu giá, chẳng hạn như giá bán lẻ. + Trái phiếu chiết khấu: là loại trái phiếu không trả thưởng và được bán theo nguyên tắc chiết khấu. Tiền thưởng cho việc sở hữu trái phiếu nằm dưới dạng lợi nhuận do vốn đem lại hơn là tiền thu nhập ( nó là phần chênh lệch giữa giá trị danh nghĩa- mệnh giá trái phiếu và giá mua). - Trái phiếu có bảo đảm và trái phiếu không có bảo đảm. 2.3. Các chứng chỉ có nguồn gốc chứng khoán: - Chứng quyền: là giấy xác nhận quyền được mua cổ phiếu mới phát hành tại mức giá thường bán ra của công ty. - Chứng khế: là các giấy tờ được phát hành kèm theo các trái phiếu, trong đó xác nhận quyền được mua cổ phiếu theo những điều kiện nhất định. - Chứng chỉ thụ hưởng: là giấy xác nhận quyền lợi của khách hàng là những nhà đầu tư cá nhân trong các quỹ đầu tư nhất định. II. thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán là nơi giao dịch , ở đó diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán , việc mua bán chứng khoán được thực hiện bởi những người môi giới ( hinh kỹ) chứng khoán 1. Cơ cấu thị trường chứng khoán Xét về sự lưu thông của CK trên thị trường, TTCK có hai loại: Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp: Là thị trường phát hàno, đây là thị trường mua bán các chứng khoán phát hành lần đầu giữa nhà phát hành (người bán) và nhà đầu tư (người mua). Trên thị trường sơ cấp, chính phủ và các công ty thực hiện huy động vốn thông qua việc phát hành- bán chứng khoán của mình cho nhà đầu tư. Vai trò của thị trường sơ cấp là tạo ra hàng hoá cho thị trường giao dịch và làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Nhà phát hành là người huy động vốn trên thị trường sơ cấp, gồm chính phủ, chính quyền địa phương, các công ty và các tổ chức tài chính. Nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp bao gồm cá nhân, tổ chức đầu tư. Tuy nhiên, không phải nhà phát hành nào cũng nắm được các kiến thức và kinh nghiệm phát hành. Vì vậy, trên thị trường sơ cấp xuất hiện một tổ chức trung gian giữa nhà phát hành và nhà đầu tư, đó là nhà bảo lãnh phát hành chứng khán. Nhà bảo lãnh phát hành chứng khoán giúp cho nhà phát hành thực hiện việc phân phối chứng khoán mới phát hành và nhận từ nhà phát hành một khoản hoa hồng bảo lãnh phát hành cho dịch vụ này. Thị trường thứ cấp: Là thị trường giao dịch, đây là thị trường mua bán các loại chứng khoán đã được phát hành. Thị trường thứ cấp thực hiện vai trò điều hoà, lưu thông các nguồn vốn, đảm bảo chuyển hoá các nguồn vốn ngắn hạn thành dài hạn. Qua thị trường thứ cấp, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời có thể đầu tư vào chứng khoán, khi cần tiền họ có thể bán lại chứng khoán cho nhà đầu tư khác. Nghĩa là thị trường thứ cấp là nơi làm cho các chứng khoán trở nên ‘lỏng’ hơn. Thị trường thứ cấp là nơi xác định giá của mỗi loại chứng khoán mà công ty phát hành chứng khoán bán ở thị trường thứ cấp. Nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp chỉ mua cho công ty phát hành với giá mà họ cho rằng thị trường thứ cấp sẽ chấp nhận cho chứng khoán này. Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp là hai bánh xe của một chiếc xe. Thị trường sơ cấp là bánh động lực còn thị trường thứ cấp là bánh cân bằng. Như vậy thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ nội tại, trong đó thị trường sơ cấp là tiền đề còn thị trường thứ cấp là động lực. Xét về phương diện tổ chức và giao dịch, TTCK có ba loại: Thị trường chứng khoán tập trung: Là thị trường ở đó việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện thông qua Sở giao dịch chứng khoán. Thị trường chứng khoán bán tập trung: Là thị trường CK “bậc cao”. Thị trường chứng khoán bán tập trung (OTC) không có trung tâm giao dịch mà giao dịch mua bán chứng khoán thông qua mạng lưới điện tín, điện thoại. Một điều rất quan trọng là các nhà đầu tư trên thị trường OTC không trực tiếp gặp nhau để thoả thuận mua bán chứng khoán như trong phòng giao dịch của SGDCK, thay vào đó họ thuê các công ty môi giới giao dịch hộ thông qua hệ thống viễn thông. Các công ty chứng khoán trên thị trường OTC có mặt ở khắp nơi trên đất nước, mỗi công ty chuyên kinh doanh buôn bán một số loại chứng khoán nhất định. Các công ty chứng khoán giao dịch mua bán chứng khoán cho mình và cho khách hàng thông qua việc giao dịch với các nhà tạo thị trường về các loại chứng khoán đó. Các công ty cũng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán như: giao dịch mua bán cho chính mình, môi giới mua bán cho khách hàng, dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, bảo lãnh phát hành. Các chứng khoán mua bán trên thị trường OTC cũng phải được niêm yết công khai cho công chúng biết để có quyết định đầu tư. Các chứng khoán được niêm yết trên thị trường OTC tương đối dễ dàng, các điều kiện niêm yết không quá nghiêm ngặt. Như vậy, hầu như tất cả các chứng khoán không được niêm yết trên SGDCK đều được giao dịch ở đây. Các chứng khán buôn bán trên thị trường OTC thường có mức độ tín nhiệm thấp hơn các chứng khoán được niêm yết trên SGDCK. Song, do thị trường nằm rải rác ở khắp các nơi nên độ lớn của thị trường khó có thể xác định chính xác được, thông thường khối lượng buôn bán chứng khoán trên thị trường này là lớn hơn SGDCK. Từ điều kiện niêm yết thông thoáng hơn mà chứng khoán của các công ty được buôn bán trên thị trường này nhiều hơn, thậm chí một số chứng khoán được niêm yết trên SGDCK cũng được mua bán ở thị trường này. Hoạt động giao dịch buôn bán chứng khán trên thị trường OTC cũng diễn ra khá đơn giản. Khi một khách hàng muốn mua một số lượng chứng khoán nhất định, anh ta sẽ đưa lệnh ra cho công ty chứng khoán đang quản lý tài sản của mình yêu cầu thực hiện giao dịch hộ mình. Thông qua hệ thống viễn thông, công ty môi giới- giao dịch sẽ liên hệ tới tất cả các nhà tạo thị trường của loại chứng khoán này để biết được giá sàn bán thấp nhất của loại chứng khán đó. Sau đó công ty này sẽ thông báo lại cho khách hàng của mình và nếu khách hàng chấp thuận, thì công ty sẽ thực hiện lệnh này và giao dịch của khách hàng sẽ được thực hiện. Thị trưòng chứng khoán phi tập trung: Còn gọi là thị trường thứ ba. Hoạt động mua bán chứng khoán được thực hiện tự do. 2.Chức năng của TTCK Thị trường chứng khoán là hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị trường. Thị trường chứng khoán là lĩnh vực thu hút được đông đảo người tham gia nhất, với thời gian nhanh nhất, nó tạo cơ hội thuận lợi và khả năng rộng rãi cho các nhà đầu tư chọn được cách đầu tư có hiệu quả nhất. Thị trường chứng khoán ra đời và hoạt động lành mạnh sẽ thúc đẩy nền kinh tế thị trường của ta phát triển nhanh và toàn diện, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn tài chính, bảo đảm cung cấp kịp thời các nhu cầu v ề vốn đầu tư phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ và giảm lạm phát, giảm bội chi ngân sách. Thị trường chứng khoán thực sự là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Nếu xét cụ thể thì có thể thấy thị trường chứng khoán có các chức năng cơ bản sau: 2.1.Chức năng thứ nhất:huy động vốn cho nền kinh tế Thị trường chứng khoán được xem như chiếc cầu vô hình nối liền người thừa vốn với người thiếu vốn để họ giúp đỡ nhau thông qua việc mua bán cổ phiếu và qua đó để huy động vón cho nền kinh tế, góp phần phát triển sản xuất kinh doanh tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp, ổn định đời sống dân cư và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.Thông qua thị trường CK, chính phủ và chính quyền địa phương cũng huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Thị trường chứng khoán đóng vai trò tự động điều hoà vốn giữa nơi thừa sang nơi thiếu vốn. Vì vậy, nó góp phần giao lưu và phát triển kinh tế. 2.2. Chức năng thứ hai: thông tin Thị trường chứng khoán bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời(cho các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán ) về tình hình cung - cầu, thị giá của từng loại chứng khoán trên thị trường mình và trên thị trường chứng khoán hữu quan. 2.3. Chức năng thứ ba: cung cấp khả năng thanh khoản Nhờ có thị trường chứng khoán mà các nhà đầu tư có thể chuyển đổi thành tiền khi họ muốn.Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản bảo đảm cho thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả và năng động. 2.4 Chức năng thứ tư:đánh giá giá trị doanh nghiệp Thị trường chứng khoán là nơi đánh giá chính xác doanh nghiệp thông qua chỉ số chứng khoán trên thị trường. Việc này kích thích các doanh nhgiệp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới. 2.5 chức năng thứ năm: tạo môi trường để chính phủ thực hiện chính sách vĩ mô Chính phủ có thể mua bán trái phiếu chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát, ngoài ra chính phủ có thể sử dụng các chính sách tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư. 3.Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán. Sự vận động của bất kỳ một thị trường nào cho dù đơn giản hay phức tạp đều có nguyên tắc hoạt động riêng của nó . các nguyên tắc này đảm bảo sự tồn tại và phát triển của thị trường theo những định hướng nhất định. Đối với thị trường chứng khoán, cơ chế vận hành của nó được dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau: 3.1.Nguyên tắc trung gian Thị trường chứng khoán hoạt động không phải do những người muốn mua hay muốn bán chứng khoán trực tiếp thực hiện, mà phải thông qua các môi giới, làm nhiệm vụ trung gian trong việc tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thật, và thị trường chứng khoán hoạt động được lành mạnh, hợp pháp, bảo vệ được lợi ích của các nhà đầu tư . Nguyên tắc trung gian trong giao dịch chứng khoán được thưc hiện thông qua các nhà môi giới và các thương gia chứng khoán hay còn gọi là các nhà kinh doanh chứng khoán . Các nhà môi giới thực hiện việc mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng .Các nhà môi giới có thể cung cấp đầy đủ ( môi giới chọn gói) các dịch vụ có liên quan đến chứng khoán cho khách hàng, như làm đại diện cho khách hàng để thương lượng mua hoặc bán chứng khoán , chi trả cổ tức cho khách hàng, ứng vốn cho khách hàng trong các vụ mua trước bán sau(giao dịch bảo chứng), cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng trong việc lựa chọn đầu tư , mua bán chứng khoán. Các nhà kinh doanh chứng khoán cũng là những người trung gian mua bán chứng khoán trên thị trường, nhưng không phải cho khác hàng mà cho chính bản thân họ, bằng nguồn vốn đầu tư của họ để hưởng lợi từ chênh lệch giá trong quá trình mua bán . Các trung gian môi giới phải là những người có kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán, có khả năng phân tích, đánh giá và nhận định xu hướng phát triển của nền kinh tế. 3.2. Nguyên tắc công khai . Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều phải tuân thủ theo nguyên tắc công bằng, công khai và minh bạch. Các thông tin về chứng khoán được giao dịch, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của công ty có chứng khoán được niêm yết, cũng như số lượng, giá chứng khoán đều được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bản thân các công ty có chứng khoán niêm yết có nghĩa vụ công bố thông tin theo định kỳ, tức thời và thông tin theo yêu cầu một cách trung thực và đầy đủ cho các nhà đầu tư. Ngoài ra, các tổ chức phát hành chứng khoán có nghĩa vụ nộp cho sở giao dịch và uỷ ban chứng khoán các báo cáo tài chính, báo cáo hoạt động kinh doanh và các báo cáo khác có xác nhận của kiểm toán độc lập.Trong những trường hợp có những biến động làm ảnh hưởng đến giá và khối lượng chứng khoán giao dịch, các tổ chức phát hành phải báo tức thời lên sở giao dịch và uỷ ban chứng khoán để có biện pháp xử lý kịp thời (tạm ngừng giao dịch, đình chỉ giao dịch loại chứng khoán đó ). Đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ thông tin, cũng phải chịu trách nhiệm về thông tin đã công bố, nếu thông tin sai sự thật, làm thiệt hại đến nhà đầu tư, thì công ty đó phải chịu trách nhiệm bồi hoàn những thiệt hại do mình gây ra, và phải chịu kỷ kuật trước uỷ ban giám sát thị trường. 3.3.Nguyên tắc định giá. Trên cơ sở quan hệ cung cầu về mua bán chứng khoán, các thông tin về chứng khoán cũng như kết quả phân thích chứng khoán, nhà môi giới có trách nhiệm xác định mức giá chứng khoán theo nguyên tắc định giá chứng khoán. Giá chứng khoán được hình thành thông qua hệ thống đấu giá hoặc đấu lệnh giữa các nhà môi giới. Khi giá chứng khoán được xác định thì các nhà đầu tư có nghĩa vụ thực hiện theo mức giá đó . 3.4. Nguyên tắc: các lệnh mua, lệnh bán tập trung ở một trung tâm điều hành: Sở giao dịch chứng khoán. Những nguyên tắc trên, cùng với luật lệ quy chế về thị trường chứng khoán và công tác thanh tra tại chỗ làm cho người mua và người bán chứng khoán có thể yên tâm. 4.Những mặt tích cực và tiêu cực của thị trường chứng khoán. 4.1.Những mặt tích cực 4.1.1 . Khuyến khích dân chúng tiết kiệm và sử dụng mọi nguồn vốn nhàn rỗi vào công cuộc đầu tư: Bất kỳ một loại hình doanh nghiệp nào cho dù là sở hữu nhà nước hay tư nhân khi cần vốn đầu tư cũng đều thực hiện thông qua hai giải pháp : Giải pháp nội lực, tức là bản thân doanh nghiệp tự tích luỹ thông qua lợi nhuận có được do làm ăn có hiệu quả. Giải pháp ngoại lực, tức là huy động các nguồn lực từ bên ngoài, thông qua các hình thức tài trợ tín dụng từ phía ngân hàng(nguồn vốn ngắn hạn ) và thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu để huy động vốn ( vốn dài hạn ). Biện pháp này chỉ có thể thực hiện được khi dân chúng có nguồn tiết kiệm dồi dào, và ý thức cũng như phong trào tiết kiệm trong dân chúng tốt. Việc đầu tư vào cổ phiếu trên thị trường không những đem lại lợi nhuận thông qua cổ tức, mà còn tham gia quyền kiểm soát đối với các tổ chức phát hành cổ phiếu khi các nhà đầu tư nắm giữ một khối lượng lớn cổ phiếu có quyền biểu quyết. Đây chính là tác nhân kích thích ý thức tiết kiệm để đầu tư của dân chúng. 4.1.2 Giúp Nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế tăng trưởng hay suy thoái trước hết phụ thuộc vào chính sách và các biện pháp can thiệp của Nhà nước. Bất cứ Nhà nước nào cũng phải có ngân sánh. Ngân sánh Nhà nước càng lớn thì chương trình phát triển kinh tế xã hội càng dễ dàng thành công. Nguồn vốn cho chi tiêu ngân sách phụ thuộc phần lớn vào chính sách thuế của nhà nước và các khoản thu nhập khác từ khai thác tài nguyên. Tuy nhiên, chính sách thuế không phải lúc nào cũng thuận chiều với chính sách kinh tế. Trong thực tế ,các khoán thu ngân sách thường không đáp ứng đủ và kịp thời các khoản chi , lúc đó ngân sách nhà nước sử dụng giải pháp vay vốn từ dân chúng thông qua việc phát hành trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương. Thông qua thị trường chứng khoán việc phát hành các trái phiếu chính phủ được thuận lợi và thường xuyên hơn. 4.1.3 Thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài Vốn đầu tư từ nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng đối với những nước đang phát triển. Chúng ta ai cũng có thể nhận ra rằng vốn đầu tư trong nước (dù có huy động tối đa nguồn tiết kiệm của dân chúng) cũng chỉ có giới hạn. Do vậy phải có vốn đầu tư từ nước ngoài. Trên thực tế, các khoản vốn đầu tư nước ngoài thường được thu hút dưới hai hình thức, đó là đầu tư trực tiếp thông qua các dự án sản xuất-kinh doanh, và gián tiếp thông qua các định chế tài chính trung gian. Cả hai loại hình đầu tư này nếu như không có thị trường chứng khoán thì không phát huy được tính hiệu quả cao của nó. Thị trường chứng khoán đáp ứng được khả năng sinh lợi, khả năng hoàn vốn, cũng như khả năng chuyển đổi sở hữu khi thấy cần thiết, là nơi luôn tạo ra sự chuyển dịch các luồng vốn đầu tư (từ lĩnh vực đầu tư này sang lĩnh vực đầu tư khác) và cung cấp các thông tin một cách chính xác để tìm hiểu các đối tác đầu tư. 4.1.4 . Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thuận lợi để di chuyển vốn đầu tư. Các cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một số vốn dầu tư được mua đi bán lại trên TTCK như một thứ hàng hóa. Người nắm giữ chứng khoán không sợ vốn của mình bị bất động bởi một lĩnh vực đầu tư mà mình không vừa ý, hoặc khi có nhu cầu chuyển hướng kinh doanh họ có thể bán các chứng khoán đó trên thị trường chứng khoán để mua lại một chứng khoán khác mà họ thích đầu tư (tính linh hoạt của chứng khoán). 4.1.5 . Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hóa là quá trình chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần. Việc thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp thông qua việc bán cổ phần cho các thành phần kinh tế trên cơ sở chuyển đổi từ một chủ sở hữu sang nhiều chủ sở hữu khác nhau. Chính quá trình này tạo ra hàng hoá (cổ phiếu) cho thị trường chứng khoán, ngược lại thị trường chứng khoán cũng tạo cơ sở luân chuyển các chứng khoán giữa các nhà đầu tư, tạo động lực kích thích quá trình cổ phần hoá phát triển. 4.1.6.Kích thích các doanh nghiệp tuân thủ luật pháp và quan tâm tới hiệu quả. Các tổ chức phát hành chứng khoán niêm yết, phải tuân thủ các điều kiện nghiêm ngặt của tiêu chuẩn niêm yết: Tổng tài sản có của tổ chức niêm yết, tỷ lệ nợ trên vốn khả dụng, hệ số sử dụng vốn, cơ cấu phân bổ vốn, số năm làm ăn có lãi và tỷ lệ cổ tức trên mệnh giá, nghĩa vụ công bố thông tin công khai, minh bạch cũng đươc xem xét trong quá trình chấp thuận cho việc niêm yết giao dịch chứng khoán tại sở giao dịch. Chính điều này đã tạo cho các doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả và tuân thủ luật pháp, bởi lẽ chỉ có như vậy các chứng khoán của họ mới được thị trường chấp nhận và các nhà đầu tư bỏ tiền ra để mua. Để tạo ra khả năng hấp dẫn của chứng khoán không còn cách nào khác các doanh nghiệp phải tính toán để quản lý một cách có hiệu quả. 4.2. Những mặt tiêu cực . Mặc dù thị trường chứng khoán có tác dụng tích cực là công cụ hữu hiệu để huy động vốn dài hạn, mà hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường đều sử dụng, song bên cạnh đó nó còn có những mặt tiêu cực làm ảnh hưởng tới hoạt động của nền kinh tế. Vì vậy, người ta ví thị trường chứng khoán như con giao hai lưỡi , nếu không biết cách sử dụng, phát huy hiệu quả, thì ngược lại nó sẽ là công cụ làm rối loạn nền kinh tế và gây ra những tác hại khó có thể lường hết. 4.2.1. Chứa đựng yếu tố đầu cơ: Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người chấp nhận rủi ro. Yếu tố này dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho cổ phiếu có thể tăng giá giả tạo 4..2.2. Hiện tượng giao dịch nội gián: Một cá nhân nào đó lợi dụng việc nắm được những thông tin nội bộ của một đơn vị kinh tế để mua hoặc bán cổ phiếu của đơn vị đó một cách không bình thường nhằm thu lợi cho mình ảnh hưởng đến giá của cổ phiếu đó trên thị trường. 4.2.3 . Đưa tin sai sự thật về một loại chứng khoán hoặc hoạt động của doanh nghiệp. Việc tung tin sai sự thật về hoạt động của công ty niêm yết cũng như các chứng khoán được giao dịch trên thị trường, sẽ tạo sự hỗn độn thị trường, gây tình trạng bán ồ ạt một loại chứng khoán nào đó với giá thấp hoặc mua vào các chứng khoán với giá thấp nắm giữ và thao túng hoặc thâu tóm công ty.Việc tung tin sai sự thật sẽ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư, và còn nhằm hành vi như đầu cơ, truộc lợi, lũng đoạn thị trường. 4.2.4. Dễ huy động vốn, đồng thời cũng dễ bị rút vốn ồ ạt gây lên khủng hoảng thị trường. Cơ chế vận hành của thị trường chứng khoán cho phép nhà đầu tư có thể đầu tư hoặc giải tư nhanh gọn để rút vốn. Điều này có thể gây tác hại khôn lường đối với thị trường. Khi một lĩnh vực đầu tư có xu thế phát triển, mọi người đổ xô vào mua chứng khoán đó, làm giá chứng khoán đó sai lệch với giá trị thực của nó. Khi tình hình thị trường có những biến động bất lợi, có ảnh hưởng tới giá chứng khoán, thì mọi người đổ xô đi bán để rút tiền đầu tư, làm cho thị trường hỗn loạn và nhiều khi gây nên sụp đổ thị trường. 5. Các điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán. 5.1. Phải có hệ thống niêm yết: Niêm yết là việc một chứng khoán cho vào giao dịch chính chức tại sở giao dịch chứng khoán sau khi đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn niêm yết do sở giao dịch chứng khoán đó qui định. Việc chứng khoán của một tổ chức phát hành được niêm yết sẽ đem lại cho chính tổ chức đó và các nhà đầu tư nhiều lợi thế đáng kể như : hoạt động mua bán được tiến hành trong một thị trường trật tự và được quản lý chặt chẽ, tính thanh khoản của chứng khoán được tăng cường, giá cả được xác định một cách minh bạch và công bằng, quyền lợi của người sở hữu chứng khoán được bảo vệ tối đa bởi các qui định của pháp luật 5.2. Hệ thống công bố thông tin của tổ chức niêm yết Công bố thông tin của tổ chức niêm yết là việc tổ chức niêm yết tiến hành thông báo tất cả các thông tin quan trọng cho công chúng đầu tư biết để họ có thể đưa ra các quyết định đầu tư thích hợp. Nói cách khác việc công bố thông tin của tổ chức niêm yết là nhằm 2 mục tiêu chính: bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tất cả các nhà đầu tư, duy trì một thị trường công khai công bằng và có trật tự thông qua việc đảm bảo cho người đầu tư có cơ hội như nhau khi tiếp cận thị trường. Đòi hỏi phải có hệ thống công bố thông tin chuẩn xác, nhanh chóng, kịp thời tới nhà đầu tư. 5.3. Hệ thống giao dịch . Hoạt động giao dịch trên thị trường chứng khoán, đặc biệt là trên thị trường tập trung, được chuẩn hoá cao độ. Tại tất cả các sở giao dịch chứng khoán, lệnh giao dịch chỉ được phép vào hệ thống sau khi đã đáp ứng đầy đủ các qui định về đơn vị giao dịch, đơn vị yết giá, giới hạn trần/sàn (nếu có). Vì vậy, nhiệm vụ của hệ thống giao dịch là đảm bảo sao cho chỉ có các lệnh hợp lệ mới được phép tham gia giao dịch, đồng thời thực hiện việc khớp lệnh để đưa ra kết quả giao dịch trên thị trường. 5.4. Hệ thống thông tin thị trường Thông tin thị trường được định nghĩa là tất cả các thông tin có liên quan đến hoạt động của thị trường chứng khoán và công tác quản lý thị trường của các cơ quan chức năng. Hệ thống thông tin thị trường cùng với hệ thống công bố thông tin tổ chức niêm yết tạo thành một tổ hợp công bố thông tin hoàn chỉnh. Tác dụng của nó là giúp cho các nhà đầu tư có cơ sở để đưa ra các quyết định mua bán kịp thời và hỗ trợ cho các cơ quan quản lý trong việc điều hành hoạt động của thị trường dựa trên các số liệu hiện hành cũng như các số liệu thống kê đã được tích luỹ trong quá khứ. Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, việc chú trọng phát triển hệ thống thông tin là đòi hỏi tất yếu khách quan đối với tất cả các sở giao dịch chứng khoán để có thể hoạt động, tồn tại và phát triển. 5.5. Hệ thống giám sát thị trường Bất kỳ hoạt động kinh tế nào cũng đều phải tuân thủ các nguyên tắc và giới hạn cụ thể do pháp luật quy định nhằm đảm bảo sự ổn định và an toàn cho xã hội. Điều này đặc biệt đúng trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, nơi các hoạt động giao dịch, quản lý điều hành diễn ra rất đa dạng, liên tục và gây ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích các chủ thể tham gia thị trường. Chính vì vậy việc xây dựng và vận hành có hiệu quả hệ thống kiểm tra giám sát là điều kiện tiên quyết đảm bảo thị trường chứng khoán hoạt động công bằng, ổn định và đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các chủ thể khác trên thị trường. 5.6. Hệ thống đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Chúng ta thường nghĩ rằng một khi các lệnh mua bán đã được hệ thống giao dịch so khớp và đưa ra kết quả thì mọi việc xem như đã hoàn tất. Tuy nhiên, trên thực tế thì mọi việc lại không đơn giản như vậy, vì so khớp lệch và đưa ra kết quả giao dịch chỉ là bước đầu trong toàn bộ quá trình thực hiện giao dịch. Công việc tiếp theo sau khi các lệnh giao dịch đã được so khớp là tiến hành thanh toán sao cho người bán nhận được đúng số tiền và người mua nhận đủ số chứng khoán như đã thỏa thuận. Toàn bộ quá trình thanh toán sau giao dịch sẽ do hệ thống đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán đảm nhận. 5.6. Hệ thống pháp lý . Phải có hệ thống pháp lý rõ ràng, minh bạch, tạo môi trường đầu tư lành mạnh thúc đẩy chứng khoán và thị trường chứng khoán ngày càng phát triển. CHƯƠNG II Thực trạng và những điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt nam. 1. Thực trạng hoạt động kinh tế ở việt nam 1.1 Sự cần thiết của việc phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam Để tiến hành CNH, thay đổi cơ cấu kinh tế, nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh, lâu bền, Việt Nam cần đến một khối lượng vốn khổng lồ mà hiện trạng thị trường tài chính không thể đáp ứng đầy đủ. Với cơ cấu hiện nay, thị trường tài chính chủ yếu chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của nền kinh tế về vốn ngắn hạn. Trong khi đó, quá trình CNH, HĐH lại đòi hỏi ngay một khối lượng khổng lồ vốn dài hạn: trong năm năm 1991-1995, để có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 2,8% năm cần 18,6 tỉ USD; thời kì 1996-2000, để đạt được tốc độ tăng trưởng 9 - 9,5% năm thì dự tính vốn đầu tư đã tăng hơn 2,2 lần, khoảng 40 - 45 tỉ USD; với quy mô như vậy ước tính đến năm 2020 vốn đầu tư là 500 - 600 tỉ USD. Trước những đòi hỏi bức xúc về vốn trung và dài hạn cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam cần phải có những chính sách huy động tối đa mọi nguồn lực trong nước cũng như các nguồn vốn nước ngoài bằng những hình thức khác nhau. Một trong những giải pháp đó là phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam hiện nay còn cần thiết bởi những lý do sau: - Dưới góc độ kinh tế, với tư cách là một bộ phận của thị trường tài chính có chức năng phân bổ nguồn vốn trung và dài hạn, thị trường chứng khoán là trung tâm thu nhận, phân phối và giao lưu các nguồn vốn cho đầu tư và xã hội. Nó gắn bó hữu cơ trong sự phát triển đồng bộ hệ thống tài chính tiền tệ cấu thành nền tài chính quốc gia. - Thị trường chứng khoán giúp cho đồng vốn đi vào những ngành, những doanh nghiệp biết tạo ra hiệu quả thông qua sự định hướng của thị trường vốn. - Một thị trường chứng khoán hoạt động tốt sẽ cung cấp những dự báo chính xác về chu kỳ kinh doanh trong tương lai, giúp nhà nước hoạch định các chính sách thích hợp. - Thị trường chứng khoán mang lại nhiều lợi ích cho công chúng, giúp cho công chúng có thể đầu tư vào các chứng khoán khác nhau một cách dễ dàng. 1.2 Những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam 1.2.1 Những thuận lợi Thuận lợi cơ bản đầu tiên là chúng ta có một hệ thống chính trị ổn định. Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta đang phát triển với một tốc độ khá cao, lạm phát được khống chế. Đây là môi trường kinh tế vĩ mô hết sức thuận lợi cho việc phát triển thị trường chứng khoán. Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã được thành lập. Đây là hạt nhân cơ bản, quan trọng để xây dựng và phát triển thị trường chứng k._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0638.doc