Thực trạng hoạt động xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng

Chương I : Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Thương Mại - Xây Dựng Bạch Đằng I. Lịch sử hình thành 1. Địa chỉ liên hệ + Trụ sở chính : Số 71 Bạch Đằng- Quận Hai Bà Trưng- Hà Nội + Tên giao dịch : VIETRCIMEX + Điện thoại : 049875636 + Số Fax : 04.8763567 + Tài khoản của công ty : Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. 2. Lịch sử hình thành của công ty Công ty Thương Mại - Xây Dựng Bạch Đằng là một doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng công ty thương mại và xây dựng (trước kia là Tổng c

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1126 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng hoạt động xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Công ty Thương mại xây dựng Bạch Đằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông ty xuất nhập khẩu, sản xuất, cung ứng vật tư ) trực thuộc Bộ Giao Thông Vận Tải. Với diện tích là 8327 mét vuông theo hợp đồng số 34678/ĐC/ND/HĐND ký ngày 30/08/1999, khu đất trên đã trải qua quá trình phát triển và sử dụng như sau: - Ngày 31/01/1993 Bộ trưởng Bộ GTVT ra quyết định số 130/QĐ/KHĐT, Cảng Hà Nội giao toàn bộ khu đất bao gồm nhà xưởng, nhà văn phòng, nhà kho, bãi cho Tổng công ty XNK, sản xuất cung ứng vật tư GTVT. - Ngày 09/05/1996 Bộ trưởng Bộ GTVT ra Quyết định số 989/QĐ/TCCB/LĐ cho phép thành lập “ Xí nghiệp gốm sứ mỹ nghệ xuất khẩu và trang trí nội thất”. - Ngày 28/10/1999 Bộ trưởng Bộ GTVT ra Quyết định số967/QĐ/BGTVT cho phép thành lập DNNN “ Công ty Mỹ nghệ và Trang trí nội thất” trên cơ sở chuyển đổi tổ chức “ Xí nghiệp gốm sứ mỹ nghệ xuất khẩu và trang trí nội thất”. - Ngày 16/12/1999 ông Tổng Giám đốc Tổng công ty Thương mại và Xây dựng (trước kia là Tổng công ty XNK, sản xuất, cung ứng vật tư GTVT) ra Quyết định số 54/QĐ/TCLĐ giao cho công ty Mỹ nghệ xuất khẩu và Trang trí nội thất toàn bộ mặt bằng 8327 mét vuông bao gồm nhà làm việc, kho xưởng và các công trình trên khu đất làm trụ sở và sản xuất, kinh doanh. - Ngày 13/09/2001 Bộ trưởng Bộ GTVT ra Quyết định số 3017/QĐ/BGTVT về việc đổi tên doanh nghiệp nhà nước “ Công ty Mỹ nghệ và Trang trí nội thất” thành “ Công ty Thương Mại - Xây Dựng Bạch Đằng”. Công ty Thương Mại - Xây Dựng Bạch Đằng với chức năng hoạt động rộng rãi đa ngành nghề : Sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, gốm sứ, đồ chơi, quà lưu niệm, máy móc thiết bị, nông lâm thuỷ sản, hàng tiêu dùng, phương tiện vận tải, kinh doanh kho bãi...xây dựng công trình giao thông vận tải công nghiệp và dân dụng. Hiện nay, công ty đang dùng 4000 mét vuông mặt bằng làm nhà kho, xưởng sản xuất và nhà văn phòng, số còn lại làm sân, cây xanh và đường đi bộ 3. Quá trình phát triển Cùng với sự vận động trưởng thành, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và cải tiến khoa học kỹ thuật, nâng cao trình độ nghiệp vụ, công nghệ kỹ thuật mới, công ty đã không ngừng cố gắng vươn lên theo kịp nhịp sống của thời đại và trưởng thành nhanh chóng cho kịp xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới. Công ty đã không ngừng mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, cải tiến mặt hàng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, kết hợp nội lực và ưu thế từ bên ngoài môi trường kinh doanh, công ty đã đạt được những thành tựu nhất định và không ngừng phát triển, đưa tập thể bước đi những bước vững chắc. Chính nhờ sự cố gắng không ngừng vươn lên đó, từ khi chỉ là một phân xưởng nhỏ bé được nâng cấp lên thành “ Xí nghiệp gốm sứ mỹ nghệ xuất khẩu và trang trí nội thất”. Từ chỗ chỉ với mục đích giải quyết công ăn việc làm cho người lao động dư thừa của tổng công ty bằng những công việc thủ công thuần tuý, đã có sự cải tiến khi chuyển sang công nghệ sản xuất mới. Đó là sự cải tiến về mặt công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành nguyên nhiên vật liệu, chuyển đổi từ những chất liệu gốm sứ làm bằng đất sét sang chất liệu nhựa tổng hợp với bột đá tự nhiên, và nguyên liệu thạch cao... các sản phẩm của công ty cũng ngày một phong phú hơn (các loại ca, cốc, búp bê, đồ chơi...). Bên cạnh đó công ty còn mở rộng quy mô sản xuất thêm nhiều xưởng sản xuất mới như xưởng sản xuất đồ mộc, xưởng sản xuất đồ nhựa. Nhưng khi đó sản phẩm của công ty chủ yếu được tiêu thụ ở thị trường trong nước và chưa tìm được đầu ra cho thị trường thế giới. Vì vậy, sản xuất vẫn mang tính manh mún, thủ công, thị trường không ổn định, hoạt động kinh doanh phát triển không đồng đều. Sau hơn 3 năm không ngại gian khó (từ năm 1996 đến 1999), xí nghiệp luôn tìm cách vươn lên bắt nhịp cùng nhịp sống của cơ chế thị trường. Xí nghiệp luôn tìm cách xây dựng một chiến lược kinh doanh phù hợp với trình độ sản xuất của mình, củng cố thị trường trong nước và luôn tìm kiếm, khai thác, thâm nhập thị trường mới. Bên cạnh việc không ngừng cải tiến mẫu mã, sáng tạo ra những phương thức làm việc mang lại hiệu quả kinh tế cao, xí nghiệp luôn tìm hiểu, nghiên cứu thị hiếu của người tiêu dùng, để có thể thoả mãn nhu cầu của khách hàng cũng như có thể thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của mình. Đến khi được nâng cấp thành “ Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng “, thì không chỉ kinh doanh những ngành nghề đơn thuần với công nghệ thủ công là chính nữa mà nó đã được nâng cấp lên ở mức cao hơn với chức năng hoạt động rộng rãi đa ngành nghề : Sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, gốm sứ, đồ chơi, quà lưu niệm, đồ gỗ, sơn mài, các sản phẩm trang trí nội thất, gia công hàng xuất khẩu và kinh doanh các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, nguyên vật liệu sản xuất, máy móc thiết bị, nông lâm thuỷ sản, hàng tiêu dùng, phương tiện vận tải, kinh doanh kho bãi, sản xuất kinh doanh hàng may mặc, đồ da, hàng kim khí hoá chất, điện máy và lắp giáp điện tử XNK uỷ thác, kinh doanh dịch vụ vận tải, du lịch lữ đoàn, xây dựng công trình giao thông thủy lợi công nghiệp và dân dụng. Trên đà phát triển không ngừng của công ty. Trong thời gian ngắn, nhờ sự cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng mẫu mã, phong phú chủng loại, các mặt hàng của công ty ngày càng xuất hiện ở nhiều nơi, có mặt trên khắp các thị trường cả trong và ngoài nước, thu hút được sự chú ý, quan tâm của nhiều người tiêu dùng, giá trị thương hiệu của công ty cũng dần được nâng lên. Hiện nay, công ty đã thu hút được 250 lao động thường xuyên với mức lương bình quân là 750.000đ/người/tháng và đang trên đà tăng trưởng mạnh, đời sống của cán bộ công nhân viên đang được nâng cao. Trong thời gian tới, công ty sẽ tiếp tục chọn, đào tạo thêm 100 lao động, công nhân kỹ thuật để sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Trong những năm qua Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng đã thực hiện tốt nghĩa vụ với nhà nước, nộp tiền thuê đất đầy đủ và nộp tiền vào ngân sách nhà nước nhiều tỷ đồng. Từ đó ta có thể thấy quá trình hình thành và phát triển của công ty khá thần tốc. Đó là nhờ vào sự nỗ lực của nội bộ công ty cùng với những chính sách ưu đãi của Bộ GTVT dành cho công ty. Từ một phân xưởng nhỏ trước năm 1996, giờ đây công ty đã trưởng thành và tự thân vận động không ngừng lớn mạnh trên thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là thị trường quốc tế. Từ chỗ thị trường tròng nước chiếm ưu thế, hiện nay thị trường quốc tế là một thị trường trọng điểm của công ty mà công ty chưa khai thác được hết tiềm năng nhưng không hề bỏ qua thị trường trong nước với hơn 70 triệu dân, thu lợi cho nhà nước nhiều tỷ đồng. Giờ đây, Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng (trực thuộc Bộ GTVT), có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng theo quy định của nhà nước, thực hiện chế độ hạch toán độc lập, công ty có tài khoản tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. Về mặt hàng kinh doanh xuất nhập khẩu nằm trong danh mục hàng hoá đã được Bộ Thương Mại phê duyệt và nằm trong danh mục hàng hoá xuất khẩu với số lượng và giá trị hàng hoá tương đối lớn. 2.Chức năng và nhiệm vụ chung của công ty 2.1. Chức năng Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng là một DNNN thuộc “Tổng công ty xây dựng- Thương mại “ thuộc Bộ GTVT có các chức năng chính sau: + Sản xuất kinh doanh hàng may mặc, đồ da, hàng kim khí hoá chất, điện máy và lắp ráp điện tử. Nhận xuất nhập khẩu uỷ thác cho các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước. + Tổ chức xuất nhập khẩu và kinh doanh phương tiện vận tải, kinh doanh kho bãi theo giấy phép kinh doanh của công ty phù hợp với quy chế hiện hành của Nhà nước. Tổ chức tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu trong nước. 2.2. Nhiệm vụ Với những chức năng trên, công ty có những nhiệm vụ chủ yếu sau: + Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh của công ty theo quy chế hiện hành phù hợp. + Tuân thủ các chính sách, chế độ quản lý xuất nhập khẩu. Thực hiện các chính sách về thuế nộp ngân sách nhà nước. + Kinh doanh đúng mặt hàng, theo đúng ngành nghề đã đăng ký và mục đích chung của công ty. + Bảo toàn và sử dụng tài sản được giao theo đúng chế độ của nhà nước quy định, đạt hiệu quả kinh tế xã hội và tăng cường điều kiện vật chất cho cán bộ CNV của công ty. +Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động và các biện pháp khuyến khích vật chất, tinh thần đúng chế độ chính sách của nhà nước, đảm bảo mức lương tối thiểu và cải thiện đời sống người lao động. + Đào tạo bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ lao động có trình độ nghiệp vụ chuyên môn. + Nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, nâng trình độ tổ chức quản lý, phát huy năng lực kinh doanh, tăng năng suất lao động, thực hiện cả về chiều rộng lẫn chiều sâu với hiệu quả cao. + Tổ chức và nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước nắm vững nhu cầu thị hiếu tiêu dùng để hoạch định chiến lược Marketing đúng đắn, đảm bảo cho kinh doanh của đơn vị được chủ động ít rủi ro và mang lại hiệu quả tốt. II.Cơ cấu tổ chức của công ty . 1.Bộ máy quản trị Sơ đồ bộ máy tổ chức. Phòng TCHC Phòng KD-XNK Phòng KHSX Phòng dự án Phòng TCKT Phòng bảo vệ Giám đốc Phó GĐ Xưởng cơ khí Xưởng đồ chơi 1.1.Ban Giám đốc * Chức năng Ban Giám đốc là những người điều hành chính về mọi hoạt động chính của công ty. Đại diện cho quyền lợi của cán bộ công nhân viên dưới quyền. * Nhiệm vụ Chịu trách nhiệm về mọi hành vi của công ty trước pháp luật. Điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có hiệu quả, thực hiện theo đúng qui định của nhà nước ban hành. Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban bộ phận trực thuộc công ty 1.2.Phòng KD-XNK * Chức năng Tổ chức tốt khâu KD-XNK , phương tiện vận tải kho bãi theo giấy phép kinh doanh của công ty phù hợp quy chế hiện hành của nhà nước. Tổ chức tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu trong nước. Tổ chức tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế và trong nước. Quản lý phòng mẫu, trực tiếp chỉ đạo tổ mẫu thực hiện và triển khai mẫu mã, đáp ứng kịp thời với khách hàng. * Nhiệm vụ Triển khai công tác xúc tiến thương mại, quảng cáo thương hiệu của công ty trên các phương tiện thông tin đại chúng. Trực tiếp làm các thủ tục xuất, nhập khẩu của công ty, xuất nhập khẩu uỷ thác. Trực tiếp ký kết, khai thác hàng gia công xuất khẩu, gia công sản xuất và phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Giám đốc công ty về hiệu quả công việc. Đàm phán và dự thảo hợp đồng thương mại trong nước, quốc tế, trình Giám đốc duyệt. Xây dựng bảng giá bán hàng trong nước, xây dựng Catologue cho hàng hoá, xây dựng chương trình quảng ba thương hiệu của công ty. Lập kế hoạch sản xuất hàng hoá nội địa, lập các đơn hàng hợp đồng xuất khẩu. Giao kế hoạch sản xuất và hợp đồng xuất khẩu cho phòng KHSX thực hiện, giám sát, kiểm tra phòng KHSX thực hiện từng hợp đồng, đơn hàng (đảm bảo đúng chất lượng, chủng loại, số lượng, thời gian). Trực tiếp giao nhận hàng hoá với khách hàng (được biểu hiện bằng các bảng kê chi tiết hàng hoá có ký nhận của khách hàng). Theo dõi, quản lý các điểm bán hàng, các khách hàng và trực tiếp thu hồi công nợ Được phép khai thác kinh doanh hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá bán trong nước (nhưng phải lập phương án trình Giám đốc duyệt trước khi thực hiện ). Nắm bắt thông tin kinh tế, các văn bản chính sách của nhà nước về công tác xuất nhập khẩu. 1.3.Phòng tổ chức hành chính * Chức năng Tổ chức tốt bộ máy quản lý điều hành công ty có hiệu quả. Công tác tổ chức lao động, chế độ tiền lương, Bảo hiểm xã hội và thường trực hội đồng thi đua Công tác quản trị hành chính, văn thư, phục vụ. * Nhiệm vụ * Về công tác tổ chức lao động, chế độ, tiền lương: Quản lý hồ sơ của CBCNV từ cấp trưởng phòng trở xuống, quản lý và theo dõi diễn biến nhân sự của toàn công ty. Xét tuyển lao động, tiếp nhận lao động, làm thủ tục ký hợp đồng lao động ngắn hạn, dài hạn, thử việc, lao động thời vụ, đề nghị sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động đối với cán bộ CNV không thực hiện đúng theo hợp đồng lao động, khi công ty không có nhu cầu sử dụng hoặc đối tượng lao động vi phạm các quy chế, quy định của công ty. Thực hiện giải quyết các chế độ có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động, các chính sách về lao động, tiền lương, tiền thưởng theo quy định của công ty và các văn bản quy định khác của nhà nước. Báo cáo định kỳ 6 tháng/lần về lao động, tiền lương và các hình thức bảo hiểm với các cơ quan quản lý khác. Kết hợp với các phòng và Hội đồng thi đua kiểm tra, giám sát, đôn đốc CBCNV thực hiện tốt quy chế, quy định về giờ giấc làm việc và công tác thực hành tiết kiệm. * Về công tác quản trị hành chính, văn thư, phục vụ: Quản lý toàn bộ tài sản cố định, tài sản văn phòng công ty (trang thiết bị văn phòng, xe cộ, điện nước...) Sắp xếp bố trí xe cộ, phương tiện phục vụ cán bộ công ty đi công tác. Tổ chức cuộc họp, hội thảo, Đại hội của công ty. Phục vụ lễ tân, tiếp khách, phục vụ lãnh đạo Quản lý dấu theo quy định của bộ Công an và quy định sử dụng của Giám đốc, quản lý lưu trữ hồ sơ, tài liệu các văn bản pháp quy của nhà nước, các quyết định, công văn đến, đi có liên quan đến mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, tổ chức của công ty. Quan hệ đối ngoại với các cơ quan quản lý hành chính, chính quyền địa phương, các đơn vị trong địa bàn và với cơ quan quản lý cấp trên. Kết hợp với công đoàn, đoàn thanh niên chăm la tới đời sống, văn hoá xã hội, thăm nom ốm đau, hiếu hỉ của cá nhân, gia đình CBCNV công ty. Bí mật mọi công tác tổ chức lao động, tổ chức cán bộ, không phát tán số liệu, tài liệu khi chưa có ý kiến của lãnh đạo. 1.4.Phòng tài chính kế toán * Chức năng Quản lý toàn bộ tài sản ( vô hình và hữu hình của công ty ): hàng hoá, tiền tệ, vốn, các khoản thu, chi, tiền lương cán bộ công nhân viên trong công ty. Quản lý mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh và tài chính của công ty. Định hướng xây dựng kế hoạch về công tác tài chính ngắn hạn, dài hạn, tìm các biện pháp tạo nguồn vốn và thu hút nguồn vốn. Quản lý chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư của công ty. Cân đối và sử dụng các nguồn vốn hợp lý, có hiệu quả. * Nhiệm vụ Báo cáo định kỳ quyết toán tài chính, báo cáo nhanh mọi hoạt động sản xuất kinh doanh để Giám đốc kịp thời điều chỉnh. Tham gia thẩm định các dự án đầu tư dài hạn, đầu tư bổ xung mở rộng sản xuất kinh doanh . Kiểm tra chứng từ thanh quyết toán của công ty ( kể cả của các đơn vị thành viên) đảm bảo đúng nguyên tắc quản lý tài chính của nhà nước trước khi trình Giám đốc duyệt. Hướng dẫn chỉ đạo các đơn vị thành viên đang được hạch toán kinh tế nội bộ trong công ty thực hiện đúng quy định về tài chính kế toán của nhà nước, của công ty. Được phép đề nghị duyệt các phương án kinh doanh, đề nghị cấp vốn, cho vay vốn đối với các phương án của từng đơn vị lên công ty đúng thời hạn và theo chỉ số quy định. Chỉ đạo các kế toán viên của các đơn vị trong việc hạch toán, lập bảng biểu, ghi chép sổ sách chứng từ...theo đúng quy định của nhà nước, của công ty. Được phép đề nghị thay đổi kế toán của các đơn bị thành viên khi không làm đúng chức năng, làm sai nguyên tắc, làm sai quy định và hướng dẫn của công ty. Chủ động quan hệ với các cơ quan quản lý cấp trên, các cơ quan nghiệp vụ (tài chính, thuế, ngân hàng). Trình duyệt lương hàng tháng của CBCNV đảm bảo chính xác và đúng kỳ hạn. 1.5.Phòng dự án * Chức năng Lập hồ sơ dự thầu, lập dự toán, bóc tách dự toán và thẩm định dự toán. Lập dự án đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh ngắn hạn, dài hạn, quản lý các dự án đầu tư đã và đang thực hiện đảm bảo có hiệu quả nhất. Lập các dự án, phương án kinh doanh, liên kết, hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước thuộc lĩnh vực đầu tư, sản xuất kinh doanh. * Nhiệm vụ Quan hệ đối ngoại, tìm kiếm các dự án xây dựng công trình giao thông, xây dựng công nghiệp, xây dựng dân dụng thuỷ lợi... Giao cho các xí nghiệp, đơn vị đội thi công, triển khai thực hiện hợp đồng thi công. Theo dõi kế hoạch tiến độ thi công, chất lượng công trình, quản lý nguồn nhân lực, quản lý máy móc thiết bị, phương tiện vận tải và các chi phí khác. Đệ trình Giám đốc duyệt các dự án đầu tư hoặc bổ xung nhiệm vụ cho các đơn vị thành viên. 1.6.Phòng kế hoạch sản xuất * Chức năng Quản lý theo dõi việc mua bán vật tư theo đúng thời điểm, chủng loại, số lượng, giá thành hợp lý và làm thủ tục nhập, xuất kho theo trình tự quy định của công ty. Quản lý công tác kỹ thuật, công tác sáng kiến cải tiến trong sản xuất, điều chỉnh, sửa đổi quy trình công nghệ... * Nhiệm vụ Chỉ được phép triển khai các đơn hàng, các hợp đồng sản xuất do phòng KD-XNK chuyển giao. Trực tiếp quản lý kho vật tư, kho hàng hoá, xuất hàng theo phiếu nhập kho của phòng KD-XNK. Quản lý nhân lực sản xuất, giờ giấc làm việc, định mức vật tư nguyên liệu, định mức lao động. Tìm tòi, nghiên cứu, hoặc cải tiến các biện pháp quản lý nguyên, nhiên vật liệu, vật tư, giảm chi tiêu, tiêu hao nguyên liệu ngày một tốt hơn, hoàn thiện hơn. Được phép đề nghị Giám đốc bổ nhiệm, miễn nhiệm Quản đốc, phó Quản đốc của các phân xưởng sản xuất. Được phép thay đổi các tổ trưởng tổ sản xuất theo đề nghị của Quản đốc phân xưởng. Được phép đề nghị phòng TCHC trình Giám đốc buộc thôi việc hoặc các hình thức kỷ luật khác đối vơí người lao động có hành vi vi phạm kỷ luật, chống đối lệnh sản xuất hoặc vi phạm các nội quy, quy chế của công ty. Có trách nhiệm phải hoàn thành kế hoạch, đơn hàng, hợp đồng sản xuất của phòng KD-XNK chuyển giao và chịu sự giám sát, kiểm tra về chất lượng sản phẩm, chủng loại, thời gian giao hàng của phòng KD-XNK. Có những biện pháp tích cực trong việc mới công nghệ để nâng cao năng lực sản xuất, giảm định mức vật tư, giảm giá thành sản phẩm đảm bảo có tính chất cạnh tranh cao. 1.7.Phòng kinh doanh thiết bị * Chức năng Tham mưu cho Giám đốc công ty về công tác kinh doanh máy móc thiết bị, phương tiện vận tải. Trực tiếp nhập khẩu và kinh doanh thiết bị thi công công trình và các phương tiện vận tải. * Nhiệm vụ Xây dựng kế hoạch kinh doanh thiết bị của công ty, lập dự án kinh doanh của phòng gắn liền với kế hoạch sử dụng vốn trong quý, năm gửi phòng TCKT để trình Giám đốc công ty duyệt. Thực hiện chỉ tiêu kế hoạch kinh tế do Giám đốc công ty giao, đảm bảo doanh số và lợi nhuận. Chịu trách nhiệm trước giám đốc công ty về hiệu quả kinh tế đối với từng phương án kinh doanh đã đề ra. Trực tiếp quản lý, điều hành tổ bảo dưỡng, sửa chữa, phục chế máy móc thiết bị. Trực tiếp làm thủ tiếp nhận hàng hoá (máy móc, thiết bị) quản lý và bảo vệ hàng hoá đảm bảo an toàn. 1.8.Phòng bảo vệ * Chức năng Bảo vệ an toàn, an ninh trật tự trong phạm vi mặt bằng của công ty. Bảo vệ tài sản của công ty, tài sản của CBCNV (phương tiện đi lại) * Nhiệm vụ Phân công bố trí lực lượng thường trực trong phạm vi quản lý của công ty 24/24 tháng. Phân công trực cụ thể do trưởng phòng bảo vệ đảm nhận. Kiểm tra, giám sát CBCNV thực hiện nội quy, quy chế của công ty (giờ giấc đi làm, chấp hành mọi nội quy, quy chế trong sản xuất). Kiểm tra, giám sát vật tư hàng hoá, máy móc thiết bị...của công ty khi mang ra, vào địa phận của công ty. Thường xuyên canh gác, tuần tra trong địa phận của công ty quản lý, đặc biệt là sau giờ hành chính, kịp thời phát hiện các trường hợp gây mất trật tự, gây nguy hiểm cho người và thiết bị. Làm tốt công tác thường trực phòng chống lũ lụt, cháy, nổ...của công ty. Được phép ra, vào vị trí công nhân làm việc (nhưng không ảnh hưởng đến sản xuất) để kịp thời kiểm tra, nhắc nhở người lao động thực hiện tốt nội quy, quy chế của công ty và ngăn chặn các hành vi vi phạm. Được quyền khám, xét tư trang của CBCNV ra, vào công ty nếu thấy có nghi ngờ trộm cắp tài sản hoặc đưa vào công ty những chất dễ cháy nổ, hàng quốc cấm... 1.9.Các trung tâm, xí nghiệp, phân xưởng sản xuất Các trung tâm, xí nghiệp, nhà máy thuộc công ty phải thực hiện theo đúng sự uỷ quyền và phân cấp quản lý của Giám đốc công ty, được thể hiện trong quyết định thành lập và thể chế hoá ở quy chế tổ chức và hoạt động của từng đơn vị. Chịu sự kiểm tra, giám sát của các phòng, ban nghiệp vụ của công ty, đặc biệt là công tác tổ chức, công tác tài chính kế toán và thực hiện nghiêm chỉnh theo pháp lệnh của nhà nước. Phải hạch toán đầy đủ mọi chi phí, thực hiện báo cáo đầy đủ đúng định kỳ theo tháng, quý, năm. Phải chấp hành thực hiện chỉ tiêu kinh tế được Giám đốc giao thực hiện hàng năm gồm: + Doanh số: + Lợi nhuận: Thực hiện các khoản trích nộp phí lên công ty nghiêm chỉnh đúng kỳ hạn. Thực hiện tốt chế độ quản lý, sử dụng người lao động theo quy định của nhà nước, của công ty. Thực hiện trả lương và đóng các loại bảo hiểm cho người lao động, cũng như các chế độ quyền lợi khác theo quy định của Nhà nước, của công ty. Các khoản đầu tư tài sản cố định, mua sắm trang thiết bị máy móc có giá trị lớn (từ 10 triệu đồng trở lên), các đơn vị phải có công văn trình giám đốc công ty duyệt mới được thực hiện. Trách nhiệm và quyền hạn của lãnh đạo phòng Trưởng phòng phải chịu trách nhiệm trước Giám đốc công ty về mọi hoạt động công tác của phòng mình. Trưởng phòng được phép đề nghị Giám đốc chấm dứt hợp đồng lao động đối với nhân viên của phòng mình, bãi miễn hoặc đề bạt các phó phòng giúp việc cho mình. Được phép đề nghị định biên của phòng trên cơ sở pháp lý và khoa học đảm bảo sự hoạt động của phòng ổn định, có hiệu quả. Các trưởng phòng khi có nhiệm vụ đi công tác, phải có trách nhiệm bàn giao công việc cho các phó phòng bằng văn bản cụ thể. Phó phòng phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước trưởng phòng và Giám đốc công ty về những công việc được giao. III. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tổng doanh thu Doanh thu XNK DT từ tiêu thụ trong nước 3230 2325,5 904,5 5250 4620 630 18475 16627,5 1847,5 25320 29184 5046 0 2,5 2,5 4,05 10,63 DT thuần 3227,5 5247,5 18470,95 25219,37 Giá vốn hàng bán 2220 3775 15179 21505 Lợi nhuận gộp 1007,5 1472 3291,85 3714,37 Chi phí bán hàng 300 400,5 984 1040 Chi phí quản lý 205,5 900,4 1469 1820 Lợi nhuận thuần từ HĐKD 502 171,6 838,95 854,37 LN thuần từ HĐTC -60 -75,27 -286,62 -33 LN bất thường 62,5 53 10 -22 Tổng LN trước thuế 504,5 149,33 562,33 799,37 Thuế TNDN 161,44 47,79 179,95 255,8 LN sau thuế 343,06 101,54 382,58 543,57 Bảng 1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong 4 năm gần đây. 1.Phân tích tình hình kinh doanh của công ty Doanh thu bán hàng liên tục tăng trong 4 năm qua, từ 3230 tr.đ năm 1999 lên 25230 tr.đ năm 2002. Điều này chứng tỏ quy mô sản xuất kinh doanh của công ty ngày càng được mở rộng, mặt hàng kinh doanh phong phú hơn, số lượng hàng hoá nhiều hơn. Có thể là quy mô sản xuất được mở rộng qua việc công ty thu hút thêm số lượng lao động, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Lợi nhuận từ HĐ kinh doanh là 502 tr.đ năm 1999 sau đó giảm xuống còn 171,6 tr.đ năm 2000 và tăng dần lên vào các năm 2001 và 2002 là 838,95 và 854,37 tr.đ. Có được kết quả trên chúng ta có thể có nhận xét như sau: doanh thu liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước nhưng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh năm 2000 lại giảm so với năm 1999. Như vậy có thể là do năm 2000 doanh nghiệp phải chi phí lớn cho chi phí bán hàng hoặc chi phí quản lý, hoặc do tăng các khoản giảm trừ. Chi phí bán hàng năm 1999 là 205,5 tr.đ nhưng đã tăng lên là 900,4 tr.đ, một con số quả là không nhỏ đối với một doanh nghiệp có tổng doanh thu là 5250tr.đ. Như vậy, năm 2000 so với năm 1999: Lợi nhuận từ HĐ kinh doanh giảm mặc dù tổng DT tăng là do chi phí quản lý tăng làm cho lợi nhuận sau thuế của công ty giảm. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính cũng giảm từ –60 xuống –75tr.đ Lợi nhuận từ HĐBT giảm từ 62,5 xuống 53tr.đ Từ sự suy giảm trên làm cho lợi nhuận sau thuế của công ty cũng giảm từ 343,06tr.đ xuống còn 101,54 tr.đ . Như vậy năm 2000 so với năm 1999 công ty sản xuất kinh doanh có chiều hướng giảm sút, ngược với xu thế phát triển, có thể là do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân mà chúng ta sẽ được tìm hiểu sau như thị trường thế giới biến động theo chiều hướng xấu, hay sản phẩm của công ty không đáp ứng được với nhu cầu của người tiêu dùng... Năm 2001 so với năm 1999: Doanh thu bán hàng năm 2001 là 18475tr.đ tăng so với 5250tr.đ năm 2000. Chi phí bán hàng và chi phí quản lý năm 2001 đều tăng so với năm 2000 nhưng ở một tỷ lệ phù hợp hơn sơ với tổng doanh thu. Lợi nhuận từ HĐ kinh doanh năm 2001 là 838,95tr.đ so với năm 2000 là 171,6tr.đ. Lợi nhuận từ HĐTC vẫn giảm từ –75,27tr.đ xuống –286,62 tr.đ , chứng tỏ lĩnh vực tài chính doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả. Lợi nhuận từ hoạt động BT cũng giảm từ 53 tr.đ xuống 10 tr.đ nên về mặt này doanh nghiệp cũng không đạt hiệu quả kinh doanh. Như vậy, năm 2001 doanh nghiệp đã đạt hiệu quả kinh doanh về lĩnh vực sản xuất kinh doanh, điều chỉnh lại mức lợi nhuận so với năm 2000. Kết quả là lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp tăng từ 101,54 tr.đ lên tới 382,58 tr.đ, một kết quả đáng khen của công ty trong tình hình hiện nay cũng nhờ vào sự nỗ lực của toàn công ty cũng như kế hoạch cụ thể của ban quản lý trong việc giảm chi phí bán hàng và chi phí quản lý nhằm giảm giá thành sản phẩm, tăng doanh thu và tăng lợi nhuận sau thuế. Năm 2002 so với năm 2001: Tổng doanh thu tăng từ 18475tr.đ lên 25230tr.đ . Đó là một kết quả đáng mừng đối với toàn công ty. Chi phí bán hàng và chi phí quản lý tăng là điều tất nhiên vì tỷ lệ thuận với doanh thu, làm cho lợi nhuận từ HĐ kinh doanh tăng từ 838,95 lên 854,37 tr.đ. Lợi nhuận từ HĐTC từ mức thâm hụt là -286,62 lên mức thâm hụt nhỏ hơn là -33tr.đ, kết quả này làm cho lợi nhuận sau thuế tăng lên.Trong khi HĐTC có dấu hiệu khả quan thì lợi nhuận HĐBT vẫn giảm từ lãi 10 triệu xuống thâm hụt –22 triệu đồng làm cho lợi nhuận sau thuế giảm xuống, nhưng mức giảm này nhỏ hơn so với mức tăng của lợi nhuận từ HĐ kinh doanh và mức giảm thâm hụt từ HĐTC nên LN sau thuế của doanh nghiệp năm 2002 tăng lên so với năm 2001, tăng từ 382,58 tr.đ lên 543,57 tr.đ Chúng ta vừa phân tích sơ bộ tình hình kinh doanh của công ty trong 4 năm gần đây. Nhìn vào bảng biểu ta cũng thấy một thực tế là tổng doanh thu từ thị trường xuất khẩu liên tục tăng và ở mức cao hơn nhiều so với DT từ thị trường trong nước. Điều đó chứng tỏ rằng, thị trường tiêu thụ chính của doanh nghiệp đã và đang dần thay đổi. Từ thị trường trong nước sang thị trường xuất khẩu và hướng mạnh về thị trường này. Nên doanh thu tăng trong những năm qua cũng có một phần là do chiến lược kinh doanh của công ty đã thay đổi. Đó cũng chính là lý do mà chi phí bán hàng của công ty tăng chậm trong khi chi phí quản lý tăng nhanh để tìm kiếm và thâm nhập thị trường nước ngoài. Đó là chiến lược kinh doanh đúng đắn của công ty trong tình hình hiện nay khi mà xu hướng toàn cầu hoá đang và sẽ tác động đến mọi ngành nghề, mọi thành phần kinh tế, hơn nữa trong thời gian tới Việt Nam sẽ chính thức gia nhập AFTA, là một sự kiện kinh tế to lớn, ảnh hưởng đến tất cả các doanh nghiệp đang tồn tại. Vì vậy, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì không chỉ thoả mãn nhu cầu trong nước mà phải có chiến lược thâm nhập thị trường quốc tế - một thị trường đầy cơ hội nhưng cũng đầy thách thức với sự cạnh tranh cao, rủi ro cao luôn luôn đi cùng với siêu lợi nhuận. Cũng từ bảng trên ta thấy: lĩnh vực kinh doanh chính mang lại lợi nhuận cho công ty là lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Còn về hoạt động tài chính và hoạt động bất thường thì hầu như không thu được lợi nhuận. Như vậy doanh nghiệp cần có kế hoạch phân phối nguồn đầu tư hợp lý hơn nữa để nguồn vốn đâù tư của doanh nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao. 2.Đánh giá các hoạt động quản trị của doanh nghiệp Đơn vị tính : 1000.000đ Tổng số nộp ngân sách Đơn vị tính Đã thực hiện 5 tháng Dự kiến thực hiện 6 tháng Dự kiến thực hiện 6 tháng 2003 - Thuế GTGT Triệu đồng 1650,8 430 2081 - Thuế TNDN Tr đ 67 - Phụ phí cấp trên Tr đ 547.5 343,7 891,2 - Thuế khác Tr đ 29,6 Tình hình thực hiện nghĩa vụ ngân sách và phân phối lợi nhuận Sau mỗi kỳ hạch toán kinh doanh Công ty đều tính toán lợi nhuận và phân bổ lợi nhuận cho các phòng ban theo tỷ lệ thích hợp Biểu trên cho ta thấy được tình hình thực hiện nghĩa vụ ngân sách nhà nước. Công ty đã làm đúng nghĩa vụ của mình và kinh doanh theo đúng luật pháp. Mục tiêu bao trùm, lâu dài của mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận. Để thực hiện được mục tiêu này, doanh nghiệp phải tiến hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh để tạo ra sản phẩm (dịch vụ) cung cấp cho thị trường và được người tiêu dùng chấp nhận. Muốn vậy, doanh nghiệp phải sử dụng các nguồn lực xã hội nhất định để tạo ra sản phẩm đầu ra có giá trị cao hơn đầu vào và tiêu thụ được. Doanh nghiệp càng tiết kiệm sử dụng các nguồn lực này bao nhiêu thì sẽ càng có cơ hội để thu được nhiều lợi nhuận bấy nhiêu. Trong khi các nguồn lực sản xuất xã hội ngày càng giảm đi thì nhu cầu của con người lại ngày càng đa dạng và tăng không giới hạn. Quy luật khan hiếm bắt buộc mọi người phải lựa chọn và trả lời chính xác 3 câu hỏi là : sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Và sản xuất cho ai? Vì thị trường chỉ chấp nhận những doanh nghiệp nào sản xuất đúng loại sản phẩm (dịch vụ) với số lượng và chất lượng phù hợp. Mặt khác, mọi doanh nghiệp kinh doanh trong cơ chế kinh tế thị trường, mở cửa và ngày càng hội nhập phải chấp nhận và đứng vững trong cạnh tranh. Muốn chiến thắng trong cạnh tranh, doanh nghiệp phải luôn tạo ra và duy trì các lợi thế cạnh tranh và đồng thời cũng đề ra những định hướng mang tính chiến lược, kế hoạch trong từng điều kiện cụ thể. 2.1.Về chiến lược kinh doanh Trong thời gian qua, chiến lược của doanh nghiệp đã có sự thay đổi về mặt thị trường từ thị trường trong nước là chính chuyển sang thị trường xuất khẩu, với việc thâm nhập vào thị trường này Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng đã phải chi phí rất nhiều cho công tác tìm kiếm thị trường, và khối quản lý đã làm rất tốt công tác này đặc biệt là mảng thị trường và mảng mạng trong phòng KD-XNK. Tuy nhiên, vì là người mới gia nhập thị trường xuât khẩu nên KD-XNK cũng có những thuận lợi và cũng không ít khó khăn. Về thuận lợi: sản phẩm của công ty rất được người tiêu dùng ưa chuộng do mẫu mã phong phú, phù hợp với thị hiếu của từng nhóm khách hàng, lại là một sản phẩm mới tham gia xuất khẩu nên công ty cũng được sự giúp đỡ của rất nhiều ban, ngành như Bộ Thương mại, Bộ Tài chính...sản phẩm được sản xuất ở thị trường lao động rẻ nên giá thành thấp, hấp dẫn người tiêu dùn._.g. Về khó khăn: Đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các nhà kinh doanh, nhà phân phối lớn ở thị trường nước bạn, sản phẩm của ta chưa có uy tín trên thị trường nước ngoài, về thị hiếu của người tiêu dùng cũng thay đổi mà ta cần phải tốn chi phí lớn để nghiên cứu... Nhưng với những thành công bước đầu mà Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng đã đạt được, chúng ta tin tưởng vào chiến lược đúng đắn của công ty trong thời gian qua và có thể kết luận rằng hướng đi của công ty là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và điều kiện sản xuất kinh doanh của công ty. Hy vọng rằng trong thời gian tới, Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng và có chiến lược thị trường đúng đắn mang lại hiệu quả kinh tế cao. 2.2.Về hoạt động Marketing Thị trường càng rộng lớn thì tính ổn định càng không cao, nên bộ phận Marketing ngày càng giữ một trách nhiệm to lớn. Chiến lược Marketing là một trong 4 bộ phận cấu thành Mar-Mix, nhu cầu và sở thích của con người ngày càng phong phú đa dạng và phức tạp, sản xuất và tiêu dùng không phải lúc nào cũng ăn khớp với nhau, nếu không có chiến lược Mar phù hợp thì sản xuất khó mà ăn khớp với tiêu dùng. Khi đó tình trạng thừa hoặc thiếu hàng sẽ xảy ra làm lãng phí nguồn lực và giảm hiệu quả kinh doanh. Chính vì vậy, mỗi doanh nghiệp phải có một chiến lược Marketing phù hợp với tình hình kinh doanh của doanh nghiệp mình. Trong thời gian qua, bộ phận Marketing của công ty đã có được những kết quả rất đáng khen, biểu hiện ở việc doanh thu ở thị trường trong nước ổn định, thị trường xuất khẩu thì được khai phá và đang phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng luôn có mặt ở các phiên triển lãm ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên...và cả trung tâm thương mại miền nam thành phố Hồ Chí Minh... Mặt hàng của công ty đã được nhiều người tiêu dùng biết đến và chấp nhận, giá trị tài sản vô hình tăng lên, thương hiệu khẳng định vững chắc hơn và uy tín được nâng lên cùng với chất lượng. Đặc biệt là sự thâm nhập thành công vào thị trường xuất khẩu có công rất lớn của bộ phận Marketing trong việc nghiên cứu thị trường và nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, vấn đề tiếp thị sản phẩm của công ty, vấn đề xây dựng kênh phân phối và xúc tiến bán hàng đã được bộ phận Marketing thực hiện khá tốt. 2.3.Về tổ chức nhân sự Ngày nay, người tổ chức phải tìm kiếm cơ cấu tổ chức thích hợp với sự thay đổi thường xuyên của môi trường đồng thời cũng phải thường xuyên nghiên cứu và hoàn thiện cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. Đối mặt với những khó khăn trong cơ chế kinh tế mới, đặc biệt là sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế tri thức, với những thuận lợi cũng như khó khăn, chúng ta thử tìm hiểu xem Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng đã làm được những gì và hạn chế trong việc giải quyết công ăn việc làm, xây dựng một đội ngũ tổ chức hợp lý như thế nào. Với hơn 250 lao động sản xuất trực tiếp sản xuất, so với tiềm năng phát triển của công ty trong thời gian tới, thì Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng cần phải tuyển thêm một đội ngũ lao động trực tiếp sản xuất nữa mới đáp ứng được nhu cầu đề ra. Bàn về một vấn đề gì chúng ta cũng phải đi từ cái cũ cho đến cái mới và phải đi từ thực tiễn vì mọi chân lý đều phải bắt nguồn từ thực tiễn. Trong những năm qua, cơ cấu tổ chức của Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng có thể nói là khá hợp lý để duy trì sự phát triển của mình và quản lý CBCNV thực hiện đúng quy chế. Về vấn đề tuyển thêm lao động, công ty luôn có những lớp học việc cho công nhân mới vào nghề còn bỡ ngỡ, chưa thành thạo trong công việc. Ngoài ra, hàng năm thường xuyên cử cán bộ đi học những lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về chuyên môn, về việc nắm bắt tình hình kinh tế mới ...các phòng ban trong công ty luôn luôn có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong công việc để hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ của mình vì mục tiêu chung của công ty. 2.4.Tình hình quản trị Bộ máy quản trị là trung tâm điều khiển mọi hoạt động sản xuất kinh doanh ở tầm vĩ mô, nếu như khu trung tâm này hoạt động tốt thì những hoạt động ở tầm vi mô mới thu được kết quả như mong muốn được. Ban giám đốc của công ty mặc dù chỉ có hai người nhưng đã thực hiện đúng chức năng và nhiệm vụ của mình một cách có hiệu quả nhất, vì mục tiêu chung của công ty, nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi và đã đạt được những kết quả đáng mừng. Tuy nhiên trong thời gian tới, khi mà thị trường ngoài nước đang phát triển thì nhiệm vụ của ban quản trị cũng rất nặng nề. Công ty cần có một đội ngũ quản trị có trình độ cao để giải quyết tốt nhiệm vụ quản trị trong thời gian tới với hiệu quả cao trong công việc. Để làm được như vậy thì Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng đang từng bước cải tiến bộ máy quản trị này, công ty luôn cử một số cán bộ theo học các lớp quản trị chuyên sâu, để mỗi một cán bộ quản trị đều có kiến thức chuyên môn hoá hoạt động quản trị hay vạn năng đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao phù hợp với thời đại mới và sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế tri thức với những kỹ năng, kỹ xảo của đội ngũ lao động quản trị. 2.5.Về chất lượng sản phẩm và các hoạt động khác Chất lượng sản phẩm của công ty đã nâng lên rõ rệt do sự thay đổi chất liệu sản phẩm và cải tiến mẫu mã, đã được người tiêu dùng đánh giá cao. Trong thời gian tới hy vọng rằng, công ty vẫn giữ vững được ưu thế sản phẩm của mình và cố gắng phát huy hơn nữa để có thể chiến thắng trong cạnh tranh về mọi mặt, để không chỉ là một doanh nghiệp non trẻ hiện nay nữa mà sẽ trở thành một doanh nghiệp có tên tuổi, không phải núp dưới bóng người anh cả là Tổng công ty Xây Dựng –Thương mại nữa. Chúng ta sẽ hy vọng và không bao giờ thất vọng cả vì một tương lai tươi sáng của thị trường xuất khẩu của hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam . Các hoạt động khác của doanh nghiệp cũng không có gì phải tranh cãi nhiều, bởi vì các bộ phận đó đêù hoạt động hiệu quả như phòng bảo vệ, phòng dự án, phòng kinh doanh thiết bị ... đều đang trong quá trình hoạt động tốt cùng với sự phát triển đi lên của công ty. Mỗi một phòng ban đều có chức năng hoạt động riêng biệt và nhiệm vụ cụ thể. Nên các phòng ban trong công ty cần phát huy hơn nữa ưu thế của mình và hạn chế những khuyết điểm, sai lầm IV. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu của công ty ảnh hưởng đến việc thúc đẩy xuất khẩu 1. Đặc điểm về thị trường Thị trường đầu ra chính cho sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Công ty bao gồm 2 mảng thị trường là thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu. Trong đó, thị trường trong nước tiêu thụ khoảng 30% khối lượng sản phẩm, phần còn lại được tiêu thụ ở thị trường quốc tế. Nên đẩy mạnh xuất khẩu là một trong những chiến lược quan trọng nằm trong chiến lược tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Trong mảng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thì Công ty tập trung vào những thị trường xuất khẩu chính như Nhật Bản, Tây Âu,…bên cạnh một số thị trường nhỏ lẻ khác mà Công ty mới thâm nhập được, nhưng khối lượng sản phẩm ở những thị trường này không nhiều chủ yếu là hàng thủ công mỹ nghệ chứ không có những mặt hàng khác như hàng đồ chơi, hay sắt mỹ nghệ. Từ vấn đề mấu chốt thị trường ta hoạch định chiến lược kinh doanh cho từng giai đoạn và có những chính sách phù hợp với chiến lược tiêu thụ sản phẩm của Công ty, chủ yếu tập trung vào thị trường quốc tế và vấn đề đẩy mạnh xuất khẩu là một trong những nội dung quan trọng cần giải quyết. 2. Đặc điểm về sản phẩm Sản phẩm chủ yếu của Công ty là hàng thủ công mỹ nghệ chiếm trên 30% khối lượng sản phẩm, ngoài ra là các mặt hàng như Gốm Sứ, hàng Đồ chơi, hàng Mây tre, hàng Sắt mỹ nghệ và hàng tạp phẩm. Hàng thủ công mỹ nghệ là mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn, sau đó đến hàng Đồ chơi, những sản phẩm này chủ yếu được sản xuất tại phân xưởng của Công ty, hiếm khi Công ty phải đi thu mua hàng từ các cơ sở sản xuất khác nên Công ty có thể chủ động trong việc nhận và thực hiện đơn hàng. Đến nay, trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu của Công ty chủ yếu vẫn là 6 nhóm mặt hàng chính, Công ty đang từng bước thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, nghiên cứu thêm nhiều nhóm mặt hàng mới, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm cũng như đa dạng hoá chất lượng nguồn nguyên liệu tạo ra nhiều chủng loại sản phẩm có chất lượng khác nhau phù hợp với nhu cầu của từng đối tượng khách hàng. 3.Cơ cấu lao động Công ty gồm 270 cán bộ CNV. Trong đó có 65 cán bộ làm công tác quản lý (23,7%) và số còn lại là công nhân trực tiêp sản xuất và người lao động làm thuê theo hợp đồng lao động. Đứng đầu công ty là Ban Giám đốc gồm 1 Giám đốc và 1 phó Giám đốc. Dưới Ban Giám đốc là các phòng ban trực thuộc, những phòng ban này được chia thành hai khối là khối kinh doanh và khối quản lý. + Trong khối kinh doanh có các phòng ban như : phòng KD-XNK, phòng KHSX, phòng kinh doanh thiết bị, (gồm xưởng cơ khí và xưởng đồ chơi). + Trong khối quản lý có các phòng ban như : phòng TCHC, phòng dự án, phòng TCKT. Ngoài ra, công ty còn có văn phòng đại diện tại các tỉnh, thành phố khác. 4.Đặc điểm ngành nghề kinh doanh Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng với chức năng hoạt động rộng rãi đa ngành nghề : sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, gốm sứ, đồ chơi, quà lưu niệm, đồ gỗ, sơn mài, các sản phẩm trang trí nội thất, gia công hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, nguyên vật liệu sản xuất, máy móc thiết bị, nông lâm thuỷ sản, hàng tiêu dùng, phương tiện vận tải, kinh doanh kho bãi, sản xuất kinh doanh hàng may mặc, đồ da, kim khí, hoá chất, điện máy và lắp ráp điện tử xuất nhập khẩu uỷ thác, kinh doanh dịch vụ vận tải, du lịch lữ hành, xây dựng công trình giao thông vận tải, thuỷ lợi công nghiệp và dân dụng. 5.Thiết bị công nghệ máy móc Là một doanh nghiệp thương mại kiêm sản xuất với chức năng hoạt động rộng rãi đa ngành nghề, Công ty Thương Mại -Xây Dựng Bạch Đằng sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ là chính, còn các ngành nghề khác như xây dựng công trình giao thông thủy lợi, kinh doanh nông lâm thuỷ sản, kim khí hoá chất, kinh doanh hàng may mặc...chỉ là những ngành nghề mang tính thời vụ của công ty. Hiện nay, nhìn chung trang thiết bị công nghệ máy móc của công ty còn khá sơ sài, chưa có gì là hiện đại cả so với các doanh nghiệp khác. Một phần là do lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty quyết định, do sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ không đòi hỏi trang thiết bị công nghệ hiện đại mà chủ yếu là dựa vào trình độ tay nghề của công nhân, nên công ty chú trọng đến khâu đào tạo đội ngũ công nhân viên mới vào nghề qua các khoá học việc (thường là 6 tháng ). Lĩnh vực kinh doanh còn lại của công ty chủ yếu là vấn đề thương mại bán hàng, công ty có đầu tư thêm 30 chiếc xe tải chở hàng phục vụ cho công tác chuyên chở hàng hoá. Hiện nay, trong cảng của công ty luôn có 7 chiếc máy xúc hiệu Hàn Quốc và cần cẩu hàng hoá (5 chiếc) tại mặt bằng cạnh sông Hồng. 6.Tình hình cung ứng nguyên vật liệu Trước kia, khi công ty còn là xưởng sản xuất quy mô nhỏ, với thị trường tiêu thụ chủ yếu từ trong nước, sản phẩm còn chưa phong phú về mẫu mã, và chủng loại thì nguyên liệu chủ yếu cho các sản phẩm của công ty là thạch cao và đất sét. đến nay thì nguyên liệu của công ty rất phong phú về chủng loại và chất liệu, từ bột đá thiên nhiên đến nhiên liệu bằng thạch cao, nhựa tổng hợp, polyme...càng ngày công ty càng sáng tạo và tìm kiếm ra nhiều nguồn nguyên liệu thay thế và bổ sung khác, làm phong phú hơn nữa nguồn nguyên liệu có sẵn và giảm chi phí nguyên nhiên liệu, tiết kiệm chi phí, giảm giá thành. Hàng ngày công ty có bộ phận chuyên phụ trách về vấn đề nguyên liệu cung cấp cho công nhân sản xuất trực tiếp tại phân xưởng. Và bộ phận này chuyên ký kết cũng như giao dịch với các nguồn cung ứng nguyên liệu để vận hành bộ máy sản xuất của doanh nghiệp. Bộ phận chuyên trách vấn đề cung ứng nguyên vật liệu chịu trách nhiệm trước trưởng phòng kế hoạch sản xuất và thống kê đơn giá, số lượng nguyên vật liệu chuyển vào hàng ngày, hàng tháng, quý một cách cụ thể. 7.Đặc điểm về tài chính của công ty Đơn vị tính : 1000.000đ Năm Tổng vốn Vốn cố định Vốn lưu động Số tiền Tỷ lệ% Số tiền Tỷ lệ % 2000 6455 2662,8 41,25 3792,2 58,75 2001 8770 2506 28,57 6264 71,43 2002 10131 3431 33,87 6700 66,13 Biểu hình 1.1 : Tình hình vốn kinh doanh của công ty Nhìn vào biểu trên ta thấy tổng số vốn kinh doanh của công ty tăng đều qua các năm. Điều này cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty rất khả quan. Hàng năm tỷ trọng vốn lưu động luôn luôn cao hơn tỷ trọng vốn cố định. Điều này là hoàn toàn hợp lý. Do công ty có chức năng chính là kinh doanh thương mại nên tỷ trọng vốn lưu động cao hơn vốn cố định là rất tốt. Riêng năm 2001 VLĐ tăng lên 71,43% trong khi vốn cố định giảm xuỗng còn 28,57% là do công ty nhận thức được tầm quan trọng của việc kinh doanh tiêu thụ hàng hoá nên hướng mạnh vào thị trường này để phát triển sản xuất khi thị trường tiêu thụ mở rộng đối với một số mặt hàng chủ chốt của công ty như kinh doanh hàng may mặc, hàng nông lâm thuỷ sản, kim khí hóa chất...thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm tăng doanh thu. Nhưng đến năm 2002 thì VCĐ tăng lên là 33,87% làm giảm tỷ lệ VLĐ xuống. Do công ty đã đầu tư thêm trang thiết bị, nhà xưởng để mở rộng quy mô sản xuất, tuyển thêm lao động mua thêm một số tài sản cố định khác phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Điều đó chứng tỏ rằng công ty đã có một chiến lược kinh doanh hợp lý với từng giai đoạn phát triển riêng biệt phù hợp với tình hình tài chính của công ty và phù hợp với những thay đổi của smôi trường kinh doanh trong giai đoạn mới. Tài sản Mã số Số đầu năm (VNĐ) Số cuối kỳ (VNĐ) I. TSLĐ và đầu tư ngằn hạn 100 31850102075 47173797477 1. Tiền 110 4395846364 11378854531 -Tiền tồn quỹ 111 758035686 760001585 -Tiền giửi ngân hàng 112 3637810678 10618852946 -Tiền đang chuyển 113 2. Các khoản đầu tư tài chính ngăn hạn 120 - Đầu tư tài chính ngắn hạn 121 - Đầu tư ngắn hạn khác 128 - Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn 129 3. Các khoản phải thu 130 12126456867 14260345292 - Phải thu của khách hàng 131 12012801463 13306249407 - Trả trước cho người bán 132 - Thúe GTGT được khấu trừ 133 - Phải thu nội bộ 134 + Vốn kinh doanh ở các đơn vị nôi bộ 135 + Phải thu về 136 +Phải thu nội bộ khác 137 - Các khoản phải thu khác 138 113655404 274020685 - Dự phòng phải thu khó đòi 139 4. Hàng tồn kho 140 9921625050 16285769250 - Hàng mua đang đi đường 141 - NVL tồn kho 142 1966500 4980500 - Công cu, dụng cụ trong kho 143 11004 11000 - Chi phi SXKD dở dang 144 9919647546 16288777750 - Thành phẩm tồn kho 145 - Hàng hoá tồn kho 146 - Hàng gửi đi bán 147 - Dự phòng giảm giá hàng tồn kho 149 5. Tài sản lưu đông khác 150 5406173794 5248828404 - Tạm ứng 152 3907276683 4063736550 - Chi phí trả trước 152 922328100 509830819 - Chi phỉ chờ kết chuyển 153 545436875 554513489 - Tài sản thiếu chờ sử lý 154 - Các khoản ký cược 155 31132136 120747546 6. Chi sự ngiệp 160 - Chi sự nghiệp năm trước 161 - Chi sự nghiệp năm nay 162 Tình hình quản lý các loại tài sản lưu động V.Các đối thủ cạnh tranh Kinh doanh trên thị trường quốc tế, phải đối mặt với rất nhiều vấn đề về cạnh tranh gay gắt Chương II Thực trạng hoạt động xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng I.Đánh giá khái quát hoạt động xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ 1.Tình hình thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Trong nền kinh tế hàng hoá hiện nay, dù kinh doanh trong bất kỳ lĩnh vực nào, mỗi doanh nghiệp đều phải đương đầu với hàng loạt đối thủ cạnh tranh. Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng phải tự hạch toán kinh doanh nên Công ty đã tận dụng tối đa mọi cơ hội kinh doanh để tìm được nguồn đơn đặt hàng cho mình. Lĩnh vực kinh doanh của Công ty đang có sự cạnh tranh khốc liệt từ các đối thủ trong và ngoài nước. Thị trường đầu ra lúc này như là mảnh đất đầy dinh dưỡng nuôi sống cả tập thể công nhân viên trong công ty, có được thị trường hay không, có nhiều hay ít thị trường sẽ quyết định đến sự tồn tại, hay diệt vong của mình. Do đó, mở rộng thị trường là điều kiện tất yếu để công ty tồn tại và phát triển. Đến nay, mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty đã có mặt ở trên 30 quốc gia tới các vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong lĩnh vực kinh doanh của mình, công ty đã thực hiện tốt các đơn đặt hàng đảm bảo chất lượng hàng cho nhà phân phối, tạo lòng tin cho khách hàng để ổn định và tiếp tục phát triển khu vực bạn hàng của Công ty. Quy mô mặt hàng xuất khẩu tuy chưa lớn nhưng đã đem lại nguồn lợi nhuận lớn cho Công ty hàng ngàn USD, đóng góp vào ngân sách Nhà nước, tạo công ăn việc làm, duy trì và nâng cao dần thu nhập cho cán bộ nhân viên và công nhân lao động trực tiếp tại phân xưởng. Kết quả kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty theo khu vực được thể hiện Đơn vị : 1000 USD Khu vực Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Bắc Mỹ EU Nhật Bản Đông nam á Trung Nam Mỹ Thị trường Nga Thị trường khác 3008,47 4037,6 4013,89 2054 5075 2071,4 1511,5 10578 24570 10764,5 4578 10101,4 57363 2014,7 15073 38048 17576 7786 7875,7 8197,3 2517,6 27750 48076 30015 10015,7 7877,9 15371,4 3001,5 Tổng 19792,37 68342,6 97055,6 142.107,5 (Nguồn : Phòng kinh doanh Xuất Nhập khẩu) Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy, kim ngạch xuất khẩu của Công ty trong những năm gần đây liên tục tăng, đặc biệt là có sự tăng trưởng mạnh vào năm 2002. Đó là một tín hiệu đáng khả quan đối với cả tập thể cán bộ công nhân viên của Công ty trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Bảng trên cũng cho ta thấy thị trường xuất khẩu chủ yếu của Công ty là thị trường Bắc Mỹ, Nhật Bản và EU. Hiện nay, thị trường Nhật Bản là một trong những thị trường có nhu cầu lớn nhất về nhiều loại hàng thủ công mỹ nghệ cũng như các sản phẩm khác mà Công ty xuất khẩu như sản phẩm Gương, Hàng Đồ chơi, Hàng Sắt. Bên cạnh đó là một số thị trường mới nổi lên như thị trường Đông Nam á với hơn 500 triệu dân đang là một trong những hướng phát triển chủ đạo của Công ty trong thời gian tới. Liên minh Châu Âu (EU) là thị trường xuất khẩu lớn của rất nhiều sản phẩm chủ lực của Việt Nam như sản phẩm dệt may, hàng da dày, hàng thủ công mỹ nghệ,…với những ưu thế hơn hẳn so với các thị trường tiêu thụ khác trên thế giới như mức cầu lớn, thu nhập bình quân đầu người cao, EU là khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định. Nắm bắt được thị hiếu của người tiêu dùng Châu Âu, Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng đã đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho xuất khẩu vào khu vực này, đẩy mạnh xúc tiến bán hàng, tiếp thị, đặt những trụ sở giao dịch, các văn phòng đại diện, đồng thời Công ty cũng thường xuyên tham gia những Hội trợ triển lãm, trưng bày những Showroom tại các trung tâm Thương mại lớn như London, Paris, Berlin,…Kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này trong những năm qua liên tục tăng, từ 4037,6 nghìn USD năm 1999 lên tới 48.076 nghìn USD năm 2002. Dự kiến trong tương lai kim ngạch xuất khẩu vào EU vẫn tiếp tục tăng. Hiện nay, EU đang là một trong những thị trường chủ đạo của Công ty. Thị trường tiêu thụ chủ yếu của khu vực này là Pháp và Đức. Tỷ trọng thị phần của một số thị trường chủ yếu của Công ty Đơn vị tính : % Khu vực Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Bắc Mỹ EU Nhật Bản Đông Nam á Trung Nam Mỹ Thị trường Nga Thị trường khác 15,2 20,4 20,28 10,38 15,64 10,46 7,64 15,48 35,95 15,75 6,7 14,78 8,39 2,95 15,53 39,2 18,12 8,02 8,11 8,45 2,59 19,53 33,83 21,12 7,05 5,54 10,82 2,11 Tổng 100 100 100 100 Thị trường xuất khẩu của Công ty phân bố không đều, tập trung vào một số thị trường chính như Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản, trong đó chủ yếu là thị trường EU luôn luôn chiếm ưu thế hơn hẳn so với các thị trường khác chiếm 20,4% năm 1999 sau đó tăng mạnh vào năm 2000 và năm 2001 với 39,2% doanh thu từ xuất khẩu của Công ty. Sau một thời gian tăng trưởng mạnh thị trường này đang có xu hướng suy giảm, từ 39,2% năm 2001 xuống còn 33,83% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong năm 2002. Thị trường Nhật Bản cũng là một trong những thị trường chính của Công ty, với phong tục Phương Đông truyền thống, cũng giống như người Việt Nam hay Trung Quốc, người Nhật có nhu cầu khá lớn về hàng thủ công mỹ nghệ, hàng Gốm Sứ và đồ gố. Đó đều là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Công ty. Họ có sở thích tặng nhau những món quà làm bằng đồ Gốm Sứ với những hoạ tiết mang tính nghệ thuật cao mang biểu tượng của tình yêu, tình bạn. Nắm bắt được phong cách sống cũng như tâm lý của người Nhật với truyền thống dân tộc bất khuất, Công ty đã xuất khẩu sang thị trường này những sản phẩm có biểu tượng của đất nước họ như hình con chuồn chuồn và khóm khoai, hình tượng võ sỹ đạo,…là những sản phẩm rất được người Nhật ưa thích và đánh giá cao. Do vậy, việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sang thị trường này rất thuận lợi và Nhật Bản luôn là một thị trường có thị phần lớn của Công ty với doanh thu và quy mô các mặt hàng xuất khẩu liên tục tăng. Mặc dù có suy giảm trong năm 2001 từ 28,28% xuống còn 15,75% tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng đã khôi phục trở lại vào năm 2002 chiếm 21,12% tổng kim ngạch xuất khẩu . Trong những năm qua Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng mới chỉ xuất khẩu được một lượng khá nhỏ vào thị trường Đông Nam á, mức cao nhất là 10,38% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sau đó giảm dần vào các năm sau. Hiện nay, con số này là 7,05% tổng giá trị kim ngach xuất khẩu, một con số khá khiêm tốn với một thị trường hơn 500 triệu dân trong khu vực. Một phần là do tại các nước này có các đặc điểm tương đồng với Việt Nam về điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán có sự giao thoa mang đậm phong cách Phương Đông. Cho nên, phần lớn các nước trong khu vực này cũng tự mình sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ với chất liệu bằng Gốm, Sứ đáp ứng nhu cầu của nước đó, không những thế mặt hàng này còn được xuất khẩu ra nước ngoài trên các thị trường mà Công ty đang tiêu thụ sản phẩm của mình. Vì vậy, sản phẩm của họ cạnh tranh rất quyết liệt với các sản phẩm của Công ty trên một số thị trường chủ yếu. Tuy vậy, sản phẩm của Việt Nam vẫn được khách hàng ưa chuộng trên thế giới thậm chí ta còn cạnh tranh quyết liệt và chiến thắng ngay tại "sân khách". Có được những kết quả đó là so sản phẩm của ta có sự tinh xảo trong nghệ thuật, sản phẩm mang đậm nét văn hoá dân tộc như bộ bàn ghế mây, chiêc nón bài thơ,…mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất sang thị trường này chủ yếu là đồ trang trí nội thất, hàng sắt, hàng đồ chơi, vật dụng gia đình, gương gỗ. Trung- Nam Mỹ là thị trường chiếm tỷ trọng lớn của Công ty trong những năm 1999, 2000 với kim ngạch xuất khẩu năm 1999 là 5075 nghìn USD chiếm 15,64% sau đó tăng lên 10101,4 nghìn USD chiếm 14,78% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu.Công ty xuất khẩu sang 3 thị trường chính là Achentina, Braxin, Chilê. Trong 2 năm trở lại đây tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này đã bị suy giảm chỉ chiếm 8,11% năm 2001 và 5,54% tỷ trọng năm 2002. Từ năm 2001 do kinh tế Achentina rơi vào tình trạng khủng hoảng, nên xuất khẩu sang thị trường này giảm đi rõ rệt, thị trường Braxin và Chilê cũng gặp không ít khó khăn nên kim ngạch xuất khẩu sang khu vực thị trường này giảm đi rõ rệt. Từ sự khó khăn trên, Công ty đã phải tích cực tìm kiếm cơ hội mở rộng sang các thị trường và khu vực thị trường khác. Với sự nỗ lực của Công ty, trong thời gian ngắn, Công ty đã chuyển hướng xuất khẩu sang một số thị trường mới như thị trường Trung Đông, đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU để có thể chuyển khu vực thị trường theo hướng phù hợp hơn. Đối với thị trường Nga và các nước SNG, sau hơn 10 kể từ khi Liên Bang Xô Viết tan rã, những điều kiện ưu đãi trước kia không còn nữa, mối quan hệ kinh doanh với khu vực này ngày càng trở lên khó khăn hơn, kim ngạch xuất khẩu từ 2017,4 nghìn USD chiếm 10,46% năm 1999 tăng lên 5736 nghìn USD nhưng chỉ chiếm 8,39% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu. Với sự cố gắng để duy trì và phát triển một thị trường truyền thống, Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng đã nỗ lực rất nhiều để tăng dần giá trị kim ngạch xuất khẩu cũng như tăng dần tỷ trọng của thị trường này lên, đến năm 2002 kết quả thật đáng khích lệ cho tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty với 15.371,4 nghìn USD chiếm 10,82% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu. Ba thị trường chính là Nga, Hungari, Sec trong đó chỉ có thị trường Nga là luôn duy trì lượng đơn đặt hàng thường xuyên, mặt hàng xuất khẩu mạnh sang khu vực là mây tre, thảm, Gốm Sứ và hàng Đồ chơi. Đặc điểm của khu vực thị trường này là yêu cầu cao về kỹ thuật, mẫu mã không quá cầu kỳ nhưng đẹp mắt và gây ấn tượng nên trước đây lượng hàng xuất khẩu sang thị trường này là rất lớn. Thị phần hàng thủ công mỹ nghệ của hàng Việt Nam nói chung và hàng của Công ty nói riêng bị mất đi là do sản phẩm của ta bị cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm của Trung Quốc và các nước trong khu vực như Malaysia, Indonexia, Philippin,…Để khắc phục những khó khăn trên và giành lợi thế trong cạnh tranh, Công ty đã đầu tư xây dựng và mở rộng một mạng lưới kho tàng, các cửa hàng và nhiều quầy bán buôn, bán lẻ trên khắp thị trường Nga và các nước SNG, cử đại diện của Việt Nam sang và thuê thêm lao động của nước sở tại phục vụ. Mạng lưới này hoạt động khá hiệu quả và đã đem lại những kết quả đáng mừng, thể hiện ở tỷ trọng thị phần đang được ổn định chiếm 10,82% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, bên cạnh đó Công ty vẫn chưa bám sát được những thay đổi, thị hiếu trên thị trường này, thiếu những mẫu mã mới và những mặt hàng có chất lượng nên đã để rớt mất mảng lớn trên thị trường này. Mặc dù vậy, đây cũng là khu vực thị trường có nhu cầu lớn, tiêu thụ được cả những mặt hàng truyền thống và mặt hàng mới. Do đó, Công ty cần có sự quan tâm đúng mức và có sự thay đổi phù hợp với sự thay đổi của thị trường, khai thác thị trường với đúng quy mô và tiềm năng sẵn có của nó, tạo ra những sản phẩm mẫu mã mới, chất lượng cao, giá cả và phương thức thanh toán phù hợp hơn nữa để tăng sức cạnh tranh trên thị trường này. Giá trị kim ngạch xuất khẩu sang thị trường khác của Công ty cũng đã có sự điều chỉnh nhất định, từ 7,64% tỷ trọng năm 1999 xuống còn 2,95% năm 2000 và đến năm 2002 con số này là 2,11% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu. Đây phần lớn là những thị trường nhỏ lẻ, không được đầu tư nhiều về mạng lưới kênh phân phối nên Công ty không coi đây là thị trường chủ lực. Tuy vậy, Công ty cũng không bỏ qua bất kỳ một cơ hội nào để có được những đơn đặt hàng hấp dẫn. 2.Thực trạng xuất khẩu qua một số năm gần đây 2.1. Quy mô của sản phẩm xuất khẩu Trong thị trường cạnh tranh quốc tế, dù kinh doanh trong bất kỳ lĩnh vực nào, mỗi doanh nghiệp đều phải đương đầu với hàng loạt đối thủ cạnh tranh, nên thị phần, lợi nhuận của Công ty luôn luôn có nguy cơ bị san sẻ. Để hạn chế được áp lực cạnh tranh và có thể giành thắng lợi trong cạnh tranh Công ty luôn phải tìm cách tận dụng những lợi thế sẵn có của mình, hạn chế đến mức tối đa những khó khăn của Công ty, luôn có kế hoạch kinh doanh các sản phẩm phù hợp với nhu cầu, đồng thời cũng đa dạng hoá sản phẩm tránh tập trung cao vào một số mặt hàng dẫn đến rủi ro trong xuất khẩu. Cơ cấu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu của Công ty Đơn vị tính : nghìn USD Tên hàng Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Hàng Đồ chơi Hàng thủ công mỹ nghệ Mây tre Gốm sứ Gỗ mỹ nghệ Sắt mỹ nghệ Hàng tạp phẩm 6392,94 5423,11 1048,9 1280,57 2456,23 1496,3 1694,23 17.543,55 20.851,33 4.114,22 5.945,8 7.367,3 6.607,3 6.663,4 27.214,39 30.174,59 7.347,11 8.414,72 9.851,14 9.006,76 5.046,89 38.383,24 48.558,13 9.336,46 7.744,86 13.741,79 14.864,44 9.478,57 Tổng 19.792,37 68.342,6 97.055,6 142.107,5 ( Nguồn :Báo cáo kết quả kinh doanh: Phòng Kế toán ) Từ khi thành lập cho đến nay, hàng thủ công mỹ nghệ vẫn là mặt hàng chủ lực mà Công ty tiến hành xuất khẩu. Qua nhiều năm hoạt động kinh doanh, Công ty đã có nhiều kinh nghiệm trong việc xúc tiến xuất khẩu, thẩm định giá cả, cải tiến mẫu hàng phù hợp hơn với thị hiếu của người tiêu dùng, Công ty đã có những khách hàng truyền thống trong lĩnh vực này nên việc trị giá hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu liên tục tăng từ 5.423,11 nghìn USD năm 1999 lên 20.851,33 nghìn USD năm 2000 đặc biệt là vào năm 2002 với trị giá hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu là 48.558,13 nghìn USD. Sau hàng thủ công mỹ nghệ thì hàng Đồ chơi chiếm trị giá khá lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Từ 6.392,94 nghìn USD năm 1999 lên 17.543,55 nghìn USD năm 2000 tăng 11.150,61 nghìn USD. Đến năm 2001 trị giá hàng Đồ chơi trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu là 27.214,39 nghìn USD và năm gần đây nhất con số này là 38.383,24 nghìn USD. Tỷ trọng cơ cấu hàng xuất khẩu so với tổng số Đơn vị tính : % Tên hàng Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Hàng Đồ chơi Hàng thủ công mỹ nghệ Mây tre Gốm sứ Gỗ mỹ nghệ Sắt mỹ nghệ Hàng tạp phẩm 32,3 27,4 5,3 6,47 12,41 7,56 8,56 25,67 30,51 6,02 8,7 10,78 8,79 9,75 28,04 31,09 7,57 8,67 10,15 9,28 5,2 27,01 34,17 6,57 5,45 9,67 10,46 6,67 Tổng 100 100 100 100 (Nguồn : Phân xưởng sản xuất) Qua bảng trên ta thấy, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Công ty là hàng Đồ chơi và hàng thủ công mỹ nghệ. Năm 1999 tỷ trọng hàng Đồ chơi xuất khẩu là 32,3% so với tổng số sau đó đến hàng thủ công mỹ nghệ chiếm 27,4%, hàng mây tre chiếm một tỷ trọng tương đối nhỏ là 5,3%, đồ Gỗ mỹ nghệ cũng chiếm một tỷ trọng tương đối lớn là 12,41%, hàng Đồ chơi của Công ty rất phong phú về chủng loại và mẫu mã, kiểu dáng đẹp, nên được tiêu thụ với một số lượng lớn ở nước ngoài. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty không chỉ có tính nghệ thuật cao mà còn có giá trị văn hoá sâu sắc, mang hình tượng về đất nước, con người, mang bản sắc văn hoá dân tộc sâu sắc phù hợp với truyền thống và phong tục tập quán của nước sở tại. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ là một trong những hàng xuất khẩu chính của Công ty , luôn luôn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu các mặt hàng phục vụ xuất khẩu. Nếu như năm 1999 tỷ trọng của mặt hàng này là 27,4%thì đến năm 2000 là 30,51% và năm 2001 con số này là 31,09% và năm 2002 chiếm tỷ trọng là 34,17%. Hầu hết các sản phẩm của Công ty làm ._.à một khâu quan trọng, thực hiện hợp đồng qua tài liệu giao dịch là chính do hai bên có khoảng cách địa lý ở xa nên gặp phải một số khó khăn nhất định. Bốn là, chưa tạo lập được một hệ thống phân phối trực tiếp trên các thị trường nước ngoài, việc thiết lập các cửa hàng, văn phòng đại diện, các đại lý ở nước ngoài còn rất nhiều hạn chế, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu, khiến cho hàng hoá của Công ty chỉ tiếp cận trực tiếp được với một số ít khách hàng, khó khăn trong việc tham khảo ý kiến, để có thể thay đổi sản phẩm phù hợp hơn với thị hiếu người tiêu dùng. Năm là, hình thức xuất khẩu còn hạn chế và đơn điệu, chủ yếu là hình thức xuất khẩu trực tiếp nên phù hợp với việc xuất khẩu những lô hàng có giá trị lớn do Công ty tự mình kiểm soát được toàn bộ quá trình, trong thời gian tới Công ty cần tham khảo thêm một số hình thức xuất khẩu mới như xuất khẩu gián tiếp hay xuất khẩu qua trung gian để có thể giảm chi phí với mục tiêu là đạt hiệu quả kinh doanh cao cũng như tăng tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu. Sáu là, trình độ cán bộ công nhân viên không đồng đều, cán bộ chuyên sâu và có kinh nghiệm trong kinh doanh xuất khẩu còn thiếu, kỹ năng nghiệp vụ ngoại thương còn chưa cao, đội ngũ nhân viên ở phòng ban còn hạn chế về ngoại ngữ, về công tác tiếp thị, và công tác nghiên cứu thị trường. Trình độ tay nghề của công nhân sản xuất trực tiếp còn chưa đồng đều, còn ít lao động có tay nghề cao, chủ yếu là lao động phổ thông nên quá trình học việc của công nhân khá dài ( thường là 6 tháng ) làm cho Công ty tốn kém khá nhiều chi phí, không những thế, sau thời gian học việc thì hợp đồng lao động lại không có gì ràng buộc nên Công ty để mất rất nhiều lao động có tay nghề cao. Trên đây là những khó khăn chủ yếu dẫn đến những tồn tại của Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng trong quá trình thúc đẩy xuất khẩu. Trong thời gian tới, Công ty cần sớm có những biện pháp thích hợp nhằm khắc phục những khó khăn trên, phát huy những mặt mạnh của mình và hạn chế những tồn tại, thực hiện mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu theo đúng kế hoạch đặt ra trong giai đoạn tới. Chương III. Một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng I.Định hướng mở rộng thị trường xuất khẩu 1.Định hướng về thị trường Duy trì và mở rộng thị trường trong thời gian tới đây là một nhiệm vụ không dễ dàng đối với Công ty. Để thực hiện được mục tiêu đặt ra trong kế hoạch là củng cố những thị trường xuất khẩu truyền thống, giữ chân khách hàng quen thuôc, thâm nhập thêm các thị trường mới, còn đang ở dạng tiềm năng. Các thị trường truyền thống như EU và Bắc Mỹ cần có định hướng cụ thể trong thời gian tới, soát xét lại hệ thống mắt xích nối liền với khách hàng này. Thực hiện đồng loạt các hệ thống chiến lược nhằm giữ vững và phát triển nguồn hàng xuất khẩu Đối với những thị trường tiềm năng, Công ty cần có chính sách cụ thể như: Phát huy những kinh nghiệm về xuất khẩu, tăng lượng hàng xuất khẩu bằng cách liên doanh, liên kết qua hình thức gửi hàng hoặc qua thương hiệu của nhà cung cấp Mở các văn phòng đại diện, các Showrow ở nước ngoài nhằm mục tiêu hỗ trợ cho công tác xuất khẩu Củng cố lại hệ thống các cửa hàng bán lẻ trong nước, tiếp cận thị trường nước ngoài qua hình thức liên doanh, liên kết giữa nhà cung cấp của Việt Nam với nước ngoài. 2.Định hướng về sản phẩm Sản phẩm của Công ty cần được duy trì những mẫu mã đang được khách hàng ưa chuộng, phù hợp với từng lứa tuổi, đặc biệt là phù hợp với sở thích và lối sống của từng đối tượng khách hàng. Cơ cấu mặt hàng cần được đa dạng hoá hơn nữa về kiểu dáng, mẫu mã và chất lượng, đồng thời nguồn nguyên liệu cũng phải phù hợp hơn với kiểu dáng sản phẩm Nghiên cứu thị trường để nhận biết nhu cầu sản phẩm là một khâu quan trọng không thể thiếu trong. Thông tin về sở thích của khách hàng, thu nhập, thói quen và phong cách sống có quan hệ đến sự lựa chọn sản phẩm của họ. Ví dụ như giới trẻ thì thích những sản phẩm mang phong cách sống trẻ trung, năng động, đó thường là những món quà tặng có ý nghĩa, giúp con người có đủ nghị lực và niềm tin vào cuộc sống hay biểu tượng của tình yêu và lòng dũng cảm. Nắm bắt được tâm lý này của giới trẻ, Công ty cần đưa ra những sản phẩm làm biểu tượng cho những món quà tặng. Chất lượng hàng, uy tín, truyền thống của Công ty cần được củng cố và nâng cao dần hơn nữa, bằng nhiều hình thức khác nhau để xây dựng và quảng bá thương hiệu của mình Hoàn thiện dần cơ sở vật chất kỹ thuật, khả năng đổi mới công nghệ để có thể đáp ứng được chất lượng và mẫu mã của sản phẩm, để sản phẩm của Công ty có sự phù hợp nhất định về chất lượng và giá cả 3.Định hướng về nguồn nhân lực Con người là một trong những yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và đóng vai trò sáng tạo, lao động là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với mọi hoạt động của doanh nghiệp. Muốn nâng cao hiệu quả sản xuất -kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm và thực hiện các mục tiêu khác cần có định hướng về nguồn nhân lực. Đây là một trong những khâu rất quan trọng trong chiến lược phát triển của Công ty trong giai đoạn hiện nay. Nhân tố con người mục tiêu và cũng là động lực của mọi sự phát triển. Để đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay, việc đào tạo và bồi dưỡng cho cán bộ công nhân viên có nghiệp vụ chuyên môn giỏi luôn là nhiệm vụ trung tâm trong công tác đào tạo và tuyển dụng của Công ty. Trong năm 2003 Công ty đã cử 129 cán bộ đi học các lớp về luật Hải quan mới, tập huấn về cách thức xây dựng một hệ thống kênh phân phối mới, cử nhiều đợt cán bộ tham gia các lớp học ngắn hạn về quản lý kinh tế, về chiến lược kinh doanh trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Các hội thảo nâng cao nhận thức về sự thay đổi của môi trường kinh doanh xuất khẩu luôn được Công ty chú trọng. Về lao động trực tiếp tại phân xưởng, năm 2003 vừa qua, Công ty đã tổ chức 3 lần các lớp học việc ngắn hạn cho công nhân mới vào nghề, với phương châm vừa học vừa làm, nhiều công nhân đặc biệt là số công nhân có khó khăn về tài chính có thể tự trang trải chi tiêu cho mình. Qua đó, Công ty có thể tuyển chọn được số lượng lao động thủ công có kỹ thuật tốt để có kế hoạch bồi dưỡng nhân lực phù hợp 4.Định hướng về nguồn nguyên liệu Bảo đảm được nguồn nguyên liệu trong suốt quá trình sản xuất không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Nguồn nguyên liệu cần được dự trữ để có thể cung cấp thường xuyên, không làm gián đoạn quá trình sản xuất. Công tác mua sắm và dự trữ nguyên liệu là điều kiện tiền đề nhằm đảm bảo cho hoạt động sản xuất hiệu quả Công ty cần thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau: Tính toán và xác định chính xác số lượng, chất lượng mỗi loại nguyên vật liệu cần có trong kỳ sản xuất Xây dựng phương án và quyết định phương án mua sắm, bố trí kho tàng, đường vận chuyển và kết hợp đường vận chuyển tối ưu. Xác định và lựa chọn bạn hàng, tổ chức nghiệp vụ đặt hàng, lựa chọn phương thức giao nhận, kiểm kê, thanh toán. Tổ chức vận chuyển hàng hoá bao gồm việc lựa chọn và quyết định tự vận chuyển hay thuê ngoài, quyết định lựa chọn phương án vận chuyển Bố trí và tổ chức kho tàng hợp lý, quản trị và cấp phát kịp thời theo yêu cầu sản phẩm. Công ty cần tìm kiếm và lựa chọn người cung cấp, làm sao cho nguồn nguyên liệu có thể giảm chi phí tới mức tối thiểu nhỏ nhất mà vẫn bảo đảm được chất lượng phù hợp với sản phẩm. Công ty thường xuyên tìm kiếm những nhà cung cấp mới để có thể chọn được nhà cung cấp với giá cả rẻ, đem lại chi phí kinh doanh thấp nhất. Bên cạnh đó, với những nhà cung cấp truyền thống, Công ty tiến hành marketing với họ nhằm tạo độ tin cậy cao giữa mình với họ. 5.Định hướng về tài chính Tài chính của doanh nghiệp là hoạt động gắn với các dòng luân chuyển tiền tệ phát sinh trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Định hướng các hoạt động tài chính là việc tổng hợp và tạo ra các nguồn vốn tiền tệ cần thiết đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành liên tục với hiệu quả kinh tế cao. Định hướng các hoạt động tài chính để đảm bảo huy động đầy đủ vốn tiền tệ cần thiết, đảm bảo các quyết định đầu tư đúng lúc, đúng chỗ và có hiệu quả. Trong thời gian tới, doanh nghiệp cần đa dạng hoá các nguồn cung ứng vốn, bao gồm cả nguồn tự cung ứng và cung ứng từ bên ngoài. Nguồn tự cung ứng có phương thức khấu hao tài sản cố định thì doanh nghiệp thường xuyên tổ chức khấu hao theo từng quý, năm bên cạnh đó doanh nghiệp phải tự tích luỹ cho mình bằng. Đây là nguồn cung ứng tài chính quan trọng của doanh nghiệp vì doanh nghiệp có thể hoàn toàn chủ động, không phụ thuộc vào phía các nhà cung ứng, tăng tiềm lực tài chính và giảm tỷ lệ nợ trên vốn. Ngoài nguồn tự cung ứng, doanh nghiệp phải cung ứng vốn từ ngân sách Nhà nước. Là một Công ty trực thuộc Bộ Giao thông Vận tải, nên Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng được nhận lượng vốn từ ngân sách để trợ giúp cho công tác xuất khẩu. Tuy nhiên càng ngày, nguồn cung ứng này càng bị thu hẹp cả quy mô và phạm vi được cấp vốn vì là doanh nghiệp tự hạch hoán kinh doanh. Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng còn gọi hùn vốn qua việc vay vốn của các ngân hàng thương mại, liên doanh liên kết với một số doanh nghiệp khác, thêm vào đó doanh nghiệp tiến hành phát hành trái phiếu để huy động vốn. Để thực hiện đúng theo kế hoạch kinh doanh của mình, sản xuất kịp thời, thì vấn đề về định hướng nguồn tài chính là hết sức quan trọng. Nên đa dạng hoá các nguồn cung ứng tài chính là một trong những nội dung quan trọng trong việc hoạch định chính sách tài chính. Công ty cần có những biện pháp để tăng cường nguồn lực tài chính của mình bằng những công cụ như vay vốn, xin trợ cấp, cổ phần hoá, và phát hành công trái, những công cụ này phù hợp với hình thức kinh doanh, loại hình doanh nghiệp, và phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước. II.Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu 1.Những giải pháp về phía nội bộ Công ty 1.1.Xây dựng chiến lược sản phẩm Cải tiến mẫu mã, đa dạng hoá sản phẩm Tính chất mặt hàng thủ công mỹ nghệ là loại hàng cần có sự phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Thị hiếu của con người luôn luôn thay đổi và không hề có một chuẩn mực nhất định. Nên đa dạng hóa sản phẩm là chiến lược sản phẩm đầu tiên mà Công ty áp dụng nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Với chính sách sản phẩm như trên, Công ty có thể thu hút được nhiều đối tượng khách hàng, tránh được rủi ro khi tập trung vào một loại hàng chủ lực, có phản ứng kịp thời với những biến động của thị trường. Với mỗi loại sản phẩm thì yêu cầu về kiểu dáng lại khác nhau, hàng thủ công mỹ nghệ phần lớn là trang trí, nên ngoài những đòi hỏi về tính tiện dụng, còn có yếu tố rất cao về thẩm mỹ, tính độc đáo trong kiểu dáng và mang tính chất thưởng thức văn hoá nghệ thuật của tầng lớp thượng lưu và trung lưu, hay đối tượng có thu nhập cao, am hiểu về nghệ thuật. Đó cũng chính là lý do mà Công ty cần thường xuyên thay đổi, đa dạng hóa, làm phong phú mẫu mã, kiểu dáng các sản phẩm phù hợp với thị hiếu khách hàng nhất là khách hàng nước ngoài. Hiện nay, công tác tìm kiếm mẫu hàng của Công ty phụ thuộc chủ yếu vào bộ phận thiết kế sản phẩm, việc thuê chuyên gia bên ngoài còn chưa được sử dụng do có những hạn chế về chi phí và trách nhiệm. Để thực hiện đa dạng hoá sản phẩm Công ty có một số biện pháp sau: Sử dụng chuyên gia thiết kế sản phẩm dựa trên kết quả nghiên cứu thị hiếu của người tiêu dùng được bộ phận nghiên cứu thị trường kết luận, tư vấn cho phân xưởng sản xuất về kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng, tạo ra các sản phẩm mới lạ, độc đáo, thu hút sự chú ý của khách hàng. Ví dụ như sản phẩm gốm sứ bên cạnh hoa văn về phong cảnh Việt Nam còn có thể có những biểu tượng của các nền văn hoá khác nhau của chính nước nhập khẩu. Đối với các thị trường truyền thống vẫn duy trì các sản phẩm truyền thống, có kết hợp giới thiệu các sản phẩm mới để thăm dò thị trường, cần chú ý đến màu sắc, hoạ tiết cho phù hợp hơn. Khi xuất khẩu sang thị trường nào thì cần thiết phải phù hợp với nghệ thuật và nền văn hoá của họ. Ví dụ như văn hoá phương Tây thích các sản phẩm có màu sắc tự nhiên, không dùng men bóng, văn hoá phương Đông thì văn hoa phải cầu kỳ nước men phải thật bóng bẩy. Có thể thuê chuyên gia trong thời gian tới, tiền thiết kế sẽ tính vào tiền bán sản phẩm theo tỷ lệ phần trăm. Như vậy, Công ty sẽ không phải chịu rủi ro nếu sản phẩm không tiêu thụ được. Nhà thiết kế bên ngoài có thể chuyên sâu hơn do nắm bắt được nhu cầu của khách hàng, Công ty cũng sẽ được lợi khi sản phẩm xuất khẩu và tiêu thụ được. Công ty nên tổ chức các cuộc thi thiết kế sản phẩm để tìm ra những người thợ tài ba. Đồng thời, cũng tham gia các cuộc thi thiết kế để khẳng định uy tín của mình trên thương trường. Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm Nâng cao chất lượng sản phẩm muốn nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm thì một trong những yếu tố quan trọng là nâng cao chất lượng hàng hoá. Đây là yếu tố quan trọng quyết định thành công trong công tác xuất khẩu. Đặc biệt là đối với những thị trường khó tính như Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản. Mặt hàng thủ công mỹ nghệ được làm chủ yếu bằng lao động thủ công là chính, không trải qua quy trình công nghệ máy móc hiện đại nên chất lượng sản phẩm khó đồng đều, lại dễ hư hỏng khi thời tiết xấu. Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bạch Đằng vừa là nhà sản xuất lại vừa đóng vai trò tiêu thụ nên phải kiêm nhiệm rất nhiều công việc, phải móc xích và chắp nối với thị trường nước ngoài đồng thời cung cấp kịp thời cho phân xưởng sản xuất thị hiếu của khách hàng, về yêu cầu sản phẩm và chất lượng sản phẩm. Những biện pháp mà Công ty thực hiện là : Nghiên cứu thị trường trong nước, kịp thời nắm bắt những thông tin về nguồn nguyên liệu, về nguồn hàng từ những nguồn thông tin đáng tin cậy. Nâng cao hơn nữa chất lượng của công tác kiểm định chất lượng sản phẩm, cũng như uy tín về chất lượng sản phẩm, thương hiệu của Công ty trên thị trường trong và ngoài nước, Tích cực tìm kiếm nhiều cơ sở chế biến nguyên liệu để cung cấp cho Công ty, tạo ra những sản phẩm với chất lượng tốt, phù hợp với mức cầu trên thị trường. Thường xuyên có những đợt kiểm tra tình hình tại phân xưởng sản xuất để giám sát chất lượng hàng hoá ngay từ khâu sản xuất. Khi hàng được làm xong, cần kiểm tra độ bền, độ bóng, độ dẻo của các sản phẩm bằng các phương pháp khoa học, tuyệt đối không để hàng lỗi, hàng kém chất lượng sót lại trong lô hàng xuất khẩu. Để giải quyết, ngoài việc phải tìm hiểu nguồn hàng sản xuất với chất lượng tốt, bản thân Công ty cũng phải đổi mới trang thiết bị bảo quản, mở rộng quy mô sản xuất theo chiều rộng cũng như chiều sâu, tạo ra những điều kiện bảo quản hàng hoá tốt trong những điều kiện thời tiết khác nhau. Những biện pháp này đòi hỏi Công ty phải tìm hiểu kỹ hơn các nguồn cung ứng và tham khảo thêm nhiều kinh nghiệm của các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước. Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm qua giá Cạnh tranh về giá là một trong những hình thức cạnh tranh gay gắt và được nhiều doanh nghiệp áp dụng bởi giá cả là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định mua hàng của doanh nghiệp, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người mua. Khi giá của hàng hoá thay đổi thì cầu cũng thay đổi theo. Để định giá sản phẩm doanh nghiệp phải căn cứ vào độ co dãn của cầu theo giá, tâm lý của khách hàng, chính sách giá cả, chính sách sản phẩm của đối thủ cạnh tranh,…nhưng giá chỉ là một công cụ cạnh tranh lôi kéo sự quan tâm của khách hàng, nó cũng tuỳ thuộc vào sự nhạy cảm về giá của khách hàng. Công ty có thể áp dụng cách định giá theo mức chênh lệch hiện hành, lấy giá của đối thủ cạnh tranh làm cơ sở, giá bán sản phẩm của Công ty có thể cao hơn, thấp hơn hoặc ngang bằng với giá của đối thủ cạnh tranh, áp dụng chiến lược giá cả nào, chiến lược "hớt váng sữa" hay chiến lược phân biệt giá thị trường ngách phụ thuộc vào từng giai đoạn trong chu kỳ sống sản phẩm và phụ thuộc vào từng đoạn thị trường. Đối với đoạn thị trường nhạy cảm về giá, Công ty áp dụng chiến lược giá thấp, để có thể cạnh tranh với đối thủ nhưng vẫn phải đảm bảo có sự chênh lệch dương giữa giá thành sản xuất với giá bán sản phẩm. Chiến lược giá cả có tính chất quyết định đến khả năng thành công của Công ty trong cạnh tranh, cần lưu ý khi thực hiện từng chiến lược giá một, nếu sử dụng giá thấp hơn đối thủ có thể làm cho khách hàng có phản ứng nghi ngờ về chất lượng sản phẩm. Vì vậy, lựa chọn chiến lược giá cả nào phải được phân tích và nếu cần thiết phải có sự thử nghiệm trên thực tế, tránh rủi ro trong kinh doanh. 1.2. Xây dựng chiến lược thị trường xuất khẩu Việc xây dựng chiến lược thị trường dựa trên cơ sở sự phân tích kỹ lưỡng những thông tin thu thập được từ việc phân tích và dự báo thị trường, đánh giá thực trạng và triển vọng của Công ty trên các thị trường hiện tại cũng như thị trường tiềm năng cho hoạt động xuất khẩu. Công ty cần xác định rõ thị trường trọng điểm, thị trường tiềm năng trong tương lai và những thị trường nào đang suy thoái để có biện pháp chấn chỉnh, có những chính sách, chiến lược mở rộng thị trường, tạo thị trường đầu ra cho xuất khẩu. Thâm nhập vào một thị trường để tồn tại đã khó, duy trì và phát triển lại càng khó hơn. Vì vậy, tạo lập chiến lược thị trường là một nội dung không thể thiếu trong công tác đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Cần dựa trên những cơ sở sau để xây dựng chiến lược thị trường - Đánh giá nhu cầu, dung lượng tiêu thụ của mỗi thị trường - Xác định kênh phân phối và cách thức thâm nhập trên từng thị trường - Nghiên cứu điểm mạnh, điểm yếu của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường - Nghiên cứu thị hiếu tiêu dùng Trong quá trình thực hiện chiến lược, Công ty phải theo dõi sát sao, luôn đánh giá kết quả thu được, đồng thời xem xét sự biến động của thị trường để có những biện pháp điều chỉnh chiến lược, thực hiện kế hoạch một cách linh hoạt đạt hiệu quả kinh doanh cao. Chiến lược thị trường phải phù hợp với chukỳ sống của sản phẩm, mỗi sản phẩm có chu kỳ sống cụ thể trên thị trường. Tương ứng với mỗi giai đoạn cụ thể của chu kỳ sống cần có những giải pháp chiến lược khác nhau nhằm đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển cũng như chiến thắng trong cạnh tranh. Giai đoạn thâm nhập thị trường là giai đoạn sản phẩm mới đưa vào thử nghiệm ở một thị trường mới, số lượng khách hàng ít nên doanh thu thường ít. Trong giai đoạn này, Công ty cần đẩy mạnh hoạt động marketing, quảng cáo sản phẩm, đưa sản phẩm của Công ty gần hơn với người tiêu dùng Giai đoạn thị trường tăng trưởng, cầu về sản phẩm tăng nhanh, thực hiện chiến lược đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm, nâng cao chất lượng hàng hoá, hình thức, mẫu mã, bao gói. Ngoài những thị trường truyền thống, Công ty cần thăm dò và khai thác thêm thị trường tiềm năng, đối với từng thị trường chúng ta phải có chính sách phù hợp. Ví dụ đối với thị trường truyền thống, là bạn hàng quen thuộc của ta, Công ty cần duy trì tốt mối quan hệ lâu dài, giữ uy tín, thực hiện đúng hợp đồng và tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng mua được hàng với chất lượng và giá cả tốt nhất. Đối với thị trường mới, phải đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng cáo, tham gia nhiều Hội trợ, triển lãm, mở cửa hàng bán thử, thành lập nhiều Showroom để giới thiệu sản phẩm. Đối với thị trường xuất khẩu mà ta đã để mất thị phần, tìm cách khôi phục lại bằng nhiều biện pháp linh hoạt vì đây là những thị trường đã từng là bạn hàng quen thuộc của ta, quay trở lại chúng ta sẽ có những lợi thế hơn trong khâu tiếp thị sản phẩm. 1.3. Về nguồn cung cấp nguyên liệu Trước kia, khi công ty còn là xởng sản xuất quy mô nhỏ, với thị trờng tiêu thụ chủ yếu từ trong nước, sản phẩm còn chưa phong phú về mẫu mã, và chủng loại thì nguyên liệu chủ yếu cho các sản phẩm của công ty là thạch cao và đất sét. đến nay thì nguyên liệu của công ty rất phong phú về chủng loại và chất liệu, từ bột đá thiên nhiên đến nguyên liệu bằng thạch cao, nhựa tổng hợp, polyme...càng ngày công ty càng sáng tạo và tìm kiếm ra nhiều nguồn nguyên liệu thay thế và bổ sung khác, làm phong phú hơn nữa nguồn nguyên liệu có sẵn và giảm chi phí nguyên nhiên liệu, tiết kiệm chi phí, giảm giá thành. Trong thời gian tới, Công ty có kế hoạch đa dạng hoá các nguồn nguyên liệu, sản phẩm làm ra không phải chỉ có chất liệu tự nhiên mà còn bằng chất liệu tổng hợp như polyme. Công ty có kế hoạch xây dựng thêm nhiều cơ sở sản xuất chế biến nguyên liệu cho mình, nguồn này sẽ là nguồn cung cấp nguyên liệu chính cho phân xưởng sản xuất, tránh sự phụ thuộc vào nhà cung cấp nguyên liệu. Các cơ sở này có thu mua nguyên liệu từ các làng nghề truyền thống như Bát Tràng, để Công ty không phải phụ thuộc vào nhà cung ứng, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh. 1.4.Chính sách Marketing Quan điểm về Marketing chiến lược hiện đại cho rằng “ Chìa khoá để đạt tới sự thành công của công ty là xác định rõ nhu cầu và mong muốn của thị trường trọng điểm và phân phối sự thoả mãn được mong đợi một cách có chất lượng và hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh”. Nên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay thì chiến lược Marketing là rất quan trọng và có ý nghĩa chiến lược đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, Công ty Thương Mại-Xây Dựng Bặch Đằng cũng nằm trong số đó. Về quảng cáo : Tích cực quảng cáo sản phẩm thủ công mỹ nghệ dưới mọi hình thức như : tham gia hội trợ, triển lãm, quảng cáo qua đài, báo, các phương tiện truyền hình, internet,…Hiện nay, Công ty đã có phòng trưng bày ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh nhưng cũng cần phải cải thiện thêm các hệ thống này bằng cách mở thêm các cửa hàng giới thiệu sản phẩm tại các thành phố, khu du lịch, siêu thị,… Thực hiện đăng ký thương hiệu trên từng thị trường Hoàn thiện trang Web giới thiệu về sản phẩm của Công ty, thực hiện các thao tác chào bán sản phẩm bằng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, lấy đó là một địa chỉ tin cậy, thông tin trung thực, cập nhật, có sức lôi cuốn, hấp dẫn khách hàng. Nghiên cứu động cơ tiêu dùng và nội dung quảng cáo, sử dụng phương tiện quảng cáo thích hợp đối với từng thị trường. Đánh giá hiệu quả quảng cáo qua việc điều tra thăm dò phản ứng của người tiêu dùng đối với mỗi chiến lược quảng cáo cụ thể. Về xúc tiến bán hàng : Xúc tiến bán hàng là biện pháp kích thích để thúc đẩy bán hàng, tăng cầu về sản phẩm. Trong thời gian tới, Công ty cần chủ động quan tâm hơn trong các hoạt động xúc tiến bán hàng. Một là, duy trì và phát huy tác dụng của hoạt động xúc tiến bán hàng thông qua việc đưa hàng hoá mang nhãn hiệu Công ty tới các Hội trợ quốc tế bằng những mẫu mã mới luôn thay đổi, phong phú và phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Hai là, từng bước phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến thương mại, tích cực tham gia hội chợ thương mại, triển lãm, bán hàng trực tiếp thông qua Internet, qua điện thoại, qua thư trực tiếp, khai thác triệt để các nguồn truyền tin khác nhau như từ công chúng, từ những người nổi tiếng… Ba là, mở các buổi hội thảo, các cuộc thi hiểu biết về sản phẩm, các chương trình khuyến mại đặc biệt hoặc tỷ lệ chiết khấu đối với khách hàng quen thuộc của Công ty. Tăng cường hoạt động sản xuất, chú trọng hoạt động liên doanh liên kết với các đối tác trong và ngoài nước + Khuyến khích các nhân viên tăng cường học hỏi để nâng cao kiến thức đồng thời công ty cũng nên tăng cường tổ chức các hội thảo hội nghị bán hàng thông qua đó để nhân viên của công ty có điều kiện học hỏi kinh nghiệm. + Xây dựng mối quan hệ tốt với khách hàng và với các bạn hàng trong kinh doanh để tăng cường hiệu quả xúc tiến thương mại. + Xây dựng các mối quan hệ với chính phủ Việt Nam và các Bộ như Bộ Thương Mại, Bộ Tài chính, Bộ ngoại giao và đại sứ quán Việt Nam tại các nước. + Chính sách phân phối có vai trò quan trọng trong hoạt động marketing, làm cho quá trình kinh doanh lưu thông nhanh chóng và hiệu quả, tăng uy tín của Công ty trên thị trường. Thực hiện tiếp cận gần hơn với khách hàng nước ngoài nên hình thức phân phối theo chiều dọc sẽ được Công ty lựa chọn tức là đưa hàng trực tiếp đến từng thị trường không qua trung gian nào, hình thức này khiến cho Công ty có thể kiểm soát được các kênh phân phối, các đại lý phân phối chính thức của Công ty. + Nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên Do nhân tố con người đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, nên nhân tố con người luôn được quan tâm đặc biệt. Nguồn nhân lực của Công ty được phân ra thành hai mảng là mảng lao động trực tiếp tại phân xưởng và nhân viên văn phòng. Nhân viên văn phòng không trực tiếp tạo ra sản phẩm nhưng lại là bộ phận đóng vai trò quan trọng quyết định thành công trong quá trình thực hiện hợp đồng, tổ chức tốt công tác tiêu thụ, thực hiện chào hàng, tiếp thị, định giá sản phẩm cho xuất khẩu. Đội ngũ nhân viên làm việc tại văn phòng của Công ty chủ yếu là cán bộ trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh nhưng họ có sức khoẻ, có lòng nhiệt tình và có năng lực công tác tốt. Vì vậy, Công ty cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ trẻ. Tổ chức tốt công tác nghiên cứu, học tập cho nhân viên của Công ty tại các lơp nghiệp vụ ngắn và dài hạn trong và ngoài nước. Tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên tham gia các buổi hội thảo, các khoá huấn luyện ngắn ngày, các buổi nói chuyện với các chuyên gia, những người có kinh nghiệm. Phối hợp với các trường Đại học tổ chức các buổi học ngắn hạn cho cán bộ công nhân viên học các khoá học về ngoại thương, marketing, quản trị kinh doanh xuất nhập khẩu. Đối với lao động sản xuất trực tiếp tại phân xưởng, Công ty tổ chức trường Đào tạo dạy nghề trực tiếp tại phân xưởng, tạo điều kiện cho lao động mới vào nghề vừa học vừa làm trong các tháng thử việc. Ngoài ra, Công ty có mở các lớp đào tạo chuyên sâu cho công nhân có trình độ lành nghề, có tay nghề cao để nâng cao hơn nữa trình độ tay nghề của công nhân. Kiến nghị đối với Nhà nước: 2.1. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Phát triển các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ là một trong những biện pháp giải quyết tình trạng dư thừa nguồn lao động phổ thông, tạo việc làm cho nhiều nhân lực chưa được đào tạo qua Cao đẳng hay Đại học, là một trong những chính sách có tính chất xã hội của Nhà nước ta. Nguồn lao động thủ công này chủ yếu từ nông thôn, nên thúc đẩy và phát triển sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ mang lại những lợi ích kinh tế thiết thực, còn có ý nghĩa lớn về mặt xã hội. Muốn đẩy nhanh hơn nữa tốc độ xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thì Nhà nước phải thực hiện những chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp tham gia xuất khẩu như: Nên có chính sách ưu đãi về thuế Giá trị gia tăng, có ưu đãi đối với một số chủng loại hàng hoá nhất định như hàng gốm sứ, hàng mây tre. Nên bổ sung, sửa đổi các nghị định cho vay vốn, chú trọng việc cung ứng nguồn nguyên liệu cho sản xuất nhất là nguồn nguyên liệu từ thiên nhiên như hàng mây tre, hàng gỗ mỹ nghệ, để các doanh nghiệp trong nước không phải nhập khẩu nguồn nguyên liệu để sản xuất. Tạo điều kiện tốt về thủ tục hải quan, giảm bớt các thủ tục hải quan rườm rà, làm thông thoáng hơn nữa thủ tục xuất khẩu. Nên sửa đổi tiêu chuẩn thưởng đối với hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Hiện nay để được thưởng xuất khẩu thì kim ngạch xuất khẩu phải đạt từ 5 triệu USD/ năm là một tiêu chuẩn quá cao đối với một doanh nghiệp có quy mô xuất khẩu vừa và nhỏ. Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc phát triển mẫu mã sản phẩm, nên thành lập các hiệp hội phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ, tổ chức thêm nhiều cuộc triển lãm có sự tham gia của các chuyên gia thiết kế của nước ngoài để các doanh nghiệp có thể học hỏi, mở rộng tầm nhìn, từ đó làm tốt hơn công tác thiết kế của mình. Đưa công tác đào tạo đội ngũ thiết kế vào các trung tâm dạy nghề, trường học nghề, thậm chí cả trường Đại học, tạo nguồn nhân lực dồi dào cho khâu thiết kế. Tổ chức nhiều cuộc thi sáng tạo về mẫu mã sản phẩm để có thể tạo ra nhiều hơn nữa các sản phẩm có mẫu mã đẹp, tăng sức cạnh tranh của hàng Việt Nam. 2.2.Thực hiện chính sách hỗ trợ công tác thị trường và xúc tiến thương mại Mở rộng quan hệ ngoại thương trên cơ sở hợp tác và bình đẳng, tăng cường xúc tiến thương mại, tổ chức các phái đoàn đi thăm và quan hệ với các nước là bạn hàng xuất khẩu của ta. Có liên kết về kinh tế- thương mại với quy mô lớn, lâu dài trên thị trường đó. Tăng cường cung cấp thông tin chính xác về thị trường nhập khẩu, các kênh phân phối trên thị trường cho các doanh nghiệp như: - In ấn các ấn phẩm, đĩa CD room, đưa lên Internet - Giúp các doanh nghiệp nhận dạng được hàng rào kinh tế, kỹ thuật trên thị trường, để có giải pháp đối phó với các rào cản phi thuế quan từ phía thị trường. Nên thành lập các trung tâm xúc tiến và phát triển thương mại, với chức năng tổ chức xúc tiến các hợp đồng thương mại, nghiên cứu thị trường xuất khẩu và tổ chức đưa hàng hoá của Việt Nam ra thị trường thế giới tham gia vào hệ thống phân phối hàng hoá các nước. Nghiên cứu thành lập bộ phận chuyên trách phát triển đăng ký và bảo vệ thương hiệu hàng hoá Viẹt Nam trên thị trường thế giới Đánh giá hoạt động mở rộng thị trường và xem lại định hướng chiến lược sản xuất hướng ra xuất khẩu, mở rộng vùng nguyên liệu sản xuất. Nhà nước cần có một chiến lược tổng thể để thực hiện đồng bộ về nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành hàng hoá để tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới: khuyến khích đầu tư xuất khẩu, bảo hộ hàng hoá bằng chính sách, coi thị trường trong nước là hậu thuẫn để thâm nhập thị trường quốc tế. Chỉ đạo công tác xuất khẩu tập trung theo đúng với kế hoạch của Nhà nước, đồng thời tăng cường hoạt động của các đại diện thương mại, các thương vụ đặt ở các nước, nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ nhằm tăng cường hiệu quả làm việc của thương vụ. 2.3. Xây dựng quy hoạch phát triển các doanh nghiệp, các làng nghề truyền thống, các vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất. Tăng cường hợp tác, liên doanh, liên kết giữa các vùng kinh tế để trao đổi về sản phẩm, công nghệ, kỹ thuật sản xuất. Xây dựng và phát triển thêm các làng nghề truyền thống. Trên cơ sở đó hình thành và phát triển công nghiệp hoá nông thôn, cân đối vùng kinh tế, phát triển các vùng nguyên liệu đảm bảo vấn đề môi trường, hạn chế tình trạng khai thác gỗ tràn lan, khai thác nguyên liệu bừa bãi. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc23196.doc
Tài liệu liên quan