Thực trạng hoạt động thanh tra, giám sát từ xa của Ngân hàng Nhà nước và giải pháp nâng cao hiệu quả phương pháp giám sát từ xa Camel tại Việt Nam

Lời nói đầu Hệ thống các TCTD, đặc biệt là ngân hàng là một định chế tài chính quan trọng của nền kinh tế, cung vốn cho nền kinh tế thông qua việc huy động tiền gửi mà phần lớn trong số đó là từ công chúng, nếu hệ thống TCTD hoạt động kém hiệu quả thì sẽ gây ảnh hưởng đến những người gửi tiền, các định chế tài chính khác, làm tắc nghẽn nguồn cung cấp tín dụng, nền kinh tế sẽ đình trệ, người dân mất lòng tin, khủng hoảng kinh tế chắc chắn là không tránh khỏi từ đó dẫn đến khủng hoảng chính trị,

doc21 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2972 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng hoạt động thanh tra, giám sát từ xa của Ngân hàng Nhà nước và giải pháp nâng cao hiệu quả phương pháp giám sát từ xa Camel tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xã hội sẽ rơi vào trạng thái hỗn loạn. Chính vì vậy, một trong những chức năng vô cùng quan trọng của ngân hàng trung ương (NHTW) là thanh tra, kiểm soát hoạt động của các TCTD. Hoạt động thanh tra, kiểm soát là một nhân tố hết sức cần thiết, là vấn đề then chốt đảm bảo sức mạnh của hệ thống ngân hàng. Chức năng giám sát là một công cụ của hoạt động thanh tra, cho phép các thanh tra viên kiểm soát hoạt động của các TCTD theo luật định. Thanh tra trong các thị trường mới mở cửa là vấn đề vô cùng phức tạp, khoá khăn, ở Việt Nam cũng vậy, nhưng nó thẻ hiện sức mạnh và sự tiến bộ của hệ thống tài chính. Cùng với công cuộc cải cách hệ thống tài chính nói chung thì chức năng giám sát của NHTW cũng đã có những bước tiến tương xứng nhằm đem lại cho nền kinh tế một hệ thống ngân hàng lành mạnh, tạo niềm tin của các nhà cho vay và đầu tư. Một trong những phương pháp giám sát được sử dụng rộng rãi hiện nay là phương pháp CAMEL. Phương pháp CAMEL bắt đầu được sử dụng ở Việt Nam từ năm 1997 và đã góp phần làm cho công tác thanh tra, kiểm soát có hiệu quả hơn. Em thực hiện bài tiểu luận này là muốn giúp người đọc hiểu kỹ hơn việc áp dụng phương pháp CAMEL ở Việt Nam và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nó phù hợp với Việt Nam. Mặc dù có nhiều cố gắng trong quá trình viết song không thể tránh khỏi những sai sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến từ các Thầy Cô. Em xin chân thành cảm ơn cô Vũ Thị Lợi đã cung cấp cho em những kiến thức cơ bản để thực hiện bài tiểu luận này. Sinh viên Đỗ Thị Hiền Hoà Phần I: Những vấn đề cơ bản về thanh tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD) Tại sao phải thanh tra, giám sát hoạt động của các TCTD. Các TCTD đặc biệt là ngân hàng là nơi tích trữ tiết kiệm của cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp (kể cả chính phủ). Trong khi hầu hết các khoản tiết kiệm này đều nằm dưới dạng tiền gửi kỳ hạn tương đối ngắn với tính thanh khoản cao. Việc thất thoát các khoản vốn này trong trường hợp ngân hàng phá sản sẽ trở thành thảm hoạ cho nhiều chủ thể trong nền kinh tế, đặc biệt là các cá nhân và hộ gia đình. Nhưng hầu hết người gửi tiền tiết kiệm lại thiếu kiến thức chuyên môn và thiếu thông tin cần thiết để đánh giá mức độ rủi ro của ngân hàng. Vì vậy, các cơ quan quản lý phải có trách nhiệm đưa ra những quy định bắt buộc cho các TCTD, tập hợp và đánh giá những thông tin cần thiết để xác định tình hình TCs thực sự của ngân hàng nhằm bảo vệ lợi ích của người gửi tiền… Hơn nữa, ngân hàng thương mại là một định chế TCs quan trọng trong nền kinh tế, sự sụp đổ của một ngân hàng có thể làm cho dân chúng mất lòng tin vào khả năng thanh toán của các ngân hàng còn lại, dẫn đến rủi ro hệ thống làm suy sụp hệ thống tài chính – tiền tệ quốc gia. Các ngân hàng được quản lý chặt chẽ bởi khả năng tạo tiền từ những khoản tiền gửi thông qua hoạt động cho vay và đầu tư (mở rộng tín dụng) và NHTW có thể hạn chế khả năng này thông qua việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Sự thay đổi trong khối lượng tiền tệ do ngân hàng tạo ra liên quan chặt chễ tới tình hình kinh tế, dặc biệt là mức tăng trưởng của việc làm, tình hình lạm phát. Do vậy, các cơ quan quản lý nhà nước phải thường xuyên kiểm tra theo dõi tình hình thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc, và các quy định về cho vay nhằm kiểm soát được lượng tiền cung ứng. Như vậy, hoạt động thanh tra hệ thống ngân hàng là một lĩnh vực rất quan trọng đối với mọi quốc gia. Tuỳ từng điều kiện ở mỗi nước khác nhau mà cách tổ chức thanh tra khác nhau, vị trí của thanh tra ngân hàng cũng khác nhau, nhưng mục đích là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng, góp phần ổn định xã hội. Nói chung, trên thế giới cso 3 hình thức tổ chức thanh tra: Tổ chức thanh tra không thuộc NHTW: nó có thể la một ủy ban độc lập, hoặc nằm trong Bộ tài chính. VD: Cộng hoà Liên bang Đức thành lập cục thanh tra liên bang bên cạnh NHTW, có quyền giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ đối với mọi TCTD. Tổ chức thanh tra ngân hàng thuộc Bộ tài chính, VD ở Nhật Bản, thanh tra thuộc Bộ tài chính bao gồm 3 vụ, có chức năng giám sát NHTW và cũng có thẩm quyền thanh tra tại chỗ đối với các TCTD… Ưu điểm của mô hình này là giữ được tính độc lập, khách quan của cơ quan thanh tra đối với các TCTD nhưng nhược điểm của nó là nguồn cung cấp thông tin bị hạn chế. Tổ chức thanh tra ngân hàng trực thuộc NHTW: Đây là loại hình thanh tra phổ biến ỏ nhiều nước như: Pháp, Italia, Hà Lan, Tây Ban Nha, Trung Quốc, Việt Nam,… Mô hình này có lợi thế là khả năng nắm bắt thông tin về các TCTD của NHTW rất tốt nhưng có điểm bất lợi là thiếu tính khách quan, độc lập trong quá trình thanh tra, kiểm soát. Hình thức kết hợp tổ chức thanh tra ngân hàng vừa thuộc NHTW, vừa thuộc chính phủ: Mô hình khắc phục được nhược điểm của cả 2 mô hình trên nhưng nó khá cồng kềnh, tốn kém do NHTW phải cung cấp thông tin. Các đặc trưng của hoạt động thanh tra, giám sát các TCTD. Do tính chất đặc thù của hoạt động ngân hàng khác hẳn các ngành nghề khác, là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất. Các TCTD muốn kinh doanh phải có vốn mà vốn chủ yếu trong các TCTD là vốn huy động để cho vay. Nếu người đi vay không hoàn trả được nợ thì TCTD sẽ gặp nhiều rủi ro và có thể sẽ bị phá sản. Khi một TCTD bị phá sản sẽ có thể dẫn đến sự đổ vỡ của toàn hệ thống. Do đó hoạt động thanh tra giám sát các TCTD cũng mang những đặc trưng khác với hoạt động thanh tra của bất kỳ các bộ các ngành nào. Mục đích hoạt động thanh tra giám sát các TCTD. Thanh tra ngân hàng góp phần đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Phục vụ việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Đối tượng của hoạt động thanh tra, giám sát các TCTD. Tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng. Hoạt động ngân hàng của các tổ chức không phải la TCTD được NHTW cho phép. Việc thực hiện các quy định pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng của các cơ quan và tổ chức, cá nhân. Sơ lược các phương pháp thanh tra, giám sát của NHTW đối với các TCTD. Giám sát từ xa: là phương thức thanh tra sử dụng các thông tin trên báo cáo của các TCTD nhằm phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của chúng để từ đó đưa ra các biện pháp xử lý khi cần thiết. Thanh tra ngân hàng đưa ra một hệ thống chỉ tiêu để dựa vào báo cáo của các TCTD để tiến hành thanh tra nhằm phản ánh, đánh giá vể các phương diện hoạt động của các TCTD. Ưu điểm của phương pháp thanh tra từ xa là phát huy được tính toàn diện, tổng hợp các nội dung, chỉ tiêu cần kiểm tra, phương thức này có thể được tiến hành thường xuyên mà vẫn giải quyết được khối lượng công việc lớn. Tuy nhiên, sử dụng phương pháp này không thể tìm rõ được những nguyên nhân sai phạm, do đó không thể đưa ra giải pháp cụ thể đối với các TCTD sai phạm; trong trường hợp nếu TCTD làm báo cáo không trung thực thì hiệu quả giám sát từ xa rất thấp, hơn nữa, nó đòi hỏi giữa NHTW và các TCTD phải có hệ thống thông tin hiện đại. Thanh tra tại chỗ: là phương thức thanh tra trực tiếp tại các TCTD nhằm xác định hiện trạng các hoạt động cụ thể của đối tượng thanh tra như đánh giá sự tuân thủ các quy chế… thông qua việc kiểm tra sổ sách kế toán, kiểm tra các hồ sơ cho vay, ngân quỹ, kiểm tra mua sắm TSCĐ, tình hình kinh doanh ngoại tệ,… Phương thức thanh tra tại chỗ giúp cho NHTW phát hiện một cách chính xác, đánh giá một cách trung thực hoạt động của TCTD, tìm được nguyên nhân cụ thể của những sai phạm, quy trách nhiệm rõ. Nhưng phương thức này không thể làm thường xuyên, không thể xử lý được khối lượng công việc lớn, hơn nữa, phương thức này rất tốn kèm vì đòi hỏi nhân lực nhiêu. Mối quan hệ giữa hai phương thức: Hầu hết các NHTW hay các cơ quan giám sát trên thế giới thường sử dụng kết hợp cả 2 phương pháp trên để thanh tra giám sát các TCTD. Nhờ sử dụng đồng thời giúp NHTW có thể khắc phục được nhược điểm của mỗi phương pháp mà vẫn có thể pháp huy được ưu điểm của chúng. Nhờ hoạt động của thanh tra tại chỗ mà phương thức giám sát từ xa mới có thể phát huy hiệu quả vì các TCTD phải rất thận trọng khi có ý định làm báo cáo không trung thực, nhờ hoạt động giám sát từ xa, dù không cần thực hiện thường xuyên thì phương thức thanh tra tại chỗ vẫn phát huy hiệu quả. Phương pháp giám sát từ xa (CAMEL). Khái niệm: Thanh tra, giám sát từ xa là phương thức thanh tra sử dụng thông tin các báo cáo nhằm phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của các TCTD để đề ra biện pháp xử lý khi cần thiết. Giám sát từ xa là phương thức hoạt động riêng có của thanh tra ngân hàng. Nội dung của các chỉ tiêu giám sát: Trong nghiệp vụ giám sát từ xa TCTD thì NHTW hay cơ quan giám sát các nước thường đưa ra một tập hợp các chỉ tiêu tài chính hay tiêu chuẩn cơ bản để dựa vào đó đánh giá và xếp hạng các TCTD. Một trong những phương pháp tương đối phổ biến hiện nay đang được NHTW các nước hay các cơ quan chức năng dùng để đánh giá, xếp hạng các TCTD là phương pháp CAMEL. CAMEL là viết tắt chữ cái đầu của một tập hợp các tiêu chuẩn và tiêu chí tài chính sau: - Vốn của ngân hàng: “Capital” - Chất lượng tài sản có: “Asset quality” - Khả năng quản lý: “Management ability” - Khả năng sinh lời: “Earning” - Khả năng thanh toán: “Liquidity” Lý thuyết CAMEL cho rằng: trong hoạt động ngân hàng 5 nội dung trên có vai trò quan trọng quyết định sự thành bại của mỗi ngân hàng, nếu quản lý tốt 5 lĩnh vực đó sẽ giảm thiểu sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng. (Sự cần thiết, nội dung giám sát) – Sau đây chúng ta sẽ đề cập đến 5 nội dung trên: Giám sát về vốn tự có của ngân hàng: Với đặc điểm kinh doanh tiền tệ, vốn của ngân hàng đóng một vai trò vo cùng quan trọng mặc dù nó chỉ chíêm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn. Vốn ngân hàng bao gồm: vốn điều lệ, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng bù đắp rủi ro, lợi nhuận chưa chia, giá trị TSCĐ tăng thêm do định giá lại. Vốn ngân hàng đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và đảm bảo cho ngân hàng khả năng phát triển lâu dài. Nội dung giám sát: giám sát việc bảo toàn và phát triển vốn. Kiểm tra vốn thực có đúng bằng vốn điều lệ, vốn pháp định không: ở Việt Nam, mức vốn pháp định đối với ngân hàng thương mại quốc doanh là 1100 tỷ đồng, NHNo & PTNN 2200 tỷ đồng, ngân hàng thương mại cổ phần 70 tỷ đồng,… Kiểm tra hệ số an toàn vốn (Cook): đảm bảo phải đạt tối thiểu là 8% Kiểm tra xu hướng tăng vốn. Kiểm tra xu hướng tăng lợi nhuận không chia. Giám sát chất lượng tài sản có: Chỉ tiêu này nhằm mục đích phân tích chất lượng tài sản có và danh mục cho vay bao gồm việc thẩm định vừa mang tính định lượng vừa mang tính định tính đối với các khoản cho vay và các mức độ rủi ro đầu tư khác của ngân hàng. Giám sát tài sản có tập trung phân tích, đánh giá các nhóm tài sản có theo một chuẩn mực nhất định, sau đó tổng hợp các chỉ tiêu để đưa ra đánh giá cuối cùng về chất lượng tài sản có. Việc đánh giá chất lượng tài sản có của một ngân hàng bao gồm các yếu tố: Tỷ lệ nợ quá hạn không vượt quá 5% tổng dư nợ cho vay, cho thuê bình quân. Tỷ lệ nợ xấu không có khả năng thu hồi không vượt quá 3% tổng dư nợ cho vay cho thuê bình quân. Giám sát về chất lượng quản lý: Lý thuyết Camel cho rằng khả năng quản lý của mỗi ngân hàng là yếu tố năng động nhất, ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại trong hoạt động kinh doanh. Nó bao gồm các yếu tố con người, tổ chức và chính sách nói chung là năng lực của ban điều hành và biểu hiện thông qua kết quả kinh doanh. Đánh giá qua các nội dung: Hoạt động của ban giám đốc và hội đồng quản trị có hiệu quả, phù hợp quy mô của TCTD. Các rủi ro quan trọng có thể ảnh hưởng đến hoạt động của TCTD luôn được nhận dạng, đo lường, kiểm tra và ban quản trị có khả năng kiểm soát ứng phó được những rủi ro tiềm tàng. Năng lực đề ra sách lược kinh doanh có sức cạnh tranh, triển khai được các công việc một cách hợp lý, rõ ràng, có hiệu quả, đảm bảo luật định. Tạo nên một cơ cấu tổ chức hợp lý, phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn giữa các thành viên trong tổ chức, các khâu bộ phận, có chế độ thưởng phạt công bằng, tạo được “khoảng trống” và khuyến khích sức sáng tạo của các nhân viên, thiết lập một môi trường làm việc kỷ luật, thân mật hợp tác. Có các chương trình đào tạo, huấn luyến để không ngừng nâng cao trình độ của mọi thành viên trong TCTD. Tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng quản lý của một TCTD: Hiệu quả kinh doanh: thông qua tốc độ tăng trưởng của kết quả kinh doanh có ổn định, bền vững không, khả năng hạn chế tổn thất khi có rủi ro xảy ra. Sự tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ, lành mạnh trong kinh doanh (số lần vi phạm trong năm). Độ tín nhiệm trong kinh doanh đối với khách hàng và các TCTD khác. Giám sát về khả năng sinh lời: Giống như các tổ chức kinh doanh trong nền kinh tế, mục tiêu của các TCTD cũng là lợi nhuận. Lợi nhuận chính là kết quả hoạt động kinh doanh của TCTD. Chỉ khi kinh doanh có lãi, TCTD mới có động lực để tồn tại và phát triển. Khi xem xét và đánh giá chỉ tiêu này, người ta thường xem xét đến các yếu tố sau: Mức thu nhập, bao gồm cả xu hướng và tính ổn định của thu nhập ròng. Khả năng bổ sung vào vốn tự có thông qua lợi nhuận giữ lại (nhằm bù đắp những khoản lỗ trước đây, những tổn thất và để mở rộng, phát triển kinh doanh). Chất lượng và nguồn gốc của các khoản thu nhập, nếu thu nhập do bán tài sản hoặc những khoản thu bất thường thì nó không bền vững cho các TCTD. Các loại chi phí liên quan đến hoạt động, tương quan giữa thu nhập và chi phí, xem ngân hàng có những chi phí quá lớn và bất hợp lý hay không. Công tác lập kế hoạch kết quả kinh doanh có đảm bảo chính xác không. Tổng chi phí phải đạt tối đa bằng 75% của tổng thu nhập Tỷ lệ giữa lợi nhuận sau thuế và vốn tự có phải đạt tối thiểu bằng lãi suất tiền gửi. Tổng tài sản có sinh lời phải đạt tối thiểu 75% so với tổng tài sản có. Giám sát về tính thanh khoản: Tính thanh khoản là khả năng của TCTD trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng, trả nợ vay đến hạn, nó được tạo lập bởi tính thanh khoản của tài sản và tính thanh toán của nguồn vốn. Đây là một vấn đề hết sức nhạy cảm trong hoạt động của ngân hàng, không đảm bảo được tính thanh khoản, ngân hàng có thể rơi vào tình trạng rủi ro phá sản ngay cả khi chất lượng tài sản có lành mạnh. Vì những tài sản dùng trong thanh khoản thường sinh lời thấp (thậm chí một số không sinh lời) nên TCTD vừa phải đảm bảo được tính thanh khoản vừa phải đảm bảo mức sinh lời phù hợp. Đây không phải là điều dễ dàng, thường thì các ngân hàng luôn duy trì một tỷ lệ hợp lý giữa tài sản có động (tiền hoặc những tài sản có thể chuyển đổi ngay thành tiền) so với tổng nguồn vốn huy động đồng thời chú ý đến thành phần tiền gửi dễ biến động (như tài khoản tiền gửi thanh toán), mối quan hệ giữa tài sản có động và tài sản nợ động có thể chiếm tỉ trọng từ 15% đến 30%. Một ngân hàng được coi là có tính thanh khoản tốt khi: duy trì các quỹ dự trữ sơ cấp ở mức hợp lý với chi phí thấp, có thể dễ dàng huy động các nguồn vốn từ bên ngoài (VD: thị trường liên ngân hàng), có khả năng điều tiết và chuyển đổi các tài sản có động để đáp ứng nhu cầu thanh khoản một cách nhanh nhất với chi phí thấp nhất đối với các tài sản nợ đến hạn thanh toán. Một số chỉ tiêu cơ bản thường được sử dụng: Tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung và dài hạn: Đầu tư vào TSCĐ phải < 50% vốn tự có. Giới hạn góp vốn mua cổ phần với TCTD khác: đối với ngân hàng tỉ lệ này giới hạn ở mức 30% VTC, còn đối với tổ chức phi ngân hàng thì tỷ lệ giới hạn là 40%. Sau khi xem xét các tiêu chí trên, cơ quan chức năng sẽ tiến hành cho điểm, phân loại, xếp hạng các TCTD, điều này được thể hiện trong bảng sau: STT Các chỉ số Lượng hoá các chỉ số C 20đ Vốn tự có / Tài sản có rủi ro 8% hoặc hơn = 15đ Tăng – giảm tỉ lệ vốn (xu thế) Tăng (trong 3 kỳ) = 2đ Tăng – giảm LN không chia Tăng (trong 3 kỳ) = 3đ A 30đ Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ CV bq 0% 10%` = 10đ = 0 đ Nợ không còn khả năng thu hồi Tổng dư nợ cho vay bình quân 0% 5% = 10đ = 0đ Nợ không còn khả năng thu hồi Dự phòng tổn thất 50% 100% = 10đ = 0đ M 20đ Vi phạm quy chế an toàn (bỏ phiếu) = 10đ Xu thế tăng – giảm nợ khó đòi Giảm Tăng = 4đ = 0đ Xu thế tăng – giảm tỷ suất lợi nhuận Tăng Giảm = 3đ = 0đ Sự ổn định khả năng thanh toán ổn định không ổn định = 3đ = 0đ E 20đ Tổng chi phí / Tổng thu nhập 70% đến 85% 100% hoặc hơn = 10đ = 0đ Lợi nhuận sau thuế/Vốn tự có > lãi suất tiền gửi = 5đ Tổng TSC sinh lời / Tổng TSC 75% trở lên 50% hoặc kém = 5đ = 0đ L 10đ TSC động / TSN dễ biến động 100% 50% = 5đ = 0đ TSC động/Tổng TG ngắn hạn 15% 5% = 5đ = 0đ Những ưu, nhược điểm và một số điều kiện cơ bản đảm bảo cho hoạt động thanh tra giám sát từ xa có hiệu quả. Ưu điểm: Thanh tra giám sát (TTGS) từ xa có thể thực hiện một khối lượng công việc thanh tra rất lớn mà chỉ cần tới một số ít các thanh tra với chi phí cho mỗi lần thanh tra tương đối thấp, thủ tục thanh tra đơn giản ma vẫn có thể đảm bảo hiệu quả của công tác thanh tra. Việc thanh tra được tiến hành thường xuyên hàng ngày, hàng tháng, hàng quý, và có thể thanh tra toàn diện tất cả các mặt hoạt động của ngân hàng khi các thông tin báo cáo là đầy đủ. Trong khi thanh tra tại chỗ mỗi lần chỉ có thể tiến hành trong phạm vi hẹp, thường là một chi nhánh ngân hàng, và không thể tiến hành một cách thường xuyên do chi phí thanh tra lớn, thủ tục phức tạp và việc thanh tra có thể ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh bình thường của ngân hàng. TTGS từ xa có thể cung cấp những thông tin mang tính tổng hợp cao. Với mô hình CAMEL, các giám sát viên có thể có được một cái nhìn tương đối toàn diện và đầy đủ về các mặt hoạt động cũng như năng lực và triển vọng của một NHTM. Hơn nữa, thanh tra tại chỗ có thể tiến hành thường xuyên liên tục và với tất cả các ngân hàng trong hệ thống, vì thế nó có thể cung cấp những thông tin tổng hợp và cảnh báo được những nguy cơ trên diện rộng. Nhược điểm: Hiệu quả của TTGS từ xa phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của hệ thống thông tin, báo cáo tài chính. Do đó, nếu thông tin không trung thực, đầy đủ và kịp thời thì việc thanh tra không có hiệu quả, ý nghĩa. Phương pháp này đặt ra những đòi hỏi rất cao về trình độ và kiến thức chuyên môn đối với các thanh tra giám sát viên. Việc giám sát từ xa có thể gặp khó khăn do nhiều chi tiết cụ thể không được thể hiện trên các báo cáo tài chính. Giám sát từ xa không thể cung cấp cho thanh tra những căn cứ cụ thể, những chứng cứ pháp lý để có thể đánh giá, xử lý các vi phạm của các TCTD như thanh tra tại chỗ. Việc TTGS từ xa chỉ có thể thực hiện trên cơ sở ứng dụng công nghệ tin học trong ngân hàng. Nó đòi hỏi một hệ thống truyền dẫn thông tin báo cáo có hiệu quả trong toàn hệ thống. Nói cách khác, chi phí cho mỗi lần thanh tra thì tương đối thấp nhưng chi phí ban đầu cho phương pháp này không phải là nhỏ. Một số điều kiện cơ bản để thanh tra, giám sát từ xa có hiệu quả. Trên cơ sở phân tích các ưu và nhược điểm như trên, ta có thể thấy được một số điều kiện cần thiết để hoạt động TTGS từ xa có thể phát huy hiệu quả: Cần có các quy chế về thông tin báo cáo đối với các TCTD, các quy chế về xử phạt trong trượng hợp có vi phạm, các quy định về quyền hạn của thanh tra cũng như ý nghĩa của các khuyến nghị của hanh tra đối với các TCTD. Cần có hệ thống chỉ tiêu đánh giá đảm bảo nhận biết sớm được các rủi ro. Hệ thống chỉ tiêu giám sát phải đảm bảo có sự ổn định nhất định nhưng đồng thời phải có sự linh hoạt, có thể điều chỉnh được khi điều kiện hoạt động của đối tượng thanh tra là các NHTM có sự thay đổi và phát triển. Cần có một hệ thống truyền dẫn thông tin báo cáo hiện đại và phù hợp, đảm bảo truyền tải thông tin nhanh chóng, chính xác, kịp thời. Cần đảm bảo chất lượng của hệ thống thông tin thông qua các chuẩn mực kế toán và kiểm toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng. Có độ ngũ thanh tra giám sát viên có trình độ năng lực cao. Có sự hợp tác quốc tế chặt chẽ trong hoạt động thanh tra để có thể học hỏi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau về nghiệp vụ và phương tiện thanh tra, đặc biệt là để phối hợp kiểm soát các hoạt động ngân hàng quốc tế. Phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa 2 phương pháp thanh tra: giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ. Mỗi phương pháp đều có những ưu và nhược điểm riêng, sự phối kết hợp sẽ giúp hạn chế các nhược điểm và phát huy ưu điểm, đạt được hiệu quả tối đa. Phần II: Thực trạng hoạt động thanh tra, giám sát từ xa của NHNN Việt Nam. 2.1. Thực hiện quy trình giám sát từ xa của NHNN Việt Nam. Đối tượng của thanh tra ngân hàng là: Tổ chức và hoạt động của TCTD; Hoạt động ngân hàng của các tổ chức không phải là TCTD được NHNN cho phép. Việc thực hiện các quy định của pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nội dung của hoạt động thanh tra ngân hàng: Thanh tra việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, viẹc thực hiện các quy định trong giấy phép hoạt động ngân hàng; Phát hiện, ngăn chặn, xử phạt các vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Kiến nghị Thống đốc NHNN, Giám đốc chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố và các cơ quan, tổ chcs có thẩm quyền khác thực hiện các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo liên quan đến tổ chức và hoạt động ngân hàng; tham mưu giúp thống đốc NHNN chỉ đạo công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng trong ngành ngân hàng. Mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng: Tính đến tháng 4/2003, thanh tra NHNN trung ương có 90 cán bộ với 8 phòng nghiệp vụ, tại chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố đều có tổ chức Thanh tra tương đương với một phòng nghiệp vụ với trên 10 cán bộ, riêng tphcm và Hà Nội thì đông hơn (lần lượt là 40 và 33 cán bộ). Toàn bộ hệ thống NHNN có trên 720 cán bộ làm công tác thanh tra trong đó có khoảng trên 70% được bổ nhiệm các cấp Thanh tra viên, hầu hết được đào tạo qua các nghiệp vụ thanh tra và nghiệp vụ ngân hàng nâng cao, nhiều người có trình độ tiếng Anh B hoặc C, quản lý nhà nước, chính trị trung, cao cấp,… Thanh tra NHNN tại trụ sở chính của NHNN Chánh thanh tra NHNN Phó chánh thanh tra NHNN Trưởng phòng Thanh tra NHNN tỉnh, thành phố tại chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố Chánh thanh tra NHNN tỉnh, thành phố Phó chánh thanh tra NHNN tỉnh, thành phố P. giám sát và phân tích P. thanh tra xét khiếu tố P. thanh tra TCTD phi NH P. thanh tra TCTD hợp tác P. thanh tra TCTD nước ngoài P. thanh tra TCTD cổ phần P. thanh tra TCTD nhà nước Văn phòng thanh tra Để thực hiện giám sát từ xa, TCTD phải gửi cho NHNN các báo cáo sau: Bảng phân bổ tài sản Nợ, tài sản Có. Báo cáo kết quả kinh doanh (thu nhập, chi phí, lỗ hoặc lãi) Báo cáo nợ quá hạn. Các báo cáo này được gửi hàng tháng cho Phòng giám sát và phân tích vào 5 ngày đầu của tháng sau bằng văn bản. Các báo cáo có thể gửi bằng file máy tính trên mạng, thông qua điện thoại hoặc fax. Sau khi phân tích báo cáo của các TCTD, Thanh tra NHNN phải gửi thông báo đến Tổng giám đốc (giám đốc) TCTD của từng TCTD, báo cáo bao gồm: Những vi phạm quy chế; Những chỉ số phản ánh chất lượng hoạt động kinh doanh, đặc biệt là những chỉ số phản ánh sự biến động không bình thường trong hoạt động của TCTD. Việc chấp hành chế độ thông tin, báo cáo thống kê; Những kiến nghị, biện pháp chấn chỉnh và xử lý của Thanh tra NHNN. 6 tháng một lần, căn cứ vào kết quả giám sát các tháng trong kỳ, kết quả thanh tra tại chỗ và kiểm toán (nếu có), thanh tra NHNN trung ương hoặc thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố tính toán các chỉ số về số lượng và chất lượng trong hoạt động của từng TCTD hoạt chi nhánh TCTD theo quy chế xếp loại TCTD. Trên cơ sở đó, xếp loại các TCTD hoặc chi nhánh TCTD và thông báo kết quả xếp loại cho từng TCTD. Hàng quý, chậm nhất ngày 20 của tháng đầu quý sau, thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố phải gửi về Thanh tra NHNN trung ương kết quả giám sát và phân tích các TCTD và chi nhánh của TCTD trên địa bàn được phân công giám sát bằng văn bản và file máy tính, theo khoản 2, điều 4 của “Quy chế giám sát từ xa đối với các ngân hàng và các TCTD hoạt động tại Việt Nam” và hướng dẫn tại điểm B, mục I hướng dẫn của NHNN số 337/CV-TTr114/06/1997 về thực hiện quy chế giám sát từ xa đối với các ngân hàng và TCTD hoạt động tại Việt Nam. 2.2. Hoạt động giám sát từ xa theo phương pháp Camel. Tiền thân của Thanh tra NHNN là Ban thanh tra ngân hàng quốc gia Việt Nam thành lập năm 1956 theo Nghị định số 900/TTg ngày 16/05/1956. Thời kỳ trước khi ban hành pháp lệnh về ngân hàng (tháng 5/1990), tổ chức Thanh tra ngân hàng đã cso từ NHNN đến các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố. Song, số lượng, chất lượng cán bộ còn bất cập, khá nhiều cán bộ không phát triển được thì cho chuyển sang làm công tác thanh tra. Có thời gian (1980-1990) chúng ta gần như bỏ tổ chức thanh tra ngân hàng chuyên trách mà ghép trong bộ phận kinh tế – kế hoạch. Từ khi triển khai thực hiện pháp lệnh Thanh tra (tháng 3/1990) và pháp lệnh NHNN, Pháp lệnh ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính (tháng 5/1990) thì tổ chức Thanh tra ngân hàng lại được củng cố lại. Đây được coi là một bước ngoặt quan trọng nhất mang tính lịch sử về tổ chức của Thanh tra ngân hàng Việt Nam để đáp ứng yêu cầu chuyển hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trường của nền kinh tế nước ta. Thời kỳ này, tổ chức thanh tra ngân hàng được củng cố và tăng cường từ trung ương đến các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố (lập lại tổ chức Thanh tra ở TƯ và chi nhánh NHNN ở địa phương, bổ sung cán bộ, ban hành quy chế về tổ chức và hoạt động…) Từ khi ban hành luật NHNN và luật các TCTD (tháng 12/1997), chúng ta lại càng nhận thức rõ hơn về vai trò, chức năng của Thanh tra ngân hàng, lành mạnh hơn trong việc củng cố và hoàn thiện cả về tổ chức hoạt động của Thanh tra NHNN để đáp ứng yêu cầu mới về tăng cường quản lý và kiểm soát hoạt động của các TCTD nhằm thực hiện mục tiêu về sự ổn định của hệ thống tài chính Việt Nam. Phương pháp Camel mới được Thanh tra NHNN Việt Nam áp dụng để giám sát các TCTD gần đây (năm 1997) đã tạo điều kiện để thanh tra ngân hàng thực hiện công tác thanh tra, kiểm soát các TCTD tốt hơn nhưng rất tiếc nó chưa được áp dụng một cách toàn diện tại các ngân hàng quốc doanh (theo báo cáo của WB về hệ thống ngân hàng Việt Nam năm 2002). Hoạt động giám sát từ xa của thanh tra chi nhánh NHNN trong thời gian qua đã có bước phát triển mới, bước đầu góp phần kiểm soát vĩ mô việc chấp hành quy chế quản lý NHNN, đánh giá xu hướng hoạt động của từng TCTD và toàn hệ thống ngân hàng nước ta. Hỗu hết các chi nhánh NHNN đã chỉ đạo sát, cụ thẻ hoạt động này, nên đã giúp lãnh đạo ngân hàng trong điều hành hoạt động quản lý và kiểm soát theo chức năng của NHNN. Điển hình tố cso các chi nhánh Nghệ An, Lào Cai, Thanh Hoá, Nam Định,… đặc biệt, thanh tra chi nhánh NHNN Nghệ An đã tự thiết lập, bổ sung chương trình phân tích, kết hợp phân tích, giám sát với các chỉ tiêu từ thôgn tin phòng ngừa rủi ro để nâng cao hiệu quả công tác này. Tuy nhiên, ở một số chi nhánh, Giám đốc chưa quan tâm đến công tác giám sát từ xa: có nơi không làm, không báo cáo hoặc báo cáo chậm, không đáp ứng yêu cầu; có nơi máy vi tính bị hư hỏng lâu ngày, không được sửa chữa, nên không vận hành được. Với hơn 900 cuộc thanh tra trong năm 2002, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã phát hiện nhiều sai phạm trong hoạt động của các TCTD và đưa ra 4039 kiến nghị, yêu cầu các tổ chức này phải thực hiện. Theo số liệu tổng hợp của NHNN cho thấy, trong 2002, thanh tra NH đã xử phạt hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng đối với 126 trường hợp. Trong đó cảnh cáo 24 trường hợp, phạt tiền 102 trường hợp với số tiền 648,5 triệu VND, tịch thu nộp ngân sách 2009 $. 2.3. Nguyên nhân tồn tại các bât cập: Về hệ thống pháp lý, hiện nay dù đã có Quyết định 137QĐ/NH3 ngày 24/5/1997 ban hành quy chế giám sát từ xa đối với các ngân hàng và TCTD, và có văn bản hướng dẫn thi hành nhưng quy chế này vẫn chưa chuẩn mực với hệ thống giám sát được áp dụng trên thế giới, hướng dẫn thi hành chưa cụ thể hoá được những tiêu chí gây khó khăn cho cả TCTD lẫn thanh tra viên khi tiến hành công việc. Vào năm 2010, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ hội nhập hoàn toàn với bên ngoài, trong khi cho đến nay chưa có một hệ thống kế toán, kiểm toán chuẩn mực trong hệ thống, điều này sẽ gây khó khăn cho các thanh tra viên khi thời điểm hội nhập đang tới gần. Chất lượng của thanh tra viên chưa đáp ứng được yêu cầu của phương pháp mà còn thụ động, không theo kịp được những thay đổi do công cuộc cải cách hệ thống ngân hàng mang lại. Cơ cấu tổ chức thanh tra NHNN còn nhiều tầng lớp trung gian phụ thuộc sinh ra cồng kềnh, quan liêu, nhầm lẫn về chức năng nhiệm vụ, gây khó khăn, phiền hà cho nhau. Đề cương thanh tra không được xây dựng từ chế độ thanh tra, phụ thuộc vào sự việc phải làm: năng lực chỉ đạo, điều hành và thừa hành trong từng cuộc thanh tra. Sự kết luận do thanh tra viên đưa ra đôi khi không nhận được sự nhất trí từ phía các TCTD được thanh tra, không được các TCTD thực hiện nghiệm túc. Đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, thanh tra NHNN Việt Nam không hề có sự trao đổi thông tin với các cơ quan giám sát của nước có ngân hàng hoạt động tại Việt Nam. Vần đề minh bạch tài chính của các TCTD, đặc biệt là các ngân hàng quối doanh cùng với công tác thanh tra tại chỗ còn nhiều yếu kém, bất cập cũng góp phần làm giảm hiệu quả của phương pháp CAMEL. KIểm soát nội bộ của các TCTD là một chức năng cơ bản để tự bảo vệ và trợ thủ đắc lực cho hoạt động thanh tra. Hệ thống cơ sở thông tin liên lạc giữa NHNN và các TCTD chưa hoàn thiện 2.4. Kiến nghị các giải pháp Vấn đề pháp lý, cần xây dựng được một hệ thống văn bản pháp luật về vấn đề giám sát từ xa phù hợp tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời đưa ra những văn bản hướng dẫn quy định cụ thể các tiêu chí đánh giá phù hợp với từng thời kỳ. Xây dựng một hệ thống chuẩn mực về kế toán và kiểm toán phù hợp với nhu cầu hội nhập nền kinh tế quốc tế áp dụng trong quản lý tài chính c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28387.doc
Tài liệu liên quan