Thực trạng hoạt động tín dụng của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh

Chương i tín dụng ngân hàng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh Tín dụng ngân hàng Khái niệm tín dụng ngân hàng Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ với các nghiệp vụ hoạt động kinh doanh là nghiệp vụ nợ, nghiệp vụ có và nghiệp vụ trung gian. Ngân hàng kinh doanh tiền tệ chủ yếu không phải bằng tiền vốn tự có mà bằng nguồn vốn của những người gửi tiền. Có nghĩa là ngân hàng huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Sau đó sử dụng vốn đó bằng cách cho vay, chiết kh

doc81 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1267 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng hoạt động tín dụng của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ấu hay đầu tư, liên doanh. Nghiệp vụ trung gian là dịch vụ ngân hàng hỗ trợ cho các hoạt động của các doanh nghiệp. Khi huy động vốn ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả lãi và gốc cho khách hàng, sau đó sử dụng Nguồn vốn huy động đó để kinh doanh và thu lãi. Đây là nguồn gốc của tín dụng ngân hàng. Theo cách hiểu chung nhất, tín dụng ngân hàng là quan hệ kinh tế giữa một bên là ngân hàng và một bên là khách hàng của ngân hàng, trong đó ngân hàng chuyển giao tiền hay tài sản cho khách hàng sử dụng kèm theo thời gian gian hoàn trả lại cho ngân hàng toàn bộ số gốc và một phần lãi do hai bên thoả thuận. Thông qua việc cung ứng vốn như vậy cho nền kinh tế, hoạt động tín dụng ngân hàng ảnh hưởng đến sự phát triển của các ngành nghề kinh tế và các thành phần kinh tế. Các chủ trương, chính sách tín dụng của ngân hàng sẽ quyết định việc kích thích hay hạn chế hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế . Các hình thức tín dụng ngân hàng Trong nền kinh tế thị trường ,các hoạt động kinh tế diễn ra hết sức đa dạng và phong phú. Để đáp ứng được sự đa dạng và phong phú đó thì đòi hỏi tín dụng ngân hàng cũng phải có những hình thức khác nhau. Có rất nhiều hình thức phân loại tín dụng ngân hàng khác nhau tuỳ theo các tiêu thức khác nhau. theo điều 49 mục 2 luật các tổ chức tín dụng thì tín dụng ngân hàng được phân theo các hình thức sau: Phân theo hình thức cho vay Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng qy định: cho vay là một hình thức của cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cho khách hàng vau một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Tổ chức tín dụng cho các tổ chức, cá nhân vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống. Tổ chức tín dụng cho cá nhân vay trung và dài hạn nhằm thực hiện dự án đầu tư phát thiển sản xuất kinh doanh dịch vụ và đời sống. Theo hình thức chiết khấu Trong nền kinh tế thị trường, các giấy tờ có giá được phát hành và lưu thông theo quy định của pháp luật. Người giữ các giấy tờ có giá đó nếu cần tiền mặt khi các giấy tờ có giá đó chưa đến hạn thanh toán thì có thể mang các giấy tờ có giá đó đến ngân hàng để xin chiết khấu. “ Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Người chủ sở hữu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác phải chuyển giao ngay mọi quyền và lợi ích hợp pháp phát sinh từ các giấy tờ có giá đố cho tổ chức tín dụng ” ( Điều 57 mục 2 luật các tổ chức tín dụng ). Như vậy, về bản chất kinh tế, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác là tín dụng ngắn hạn và ngân hàng chuyển tiền cho người chủ sở hữu các loại giấy tờ có giá đó khi nó chưa đến hạn thanh toán. Khách hàng muốn bán thương phiếu cho ngân hàng phải lập đầy đủ thủ tục gống như vay vốn, làm đơn xin chiết khấu thương phiếu, ngân hàng kiểm tra khả năng thanh toán nợ khi đến hạn của người phát hành thương phiếu, nếu được thì chấp nhận và quyết định mức chiết khấu. Thông thường các ngân hàng chỉ chiết khấu các thương phiếu có thời hạn đến hạn ngắn hạn ( từ 3 đến 6 tháng ). Ưu điểm đặc biệt của hình thức này là nến trong trường hợp khó khăn về khả năng thanh toán thì có thể đem các giấy tờ có giá đó đến ngân hàng Trung ương xin tái chiết khấu. Hình thức nhận trả Đây là hình thức mà Ngân hàng nhận trả thay nợ cho người phát hành kỳ phiếu khi đến hạn thanh toán mà người phát hành kỳ phiếu không có khả năng thanh toán. Đây là sự đảm bảo chắc chắn cho người sử dụng kỳ phiếu rằng họ sẽ nhận được tiền khi đến hạn thanh toán cũng như có thể dễ dàng đem kỳ phiếu đi đến chiết khấu. Để có thể sự đảm bảo đó, doanh nghiệp phải phát hành kỳ phiếu đó phải trả cho Ngân hàng một khoản tiền gọi là “ hoa hồng ”. Trong hợp đồng tín dụng giữa người phát hành kỳ phiếu và Ngân hàng có quy định người phát hành kỳ phiếu phải giao số tiền của kỳ phiếu chậm nhất là trước ngày kỳ phiếu đến hạn. Ngân hàng phải thẩm định khả năng cho doanh nghiệp đó phát hành kỳ phiếu. Tín dụng trả nhiều lần Là hình thức cho vay mà việc trả nợ được phân ra làm nhiều lần, mỗi lần trả nợ bao gồm một phần gốc và một phần lãi. Loại tín dụng này rất phù hợp với đặc điểm sử dụng vốn của doanh nghiệp là thu hồi vốn làm nhiều lần. Tín dụng trả nhiều lần bao gồm các loại tín dụng ngắn, trung và dài hạn. Doanh nghiệp và Ngân hàng thoả thuận mức cho vay, lãi suất cho vay và kỳ hạn trả nợ cũng như số lãi và gốc cho môĩ lần trả nợ. Tín dụng trả nợ nhiều lần có thị trường rộng lớn và phong phú, tuy nhiên, cần có điều kiện đảm bảo để thực hiện loại tín dụng này. Hình thức bảo lãnh Đây là hình thức tín dụng phát sinh do Ngân hàng nhận bảo lãnh dùng uy tín của mình để đảm bảo thanh toán cho người bán hàng trong trường hợp người mua hàng ( người được bảo lãnh ) không có khả năng thanh toán nợ. Có hai loại bảo lãnh: Bảo lãnh bằng thư: Ngân hàng phái hành một thư bảo lãnh để khách hàng có thể mua vật tư hàng hoá, bao thầu.. Trong thư bảo lãnh Ngân hàng cam kết sẽ trả thay cho khách hàng khi khách hàng không trả tiền , nộp thuế.. Bảo lãnh bằng hình thức chấp nhận: Ngân hàng có thể dùng cách ký chấp nhận vào một thương phiếu do nhà cung cấp lập khi bán chịu cho khách hàng do một Ngân hàng lập cho người muốn vay tiền. Bảo lãnh vay tiền của một Ngân hàng khác còn là cách san sẻ rủi ro cho nhiều Ngân hàng. Hình thức cầm cố bất động sản Đây là hình thức cho vay dài hạn trên cơ sở đảm bảo bằng bất động sản như nhà của, đất đai, xưởng máy...Tài sản cầm cố phải được chuyển cho người cho vay, do đó người cho vay là người sở hữu được trực tiếp, còn người vay chỉ là người sở hữu gián tiếp tài sản cầm cố. Trong hoạt động Ngân hàng điều đó có nghĩa là tài sản cầm cố dễ vận chuyển có giá trị cao thì được đưa vào kho của Ngân hàng, nếu là các hàng hoá đang trên đường vận chuyển hoặc các bất động sản, tài sản...Có khối lượng lớn thì cầm cố có thể là các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản đó. Hình thức cho thuê tài chính Đây là hình thức tín dụng trong đó người thuê tài sản theo yêu cầu của người đi thuê thực hiện việc cho thuê tài sản theo hợp đồng thuê mua.Tài sản cho thuê thường bao gồm động sản và bất động sản như nhà cửa, đất đai, máy móc, thiết bị có giá trị lớn. Trong hợp đồng thuê mua phải có giá thuê , thời hạn thuê và cách thức xử lý tài sản khi hết hạn thuê, giá thuê bao gồm khấu hao tài sản cho thuê, lãi trên cơ sở lãi suất của vốn bỏ ra mua tài sản và các chi phí khác. Hết hợp đồng thuê, người thuê có thể yêu cầu bán lại tài sản cho họ hoặc yêu cầu thuê tiếp hoặc trả lại tài sản cho người thuê. Trong thời gian cho thuê tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của người cho thuê nên thực chất đây là khoản cho vay có đảm bảo chắc chắn. Cho thuê tài chính không giống như hình thức cho vay trả góp, cũng không giống như cho vay bình thường. Nó tạo ra thuận lợ cho các doanh nghiệp có khó khăn về tài chính hoặc các doanh nghiệp sản xuất có tính chất thời vụ. Quy trình cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việc mở rộng hoạt động cho vay là hoạt động cho vay đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một việc cần được thúc đẩy. Nhưng mở rộng cho vay phải luôn đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng của các hoạt động. Để tránh rủi ro, thất thoát trong hoạt động tín dụng của mình thì các Ngân hàng phải cấp tín dụng theo một trình tự chặt chẽ. Tuỳ theo quy mô, tổ chức, đặc điểm của từng món vay, từng khách hàng và điều kiện thức tế để thực hiện quy trình cho vay, nhưng nhìn chung theo các bước như sau: lập hồ sơ xin cấp tín dụng, thẩm định (hay còn gọi là phân tích tín dụng), quyết định tín dụng, giải ngân, giám sát, thu nợ và thanh lý tín dụng. Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng Để có được một quyết định chính xác về việc cấp tín dụng hay không, ngân hàng phải phân tích hàng loạt các thông tin có liên quan, và nguồn sơ khởi đầu tiên có được là lấy từ hồ sơ đề nghị cấp tín dụng. Xét về mặt kinh tế, mặc dù quan hệ tín dụng chưa hình thành, nhưng đây là giai đoạn chuẩn bị những điều kiện cần thiết để quan hệ tín dụng được thiết lập một cách lành mạnh. Xét về mặt thủ tục hành chính, thì đây là giai đoạn hình thành đầy đủ các giấy tờ, văn bản chứng tỏ khách hàng có nhu cầu về vốn tín dụng, cũng như chứng minh được tính hợp pháp về nhân thân khách hàng và tính tự nguyện xin cấp tín dụng của khách hàng. Số lượng giấy tờ trong hồ sơ được lập ở giai đoạn này phụ thuộc vào các yếu tố sau: loại khách hàng, loại và kỹ thuật cấp tín dụng, quy mô nhu cầu tín dụng. Nhìn chung, những thông tin mà khách hàng phải cung cấp có thể phân thành bốn nhóm sau: những tài liệu chứng minh năng lực pháp lý của khách hàng, những tài liệu chứng minh khả năng hấp thụ vốn tín dụng và khả năng hoàn trả vốn tín dụng của khách hàng, những tài liệu liên quan đến bảo đảm tín dụng hoặc điều kiện cấp tín dụng đặc thù, giấy đề nghị cấp tín dụng đi kèm. Phân tích tín dụng Phân tích tín dụng là phân tích khả năng hiện tại và tiềm tàng của khách hàng, về sử dụng vốn tín dụng cũng như khả năng hoàn trả vốn vay ngân hàng. Mục tiêu của phân tích tín dụng là tìm kiếm những tình huống có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng và tiên lượng khả năng kiểm soát của ngân hàng về các loại rủi ro đó, cũng như dự kiến các biện pháp phòng ngừa và hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra. Mặt khác, phân tích tín dụng giúp cho ngân hàng kiểm tra tính chính xác của các thông tin do khách hàng cung cấp, từ đó có nhận định đúng về thái độ của khách hàng. Các nguồn thông tin làm cơ sở để phân tích tín dụng có thể nhận được từ: hồ sơ đề nghị cấp tín dụng của khách hàng; hồ sơ lưu trữ tại ngân hàng hoặc từ các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, đặc biệt từ trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro của hệ thống các định chế tài chính trung gian; các cơ quan chức năng như thuế, pháp luật...; các ấn bản kinh tế, các báo chí, và các phương tiện thông tin đại chúng khác; trực tiếp phỏng vấn khách hàng và nhân viên của họ. Nội dung phân tích tín dụng: phân tích tín dụng được chia ra làm hai lĩnh vực, đó là phân tích phi tài chính và phân tích tài chính đối với khách hàng. Phân tích phi tài chính Là phân tích các yếu tố ít hoặc không liên quan tới vấn đề tài chính của khách hàng một cách trực tiếp. Đó là, phân tích, kiểm tra tính pháp lý của khách hàng; kiểm tra mục đích của khoản tín dụng đề nghị cấp; phân tích tính cách của khách hàng, uy tín của họ trong kinh doanh, cuộc sống; nghiên cứu, phân tích tình hình quản trị doanh nghiệp, khả năng và uy tín của hội đồng quản trị và ban điều hành, chủ tịch hội đồng quản trị, tổng giám đốc và những người có ảnh hưởng lớn đến công ty cũng như khả năng tài chính của cá nhân họ; nghiên cứu triển vọng của khách hàng, đặc biệt vị thế trên thương trường, xu hướng phát triển nghành, vùng và các chiến lược phát triển trong tương lai của khách hàng. Việc nghiên cứu này phải được kết hợp với những chính sách có liên quan của Chính phủ. Phân tích tài chính Là phân tích hiện trạng tài chính và các dự báo về tài chính của khách hàng nhằm tìm kiếm và tiên lượng những trường hợp xấu có thể xảy ra, làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng. Phân tích tài chính gồm đánh giá khái quát về quản trị vốn và các hoạt động kinh doanh, phân tích hệ số tài chính, phân tích lưu chuyển tiền tệ, phân tích các dự báo tài chính. Thực chất phân tích tài chính trong phân tích tín dụng là xác định các yếu tố về lượng của nhu cầu vay vốn tín dụng. ở đây, ngân hàng sẽ xác định quy mô của nhu cầu vay hợp lý. Nhu cầu vay được xác định tùy theo khả năng hoạt động của khách hang, theo quy mô về nguồn vốn cần thiết để thực hiện phương án tài chính, mà trong đó một phần vốn vay sẽ tham gia. Bên cạnh đó, trong quá trình phân tích tài chính, ngân hàng cũng sẽ xác định thời hạn hợp lý cho các khoản vay. Cơ sở để xác định thời hạn vay là tính chất luân chuyển vốn của phương án sản xuất kinh doanh và phương án tài chính hoặc chu kỳ ngân quỹ của khách hàng. Hơn nữa, thời hạn cho vay phải không được vượt quá thời hạn tối đa mà ngân hàng quy định cho từng loại đối tượng vay cũng như mỗi ngành, nghề của khách hàng. Cùng với việc xác định thời hạn cho vay, ngân hàng còn xác định các kỳ hạn trả nợ. Một khoản vay có thể quy định một kỳ hạn trả nợ duy nhất, cũng có thể định nhiều kỳ hạn trả nợ. Tuy nhiên, dù có chia ra nhiều lần trả nợ thì về nguyên tắc kỳ hạn trả nợ cuối phải trùng với ngày đáo hạn của khoản vay. Ra quyết định tín dụng Ra quyết định tín dụng như thế nào, chấp thuận hay không chấp thuận là công việc cực kỳ quan trọng. Nó không những ảnh hưởng đến tiến trình hoạt động của khách hàng, mà còn ảnh hưởng đến cả uy tín của ngân hàng. Trong thực tế, ngân hàng rất sợ gặp hai loại sai lầm. Thứ nhất, quyết định chấp thuận mà sau đó khách hàng lại không có khả năng trả nợ. Trường hợp này, ngân hàng có thể bị giảm lợi nhuận, thậm chí mất vốn, giảm uy tín. Thứ hai, quyết định không chấp thuận khách hàng có khả năng hoàn trả vốn tín dụng đúng hạn. Trường hợp này thiệt hại từ phía ngân hàng cũng đáng kể. Đó là, ngân hàng mất một cơ hội tăng thu nhập, mất đi một khách hàng, cơ hội mở rộng thị phần của mình. Vì lẽ đó, trong giai đoạn này vai trò của người ra quyết định được đề cao. Cơ sở để ra quyết định tín dụng: ngoài các thông tin được chuyển giao từ giai đoạn trước chuyển sang, người ra quyết định còn phải dựa vào những cơ sở sau: thông tin cập nhật từ thị trường, các cơ quan có liên quan; chính sách tín dụng của ngân hàng, những quy định hoạt động tín dụng của nhà nước; nguồn cho vay của ngân hàng khi ra quyết định; kết quả thẩm định bảo đảm tín dụng. Trước khi kết thúc giai đoạn này, nhà quản trị còn phải tính giá cả, chi phí cho khoản tín dụng nếu được chấp thuận, lượng định những rủi ro có thể xảy ra để dự kiến thu nhập có được từ khoản tín dụng sẽ được cấp. Về nguyên tắc, trên cơ sở lãi suất cơ bản tại ngân hàng và loại rủi ro khách hàng được đánh giá ở giai đoạn trước, có điều chỉnh, cập nhật thông tin mà người có thẩm quyền sẽ ra quyết định về lãi suất áp dụng với khoản tín dụng được xét. Việc áp dụng lãi suất thả nổi hay cố định phụ thuộc vào chính sách quản trị rủi ro của ngân hàng. Kết thúc giai đoạn này được đánh dấu bởi các văn bản thể hiện kết quả ra quyết định tín dụng. Nếu từ chối, ngân hàng phải có văn bản thông báo và nêu lý do từ chối, người ra quyết định tín dụng phải ghi ý kiến từ chối lên giấy đề nghị cấp tín dụng cũng như hồ sơ xin cấp. Nếu chấp thuận, ngân hàng sẽ tiến hành ký kết hợp đồng tín dụng cùng hợp đồng có liên quan tới bảo đảm tín dụng nếu có. Đây là hành vi pháp lý rất quan trọng làm cơ sở để tiến hành giao vốn cho khách hàng và kiểm soát thu hồi vốn đã cấp. Giải ngân Giải ngân là nghiệp vụ cấp tiền cho khách hàng trên cơ sở mức tín dụng đã cam kết theo hợp đồng. Giải ngân phải đảm bảo nguyên tắc vận động của tín dụng gắn liền vận động của hàng hóa. Hay nói một cách khác, việc phát tiền vay phải có hàng hóa đối ứng, phù hợp với mục đích vay của hợp đồng tín dụng. Giải ngân có thể chia làm hai loại: Giải ngân là nghiệp vụ cấp tiền thuần túy: Theo loại này thì ngân hàng chỉ thuần túy cấp tiền cho khách hàng trong phạm vi mức tín dụng đã ký kết mà không đói hỏi thêm những diều kiện đặc biệt nào. Giải ngân là quyết định cho vay phụ kèm theo với việc cấp tiền: Khi hợp đồng tín dụng có quy định có những điều kiện ràng buộc cho việc giải ngân. Có thể xảy ra những tình huống sau: ngân hàng có thể từ chối cấp khoản tiền vay mặc dù đã ký hợp đồng tín dụng, ngân hàng chỉ cấp tiền vay theo các quy địnhcủa hợp đồng tín dụng. Việc áp dụng các phương pháp giải ngân khác nhau phụ thuộc vào kỹ thuật cho vay khác nhau như cho vay để mua tồn kho, máy móc thiết bị, hay các tài sản;cho vay để thực hiện các dư án đầu tư; cho vay để mua hàng nông sản... Giám sát, thu nợ và thanh lý tín dụng Giai đoạn giám sát tín dụng sẽ được tiếp nối với mục tiêu, theo dõi, đánh giá mức độ chấp hành tín dụng của khách hàng và kịp thời có cách ứng xử thích hợp. Nội dung của giai đoạn này chủ yếu gồm: giám sát tín dụng, thu nợ, tái xét tín dụng và phân hạng tín dụng, xử lý nợ quá hạn, nợ có vấn đề. Mục tiêu của giám sát tín dụng là kiểm tra việc thực hiện các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng tín dụng, bao gồm: khách hàng có sử dụng vốn có đúng mục đích không, kiểm soát mức độ rủi ro tín dụng phát sinh trong quá trình sử dụng vốn tín dụng, theo dõi các điều khoản cụ thể đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng....có thể giám sát thông qua hoạt động tài khoản của khách hàng tại ngân hàng, phân tích báo cáo tài chính theo định kỳ, viếng thăm và kiểm soát địa điểm hoạt động kinh doanh, kiểm tra các bảo đảm tiền vay, thông qua mối quan hệ với khách hàng và qua những thông tin khác. Việc thu nợ của ngân hàng phu thuộc vào phương thức cấp tín dụng trước đó. Đối với khoản tín dụng thu theo nhiều kỳ hạn, thu lãi và gốc có thể tách rời, nhân viên ngân hàng có trách nhiệm theo dõi kế hoạch trả nợ, và thường xuyên có thông tin qua lại giữa nhân viên kế toán và cán bộ tín dụng, giám sát, đôn đốc kịp thời khi đến kỳ hanh trả nợ. Tái xét tín dụng và phân hạng tín dụng thực chất là tiến hành phân tích tín dụng trong điều kiện khoản tín dụng đã được cấp. Mục tiêu của xem xét lại tín dụng là đánh giá lại chất lượng tín dụng, nhằm phát hiện các rủi ro để có hướng xử lý kịp thời. Khi các khoản vay có vấn đề, tức là xảy ra nợ quá hạn ngân hàng sẽ chuyển nợ quá hạn và áp dụng những biện pháp khắt khe để nhanh chóng thu hồi nợ đầy đủ. Năm giai đoạn của qui trình tín dụng có mối tương quan mật thiết với nhau, giai đọan trước là tiền đề thực hiện các công việc của giai đoạn sau. Đối với những hồ sơ cho vay phức tạp việc trao đổi và thực hiện các công việc bổ sung giữa các giai đoạn diễn ra nhiều lần. Tổng quan về khu vực kinh tế ngoài quốc doanh . Kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Nếu nghiên cứu cơ cấu kinh tế Việt Nam theo hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất thì cơ cấu kinh tế bao gồm: kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài quốc doanh. Trong đó kinh tế quốc doanh mang hình thức sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất còn kinh tế ngoài quốc doanh mang hình thức sở hữu phi nhà nứoc về tư liệu sản xuất. Từ trước năm 1986, kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta chỉ duy nhất là kinh tế tập thể với hình thức sở hữu tập thể về tư liệu sản xuât. Sau năm 1986, nên kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường, đa thành phần kinh tế. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được mở rộng thêm các thành phần kinh tế khác bao gồm các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và sản xuất nhỏ (hộ gia đình). Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các đơn vị sản xuất kinh doanh có tính chất tư hữu ( không kể các đơn vị đầu tư nước ngoài ) bao gồm: các doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH, Công ty cổ phần và các đơn vị theo hình thức hợp tác xã. Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Công ty trách nhiêm hữu hạn: Là công ty trong đó phần vốn góp của tất cả các thành viên phải được đóng đầy đủ ngay khi thành lập công ty. Các phần vốn góp được ghi rõ trong điều lệ công ty . Công ty không được phép phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn góp giữa các thành viên được thực hiện tự do. Việc chuyển vốn góp cho người không phải là thành viên phải được sự nhất trí của nhóm thành viên đại diện cho ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty. Có công ty Trách nhiện hạn một thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Công ty cổ phần: Là công ty trong đó số thành viên gọi là cổ đông mà công ty phải có trong suốt thời gian hoạt động ít nhất là ba người...Vốn điều lệ của công ty được chia làm nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần: Cổ phiếu được phát hành có ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhượng, cổ phiếu có ghi tên chỉ được chuyển nhượng nếu sự đồng ý của Hội đồng quản trị. Hợp tác xã: Là đơn vị kinh tế do nhiều lao động cùng nhau góp vốn sản xuất kinh doanh.Hợp tác xã hoạt động theo luật hợp tác xã và trên nguyên tắc bình đẳng, dân chủ, cùng hưởng lợi, cùng chịu rủi ro với mọi thành viên nhằm kết hợp sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn sản xuất kinh doanh và đời sống, Cơ quan cao nhất là Đại hội xã viên, cơ quan quản lý hoạt động của hợp tác xã là ban chủ nhiệm hợp tác xã được các xã viên bầu ra theo luật hợp tác xã. Trong những năm gần đây quan điểm phát triển nền kinh tế nước ta bằng con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là sự nghiệp của toàn dân đòi hỏi sự khác nhau của các thành phần kinh tế. Sản lượng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã tăng lên nhanh chóng và tham gia tích cực hơn vào thị trường, góp phần làm cho nền kinh tế trở nên sôi động. Bảng 1: Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mới đăng ký trong từng năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Số lượng doanh nghiệp 110 3985 7493 7175 6158 5490 3657 3022 3601 14417 Tổng lượng vốn (tỷ đồng) 118 3015 3458 2588 2880 2506 1784 2204 3435 13783 Vốn trung bình (triệu đồng) 1073 757 461 361 468 435 488 729 954 956 (Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư ) Nếu năm 1991 mới chỉ có 110 doanh nghiệp ngoài quốc doanh với số vốn điều lệ 118 tỷ VND. Thì đến năm 1992 đã có 3.985 doanh nghiệp ngoài quốc doanh đăng ký kinh doanh với số vốn điều lệ 3.015 tỷ VND. Sang năm 1993 con số này tăng lên 7.493 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký kinh doanh là 3.458 tỷ VND. Với tốc độ phát triển như vậy năm 1996 đã có 26.091 doanh nghiệp với số vốn điều lệ là 8.257 tỷ VND tương đương khoảng 14% tổng vốn điều lệ của các doanh nghiệp nhà nước năm 2000, cùng với sự ra đời của thị trường chứng khoán, và chủ trương của Đảng là cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, các công ty cổ phần đã tăng lên một cách nhanh chóng, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng được mở rộng. Chỉ tính riêng trong năm 2000 đã có 14.417 doanh nghiệp ngoài quốc doanh đăng ký kinh doanh với tổng số vốn điều lệ là 13.783 tỷ VND. Qua thực trạng phát triển của doanh nghiệp ngoài quốc doanh ta thấy các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế. Sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một tất yếu khách quan, cần được sự ủng hộ và hỗ trợ của Đảng và Nhà nước để các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng phát triển lớn mạnh. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh Đối với kinh tế Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế , đóng góp ngân sách Nhà nước Sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã đóng góp tất quan trọng làm tăng GDP thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tằng trưởng nhanh của khu vực ngoài quốc doanh cũng đến nay chưa có số hiệu chính thức được công bố về đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân phi nông nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, theo ước tính, doanh nghiệp nhà nướcvà doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 43-45% GDP, sản xuất nông nghiệp chiếm khoảng 27- 30 % GDP, thì phần còn lại của khu vực ngoài quôc doanh chiếm khoảng 25 - 28 % GDP, Theo báo cáo gần đây của tổng cục thống kê thì doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn , công ty cổ phần đã tạo ra khoảng 8% GDP, hộ kinh doanh có thể tạo ra khoảng 8 - 9% GDP và các hợp tác xã tạo ra khoảng 9% GDP. Như vậy, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh không kể sản xuất nông nghiệp đã tạo ra khoảng 25 -26 % GDP của cả nước. Riêng năm 2000 luật doanh nghiệp đã đẩy tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh lên 18,3% so với 10,9% năm 1999 và là mức cao nhất trong 10 năm qua. Qua sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mà tổng giá trị thuế Nhà nước thu được từ khu vực này tăng lên góp phần thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, tại điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Thu hút vốn trong dân cư , tăng thu nhập người lao động Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư , các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp quan trọng trong việc huy động vốn cho nền kinh tế. Tổng vốn của doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiêm hưu hạn, công ty cổ phần từ năm 1990 - 1999 là 24.500 tỷ VND chiếm 17,8% tổng số vốn đăng ký của tất cả các doanh nghiệp hoạt động theo pháp luật ( bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước). Tổng số vốn đầu tư thực tế của các doanh nghiệp , công ty tư nhân có lẽ còn cao hơn nhiều con số này. Hết năm 2000 số vốn đã đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo luật doanh nghiệp mới khoảng 24.000 tỷ VND ( khoảng 1.65 tỷ USD ). Tính đến thánh 3/2001 cả nước có khoảng 18.400 doanh nghiệp được thành lập 28.000 tỷ VND (khoản 1.9 tỷ USD). Như vậy, một lượng vốn lớn trong nhân dân đã được đưa vào sản xuất kinh doanh, bởi phần lớn số vốn của các doanh nghiệp tư nhân là nguồn vốn phi chính thức vay của anh em họ hàng, mua bán chịu, vay nặng lãi, chơi hụi họ… nguồn vốn chính thức từ Ngân hàng và các tổ chức tín dụng chỉ chiếm số lượng thiểu số. Qua đó 500.000 chỗ làm việc mới đã được tạo ra, góp phần tăng thu nhập của người lao động , giải quyết nạn thất nghiệp. Trong những năm tới đây để khu vực kinh tế tư nhân phát triển hơn nữa Nhà nước cần tạo ra môi trường kinh tế thông thoáng, xác định rõ ràng vai trò của từng thành phần kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đa số hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Trong năm 2000, 32% doanh nghiệp mới được thành lập hoạt động trong lĩnh vực sản suất, chế biến, 26% hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thương mại, 21% hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ khác; 15 % hoạt động trong, lĩnh vực xây dựng và dịch vụ thương mại, 6% hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tổng hợp. Như vậy, ở thành phố, các doanh nghiệp này làm gia tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Việc các doanh nghiệp được hình thành ở các vùng nông thôn, cũng làm giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp ở vùng này, làm gia tăng tủ trọng công nghiệp cơ khí, chế biến nông sản, đồng thời kéo theo sự gia tăng, phát triển của các loại hình dịch vụ. Sự phát triển ngày càng nhiều các doanh nghiệp mới thúc đẩy tiến trình chuyên môn hoá, công nghiêp hóa trong ngành nông nghiệp và nông thôn, làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng lên, góp phần tăng tổng GDP lên, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế, thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Làm nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh vừa là đối thủ cạnh tranh quyết liệt, vừa là đối tác làm ăn trong quá trình cung cấp sản phẩm, hoàn thiện sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm, cung cấp đầu vào cho doanh nghiệp quốc doanh. Sự liên kết sản xuất giữa các doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh tạo ra một dây chuyền sản xuất lớn của xã hội, giúp cho thời gian sản xuất tiêu thụ được rút ngắn lại và sản phẩm sản xuất ra là hoàn thiện hơn với chất lượng tốt hơn. Như vậy, sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã thúc đẩy và tăng cường các mối quan hệ trong nước, đồng thời tạo ra giữa các thành phần kinh tế phải luôn đổi mới để tồn tại và phát triển. Muốn tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, các doanh nghiệp phải tìm kiếm khách hàng, bằng mọi cách thu hút khách hàng mua sản phẩm của mình. Qua đó, doanh nghiệp sẽ tự hoàn thiện yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Đối với xã hội Đa dạng hoá sản phẩm, đáp ứng nhu cầu xã hội. Những năm gần đây khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, hàng loạt các doanh nghiệp ngoài quốc doanh xuất hiện trong các lĩnh vực như công nghiệp, chế biến, thương mại, dịch vụ... góp phần làm cho nên kinh tế trở nên hết sức đa dạng và phong phú. Khách hàng trở thành thượng đế, hàng hoá tràn ngập trên thị trường với nhiều chủng loại đáp ứng tốt nhất yêu cầu của người tiều dùng. Việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đã góp phần tạo ra các sản phẩm có hình thức, mẫu mã đẹp, giá thành hạ đem lại lợi ích cho người tiêu dùng. Không chỉ vậy, các doanh nghiệp ngoại quốc doanh còn tạo ra nguồn thu nhập , tăng sức mua của thị trường, kích thích các ngành sản xuất, thương mại dịch vụ phát triển đáp ứng mọi nhu cầu của người tiêu dùng. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với hình thức đa dạng chủ yếu là quy mô vừa và nhỏ, chuyển đổi kinh doanh nhanh xâm nhập vào mọi nơi của thị trường mà các doanh nghiệp nhà nước không thực hiện được. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tồn tại như một thực thể khách quan nhằm lấp những chỗ trống trong nhu cầu đa dạng của thị trường mà các doanh nghiệp nhà nước không đáp ứng được. Qua thực tiễn hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta nhận thấy một điều là: cùng với sự ra đời và phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thì hàng hoá trên thị trường đã hết sức đa dạng từ hàng hoà thiết yếu đến hàng hoá thông thường, phong phú về mẫu mã, chất lượng, chủng loại. Giải quyết thất nghiệp, giảm các tệ nạn xã hội. Việt Nam là một quốc gia có dân số đông, trẻ, vì vậy trung bình hàng năm có 1,2 - 1,4 triệu thanh niên gia nhập thị trường lao động, gây nên một sức ép lớn cho việc giải quyết việc làm. Sức ép về lao động trong quá trình chuyển đổi cơ cấu ngày càng tăng, nhu cầu việc làm ngày càng lớn, sự chênh lệch ngày càng lớn giữa cung và cầu lao động, kể cả lượng và chất. Trong khi khu vực kinh tế nhà nước đang sắp xếp lại và tinh giảm biên chế tạo ra một lượng lớn lao động dư thừa, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hàng năm cũng chỉ thu hút được khoảng 30.000 chỗ làm việc mới thì số lượng người làm việc hàng năm ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng nhanh hơn rất nhiều số người làm việc trong khu vực nhà nước vào những năm gần đây và hiện nay. Khu vực tư nhân đã thu hút chủ yếu người lao động, trở thành “ cứu cánh cho nền kinh tế ” xét về phương diện việc làm. Năm 1998, trong ngành công nghiệp 65,6% lao động làm việc khu vực ngoài quốc doanh; 22,4% ở trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, 12% trong khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2000, các doanh nghiệp mới thành lập tạo ra hơn 500.000 việc làm, hầu hết trong số người được nhân việc làm đều là thanh niên, học sinh, sinh viên mới ra trường. Nhờ đó gián tiếp làm giảm gánh nặng cho xã hội, bởi tỷ lệ thuận với số thanh niên thất nghiệp là tệ nạn xã hội gia tăng, vì đây là nhóm tuổi nhạy cảm ._.hay phát sinh những tệ nạn xã hội khi không có việc làm. Giải quyết được việc làm cho thanh niên cũng chính là góp phần ổn định xã hội, đẩy lùi tệ nạn trong xã hội. Nâng cao đời sống nhân dân , giảm chênh lệch thu nhập. Từ khi áp dụng luật doanh nghiệp mới, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh, đã đem lại rất nhiều lợi ích cho nền kinh tế. Hiện nay, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh giải quyết một lượng lao động lớn cho xã hội nhất là lao động có trình độ học vấn thấp. Qua đó nâng cao đời sống của bộ phận dân nghèo . Phân phối thu nhập cho mọi tầng lớp xã hội, góp phần giảm chênh lệch giầu nghèo trong xã hội. Chính sự năng động cua các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà mọi nhu cầu của người tiêu dùng đều được đáp ứng một các nhanh chóng, đời sống vật chất, tinh thân của nhân dân được củng cố nâng cao về mọi mặt... Nguồn vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nguồn vốn của mỗi doanh nghiệp không giống nhau do quá trình huy động và sử dụng vốn phụ thuộc vào một loạt các nhân tố khác nhau như: loại hình sở hữu doanh nghiệp, nghành nghề hay lĩnh vực kinh doanh, quy mô và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, trình độ quản lý, trình độ khoa học kĩ thuật, chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Nhưng nhìn chung, vốn mà các doanh nghiệp có thể huy động được bắt nguồn từ hai nguồn chính sau: Vốn tự có của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp muốn thành lập và hoạt động được thì chủ doanh nghiệp phải đầu tư một số vốn nhất định. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, vốn ban đầu chính là vốn do ngân sách Nhà nước cấp, còn đối với các doanh nghiệp khác mức vốn được quy định cho từng ngành nghề kinh doanh gọi là vốn pháp định. Đây là mức vốn tối thiểu phải có để được thành lập và hoạt động theo quy định của Nhà nước. Tuy nhiên hiện nay khái niệm “ vốn pháp định” đã được thay thế bằng vốn điều lệ, ngoại trừ một số ngành nghề kinh doanh dặc biệtt như vàng bạc, xây dựng.. Trong thực tế, vốn tự có của doanh nghiệp tư nhân thường lớn hơn nhiều so với vốn pháp định, nhất là sau một thời gian hoạt động và mở rộng kinh doanh. Tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp do nhiều nguyên nhân khác nhau nên nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp không còn đủ khả năng duy trì hoạt động của công ty. Đối với công ty cổ phần, vốn đóng góp ban đầu của các cổ đông là nền tảng và là yếu tố quyết định để thành lập công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách nhiệm trên giá trị cổ phần mà họ nắm giữ. Số vốn mà mỗi công ty cổ phần huy động được khi thành lập công ty để đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền gọi là vốn điều lệ. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, khi làm ăn có lãi các công ty cổ phần thường có nhu cầu tăng vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh với hi vọng thu được nhiều lợi nhuận hơn. Một bộ phận khác của vốn tự có của doanh nghiệp là nguồn vốn từ lợi nhuận để lại. Một số doanh nghiệp coi trọng việc tái đầu tư để mở rộng sản xuất kinh doanh. Mục đích là đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng và lợi nhuận đem lai ngày càng cao. Ngoài ra trong quá trình hoạt động khi cần mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, lắp đặt thêm hoặc đổi mới thiết bị công nghệ…công ty cũng có thể tăng vốn thông qua việc huy động từ các cổ đông. Song cũng có những trường hợp công ty tăng vốn bằng cách chuyển một phần quỹ dự trữ tài chính thành vốn điều lệ của công ty. Các hình thức tăng vốn này được thực hiện theo những quy định riêng biệt và chặt chẽ của pháp luật Nhà nước và các quy định của công ty. Để thành lập doanh nghiệp , vốn tự có được coi là tạm đủ. Nhưng để duy trì và phát triển thì ngoài nguồn vốn tự có, doanh nghiệp cần phải đi vay. Nguồn vốn đi vay. Doanh nghiệp có thể vay vốn từ các đối tác thông qua hình thức tín dụng thương mại hay vay từ ngân hàng thông qua hình thức tín dụng ngân hàng. Tín dụng thương mại. Các doanh nghiệp thường khai thác nguồn tín dụng thương mại hay còn gọi là tín dụng của nhà cung cấp. Nguồn vốn này được khai thác qua quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ đối với các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ tiện lợi và linh hoạt, nó tạo ra khả năng mở rộng quan hệ hợp tác làm ăn một cách lâu bền. Tín dụng ngân hàng. Các ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vay vốn tức thời cho các doanh nghiệp với thời hạn có thể từ vài ngày cho đến vài năm với lượng vốn theo nhu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể vay vốn ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn theo mức lãi suất phải trả khác nhau. Do ở Việt Nam thị trường tài chính chưa phát triển nên tín dụng ngân hàng có vai trò và vị trí rất quan trọng đối với cả ngân hàng và doanh nghiệp, đồng thời đối với nền kinh tế nói chung. Nó có những đặc điểm tiến bộ và có vai trò thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng. tín dụng ngân hàng đối với các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với các khu vực kinh tế ngoài quốc doanh Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Hiếm có doanh nghiệp nào chỉ sử dụng vốn tự có của mình để hoạt động sản xuất kinh doanh , bởi vì điều đó không hạn chế khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn làm tăng chi vốn. Hiện nay, để thực hiện các quyết định đầu tư các doanh nghiệp thường thích sử dụng vốn vay vì nếu chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn góp thì rủi ro trong sản xuất kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ khách gánh chịu. Mặt khác, bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ doanh nghiệp vẫn nắm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp . Ngoài ra, nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền vay lớn hơn lãi vay phải trả thì lợi nhuận dành cho chủ doanh nghiệp gia tăng đáng kể. Hơn nữa, lãi vay được tính trong chi phí hợp lý hợp lẽ khi tính thuế thu nhập, từ đó công ty sẽ được hưởng một phần lợi từ thuế. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ nợ quá cao, doanh nghiệp sẽ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. việc tăng sử dụng nợ làm tăng rủi ro của các luồng tiền vào của công ty. Nhưng tỷ lệ nợ qúa cao thường dẫn đến mức lãi suất mong đợi cao hơn. Vì vậy, rủi ro cao hơn cùng với khuynh hướng làm giảm giá cổ phiếu, nhưng lãi suất mong đợi cao hơn. Do đó, công ty phải xác định một cơ cấu vốn tối ưu, đó là một cơ cấu hướng tới sự cân bằng giữa lãi suất và rủi ro và tối đa được giá cổ phiếu của công ty. Qua đó, ta thấy rằng doanh nghiệp sử dụng vốn vay từ Ngân hàng hay vốn vay tín dụng sẽ góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu. Tín dụng Ngân hàng góp phần tăng cường quy mô vốn lưu động của doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thúc đẩy sản xuất phát triển. Do đặc điểm sản xuất của các loại hình kinh tế ngoài quốc doanh thường có chu kỳ sản xuất nhanh, đòi hỏi thường xuyên bổ sung vốn lưu động vượt qua khả năng vốn tự có của công ty, doanh nghiệp. Vốn lưu động là số tiền ứng trước để trả lương, mua nguyên nhiên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, một số công cụ lao động nhỏ và các chi phí khác phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh. Thông thường nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp không lớn hơn nhiều so với vốn tự có của các doanh nghiệp. ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chủ yếu sử dụng vốn tự có để kinh doanh nhưng nguồn vốn này rất thấp. Do đó, sự có mặt vốn cho vay dưới hình thức tín dụng ngắn hạn là nguồn bổ sng vốn lưu động rất quan trọng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong nền kinh tế thị trường, hàng hoá của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sản xuất ra không phải lúc nào cũng tiêu thụ ngay được, mà có tiêu thụ được thì cũng không phải lúc nào cũng thu được tiền ngay. Trong khi đó thì sản xuất không thể ngừng được. Để việc sản xuất kinh doanh tiến hành bình thường, liên tục và có hiệu quả, tự doanh nghiệp khó có thể giải quyết được, cần thiết phải thông qua tín dụng Ngân hàng để bổ sung vốn lưu động cho chính mình. Tín dụng Ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, máy móc, thiết bị. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng như các doanh nghiệp nhà nước đều có đặc trưng chung là trình độ công nghệ sản xuất lạc hậu. Hầu hết các thiết bị sản xuất đều cũ kỹ, tuổi thọ khá cao, thường xuyên trên 20 năm và được tân trang lại. Do đó các sản phẩm làm ra có giá thành cao, chất lượng hạn chế, không cạnh tranh được với hàng ngoại nhập, dẫn đến tình trạng sản xuất kinh doanh bị thua lỗ. Bởi vậy, nhu cầu đổi mới kỹ thuật công nghệ của các doanh nghiệp ngày càng trở nên bức xúc. Với khả năng của mình NHTM hoàn toàn có thể hỗ trợ vốn, giúp các doanh nghiệp từng bước tháo gỡ khó khăn, thích nghi với thị trường thông qua hoạt động cho vay trung và dài hạn. Ngoài ra, NHTM cũng có thể giúp các doanh nghiệp thực hiện việc đổi mới công nghệ thông qua hình thức tín dụng thuê mua. Đây là hình thức cho thuê máy móc, thiết bị để phục vụ cho hoạt động sản xuất, được Ngân hàng mua theo yêu cầu của bên thuê. Hình thức này được thực hiện theo thể lệ tín dụng thuê mua đã được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành. Bên thuê có quyền tự chon bên cung ứng hàng thương lượng và thoả thuận chủng loại, giá cả, việc bảo đảm, cách thức và thời gian giao hàng, việc lắp đặt, bảo lãnh và những vấn đề khác liên quan đến tài sản thuê. Quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên được xác định dựa trên hợp động tín dụng thuê mua đã ký kết. Nhờ đó, các doanh nghiệp có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong việc đầu tư trang thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Tín dụng Ngân hàng với đặc điểm là buộc người vay phải trả lãi và gốc trong thời gian nhất định nào đó đã buộc người kinh doanh phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Người đi vay phải tính toán chi phí sản xuất, tốc độ quay vòng vốn để sao cho khi hết hạn vay có đủ vốn và lãi trả cho Ngân hàng và tạo ra một phần lợi nhuận cho mình. Với điều khiện ràng buộc về lãi suất, thời gian và mục địch sử dụng vốn vay và phải thúc đẩy sản xuất kinh doanh của mình sao cho đạt được hiêụ quả cao nhất. Như vậy, tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy việc hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh . Nhân khách quan Môi trường pháp lý. Trong nền kinh tế thị trường, mọi chủ thể đều có quyền tự chủ về hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng phải đảm bảo trong khuôn khổ pháp luât cho phép. Trước hết, đứng về phía các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, kể từ khi có luật công ty, luật tổ doanh nghiệp nhân năm 1990 và cho đến năm gần đây năm 2000. Luật doanh nghiệp được chính thức áp dụng, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có một hành lang pháp lý tương đối đầy đủ, an toàn để hoạt động. Cùng với việc quy định hướng dẫn cụ thể của các văn bản dưới luật, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể nắm được phương thức tổ chức, cách thức hoạt động cũng như những ngành nghề được phép hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó họ có thể xây dựng được kế hoạch mở rộng và phát triển cho doanh nghiệp mình và có thể yêu cầu sự hỗ trợ từ phía Ngân hàng trong trường hợp cần thiết. Về phía các Ngân hàng, hoạt động tín dụng Ngân hàng cũng vậy, phải tuân theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, luật dân sự và các quy định khác. Dựa vào những luật này, Ngân hàng mới xây dựng chính sách tín dụng , quyết định cho vay theo từng nhóm khách hàng. Vì vậy, nếu những quy định của pháp luật không rõ ràng, đồng bộ, kịp thời và không ổn định, thì nó sẽ gây khó khăn cho Ngân hàng trong các hoạt động nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Vì vậy, Ngân hàng không có một căn cứ pháp lý rõ ràng, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ và ổn định. Ngược lại, những văn bản pháp luật, những quy định đầy đủ rõ ràng, đồng bộ và ổn định sẽ là một hành lang pháp lý vững chắc góp phần vào sự cạnh tranh lành mạnh giữa các Ngân hàng trong hoạt động tín dụng. Đó chính là cơ sở pháp lý để giải quyết các khiếu nại tố cáo khi có tranh chấp xảy ra trong hoạt động tín dụng. Điều đó sẽ giúp Ngân hàng mở rộng hoạt động tín dụng có hiệu quả hơn. Môi trường kinh tế. Nền kinh tế là một hệ thống bao gồm nhiều hoạt động kinh tế có liên quan biện chứng, ràng buộc lẫn nhau. Bất kỳ sự biến động nào của một hoạt động kinh tế nào đó cũng đều ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực còn lại. Hơn nữa, hoạt động của các Ngân hàng thương mại có thể được coi là chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Vì vậy, sự ổn định hay bất ổn định, sự tăng trưởng nhanh hay chậm của nền kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ tới các hoạt động của Ngân hàng . Đặc biệt, hoạt động tín dụng là hoạt động nhạy cảm nhất với những biến động của nền kinh tế, do đó sự biến động của nền kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ tới hoạt động tín dụng cảu Ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Khi nền kinh tế ở tình trạng hưng thịnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, môi trường kinh doanh ít biến động hấp dẫn nhà đầu tư thì nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp tăng lên, vì khi đó các doanh nghiệp làm ăn tốt thường có nhu cầu mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm kiếm thêm lợi nhuận. Do vậy, tín dụng Ngân hàng có cơ hội phát triển. Ngược lại, nếu nền kinh tế đang trong tình trạng đình trệ, các doanh nghiệp có xu hướng co cụm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì tín dụng Ngân hàng sẽ bị thu hẹp. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có sự hỗ trợ của Nhà nước khi gặp khó khăn không kế hoạch hoá được hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì xác suất thất bại là rất lớn. Thực tế đã có nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang trong tình trạng khốn đốn vì môi trường kinh doanh không ổn định, thậm chí nghiều doanh nghiệp đã bị phá sản và không trả nợ được Ngân hàng và cũng không được Ngân hàng cho vay tiền. Điều đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Các nhân tố chủ quan Từ phía doanh nghiệp ngoài quốc doanh Một là, xét theo loại hình kinh tế thì kinh tế ngoài quốc doanh gồm các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và sản xuất nhỏ ( hộ gia đình ). Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bao gồm cả các doanh nghiệp tư nhân công ty trách nhiêm hưu hạn, công ty cổ phần và các đơn vị theo hình thức hợp tác xã. Xét về loại hình sản xuất nhỏ ( hộ gia đình ): Đây là loại hình kinh tế sản xuất do mỗi cá nhân, gia đình tự thành lập và tổ chức hoạt động. Loại hình này thường có quy mô vốn kinh doanh nhỏ, lượng vốn đầu từ thấp, chủ yếu là các hộ nông dân, thợ thủ công, người làm thương nghiệp và dịch vụ cá thể. Với đặc điểm nhỏ bé nhưng linh hoạt, kinh tế hộ gia đình có khả năng phát huy nhanh và hiệu quả các tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng hộ gia đình, từng người lao động. Do đó, sự tồn tại loại hình kinh tế này cũng góp phần quan trọng cho nền kinh tế. Đối với các đơn vị theo hình thúc hợp tác xã, được phát triển thông qua hình thứ liên kết tự nguyện của những người lao động. Loại hình kinh tế này phát triển với nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ tổ nhóm hợp tác và có mặt trong nhiều ngành nghề cả ở nông thôn là thành thị. Các cá nhân tham gia trong hợp tác xã hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi theo tinh thần của luật hợp tác xã. Đây là loại hình kinh tế có đóng góp quan trọng cho nền kinh tế cá thể về mặt vật chất và các giá trị khác. Khu vực kinh tế doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp theo hình thức công ty ở Việt Nam cũng phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực, nhất là thương nghiệp và dịch vụ. Các loại hình doanh nghiệp này tuy không đong vai trò thống trị, nắm giữ các mạch máu kinh tế quan trọng nhưng nó cũng có tác dụng không nhỏ đối với sự phát triển của nền kinh tế và nó chiếm một tỷ trọng khá lớn về vốn kinh doanh và giá trị tổng sản lượng của nền kinh tế. Trong quá trình phát triển, khả năng và nhu cầu của mỗi loại hình kinh tế trên không giống nhau. Các Ngân hàng cần căn cứ vào đặc điểm và sự phát triển của từng loại hình doanh nghiệp đó để có quyết định mở rộng cho vay một cách hợp lý. Hai là, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy, số vốn điều lệ không nhiều, doanh nghiệp có vốn trên 500 triệu VND chỉ chiếm 31.7% trong đó chỉ có 18.9% số doanh nghiệp có vốn trên 1 tỷ VND. Do hạn chế về nguồn vốn nhìn chung trình độ kỹ thuật công nghệ của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh còn lạc hậu, chủ yếu vẫn là kỹ thuật công nghệ sử dụng nhiều lao động. Theo số liệu thống kê điều tra thì chỉ có khoảng 25% doanh nghiệp và 20.5% số công ty sử dụng công nghê hiện đại. Đây là một trong nhiều nguyên nhân làm cho các sản phẩm chưa có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường và thị phần hàng hoá bị giới hạn trong khuôn khổ chật hẹp. Do cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn cộng với việc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không được lợi thế về quyền sử dụng đất như các doanh nghiệp Nhà nước nên không tạo ra được niềm tin vững chắc cho Ngân hàng khi đề nghị xin vay vốn, các Ngân hàng thường không dám mạnh dạn cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vì chưa đảm bảo được cơ sở đảm bảo tiền vay chắc chắn. Đây có thể được coi là một trong nhiều nguyên nhân hạn chế việc mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Ba là, trình độ quản lý, kinh doanh của các doanh nghiệp.Thành phần xuất thân của các chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh từ nhiều nguồn khác nhau như : nông dân, thợ, tầng lớp trí thức,. Do nền kinh tế nước ta mới chuyển sang cơ chế thị trường nên những kiến thức về kinh tế, những hiểu biết về kinh doanh không phải ai cũng nắm bắt kịp thời. Điều này trước hết gây khó khăn trong việc điều hành doanh nghiệp cho chính những người làm chủ. Họ gặp nhiều hạn chế, vướng mắc trong công tác tổ chức nhân sự, trong việc hoạch định kế hoạch cũng như phân tích dự án, các cơ hội đầu tư. Việc thực hiện pháp lệnh về tài chính và thông kê của Nhà nước trong các doanh nghiệp này chưa được thực hiện nghiêm túc. Phần lớn các doanh nghiệp hoạch định kế toán chủ yếu được thực hiện dưa vào kinh nghiệm của bản thân. do đó họ gặp nhiều khó khănkhi tiếp cận nguồn vốn Ngân hàng vì không chứng thực được năng lực kinh doanh cũng như tình hình tài chinhd của bản thân một cách rõ ràng. Mặc dù, còn nhiều hạn chế nhưng kinh tế ngoài quốc doanh đã và đang phát triển nhanh chóng. Trong quá trình phát thiển của mình, thành phần kinh tế này thực sự cần một lượng vốn rất lớn mà các Ngân hàng thương mại sẽ là người hỗ trợ tốt nhất . Xuất phát từ chính những đặc trưng của nền kinh tế ngoài quốc doanh, các Ngân hàng thương mại sẽ có những chính sách, chiến lược riêng của mình. Trong đó, bản thân hoạt động tín dụng của Ngân hàng sẽ là nhân tố quan trọng quyết định đến việc mở rộng cho vay đôi với thành phần kinh tế này. Từ phía Ngân hàng thương mại. Một là, chính sách tín dụng của Ngân hàng. Chính sách tín dụng là một yếu tố đầu tiên tác động đến việc cho vay,cung ứng vốn cho nền kinh tế. Chính sách tín dụng bao gồm: Hạn mức tín dụng Kỳ hạn của các khoản vay. Lãi suất cho vay Mức lệ phí tín dụng. Các loại cho vay được thể hiện: các điều khoản của chính sách tín dụng được xây dựng dựa trên những nhân tố khác nhau như các điều kiện kinh tế, chính trị, tài chính của Ngân hàng nhà nước, khả năng về vốn của Ngân hàng và nhu cầu tín dụng của khách hàng. Khi các yếu tố này thay đổi, chính sách tín dụng cũng thay đổi theo. Đối với mỗi khách hàng, Ngân hàng có thể đưa ra các chính sách khác nhau cho phù hợp. Chằng hạn đối với các doanh nghiệp Nhà nước là các tổng công ty lớn có uy tín, có tình hình tài chính lành mạnh, Ngân hàng có thể cho vay không cần bảo đảm, còn các doanh nghiệp tư nhân do có mức rủi ro cao hơn nên việc cho vay cần có tài sản thế chấp cho món vay đó. Hạn mức tín dụng của Ngân hàng cũng có thể khác nhau đối với từng khách hàng. Khách hàng nào có quan hệ tốt với Ngân hàng có thể được hưởng một mức lãi suất thấp hơn so với các khách hàng khác, thậm chí còn được nhận được một mức lãi suất ưu đãi hơn. Tóm lại, chính sách tín dụng sẽ là nhân tố quyết định phương hướng mở rộng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Ngoài ra, Ngân hàng còn sử dụng chính sách tín dụng để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Chẳng hạn như các Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng cổ phần tuy không có nhiều điều kiện thuận lợi chư các Ngân hàng Quốc doanh nhưng đã nhanh chóng xây dựng chính sách tín dụng của mình hướng vào thị trường khách hàng ngoài quốc doanh. Để đáp ứng nhu cầu khách hàng, các Ngân hàng đã có sự linh hoạt trong chính sách kỳ hạn, chính sách lãi suất, cung ứng vốn cho khách hàng theo nhiều hình thức khác nhau ( trực tiếp và gián tiếp). Do đó, uy tín cũng như phạm vi của các Ngân hàng này càng mở rộng đồng thời các doanh nghiệp cũng có nhiều cơ hội để tiếp cận nguồn vốn của Ngân hàng hơn. Hai là, quy trình tín dụng. Quy trình tín dụng là tập hợp những nội dung, kỹ thuật, nghiệp vụ cơ bản, các bước tiến hành từ khi bắt đầu cho vay đến khi kết thúc món vay đó. Quy trình tín dụng là bước quan trọng để thực thi chính sách tín dụng. Tuân theo các bước của quy trình tín dụng, Ngân hàng sẽ tìm kiếm, lựa chọn được khách hàng phù hợp,có uy tín, đạo đức. Cũng với việc cung ứng được các khoản vốn vay theo điều khoản hợp đồng tín dụng đã ký kết. Ngoài ra, Ngân hàng còn có thể đưa ra các biện pháp điều chỉnh, can thiệp kịp thời, sớm ngăn ngừa được rui ro trong những trường hợp nhất định. Tuy nhiên, quy trình tín dụng của mỗi Ngân hàng không mang tính cứng nhắc. Đối với mỗi khách hàng khác nhau, Ngân hàng có thể chủ động, linh hoạt thực hiện các bước trong quy trình tín dụng cho phù hợp. Việc áp dụng một cách sáng tạo, linh hoạt, chuyển biến quy trình tín dụng thành kỹ năng, nghệ thuật sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng hoạt động cho vay của Ngân hàng đối với nền kinh tế. Nhờ đó, mục đích của cả khách hàng và Ngân hàng đều thực hiện được. Ba là, hoạt động của Ngân hàng. Phương châm hoạt động của Ngân hàng là “đi vay để cho vay”. Bởi vậy, nếu hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thuận lợi, lượng vốn huy động dồi dào, chi phí huy động thấp và hợp lý thì Ngân hàng sẽ tích cực mở rộng hoạt động tín dụng đối với các thành phần kinh tế. Ngược lại, nếu tình hình huy động vốn của Ngân hàng không tốt Ngân hàng sẽ có chính sách tín dụng phù hợp với nó để đảm bảo hoạt động của Ngân hàng vừa tránh được rủi ro. Bên cạnh đó còn phải kể đến công tác tổ chức, chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất thiết bị của Ngân hàng. Đó sẽ là những nhân tố ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Nếu công tác thu hút khách của Ngân hàng đựơc cụ thể hoá và sắp xếp một cách hợp lý khoa học, thống nhất từ trên xuống dưới thì hoạt động tín dụng sẽ được diễn ra lành mạnh và có hiệu quả hơn. Đội ngũ cán bộ nhân viên và trang thiết bị được gọi là hình ảnh đầu tiên của Ngân hàng trong con mắt của khách hàng. Nếu khách hàng giao tiếp với cán bộ tín dụng mà cảm thấy hài lòng thì khách hàng sẽ thấy yên tâm, đặt niềm tin vào Ngân hàng đó và mong muốn được duy trì quan hệ lâu dài với Ngân hàng. Còn cơ sở trang thiết bị của Ngân hàng chính là yếu tố làm tăng khả năng cạnh tranh của Ngân hàng. Cơ sở vật chất phù hợp với quy mô huy động của Ngân hàng sẽ là cơ sở tạo niềm tin cho khách hàng. Hướng mở rộng cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh của các Ngân hàng thương mại. Phương hướng mở rộng hoạt động cho vay của Ngân hàng có thể được xây dựng theo định hướng khác nhau, cần căn cứ vào nhiều yếu tố. Nhìn chung đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, Ngân hàng có thể mở rộng theo các hướng như sau: Mở rộng về đối tượng cho vay. Chúng ta đã biết hiện nay kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh với nhiều loại hình kinh tế khác nhau như: hộ sản xuất gia đình, các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiêm hưu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã... căn cứ vào từng loại hình mà Ngân hàng có chính sách tín dụng phù hợp. Đối với kinh tế hộ sản xuất gia đình: nhu cầu vốn vay là ở loại hình thức này thường là quy mô nhỏ, chủ yếu vay ngắn hạn để bổ sung lượng vốn thiếu hụt tạm thời. Đứng trên giác độ quản lý Ngân hàng , khoản chi phí mà Ngân hàng phải bỏ ra để thực hiện trên mỗi món vay là lớn hơn so với việc cho các doanh nghiệp vay. Do đó, bên cạnh việc trực tiếp cho các cá nhân vay vốn,đối với những khách hàng có cùng hoạt động sản xuất kinh doanh , Ngân hàng có thể hướng dẫn họ tập hợp lại thành nhóm khoảng 5 - 6 người để thực hiện cho vay. Cán bộ tín dụng chỉ cần làm việc với đại diện của nhom. Người này sẽ chịu trách nhiệm trước Ngân hàng về việc sử dụng vốn vay của tất cả các thành viên trong nhóm cũng như chuyển khoản vay từ Ngân hàng hới các thành viên khác. Bằng cách này, Ngân hàng đã giảm được chi phí cho vay, khách hàng bớt được các thủ tục rườm rà. Đối với hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp dưới hình thức công ty. Đây là những đơn vị kinh tế được tổ chức theo luật doanh nghiệp. Ngân hàng sẽ căn cứ vào đặc trưng của từng loại hình mà áp dụng các chính sách tín dụng khác nhau. Chẳng hạn, bên cạnh việc cho vay ngắn hạn để hỗ trợ bổ sung vốn lưu động thì Ngân hàng còn có thể cho vay trung và dài hạn để các doanh nghiệp thực hiện các dự án trung và dài hạn. Dựa trên giấy tờ yêu cầu vay vốn của khách hàng Ngân hàng có thể cho vay để đáp ứng các nhu cầu tài chính khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Việc cho vay có đảm bảo hay không có bảo đảm đến mức độ nào cũng căn cứ vào tình hình pháp lý của từng doanh nghiệp. Việc mở rộng đối tượng cho vay không những giúp Ngân hàng có thể thiết lập quan hệ với nhiều khách hàng mà vòn giúp Ngân hàng đa dạng hoá được các khoản mục đầu tư. Do đo, hạn chế được rủi ro đồng thời tăng lượng vốn cung ứng cho nền kinh tế. Mở rộng về quy mô của khoản vay. Các đơn vị kinh tế thường có nhu cầu vốn không giống nhau do đặc điểm của sản xuất kinh doanh khác nhau. Bởi vậy, để đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng, Ngân hàng có thể mở rộng việc cho vay theo số lượng và kỳ hạn khác nhau. Trước hết, để thực hiện việc mở rộng cho vay theo hướng này, Ngân hàng phải căn cứ vào tiềm lực vốn của mình. Nguồn vốn mà Ngân hàng huy động được có thể theo nhiều nguồn khác nhau. Từ các tổ chức, doanh nghiệp cá nhân, và gắn liền với kỳ hạn khác nhau: 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng,... Thông thường quy mô của nguồn này cũng không giống nhau. Có người chì gửi vài trăm nghìn, có người lại gửi đên hàng trăm triệu VND. Trong khi đó, khách hàng vay vốn cũng có yêu cầu khác nhau về cả số lượng ,thời hạn, cũng như phương thức cho vay. Tuỳ theo mục đích sử dụng vốn có người vay vài triệu VND trong 3 tháng hay 5 tháng, nhứng cũng có người vay đến hàng tỷ VND để đầu tư dự án lơn. Bởi vậy, kỳ hạn cũng như quy mô của các khoản cho vay và huy động không phải lúc nào cũng phù hợp với nhau. Do đó, để mở rộng hoạt động theo hướng này, Ngân hàng phải kế hoạch hoá được nhiệ vụ của mình để có sự chủ động, linh hoạt khi cho vay. Mở rộng theo phương thức cho vay. Trên cơ sở nhu cầu sử dụng từng khoản vốn vay của khách hàng, mối quan hệ giữa khách hàng và Ngân hàng Ngân hàng và khách hàng sẽ thoả thuận phương thức cho vay phù hợp. Mỗi khách hàng với ngành nghề kinh doanh khác nhau, chu kỳ quay vòng vốn khác nhau, nhu cầu sử dụng vốn cũng khác nhau, tuỳ từng mục đích, vì vậy, họ cần các phương thức vay vốn khác nhau. Xuất phát từ điều này Ngân hàng có thể tiến hành cho vay theo các phương thức như: Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hộp đồng tín dụng. Cho vay theo thời hạn mức tín dụng: tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh , dịch vụ và các dự án đầu tư khác. Cho vay hợp vốn : Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án làm đầu mối dàn xếp,phối hợp, với các tổ chức tín dụng khác. Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy định của quy chế vay và uy chế vốn đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành. Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định vàthoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra trả nợ thưo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng. Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. Tổ chức tín dụng chấp nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá,dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về phát hành và sủ dụng thẻ tín dụng. Cho vay theo thời hạn mức thấu chi. là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các phương thức cung ứng dịch cụ thanh toán. Các phương thức cho vay khác mà pháp luật không cấm, phù hợp với quy định tại quy chế này và điều kiện hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng và đặc điểm của khách hàng vay. Mở rộng theo hình thức cho vay. Theo hình thức cho vay, Ngân hàng cơ thể cho khách hàng vay có bảo đảm hoặc không có bảo đảm. Thông thường khi vay Ngân hàng, khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phải có tài sản thế chấp để đảm bảo cho khoản vay của mình. Mặc dù vậy, Ngân hàng có thể căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng để quyết định viêc cho vay có bảo đảm hay không có bảo đảm. Việc c._.nguyên vọng của khách hàng, vướng mắc họ gặp phải khi vay vốn ngân hàng, từ đó có các biện pháp thích hợp tháo gỡ khó khăn. Qua hội nghị khách hàng, ngân hàng có thể dược nghe những ý kiến đóng góp của khách hàng, từ đó có biện pháp cải tổ hoạt động của mình cho phù hợp. Hơn nữa, ngân hàng cũng có thể biết được nhu cầu tiềm ẩn của khách hàng để nghiên cứu và đưa ra sản phẩm, dịch vụ đáp ứng các nhu cầu đó. Phân loại khách hàng Khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh quan hệ với ngân hàng chủ yếu là các Công ty cổ phần, Công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân và các hộ sản xuất, buôn bán nhỏ trên địa bàn. Các đối tượng này rất nhạy cảm với những chính sách của ngân hàng, vì vậy để duy trì tốt mối quan hệ với khách hàng cũ đồng thời thu hút thêm khách hàng mới thì ngân hàng phải có chính sách ưu đãi riêng đối với từng loại khách hàng, tạo ra sự khác biệt của ngân hàng với các ngân hàng khác trên địa bàn. Muốn làm được điều đó, NHNo&PTNT Hà Nội phải tiến hành phân loại khách hàng theo những tiêu thức nhất định để có chính sách phù hợp với từng đối tượng. Chúng ta có thể phân loại các đơn vị kinh tế theo những mức như sau: Đơn vị xếp loại A: Là những đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định, có lãi trong 2 năm gần đây nhất, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối Nhà nước và không có nợ quá hạn đối với NHNo&PTNT Hà Nội. Nếu các doanh nghiệp thuộc loại này có phương án khả thi thì có thể cho vay ưu tiên về thủ tục, lãi suất hoặc có thể cho vay bằng tín chấp. Đơn vị xếp loại B: là những doanh nghiệp có tình hình sản xuất kinh doanh ổn định, uy tín trên thị trường chưa cao, lãnh đạo doanh nghiệp là những người có năng lực, coi trọng chữ tín . Đối với các doanh nghiệp này thì cho vay trên cơ sở tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của bên thứ ba. Đơn vị xếp loại C: Là những đơn vị kinh doanh thua lỗ không có biện pháp khắc phục, quan hệ với các bạn hàng không sòng phẳng, thường xuyên có nợ quá hạn thì ngân hàng phải tìm cách từ chối hợp lý, nhanh chóng thu hồi vốn. Tuy nhiên đây chỉ là cách phân loại tạm thời, không phải là khuôn mẫu để quyết định việc cho vay đối với khách hàng mà điều cốt yếu vẫn là phương án sản xuất kinh doanh. Nếu phương án sản xuất kinh doanh tạo ra thực sự hiệu quả thì ngân hàng có thể nới lỏng ở mức độ nào đó trong điều kiện cho phép. Giải pháp mở rộng tín dụng bằng chiến lược sản phẩm đúng đắn và hấp dẫn khách hàng. Khách hàng khi có nhu cầu về một sản phẩm đều mong muốn thu được lợi ích tối đa từ sản phẩm đó. Sản phẩm chính là một vũ khí lợi hại trong công cuộc cạnh tranh trên thương trường.Vì vậy, nếu có một chiến lược sản phẩm hấp dẫn, phù hợp với nhu cầu đa dạng của khách hàng tất yếu sẽ chiến thắng trong cạnh tranh, bằng không sẽ tự đào thải mình. Do vậy, NHNo&PTNT Hà Nội cần quan tâm xây dựng một chiến lược sản phẩm đúng đắn hấp dẫn khách hàng. Nhưng khác các sản phẩm khác, sản phẩm tín dụng của ngân hàng rất đơn điệu và khó cải tiến. Hơn nữa, nó chịu sự quản lý chặt chẽ của NHNNvề lãi suất, hạn mức cho vay, thời hạn vay...nên các ngân hàng rất khó cải tiến sản phẩm của mình. Tuy nhiên, cạnh tranh là quy luật hoạt động của kinh tế thị trường, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải có các sản phẩm đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của thị trường ngày càng cao về chất lượng sản phẩm và phong phú về chủng loại. Các ngân hàng cũng là các doanh nghiệp đặc biệt, luôn luôn phải đổi mới, cải tiến chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà mình cung cấp, tăng khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng . NHNo&PTNT Hà Nội đang dần dần khẳng định mình trên thương trường cạnh tranh ngày càng gay gắt và quyết liệt. Để có thể đứng vững và phát triển, NHNo&PTNT Hà Nội cần chú ý các điểm sau trong chiến lược sản phẩm của mình: Xây dựng chính sách lãi suất linh hoạt. Lãi suất được coi là giá cả của sản phẩm tín dụng. Đối với ngân hàng, giá mua chính là lãi suất huy động, giá bán chính là lãi suất cho vay. Chênh lệch về giá thành là lợi nhuận của ngân hàng. Tuy nhiên việc xác định mức lãi suất cho vay ra cũng như lãi suất huy động vào lại phụ thuộc vào lãi suất cơ bản của NHNN. Vì vậy, ngân hàng không thể nâng mức cho vay lên quá cao để kiếm lời, và khách hàng cũng không thể đòi hỏi vay ngân hàng ở mức lãi suất quá thấp. Khi xác định lãi suất cho vay, bên cạnh việc dựa vào lãi suất cơ bản, ngân hàng còn phải tính đến các rủi ro có thể gặp phải đối với cá khoản vay để có các biện pháp trích dự phòng rủi ro bảo đảm an toàn cho hoạt động ngân hàng. Do đó, tùy theo đối tượng khách hàng vay ngân hàng sẽ xác định một mức lãi suất cho vay hợp lý để vừa thỏa mãn nhu cầu lợi ích vật chất của khách hàng, vừa thu được lợi nhuận cho khách hàng. Một chính sách lãi suất đa dạng, linh hoạt sẽ là công cụ kích thích các đối tuợng hoạt động có hiệu quả đến vay vốn tại ngân hàng. Cụ thể là, với khách hàng quen, có uy tín, vay trả sòng phẳng thì có thể được hưởng một mức lãi suất ưu đãi thấp hơn. Điều đó sẽ góp phần củng cố quan hệ lâu dài với khách hàng, vừa khuyến khích khách hàng tăng cường mối quan hệ với ngân hàng, tích cực làm ăn có hiệu quả, trả nợ gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng nên đa dạng hóa các loại hình lãi suất phù hợp hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng. Dựa vào lãi suất của từng thời hạn, khách hàng có nhiều cơ hội lưa chọn khoản vay thích hợp , bảo đảm hoạt động kinh doanh của họ đạt hiệu quả cao, trả nợ ngân hàng đúng hạn. Và trên thực tế lợi nhuận của ngân hàng sẽ lớn hơn so với chính sách một giá cả. Mở rộng phương thức cho vay. Hiện nay, ngân hàng áp dụng phương thức cho vay từng lần là chủ yếu. Phương pháp này được coi là biện pháp tối ưu đảm bảo an toàn vốn vay và tạo thế chủ động về phía ngân hàng. Tuy nhiên, mỗi lần vay khách hàng đều phải làm đơn và hồ sơ xin vay vốn với nhiều loại giấy tờ nên thủ tục tương đối rườm rà, phức tạp và tốn nhiều thời gian. Trong khi đó, nhu cầu vốn hoạt động của các đơn vị kinh tế trong cơ chế thị trường đa dạng, phong phú, đòi hỏi nhanh nhạy cao, cùng với thực trạng đói vốn như hiện nay của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh dẫn tới hiện tượng khách hàng làm ăn có hiệu quả rất ngại vay theo phương thức này. Do đó, để có thể thu hút được các khách hàng ngoài quốc doanh đến quan hệ tín dụng với ngân hàng, ngân hàng cần áp dụng một phương thức cho vay linh hoạt, phù hợp với đặc điểm chu chuyển vốn và độ tin cậy của khách hàng, đó là phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng. Dựa vào tình hình sản xuất kinh doanh và tài sản đảm bảo mà khách hàng và ngân hàng cùng thỏa thuận một mức dư nợ tối đa trong thời hạn nhất định. Căn cứ vào mức dư nợ đó khách hàng lập đầy đủ các thủ tục cần thiết nộp cho ngân hàng. Những thủ tục này chỉ phải làm một lần, trong phạm vi hạn mức tín dụng thỏa thuận trong hợp đồng, khách hàng có thể rút vốn ra một các linh họat thuận tiện theo nhu cầu sử dụng vốn và chỉ cần làm giấy nhận nợ và giấy rút tiền. Phương thức này đơn giản, tiết kiệm chi phí và thời gian hơn cho vay từng lần. Mọi khoản thu của khách hàng sẽ được ghi vào bên Có của tài khoản để trả nợ ngay. Phương thức cho vay này một mặt giảm được tiền lãi phải trả ngân hàng đồng thời cũng giảm mức dư nợ thực tế và tăng mức dư nợ được vay tiếp theo cho khách hàng. Về phía ngân hàng, các thủ tục giấy tờ cũng được giảm bớt và ngân hàng có thể biết được khách hàng đang gặp thuận lợi hay khó khăn thông qua tình hình diễn biến tài khoản của khách hàng. Có thể nói, đây là một phương thức cho vay rất phù hợp với hoạt đông kinh doanh trong cơ chế thi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho cả hai bên mà thủ tục pháp lý vẫn rất chặt chẽ. Do đó, ngân hàng cần xem xét việc áp dụng phuơng pháp này đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Bên cạnh đó, ngân hàng còn có thể áp dụng cá phương thức cho vay khác như: Cho vay theo dự án đầu tư, cho vay hợp vốn, cho vay trả góp, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, cho vay theo hạn mức thấu chi. Xác định hạn mức cho vay hợp lý. Nhu cầu vốn của các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh là rất lớn nhưng với vị thế của mình khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh không thể tự đáp ứng nguồn vốn cho bản thân. chính vì lý do đó, việc ngân hàng quy định hạn mức cho vay đối với khu vực kinh tế này thấp hơn khu vực kinh tế quốc doanh (tối đa không vượt quá 1,5 lần vốn tự có), trong khi vốn tự có của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh lại rất nhỏ bé sẽ gây nhiều thiệt thòi cho khu vực kinh tế này. Để cải thiện tình hình trên, NHNo&PTNT Hà nội ngoài việc chú trọng đến khả năng tài chính và tài sản đảm bảo cũng nên xem xét đánh giá đúng các phương án kinh doanh của khách hàng ngoài quốc doanh để quyết định cho vay một lượng vốn phù hợp hơn, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế này phát triển. Đa dạng hóa các hình thức tín dụng. khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực kinh tế đa dạng về quy mô, ngành nghề kinh doanh, vì vậy nhu cầu về khối lượng vốn vay, thời hạn, phương thức trả vốn và lãi là không giống nhau. Chính vì vậy, với phương châm “lấy hiệu quả kinh doanh làm mục tiêu phục vụ”, ngân hàng phải đưa ra được những loại hình tín dụng phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Ngoài việc cho vay bằng cầm cố tái sản thế chấp, ngân hàng có thể tiến hành các hình thức cho vay mới như: Chiết khấu chứng từ có giá. Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp sở hữu các chứng từ có giá như hối phiếu, trái phiếu, tín phiếu ngân hàng chưa đến hạn thanh toán nhưng doanh nghiệp lại có nhu cầu đột xuất về chi tiêu. Vì vậy, doanh nghiệp có thể đem những chứng từ này đến ngân hàng xin chiết khấu. Khách hàng sẽ nhận được một khoản tiền bằng giá trị của giấy tờ có giá đó trừ đi chi phí chiết khấu. Phương pháp này có ưu điểm là: khả năng xảy ra rủi ro đối với hình thức này là nhỏ nhất so với hình thức tíndụng khác; khi cần vốn ngân hàng có thể xin tái chiết khấu thương phiếu tại NHNN để bổ sung nguồn vốn thanh toán, kinh doanh. Hình thức hùn vốn đầu tư, liên doanh liên kết với khách hàng. Hình thức này giúp ngân hàng mở rộng tín dụng, không nhất thiết phải cho vay mà tìm trong số khách hàng của mình, doanh nghiệp nào làm ăn có hiệu quả, có triển vọng tốt thì ngân hàng thả thuận ký kết hợp đồng liên doanh, liên kết với những doanh nghiệp đó để cùng sản xuất kinh doanh. Như vậy, ngân hàng không những mở rộng được tín dụng mà còn có điều kiện thâm nhập vào thị trường từ đó tìm ra những mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp, vừa trực tiếp giám sát, quản lý vốn vay và có thu nhập cao do là người trực tiếp đầu tư vào vốn kinh doanh. Hơn nữa, có sự cộng tác của ngành ngân hàng chắc chắn doanh nghiệp sẽ làm ăn có hiệu quả hơn. Cho vay bảo lãnh. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, có những doanh nghiệp ngoài quốc doanh không đủ điều kiện vay vốn, ngân hàng có thể giới thiệu một tổ chức nào đó đứng ra bảo lãnh cho món vay. Khi áp dụng hình thức này, ngân hàng phải yêu cầu tổ chức bảo lãnh xuất trình đầy đủ cá giấy tờ cần thiết, việc bảo lãnh phải được ký kết bằng văn bản và phải được cơ quan có thẩm quyền xác nhận. Cho vay bảo đảm bằng cá khoản sẽ thu. Các doanh nghiệp bán hàng nhưng chưa thu đựơc tiền do người mua mua chịu, nên cá doanh nghiệp thiếu vốn lưu động. Ngân hàng có thể giúp các doanh nghiệp thiếu vốn tức thời bằng cách cho vay trên một tỷ lệ nào đó đối với các khoản sẽ thu. Tỷ lệ này cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng các khoản nợ đó. Việc cầm cố này có thể thông báo hoặc không thông báo cho khách hàng thiếu nợ của doanh nghiệp tùy thuộc vào sự thoả thuận của hai bên. Cung cấp các tiện ích tín dụng cho khách hàng. Các tiện ích tín dụng là những yéu tố xung quanh sản phẩm. Điều này rất quan trọngtrong canh tranh với các ngân hàng khác vì trong cơ chế thị trường, khách hàng là thượng đế. Ngân hàng cung cấp sản phẩm tốt hơn sẽ chiến thắng. Một hình thức đem lại rất nhiều tiện ích mà NHNo&PTNT Hà nội có thể áp dụng đó là tổ chức cung cấp dịch vụ “tín dụng tại nhà”. Đây là hình thức tín dụng rất mới , nhưng thiết nghĩ các doanh nghiệp buôn bán, sản xuất thuần túy dã thực hiện thành công và tạo ra một bước ngoặt trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp này thì ngân hàng với tư cách là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, với sản phẩm tín dụng đặc biệt của mình cũng có thể áp dụng loại hình này. Thực hiện cấp tín dụng tại nhà xem xét được tận nơi cơ sở vật chất, trang thiết bị của doanh nghiệp, có điều kiện đánh giá về tình hình làm ăn của khách hàng. Đồng thời giúp khách hàng tiết kiệm thời gian, công sức, tập trung vào việc sản xuất kinh doanh để đạt hiệu quả cao. Mặc dù chi phí cho khoản vay này sẽ cao hơn bình thường song nó đảm bảo chắc chắn, ít rủi ro. Hơn nữa nếu loại hình tín dụng này được áp dụng sẽ thu hút được một lượng lớn khách hàng. Bên cạnh đó, cần có các dịch vụ đi kèm theo sản phẩm chính của ngân hàng, thông thường đó là dịch vụ tư vấn. Ngân hàng là đầu mối, là nơi tập trung thông tin số liệu kinh tế nhiều nhất. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất càn sự tư ván của ngân hàng vì khả năng quản lý, trình độ lập dự án và kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của cá doanh nghiệp còn rất nhiều hạn chế, kém nhạy bén với thị trường, không có khả năng dự đoán về những biến động. Để thu hút các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đến quan hệ, ngân hàng cần phải tổ chức một dich vụ tư vấn khách hàng thật tốt về tất cả mọi lĩnh vực: thị trường đầu ra, thị trường đầu vào, phương án hoạt động sản xuất kinh doanh ...Điều dó sẽ giúp khách hàng hoạt động hiệu quả hơn cũng như tránh được rủi ro xảy đến với ngân hàng, tăng thêm uy tín cho ngân hàng, thu hút thêm được khách hàng. Quy trình tín dụng. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định. Nâng cao chất lượng thẩm định dự án dầu tư luôn là một yêu cầu được đặt ra trong công tác thẩm định của các ngân hàng nói chung và của NHNo&PTNT Hà nội nói riêng. Công tác này giúp ngân hàng có thể chủ động trong việc từ chối tài trợ cho những dự án không khả thi và đầu tư vào những dự án khả thi, đánh giá chính xác hiệu quả của dự án đầu tư. Khi thẩm định cần chú ý các nguyên tắc sau: Thẩm định tư cách pháp lý và khả năng tài chính của khách hàng. Đàu tiên ngân hàng phải tiến hành thẩm định tư cách pháp lý của khách hàng xem có đủ điều kiện vay vốn không. Việc thẩm định xem xét các mặt về năng lực pháp luật và năng lực hành vi của khách hàng, gồm: Quyết định thành lập, giấy phép thành lập. Đăng ký kinh doanh, giấy phép hành nghề. Điều lệ công ty. Quyết định bổ nhiệm giám đốc, tổng giám đốc. Tiếp theo ngân hàng tiến hành phân tích tài chính khách hàng, thẩm định khả năng thu hồi vốn sau này của ngân hàng. Trong bước này, ngoài việc thảm định khả năng trả nợ của chính dự án, phương án vay vốn, cán bộ tín dụng còn phải xem xét khả năng tài chính của khách hàng ở vào thời điểm trước khi vay vốn. Để thẩm định bước này, cán bộ tín dụng cần dựa vào những tài liệu sau: Báo cáo tài chính ở thời điểm gần nhất và hai năm liền kề thời điểm vay vốn (trừ khách hàng mới thành lập và hoạt động trong qua trình vay vốn). Các báo cáo tài chính gồm: Bảng cân đối kế toán. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Bên cạnh đó có thể có báo cáo kiểm toán nội bộ, báo cáo kiểm toán độc lập. Trong việc cho vay vốn của ngân hàng, tài sản thế chấp là một yếu tố vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, xét trên góc độ quản lý ngân hàng thì đây không phải là yếu tố quan trọng nhất. Bởi lẽ, ngân hàng không trông đợi vào việc xiết nợ khách hàng bằng cách thu hồi tài sản thế chấp của họ, mà ngân hàng mong muốn thu được cả gốc lẫn lãi từ dự án kinh doanh mà họ cho vay. Vì vậy thẩm định phương án sản xuất kinh doanh là một việc hết sức quan trọng. Trong bước này, cán bộ tín dụng căn cứ vào bộ hồ sơ do khách hàng gửi đến ngân hàng, đưa ra nhận xét tính hợp pháp về mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng mặt khác cũng xem xét tính hợp pháp, hợp lệ của kế hoạch sản xuất kinh doanh của khách hàng. Sau đó, cán bộ tín dụng xác định khả năng thực hiện dự án, nhu cầu vay vốn và khả năng trả nợ của khách hàng, cán bộ tín dụng cũng phải đưa ra những đánh giá về: Thị trường nguyên, nhiên vật liệu và các yếu tố đầu vào. Thị trường tiêu thụ sản phẩm và các yếu tố ảnh hưởng. Xác định vốn của khách hàng khi tham gia vào sản xuất kinh doanh. Tính hợp lý của vòng quay vốn kỳ kế hoạch Kiểm tra, giám sát vốn vay của khách hàng. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng của công tác thẩm định, ngân hàng cũng phải chú trọng tới công tác kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ nhằm đảm bảo nghiêm túc các điều kiện của quy trình tín dụng. Một trong những nguyên nhân khiến cán bộ có tâm lý e ngại trong việc cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vay là do có tính rủi ro cao. Nếu cán bộ tín dụng làm tốt khâu kiểm soát chặt chẽ vốn vay thì sẽ hạn chế được rủi ro. Có nhiều cách đánh giá nhưng cách đánh giá chung nhất là cán bộ tín dụng phải thu thập thông tin về khách hàng, đánh giá xem khách hàng là người vay tốt đến mức nào, và dự báo khách hàng đó có thể có khó khăn khi thanh toán món tiền vay hay không bằng cách giám sát những hoạt động kinh doanh của họ. Hiện nay, việc kiểm tra, giám sát món vaytại NHNo&PTNT Hà nội thương do cán bộ tín dụng thực hiện dựa trên những số liệu, báo cáo do khách hàng cung cấp. Tuy nhiên, độ chính xác của những con số này chưa cao. Để khắc phục được tình trang đó, cán bộ tín dụng nên tận dụng triệt để cơ hội gặp gỡ khách hàng khi khách hàng đến ngân hàng trả lãi, khi đến thăm cơ sở của khách hàng, thu thập thông tin từ những bạn hàng của khách hàng đó, cán bộ, nhân viên những người trực tiếp tham gia lao động tại cơ sở sản xuất đó...Ngoài ra, ngân hàng còn có thể thành lập một tổ chuyên giám sát vốn vay, có chương trình giám sát riêng, gồm các cán bộ có năng lực để đánh giá hoạt động tài chính và kinh doanh của khách hàng. Việc giám sát phải được thực hiện chặt chẽ từ trước khi cho vay, trong quá trình cho vay, và sau khi cho vay. Điều này giúp ngân hàng có thể nắm bắt được việc sử dụng vốn của khách hàng có đúng mục đích không, hoạt động kinh doanh có đúng hiệu quả không, khả năng sinh lợi từ dự án cũng như vốn vay của ngân hàng. Công tác tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ Con người là yếu tố quan trọng nhất quyết định thành công mọi công việc. Dưới con mắt khách hàng, các cán bộ quản lý và nhân viên ngân hàng cùng toàn bộ trang thiết bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện phục vụ cho hoạt động kinh doanh là hình ảnh của ngân hàng. Những diều này phản ánh khả năng, năng lực, cũng như uy tín của ngân hàng. Tác phong làm việc, năng lực nghiệp vụ, trình độ hiểu, thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng là một nhân tố quan trọng trong việc lựa chọn của khách hàng, đặc biệt là tác dộng đến sự trung thành của khách hàng. Do vậy, để thực hiện mục tiêu, kế hoạch của mình, NHNo&PTNT Hà nội cần tập trung vào công tác đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thành thạo. Bên cạnh đó, các cán bộ còn phải có hiểu biết về các lĩnh vực sản xuất kinh doanh như: xây dựng, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp....phục vụ công tác thẩm định và có đánh giá nhận xét chính xác đối với các dự án xin vay vốn. Theo phương hướng này, công tác đào tạo cần tập trung theo trọng diểm và đào tạo một cách toàn diện để có những cán bộ thực sự đủ năng lực và hiểu biết kinh doanh. Việc đào tạo cán bộ không chỉ bằng hình thức cử đi học tập trung dài hạn, mà phải quan tâm đến công tác đào tạo tại chỗ, vừa tiết kiệm được thời gian lại ít tốn kém, người đi trước truyền lại kinh nghiệm cho người đi sau, xây dựng các tủ sách nghiệp vụ để các cán bộ có thể tự mình bổ sung kiến thức trong công việc hàng ngày. NHNo&PTNT Hà nội nên thưòng xuyên tổ chức các đợt thi đua để kiểm tra trình độ nghiệp vụ, khuyến khích cán bộ tín dụng học hỏi, tạo ra không khí học tập sôi nổi trong ngân hàng. Cùng với việc đề ra những tiêu chuẩn và yêu cầu chất lượng công tác, cần có một chế độ đãi ngộ xứng đáng về lương, thưởng đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong công việc, có các sáng kiến mới và có các đề tài nghiên cứu khoa học hay, có nhiều ứng dụng. Đặc biệt, với những cán bộ vượt kế hoạch trong công tác tín dụng, cho vay an toàn cần có khen thưởng cả về vật chất cũng như tinh thần nhằm khuyến khích, động viên lòng nhiệt tình công tác, đồng thời nâng cao trách nhiệm cá nhân của mỗi cán bộ. Bên cạnh đó, phải xử lý nghiêm minh những cá nhân có hành vi vi phạm dưới bất kỳ hình thức nào làm ảnh hưởng đến uy tín, chất lượng và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Mặt khác, NHNo&PTNT Hà nội tiếp tục hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm phuc vụ tốt hơn nữa nghiệp vụ kinh doanh như đầu tư thêm máy tính, các phần mềm ứng dụng cũng như máy móc chuyên dụng khác để nâng cao chất lượng các dịch vụ chuyển tiền, gửi tiền và rút tiền tự động hay đầu tư mua sắm các phương tiện như két bạc, nhà kho nhằm bảo quản tài sản cầm cố cho khách hàng. Một số kiến nghị Kiến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước. Một là, nhà nước cần có sự nhất quán giữa quan diểm với cơ chế chính sách phát triển các thành phần kinh tế ngoài thành phần kinh tế nhà nước. Mặc dù về quan điểm, các văn kiện đại hội Đảng IX đã chỉ ra là thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phàn kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường dịnh hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, song trong các văn bản pháp luật vẫn chưa bổ sung, sửa đổi để tạo ra khung pháp lý phù hợp với quan điểm đó. Trong thực tế, các văn bản pháp luật vẫn còn nhiều quy định phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tạo sự cạnh tranh không bình đẳng và tâm lý thiếu tin tưởng trong các chủ doanh nghiệp thuộc kinh tế ngoài quốc doanh. Hai là, cần tạo ra môi trường xã hội ủng hộ cho sự phát triển các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Hiện nay, không chỉ người lao động, mà ngay cả một số nhà quản lý vẫn chưa yên tâm trong việc phát triển các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Vẫn còn tư tưởng cho rằng, chỉ có kinh tế nhà nước mới là kinh tế xã hội chủ nghĩa, cần hạn chế và sớm muộn sẽ đi đến xóa bỏ. Đối với người lao động, chỉ có vào làm việc cho các doanh nghiệp nhà nước mới thật sự yên tâm, mới ổn định và lâu dài, còn làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là tạm thời, và không ổn định. Ba là, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và ổn định hơn cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Để phát huy hơn nũa tiềm năng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Nhà nước cần có những chính sách tạo điều kiện thuận lơi hơn nữa dối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Trước tiên, Nhà nước cần hoàn thiện môi trường kinh tế vĩ mô, có biện pháp chống lạm phát, xây dựng phát triển thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Mặt khác, Nhà nước cần hỗ trợ về mặt kỹ thuật công nghệ đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, hỗ trợ vốn đồng thời đồng thời khuyến khích khu vực kinh tế này đổi mới theo quy luật vừa sức đầu tư, tránh tình trạng đầu tưu mù quáng không có khả năng sinh lợi. Ngoài ra, nhà nước nên có chính sách thuế nâng đỡ ban đầu nhằm khuyến khích tư nhân bỏ vốn và vay vốn đầu tư vào các lĩnh vực đầu tư có ưu tiên và định hướng tạo công ăn việc làmcho người lao động ở nông thôn như các làng nghề truyền thống, mô hình trang trại… Bốn là, nhà nước cần sớm hoàn thiện và ban hành luật về sở hữu tài sản, thế chấp tài sản. Vấn đề vướng mắc nhất hiện nay trong cho vay ngoài quốc doanh là vấn đề bảo đảm tiền vay. Theo quy định, khách hàng ngoài quốc doanh muốn vay vốn phải có tài sản thế chấp, mà tài sản khách hàng ngoài quốc doanh mang thế chấp thường là đất đai. Hiện nay, luật về sở hữu tài sản là đất đai chưa rõ ràng, đồng bộ. Nhiều khu đất mặc dù sở hữu hợp pháp nhưng các hộ tư nhân không có giấy trước bạ. Theo thống kê, hiện nay trên địa bàn Hà nội chỉ có khoảng 32%-35% hộ tư nhân có giấy tờ hợp pháp về sở hữu nhà đất. Để giải quyết vấn đề này, nhà nước cần có một chính sách nhất quán, cương quyết, không nên vận dụng và áp dụng quá nhiều quy định và tiêu chuẩn. Song song với việc cấp chứng nhận quyền sử dụng đất, nhà nước nên luật hóa các quy định về thế chấp, cầm cố và bảo lãnh, không nên để những văn bản dưới luật gây khó khăn trong việc thực thi của cán bộ tín dụng khi cần thiết phải phát mại tài sản Năm là, nhà nước quản lý chặt chẽ và buộc phải chấp hành pháp lệnh kế toán thống kê đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Phải nói rằng, trong những năm qua, việc quản lý tuân thủ pháp lệnh kế toán thống kê đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh còn rất lỏng lẻo. Các doanh nghiệp này thường có từ hai dến ba quyển sổ ghi tình hình kinh doanh trái ngược nhau. Đối với cơ quan thuế thì họ đưa ra các số liệu chứng minh rằng doanh nghiệp làm ăn thua lỗ để tránh nộp thuế cho nhà nước. Còn khi vay vốn ngân hàng thì những số liệu đưa ra khẳng đinh doanh nghiệp đang làm ăn có lãi, sản xuất kinh doanh ổn định. Từ đó, ngân hàng khó có thể đánh giá một cách chính xác thực trạng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nếu như không có hõ trợ từ phía nhà nước. ở nước ta hiện nay đã có một số công ty kiểm toán hoạt động nhưng mới chỉ dừng lại ở các thành phố lớn và mới chỉ kiểm toán một số doanh nghiệp lớn chứ chưa đáp ứng được tình hình hiện nay. Vì vậy, còn gây nhiều khó khăn cho ngân hàng trong công tác thẩm định khả năng tài chính của khách hàng. Để tránh tình trạng này, nhà nước cần có chính sách buộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải thực hiện pháp lệnh kế toán thống kê một cách tự giác, đầy đủ, hợp pháp. Sáu là, đơn giản và hoàn thiện thủ tục giải quyết các dự án kinh tế. Trong pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định: tòa án kinh tế có quyền giải quyết vụ án kinh tế loại tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh. Nhưng điều 31 lại quy định, người khởi kiện phải làm đơn yêu cầu tòa án giải quyết vụ án kinh tế trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày phát sinh tranh chấp. Điều này đã gây khó khăn cho ngân hàng trong việc giải quyết các khoản nợ có thời hạn qua 6 tháng. Vì vậy, ngân hàng chỉ có thể nhờ tòa án dân sự can thiệp, mà giải quyết ở tòa án dân sự thì quyền lợi của ngân hàng rất ít được đảm bảo. Hơn nữa, hiện nay chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các nghành có liên quan trong vấn đề xử lý tài sản thế chấp. Do vậy, việc xử lý tài sản thế chấp của ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn, tự xử lý thì gặp phải sự phản kháng của người vay, qua tòa án thì mất nhiều thời gian và chi phí. Bảy là, Nhà nước cần sớm ban hành quy chế bảo lãnh tín dụng đặt cơ sở luật pháp cho quỹ bảo lãnh tín dụng ra đời. Từ năm 1995, quỹ bảo lãnh tín dụng đã hoạt động thí điểm tại Bắc Giang giữa NHNo&PTNT Việt Nam và trung tâm tư vấn doanh nghiệp Bắc Giang với viện Friedrich Erbert (Đức), sau đó là quỹ bảo lãnh tín dụng giữa ngân hàng công thương Việt Nam và ngân hàng cân đối Đức với trị giá là 1 triệu Demark. Quỹ ra đời đã đi vào hoạt động là một biện pháp quan trọng của Chính phủ, thực hiện được chính sách hỗ trợ của minh nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (90% doanh nghiệp ngoài quốc doanh là doanh nghiệp vừa và nhỏ) phát triển, tháo gỡ khó khăn vướng mắc về vấn đề đòi hỏi phải có đủ giá trị tài sản thế chấp, cầm cố trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng sẽ giúp các doanh nghiệp có thể tiếp cận vốn của ngân hàng, tạo điều kiện cho các ngân hàng phát huy được thế mạnh về vốn của mình, mở rộng tín dụng và giảm tỷ lệ rủi ro thông qua việc chia sẻ với quỹ. Từ đó, các ngân hàng có điều kiện từng bước lành mạnh hóa hoạt động tài chính của mình. Tám là, Chính phủ có chính sách xử lý rủi ro đối với các ngân hàng cho vay vốn doanh nghiệp ngoài quốc doanh bình đẳng như đối với doanh nghiệp nhà nước, như: khoanh nợ, giảm nợ, xóa nợ, ân hạn, ưu đãi lãi suất. Chín là, Chính phủ mạnh dạn cổ phần hóa ngay các doanh nghiệp của nhà nước có quy mô vốn lớn, đang hoạt động có hiệu quả mà không thuộc lĩnh vực quan trọng như công ty bia Sài Gòn, công ty sữa Việt Nam, nhà máy mía đường...tạo sự đột phá, tăng tốc, đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả. Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước Hiện nay, luật ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức tín dụng đã có hiệu lực và đi vào cuộc sống. Ngân hàng nhà nước cần nhanh chóng tiến hành chỉ đạo, hướng dẫn một cách cụ thể để các luật trên nhanh chóng đi vào thực tế trong hoạt động ngân hàng, cũng như tổng hợp kết quả thực hiện nhằm rút ra những vấn đề cần bổ xung, sửa đổi để các quy phạm pháp luật phát huy tác dụng hơn. Đồng thời, ngân hàng nhà nước cần khẩn trương nghiên cứu, xem xét, xây dựng các luật như luật chứng khoán và thị trường chứng khoán...trình Quốc hội thông qua nhằm tạo điều kiện xây dựng một thị trường vốn khá tiến tới là một thị trường tài chính hoàn chỉnh. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm soát các ngân hàng và các tổ chức tín dụng nhằm chấn chỉnh những sai sót, tạo ra sự cạnh tranh, bình đẳng, phòng ngừa tổn thất... trong đó phải có chế độ xử lý rõ ràng với nhứng trường hợp phạm luật và ưu tiên đối với những ngân hàng hoạt động tốt. Điều hành một cách linh hoạt hơn nữa các quy chế quản lý tầm vĩ mô như cơ chế điều hành lãi suất, điều hành tỷ giá ngoại tệ... Mặt khác nên có chính sách hỗ trợ các ngân hàng thương mại trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Sửa đổi cơ chế, chính sách về cho vay, bảo lãnh theo hướng nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các ngân hàng, tăng thu nhập và tăng lương cho giám đốc và cán bộ ngân hàng. Tuyển chọn cán bộ vào làm việc theo quy trình và tiêu chuẩn của ngân hàng nước ngoài. Thực hiện nhanh có hiệu quả chương trình cải tổ, cơ cấu lại ngành ngân hàng. Thu hút các dự án, chương trình của quốc tế và các nước khác hỗ trợ ngành ngân hàng Việt Nam về đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ quản lý, điều hành hoạt động ngân hàng theo trình độ quốc tế. Đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ, đánh giá dự án, thẩm định dự án, phân tích và đánh giá rủi ro cho cán bộ ngân hàng. Sớm ban hành Nghị định và Thông tư hướng dẫn thực hiện pháp lệnh thương phiếu, thúc đẩy hoạt động tín dụng thương mại phát triển. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0142.doc
Tài liệu liên quan