Thực trạng & Giải pháp thúc đẩy Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam

lời nói đầu Trong công cuộc đổi mới ngày nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đa dạng hoá các hình thức sở hữu, phát huy mọi tiềm lực của xã hội nhằm phát triển đất nước theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa: Dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Trong chương trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều hình thức sở hữu, Nhà nước ta đã hội tụ được kinh nhiệm của nhiều nước, trong đó có cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Đối v

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1214 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp thúc đẩy Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới nước ta trong giai đoạn hiện nay, cổ phần hoá một bộ phận trong doanh nghiệp Nhà nước nhằm làm tiền đề cho việc cổ phần hoá toàn bộ doanh nghiệp. Giải pháp cổ phần hoá một bộ phận trong doanh nghiệp Nhà nước đã được đặt lên chương trình nghĩa vụ về "cải cách kinh tế quốc doanh" ở nước ta được vài năm nay. Nhưng việc thực hiện còn chậm, nguyên nhân chính do nhận thức, quan điểm lý luận và giải pháp trong quy trình xử lý các vấn đề kinh tế - kỹ thuật - nghiệp vụ liên quan đến tiến trình cổ phần hoá. Từ thực tế trên, việc nghiên cứu cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước nhằm đưa ra một cái nhìn khái quát về cổ phần hoá, từ việc rút kinh nghiệm cổ phần hoá - tư nhân hoá ở các nước trên thế giới đến việc phân tích thực trạng khu vực kinh tế quốc doanh nhằm đánh giá quá trình thực hiện cổ phần hoá ở Việt Nam, tiếp đó nêu ra một số giải pháp và kiến nghị cơ bản để tháo gỡ những vướng mắc còn tồn tại gây chậm trễ cho tiến trình cổ phần hoá. Do còn những hạn chế về kinh nghiệm thực tiễn, về nguồn tài liệu, bài viết này không tránh khỏi sai sót, rất mong được sự đóng góp, phê bình của giáo viên giảng dạy, hướng dẫn nhằm hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Chương 1 Cơ sở khoa học và kinh nghiệm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở các nước trên thế giới 1. Lý luận về công ty cổ phần – cơ sở khoa học định hướng cho quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam Như chúng ta đã biết, sự hình thành nền kinh tế hàng hoá dựa trên hai điều kiện: sở hữu tư nhân và phân công lao động xã hội. Nền kinh tế hàng hoá phát triển đòi hỏi phải có sự phát triển của sở hữu tư nhân và phân công lao động xã hội. Kinh tế thị trường là sự phát triển ở trình độ cao của kinh tế hàng hoá với sự ra đời của của hệ thống ngân hàng, thị trường tài chính và công ty cổ phần. Các hình thức kinh tế này, trước hết là sản phẩm của sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhưng đều có chung một cội nguồn ở sự phát triển xã hội hoá sở hữu tư nhân. Để xác định cơ sở khoa học nhằm định hướng cho quá trình chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay, trước hết chúng ta cần tìm hiểu về mặt lịch sử đặc diểm vận động và phát triển của sở hữu tư nhân trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường. 1.1. Sở hữu tư nhân và quá trình xã hội hoá sản xuất: Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác, ở dạng trừu tượng của nó, sở hữu là quan hệ giữa lao động với những điều kiện khách quan của lao động. Vì thế có thể nói sở hữu là phạm trù cơ bản, bao trùm của quan hệ sản xuất. Sở hữu, xét về bản chất, là quan hệ chiếm hữu của con người đối với tự nhiên thông qua lao động sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường, lao động của con người mang tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tưọng. Do đó, sở hữu được thực hiện trong quá trình lao động sản xuất của con người cũng mang tính hai mặt: một mặt, sở hữu mang tính chất xã hội, phản ánh sự tìm kiếm và tăng thêm giá trị như là động lực, mục đích của sở hữu; mặt khác, sở hữu lại mang tính chất tư nhân, phản ánh sự chiếm hữu một giá trị sử dụng nhất định dưới dạng hành hoá hay dịch vụ. Hệ quả của sự vận động mang tính hai mặt của sở hữu là sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng (hay quyền kinh doanh); trong đó quyền sở hữu chỉ là việc nắm quyền chi phối giá trị nhằm mục đích tìm kiếm một giá trị lớn hơn còn quyền kinh doanh là thực hiện một hay một số hoạt động nhất định để tạo ra giá trị – nó là phương tiện để tăng thêm giá trị. Nhờ sự tách biệt này đã cho phép một chủ sở hữu có thể tham gia nhiều hoạt động kinh doanh và ngược lại, một hoạt động kinh doanh có thể có nhiều chủ tham gia. Như vậy, việc vạch ra tính chất hai mặt của sở hữu là hết sức quan trọng để tìm hiểu phạm trù này vận động trong nền kinh tế thị trường như thế nào. Sự tách biệt hai mặt trong phạm trù này là một quá trình lịch góp phần cho sự ra đời và phát triển của thị trường tài chính và công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường. Trong lịch sử, quá trình xã hội hoá sở hữu gắn liền với sự ra đời và phát triển nền sản suất và trao đổi hàng hoá. Nhờ hai nhân tố này, tính chất hai mặt của sở hữu tư nhân mới được bộc lộ và ngày càng phát triển cùng với quá trình xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Quá trình này được thực hiện bởi hai nhân tố tác động chủ yếu là trao dổi và tín dụng. Thông qua trao đổi, quá trình vận động lịch sử của sở hữu chuyển hoá theo xu hướng: một mặt, tư liệu sản xuất ngày càng tách khỏi bản thân người lao động như là người tư hữu nhỏ, mặt khác, thông qua trao đổi, các tư liệu sản xuất ngày càng được tập trung lại như một quá trình xã hội hoá, chịu sự thống trị của tư bản (lúc đầu là tư bản thương nghiệp, về sau là tư bản công nghiệp và ngày nay là tư bản tài chính). Thông qua sự phát triển của chế độ tín dụng, quá trình xã hội hoá của sở hữu vận động theo xu hướng: một mặt, nó làm cho các hình thái chiếm hữu tư nhân phụ thuộc trong những mối liên hệ mặt xích, chằng chịt và dần dần hoà nhập vào nhau trong quá trình tái sản sản xuất xã hội, sự hào nhập này đạt đến trạng thái điển hình ở thị trường chứng khoán và công ty cổ phần; mặt khác, nó làm cho các hình thái chiếm hữu được tập trung lại trên quy mô xã hội, thông qua các hình thức tín dụng có thể tập trung tư bản xã hội và mở rộng quy mô kinh doanh lên gấp nhiều lần. Như vậy, quá trình xã hội sở hữu tư nhân với những đặc điểm chủ yếu được trình bày ở trên đây đã quy định sự ra đời và phát triển hình thái công ty cổ phần như là sản phẩm tất yếu của sự phát triển nền kinh tế thị trường. 1.2. Công ty cổ phần – sản phẩm của nền kinh tế thị trường: Về mặt lý thuyết, như đã phân tích, hình thái doanh nghiệp dưới dạng công ty cổ phần là sản phẩm của một quá trình tiến hoá lâu dài, gắn liền vớí những nấc thang phát triển của xã hội hoá sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường. Về mặt lịch sử chúng ta có thể nhận thấy quá trình tiến hoá của các hình thái doanh nghiệp được dặc trưng bởi ba loại hình chủ yếu sau: 1.2.1. Hình thái kinh doanh một chủ: Hình thái kinh doanh một chủ, dùng để chỉ loại hình doanh nghiệp, trong đó sở hữu của người chủ tư nhân được duy trì và phát triển bằng lao động bản thân hoặc thuê mướn với vốn liếng sẵn có và sự tính toán của anh ta trên cơ sở những đòi hỏi của thị trường. Đây là hình thái phổ biến thống trị trong nền sản xuất hàng hoá nhỏ và trong giai đoạn đầu của CNTB tự do cạnh tranh. Hình thái kinh doanh này bao gồm hai loại hình chủ yếu là kinh doanh theo phương thức sản xuất nhỏ và kinh doanh theo phương thức TBCN; giữa chúng tuy có sự nhau về mục đích và dặc điểm kinh doanh nhưng lại là sự kế tiếp nhau khách quan, tất yếu của cùng một quá trình phát triển dựa trên sở hữu tư nhân. Nếu như quá trình xã hội hóa nhờ hai tác nhân chủ yếu là trao đổi và tín dụng thì về mặt lịch sử, chính nhờ sự trợ giúp của tư bản thương nghiệp và tư bản cho vay nặng lãi mà hình thái kinh doanh một chủ có sự chuyển biến về chất. Cùng với sự phát triển của thị trường thế giới, quy mô buôn bán và sản xuất đòi hỏi phải tập trung tư bản ngày càng lớn. Để có thể đứng vững trong cạnh tranh và đáp ứng được nhu cầu thị trường, các hình thức kinh doanh chung vốn lần lượt ra đòi và phát triển. 1.2.2. Hình thức kinh doanh chung vốn: Xét về mặt lịch sử, hình thái này là bước tiến hoá trong chế độ tín dụng từ phương thức kinh doanh chủ yếu dựa vào vay mượn sang hình thức kinh doanh dựa vào góp vốn. Hình thái này được coi là điểm trung gian quá độ để hình thành công ty cổ phần sau này. Hình thái kinh doanh này có hai loại hình chủ yếu, đó là: * Hình thái kinh doanh hợp tác xã của những người sản xuất hàng hoá nhỏ nhằm chống lại quá trình tan rã và phá sản của họ trước phương thức kinh doanh TBCN. * Hình thái công ty chung vốn của các nhà tư bản với ba hình thức chủ yếu là công ty dân sự, công ty hợp danh, công ty hợp tư dơn giản. Trách nhiệm pháp lý không hạn chế trong kinh doanh chung vốn, sự ràng buộc lỏng lẻo, về mặt pháp lý gặp nhiều khó khăn để đảm bảo duy trì nó là những bất lợi làm cho hình thái công ty chung vốn chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn và ngày càng nhường chỗ cho hình thái công ty cổ phần. 1.2.3. Hình thái công ty cổ phần : Hình thái này ra đời đánh dấu sự tiến hoá của chế độ tín dụng từ kinh doanh chủ yếu dựa vào vay mượn từ ngân hàng hoặc chung vốn sang huy động vốn trên thị trường, trong đó chủ yếu là thị trường chứng khoán. Trong hình thái này có hai loại hình chủ yếu là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu. Sự ra đời của công ty cổ phần đóng vai trò lịch sử hết sức to lớn trong sự phát triển kinh tế thị trường TBCN. Có thể thấy rằng, công ty cổ phần ra đời mang những đặc điểm mới cho phép nó thích ứng với những đòi hỏi của sự phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại mà những hình thái khác không thể đáp ứng được. Chúng ta có thể nêu ra một số đặc điểm chủ yếu sau: * Công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm trong phần vốn góp của mình. Điều này cho phép công ty có tư cách pháp lý đầy đủ để huy động những lượng vốn lớn nằm rải rác trong các cá nhân trong xã hội. * Cơ cấu tổ chức trong công ty cổ phần đã thực hiện việc tách quyền sử hữu và quyền kinh doanh, tạo nên một hình thái xã hội hoá sở hữu giữa một bên là đông đảo công chúng mua cổ phần và một bên là đội ngũ các nhà quản trị kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng tư bản xã hội cho các công cuộc kinh doanh quy mô lớn. * Các cổ phiếu và trái phiếu của các công ty cổ được chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường chứng khoán. Điều này đảm bảo cho cuộc sống của các doanh nghiệp luôn tiếp tục một cách bình thường, đồng thời tạo nên sự di chuyển linh hoạt các luồng vốn xã hội theo các nhu cầu và cơ hội đầu tư đa dạng của các công ty và công chúng. Như vậy nhờ vai trò và đặc điểm ưu việt của hình thái công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường nên nó được coi là con đường hữu hiệu nhất để cải tạo các DNNN đồng thời vẫn giữ đước vai trò của khu vực kinh tế nhà nước bằng cách di chuyển linh hoạt các nguồn vốn cổ phần của mình vào các công ty cổ phần ở các lĩnh vực cần thiết có sự điều tiết và kiểm soát của nhà nước. Tóm lại, qua sự trình bày một cách khái quát các nấc thang tiến hoá của hình thái doanh nghiệp dựa trên đặc điểm tách biệt hai mặt của sở hữu tư nhân trong quá trình xã hội hoá sản xuất, có thể khẳng định xu hướng phát triển tất yếu của loại hình công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Qua đó cho thấy việc tiến hành quá trình chuyển đổi mô hình doanh nghiệp với với sở hữu toàn phần của nhà nước thành các công ty cổ phần là một đòi hỏi khách quan trong quá trình cải tổ lại khu vực kinh tế nhà nước phù hợp với việc xây dựng một nền kinh tế thị trường hiện đại. 2. Một số nét khái quát từ kinh nghiệm cổ phần hoá các DNNN trên thế giới: 2.1. Khu vực kinh tế nhà nước và quá trình cổ phần hoá các DNNN: 2.1.1. Vai trò và sự phát triển của khu vực kinh tế nhà nước: Kinh tế nhà nước (hay kinh tế quốc doanh ) được hiểu là khu vực kinh tế bao gồm những doanh nghiệp do nhà nước nằm toàn bộ hoặc một phần sở hữu và nhà nước kiểm soát tới một mức độ nhất định quá trình ra quyết định của doanh nghiệp. Kinh tế nhà nước có mắt ở hầu hết các nước trên thế giới và đã trở thành một bộ phận quan trọng có tác dụng quan trọng và thiết thực trong cơ cấu kinh tế mỗi nước. Tuy nhiên, tuỳ theo chủ trương, chính sách và điều kiện cụ thể của mỗi nước mà khu vực kinh tế nhà nước có phạm vi và mức độ hoạt động khác nhau. Đối với các nước phát triển, dựa vào học thuyết kinh tế của Keynes để thực hiện một hệ thống các chính sách can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế nhằm điều tiết chu kỳ phát triển. Các DNNN là công cụ can thiệp trực tiếp và chủ yếu để giải quyết việc làm và thu nhập, kích thích nhu cầu tiêu dùng, bảo đảm duy trì tộc độ tăng trưởng kinh tế ổn định. Khu vực kinh tế nhà nước ở các nước tư bản phát triển mặc dù chiếm tỷ trọng thấp trong GDP của mỗi nước nhưng đã có những đóng góp quan trọng và duy trì được tốc độ tăng trưởng ổn định trong nhiều thời kỳ. Đối với các nước xây dựng nền kinh tế XHCN theo mô hình kinh tế chỉ huy và kế hoạch hoá tập trung đã vận dụng học thuyết Mác-Lênin để thực hiện chế độ công hữu về tư kiệu sản xuất mà nhà nước là đại diện, coi đó là nền tảng kinh tế để xoá bỏ sự phân hoá giàu nghèo và bất công trong xã hội do kinh tế thị trường và chế độ tư hữu gây ra, xây dựng một xã hội công bằng do nhân dân lao động làm chủ. Đối với các nước đang phát triển, sau khi thoát khỏi chế độ thực dân kiểu cũ và giành được độc lập về chính trị thì sự can thiệp trực tiếp của nhà nước thông qua quốc hữu hoá các cơ sở kinh tế của tư bản nước ngoài và xây dựng các cơ sở công nghiệp quốc doanh trở nên rất phổ biến. Sự tồn tại của kinh tế nhà nước ở hầu hết các nước trên thế giới chứng tỏ sự cần thiết khách quan của khu vực này trong bối cảnh phát triển kinh tế hiện đại khi các hoạt động kinh tế vĩ mô đòi hỏi nhà nước phải đóng vai trò ngày càng to lớn trong nền kinh tế. Có thể nói, khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò như là một công cụ kinh tế của nhà nước, vừa thực hiện chức năng kinh tế vừa làm một phần chức năng xã hội, góp phần thực hiện sự tăng trưởng và ổn định nền kinh tế mỗi nước. Như vậy, dù phát triển theo hướng nào mỗi nước đều có khu vực kinh tế nhà nước. Sự khác nhau chủ yếu là ở mức độ chiếm giữ của sở hữu nhà nước trong các ngành, các lĩnh vực cũng như mục tiêu và cách thức hoạt động của các DNNN ở mỗi nước. 2.1.2. Cổ phần hoá các DNNN – một bộ phận của quá trình cải tổ khu vực kinh tế nhà nước: Từ cuối những năm 1970 đến nay, xu hướng phổ biến trên thế giới là đánh giá lại vai trò và hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước khi gắn quan điểm tài chính như một tiêu chuẩn quan trọng trong việc đo lường kết qủa hoạt động chung của các DNNN. Do đó, các nước đều nhận thấy rằng hầu hết các DNNN đều hoạt động thiếu hiệu qủa do sự điều tiết trực tiếp của nhà nước trên các quyết định liên quan đến quyền sở hữu của mình. Sự hoạt động thiếu hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước dẫn đến thâm hụt ngân sách và nợ nước ngoài kéo dài ở nhiều nước do các khoản trợ cấp bù lỗ, cho vay với lãi suất ưu đãi ngày càng tăng. Đồng thời với quá trình sắp xếp và chấn chỉnh lại khu vực kinh tế nhà nước, sự thay đổi tư duy của các nhà hoạch định chính sách ở các quốc gia về về vai trò điều tiết của nhà nước trong nền kinh tế thị trường đã cho phép các nước đặt vấn đề cổ phần hoá các DNNN như một bộ phận trong chiến lược tăng trưởng mới nhằm khai thác các động lực của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế thị trường. Trong việc xác định các mục tiêu để tiến hành cổ phần hoá các DNNN các nước đều tiến hành với hai mục tiêu cơ bản sau: 1. Nâng cao hiệu quả hoạt động của của các DNNN 2. Giảm thâm hụt ngân sách nhà nước. Ngoài hai mục tiêu cơ bản và trực tiếp trên, tuỳ theo điều kiện của mỗi nước mà các mục tiêu cổ phần hoá được bổ xung thêm. Đối với nhóm nước tư bản phát triển còn có các mục tiêu sau: 3. Thu hút các nhà đầu tư vào các ngành trước đây nhà nước độc quyền nhưng xét thấy không còn cần thiết nữa. 4. Tạo điều kiện cho nhà nước tập trung vào các ngành then chốt, tạo cơ sở cho sự tăng trưởng mới. 5. Thực hiện phân phối có lợi cho các tầng lớp dân cư có thu nhập thấp, tạo sự ổn định về mặt xã hội. Đối với nhóm các nước đang phát triển, nhìn chung đều đề cập đến 5 mục tiêu trên và còn bổ xung thêm một số mục tiêu có tính đặc thù: 6. Giảm gánh nặng nợ nước ngoài. 7. Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài nhằm đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ trong nước. 8. Xây dựng và phát triển thị trường tài chính trong nước. Đối với nhóm các nước Đông Âu và SNG, còn bổ xung thêm hai mục tiêu sau: 9. Giảm nhanh tỷ trọng gần như tuyệt đối của khu vực kinh tế nhà nước. 10. Tạo ra hệ thống kinh tế thị trường, tăng nhanh khu vực kinh tế tư nhân để dân chủ hoá các hoạt động kinh tế. Về phương pháp cổ phần hoá, thực hiện phổ biến ở các nước trên thế giới gồm ba hình thức: 1. Bán cổ phần cho công chúng. 2. Bán cổ phần cho tư nhân. 3. Những người quản lý và các công nhân mua lại doanh nghiệp. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện mỗi nước mà phương pháp nào được lựa chọn hay kết hợp sử dụng . 2.2. Thực tiễn cổ phần hoá DNNN trên thế giới: 2.2.1. Cổ phần hoá ở nhóm các nước tư bản phát triển: Trong thập kỷ 80, các nước tư bản phát triển, đặc biệt là ở Tây Âu, được chú ý như là một quá trình giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của nhà nước và tiến hành cổ phần hoá DNNN nhằm nâng cao hiệu quả của nền kinh tế thị trường hỗn hợp đã được hình thành với việc thiết lập khu vực kinh tế nhà nước ngày càng rộng lớn từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Chính sách cổ phần hoá bao trùm ở các nước này dựa trên quan điểm cho rằng việc tổ chức đời sống kinh tế của xã hội tuân theo các quy luật thị trường, thương mại hoá sản xuất và cạnh tranh bình đẳng có hiệu quả hơn là tuân theo các quan hệ chỉ huy tập trung và thể chế hành chính. Trong việc thực hiện cổ phần hoá, Chính phủ mỗi nước đã lựa chọn các phương pháp tiến hành cổ phần hoá các DNNN sao cho không làm suy yếu khu vực kinh tế nhà nước, mà trái lại, củng cố cho xứng đáng với vai trò của nó trong nền kinh tế nhằm thực hiện một loạt chức năng kinh tế vĩ mô vì lợi ích xã hội. Xét về quy mô, khu vực kinh tế nhà nước sau khi tiến hành cổ phần hoá có sự thu hẹp, tuy nhiên sự suy giảm này không làm thay đổi vai trò của khu vực kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực quan trọng như: năng lượng, giao thông vận tải, bưu điện,... Quá trình cổ phần hoá ở các nước đã có nền kinh tế thị trường phát triển được thực hiện chủ yếu dưới các hình thức: bán đấu giá hay bán trực tiếp, thường áp dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các lĩnh vực dịch vụ công cộng và thương mại; bãn cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, áp dụng với các công ty lớn. Các công ty quốc doanh sau khi đã cổ phần hoá, hình thành dạng công ty cổ phần hỗn hợp nhà nước – tư nhân đã chuyển sang sử dụng và huy động các nguồn vốn thay vì nhận qua ngân sách nhà nước như trước đây, cho phép giảm bớt gánh nặng tài trợ nhân sách, đặt các doanh nghiệp này trên cơ sở điều tiết của quan hệ thị trường, giành vị trí xứng đáng trong việc đáp ứng các nhu cầu xã hội với chất lượng cao, hợp thị hiếu chứ không phải có được nhờ vị trí độc quyền mà nhà nước ban cho. Như vậy, có thể nhận thấy nét dặc trưng quá trình cổ phần hoá ở các nước công nghiệp phát triển là hình thành các công ty hỗn hợp nhà nước – tư nhân hoạt động trên cơ sở thị trường và luật pháp của nhà nước. Có thể nói, thông qua quá trình cổ phần hoá, sự hợp tác và xâm nhập lẫn nhau giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân, kể cả ở cấp công ty xuyên quốc gia đang hoạt độngtrên thị trường thế giới là một trong những con đường nâng cao hiệu quả nền kinh tế thị trường hỗn hợp ở các nước công nghiệp phát triển hiện nay. 2.2.2. Cổ phần hoá ở nhóm các nước đang phát triển: * Các nước đang phát triển thuộc khu vực Mỹ latinh và Caribê: Trong các nước đang phát triển thì các nước thuộc khu vực này đang tiến hành cổ phần hoá khu vực kinh tế nhà nước một cách tích cực nhất. Do phải gánh các khoản nợ to lớn trong và ngoài nước nên các nhà nước ở khu vực này đã tìm cách rút khỏi các lĩnh vực sản xuất và bán một phần hay toàn bộ các xí nghiệp nhà nước cho các nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước. Cùng với sự thay đổi chế độ ngoại thương, lập ra các vùng mậu dịch tự do và các hiệp ước không thuế quan để khuyến khích cạnh tranh và buộc các doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả, Chính phủ các nước này đã mở ra các điều kiện thuận lợi để khuyến khích tư bản nước ngoài đầu tư, tạo ra động lực mới cho sự tăng trưởng. * Các nước đang phát triển thuộc khu vực châu Phi: ở châu Phi, các chính phủ cũng đã bắt đầu thực hiện cổ phần hoá các DNNN trong nỗ lực nhằm phục hồi nền kinh tế và tạo cơ sở cho sự tăng trưởng mới ngay từ đầu những năm 90. Công cuộc cổ phần hoá ở các nước châu Phi nhằm vào việc tăng hiệu quả kinh tế và giảm thâm hụt ngân sách trong hoàn cảnh các nguồn tài chính truyền thống đã cạn kiệt. Quá trình cổ phần hoá ở châu Phi có xu hướng diễn ra ở các xí nghiệp vừa và nhỏ, về cả tài sản lẫn số lượng lao động. Đa số các doanh nghiệp cổ phần hoá đều nằm ở các ngành chế biến và dịch vụ còn các ngành dịch vụ công cộng, khai thác khoáng sản và dầu mỏ chỉ là ngoại lệ. Thành tích đạt được trong chương trình cổ phần hoá ở các nước châu Phi còn rất khiêm tốn. Trở ngại lớn nhất ở các nước này là thị trường vốn trong nước quá nhỏ bé, thiếu vắng một thị trường chứng khoán thực sự, hệ thống nhà nước về hành chính và luật pháp còn thiếu đồng bộ và chặt chẽ. Điều này góp phần làm suy giảm sự quan tâm của các nàh đầu tư và kinh doanh nước ngoài. * Các nước đang phát triển thuộc khu vực châu á: Quá trình cổ phần hoá ở các nước châu á khác với các nước châu Phi và châu Mỹ la-tinh là các khoản nợ nước ngoài không phải là lý do chính để tiến hanh cổ phần hoá các DNNN. Mặt khác, nền kinh tế ở các nước trong khu vực này có tốc độ phát triển nhanh và ổn định trong nhiều năm, các xí nghiệp quốc doanh ở các nước này phần lớn đều hoạt động trên cơ sở thị trường và nhằm mục tiêu lợi nhuận. Vì vậy, mục tiêu chính của cổ phần hoá ở các nước này là Nhà nước rút khỏi các lĩnh vực hoạt dộng xét thấy không cần thiết phải nắm giữ và suy trì sự độc quyền nhà nước mà chuyển giao cho khu vực tư nhân nhằm thực hiện cạnh tranh để nâng cao hiệu quả. Mục tiêu nữa của cổ phần hoá của các nước là phát triển thị trường chứng khoán trong nước, thể hiện nổi bật là ở các nước Hàn Quốc, Singapore, Malaysia,...Số tiền thu được từ quá trình bán các cổ phần của nhà nước sẽ được bù vào các khoản ngân sách dành đầu tư cho các cơ sở hạ tầng và các ngành kinh tế chiến lược mà nhà nước thấy cần có sự tham gia và kiểm soát. 2.2.3. Cổ phần hoá ở nhóm các nước XHCN trước đây thuộc Đông Âu: Khác với đa số các nước phát triển và đang phát triển, ở các nước XHCN cũ ở Đông Âu, quá trình cổ phần hoá đã trở thành cuộc thử nghiệm quan trọng đối với các chính phủ mới thành lập trong việc cam kết thực hiện chuyển sang nền kinh tế thị trường và sang một hệ thống chính trị dựa trên quyền sở hữu tư nhân và quyền tư do cá nhân. Đối với các nước này, việc tiến hành cổ phần hoá được đặt trong một chương trình cổ phần hoá rộng lớn và được thực hiện theo các cách khác nhau tuỳ theo điều kiện mỗi nước. Tuy nhiên, khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng gần như tuyệt đối; quy mô phạm vi quá đồ sộ mà thời gian đặt ra ngắn, khu vực kinh tế tư nhân qua nhỏ bé và yếu ớt là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc tiến hành cổ phần hoá và tư nhân hoá ở nhóm nước này gặp nhiều khó và trở ngại. 2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ việc nghiên cứu cổ phần hoá các DNNN trên thế giới đối với Việt Nam: Nhìn chung, qua việc nghiên cứu quá trình cổ phần hoá các DNNN trên thế giới, chúng ta có thể rút ra một số vấn đề có tính chất chung cho quá trình tiến hành cổ phần hoá các DNNN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. * Tính phổ biến của quá trình cổ phần hoá: Sự triển khai có tính chất toàn cầu quá trình này tạo ra một tương quan hợp lý giữa sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân, giữa sự điều tiết của nhà nước và thị trường. Vì vậy, tiến hành cổ phần hoá một bộ phận DNNN ở Việt Nam là một vấn đề không thể bỏ qua, là một đòi hỏi khách quan để chuyển nền kinh tế thị trường có sự điều tiết định hướng của nhà nước và khai thác động lực của thị trường. * Tính đặc thù của quá trình cổ phần hoá: Đây là sự phán ánh các sặc thái khác nhau về mục tiêu, cách thức tổ chức, bước đi và các biện pháp cụ thể do những đặc điểm về kinh tế, chính trị, xã hội cũng như quan niệm về xây dựng và phát triển kinh tế của mỗi chính phủ quy định. Nước ta cũng không thể không chú ý đến tính dặc thù về các điều kiện quy định quá trình này để vậndụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. * Tính chiến lược của quá trình cổ phần hoá: Hầu hết các nước đều coi cổ phần hoá là một bộ phận của quá trình cải tổ toàn bộ nền kinh tế. Do đó, đòi hỏi phải được suy xét và hành động mang tính chiến lược cao. Vì vậy, ở hầu hết các nước đều lập ra một cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện quá trình này theo những quan điểm chiến lược đề ra. Với quy mô và tính chất quan trọng của chương trình cổ phần hoá, Nhà nướoc không thể không xem xét nó ở tầm chiến lược trong quá trình đổi mới toàn diện để phát triển nhanh nền kinh tế, đồng thời cũng cần thiết thành lập một cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm thực hiện chương trình này. * Tính quá trình của việc thực hiện cổ phần hoá: Thực tiễn và nhiều công trình nghiên cứu ở các nước đều chỉ ra rằng việc thực hiện cổ phần hoá bao gồm nhiêu giai đoạn khác nhau. Tuy không có sự phân biệt rõ ràng giữa các giai đoạn nhưng nó có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn: khuyến khích tính thận trọng với các giải pháp phù hợp dựa trên những điều kiện thực tế. Việt Nam, trong hoàn cảnh thiếu nhièu điều kiện quan trọng để thực hiện cổ phần hoá thì việc quán triệt quan điểm quá trình trong cổ phần hoá các DNNN là cần thiết để chống những tư tưởng và biểu hiện nóng vội, chủ quan duy ý chí, muốn hoàn thành trong một thời gian ngắn. * Môi trường pháp lý của việc thực hiện cổ phần hoá: Để thực hiện công việc này ở các nước đều phải tạo ra một môi trường pháp lý cần thiết. Đó là các bộ luật quan trọng có ý nghĩa như là những điều kiện để xác lập và ổn định kinh tế vĩ mô, tạo ra những khuôn khổ pháp lý cho sự chuyển đổi và hoạt động của các doanh nghiệp được cổ phần hoá. Đối với Việt Nam cũng không thể không đặt ra vần đề này và trên thực tế Nhà nước cũng đã và đang ban hành nhiều bộ luật nhằm xác lập và hoàn thiện môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động cũng như thực hiện chương trình cổ phần hoá. * Phí tổn của quá trình thực hiện cổ phần hoá: Để thực hiện tốt chương trình này, các nước đều phải chịu một khoản phí tổn nhất định nhằm bảo đảm sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội cho việc thực hiện chương trình có tầm quan trọng lâu dài trong quá trình cải cách kinh tế ở các nước. Nước ta cũng cần xác định các khoản phí tổn không thể cắt giảm được, nhất là các ván đề như việc làm, bảo hiểm xã hội, kiểm toán, tư vấn,...để đảm bảo chương trình cổ phần hoá đạt được kết quả. Chương 2 Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và thực trạng trong thời gian qua 1. Khu vực kinh tế nhà nước và nhu cầu phải đổi mới: 1.1. Thực trạng của khu vực kinh tế nhà nước: Nước ta cũng giống như các nước XHCN trước đây thực hiên mô hình kế hoạch hoá tập trung, lấy việc mở rộng và phát triển khu vực kinh tế nhà nước bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân làm mục tiêu cho công cuộc cải tạo và xây dựng CNXH. Vì vậy, khu vực kinh tế nhà nước đã được phát triển một cách nhanh chóng bất kể hiệu quả đích thực mà nó mang lại. Các DNNN được hình thành và phát triển trên cơ sở nguồn vốn cấp phát của ngân sách nhà nước và do đó, tất cả các hoạt động đều chịu sự kiểm soát và chi phối trực tiếp của nhà nước. Song cũng giống như nhiều nước trên thế giới, khu vực kinh tế nhà nước hoạt động hết sức kém hiệu quả. Có thể minh hoạ nhận xét này qua một vài chỉ tiêu cụ thể sau đây: - Tỷ trọng tiêu hao vất chất của khu vực kinh tế nhà nước cao gấp 1,5 lần và chi phí để sáng tạo ra một động thu nhập quốc dân thường cao gấp 2 lần khu vực kinh tế tư nhân. - Mức tiêu hao vất chất của các doanh nghiệp nhà nước trong sản xuất cho một đơn vị giá trị tổng sản phẩm xã hội ở nước ta thường cao gấp 1,3 lần so với mức trung bình trên thế giới. - Chất lượng sản phẩm và hệ số sinh lời của nhiều DNNN rất thấp và không ổn định. - Hiệu quả khai thác vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước hết sức thấp trong khi khu vực kinh tế nhà nước lại sử dụng hầu hết lao động có trình độ đại học, công nhân kỹ thuật và phần lớn số vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại quốc doanh. - Số các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ chiếm một tỷ trọng lớn, việc làm ăn thua lỗ của các DNNN đã gây ra tổn thất lớn cho ngân sách nhà nước và là một trong những nguyên nhân gây ra bội chi ngân sách trong nhiều năm qua. 1.2. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng hoạt động kém hiệu qủa của khu vực kinh tế nhà nước: Khi đề cập đến nguyên nhân dẫn đến tình trạng hoạt động kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nưóc, qua các công trình nghiên cứu đã cho thấy có rất nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu sau đây: Thứ nhất, khu vực kinh tế nhà nước sinh ra và trưởng thành trong cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp kéo dài hàng chục năm. Doanh nghiệp không còn là một đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, khi chuyển sang cơ chế thị trường cả một khu vực kinh tế nhà nước đồ sộ, cồng kềnh bộc lộ tất cả những yếu kém, không đồng bộ và không thích ứng trong cơ chế mới. Thứ hai, các DNNN đã từ lâu không được đặt trong môi trường cạnh tranh, không gắn với thị trường, do đó chậm đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm, chế độ hạch toán kinh tế chỉ là hình thức giả tạo, hiện tượng lãi giả, lỗ thật là hết sức phổ biến. Điều tất yếu xảy ra là vốn liếng doanh nghiệp không được quan tâm bảo toàn, thiết bị cũ kỹ, công nghệ lạc hậu. Thứ ba, tổ chức bộ máy trong các DNNN không phù hợp do quan niệm về sở hữu trong các doanh nghiệp không rõ ràng, không có sự phân biệt đầy đủ quyền sở hữu nhà nước và quyền quản lý kinh doanh của giám đốc và tập thể người lao động trong doanh nghiệp. Tình trạng làm chủ tập thể chung chung kéo dài mà thực chất là vô chủ phổ biến ở hầu hết các DNNN. Thứ tư, việc phân phối thực chất không dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động mà thực chất là phục vụ chích sách xã hội, mang nặng tính bình quân chủ nghĩa, không kích thích người quản lý và công nhân trong các DNNN nâng cao hiệu qủa công tác và năng suất lao động. Thêm vào đó, đội ngũ cán bộ có kiến thức và trình độ quản lý không phù hợp với kinh tế thị trường, thiếu sự năng động, sáng tạo trong quản lý và kinh doanh. Như vậy, chúng ta có thể thấy tình trạng kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước về cơ bản là do cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp tồn tại trong những năm trước đây. Sau khi đất nước được giải phóng,việc kéo dài quá lâu cơ chế này đã kìm hãm sự phát triển của lực._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0611.doc
Tài liệu liên quan