Thực trạng kinh doanh hàng nhập khẩu của Công ty Tranimexco - Hà Nội

Chương I: Lý luận về kinh doanh hàng nhập khẩu ở doanh nghiệp 1.1. Hoạt động nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường nước ta Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế bao gồm một hệ thống các quan hệ kinh tế . khi các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể đều biểu hiển qua mua bán hàng hoá , dịch vụ trên thi trường . Nền kinh tế thị trường mang lại một khối lượng hàng hoá dịch vụ dồi dào phong phú mà nền kinh tế chỉ huy chưa bao giờ đạt được ; mọi hoạt động mua bán đều theo giá cả thị trường

doc48 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1237 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng kinh doanh hàng nhập khẩu của Công ty Tranimexco - Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
; tiền tệ hoá các mối quan hệ kinh tế ; sản xuất và hàng hoá các mối quan hệ kinh tế ; sản xuất và bán hàng hoá theo nhu cầu thị trường , kinh tế thi trường là nền kinh tế mở ;cạnh tranh là môi trường kinh tế thị trường quyền tự chủ , tự do của doanh nghiệp cao. 1.1.1. Vai trò và bản chất cuă nhập khẩu hàng hoá Trước đây nền kinh tế Việt Nam la một nền kinh tế mang nặng tính tự cung tự cấp,sản xuất thay thế nhập khẩu. Ngay nay, trong điều kiện của thế giới hiện đại , đời sống kinh tế ngày càng cao , sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc thì không một quốc gia nào có thể phát triển có hiệu quả kinh tế trong nước với chính sách đóng cửa của mình. Cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của sản xuất .Trong khi đó chính sách đóng cửa đã hạn chế khả năng tiếp thu kỹ thuật mới , làm cho nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sản xuất nhỏ là phổ biến không có nguồn bổ sung kỹ thuật tiên tiến. Kết quả tất yếu là năng suất lao động thấp, hiệu quả kém, khả năng cạnh tranh yếu, tốc độ tăng trưởng chậm. Do đó đối với nứơc ta là một nước đang phát triển còn nghèo nàn lạc hậu thì nhập khẩu là vấn đề không thể thiếu, nó có vai trò vô cùng quan trọng được thể hiện ở các khía cạnh sau : _ Thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước _ Bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế đảm bảo một sự phát triển cân đối và ổn định , khai thác đến mức tối đa tiềm năng và khả năng của nền kinh tế vào vòng quay kinh tế . _ Nhập khẩu đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động ,góp phần cải thiện và năng cao mức sống cuả nhân dân. _ Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy xuất khẩu góp phần nâng cao chất lượng sản xuất hàng nhập khẩu, tạo môi ttrường thuận lợi cho xuất khẩu hàng Việt Nam ra nước ngoài, đặc biệt là nước nhập khẩu. 1.1.2. Các loại hình nhập khẩu hàng hoá ở nước ta hiện nay. Để phù hợp với tính đa dạng của các doanh nghiệp kinh doanh hàng nhập khẩu, tính chất của đối tượng trong buôn bán quốc tế, quy định của chính phủ trong lĩnh vực này đã hình thành trong thực tế nhiều hình thức nhập khẩu khác nhau: _ Nhập khẩu tự doanh là hình thức nhập khẩu trong đó bên nhập khẩu trực tiếp nhân danh mình nhận hàng và giao tiền cho bên xuất khẩu không phải thông qua trung gian. Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp sẽ tự nhập khẩu một cách độc lập, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình. _ Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động kinh doanh hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn đầu ngoại tệ riêng, có nhu cầu nhập khẩu hàng hoá hoặc dịch vụ nhưng lại không có quyền tham gia vào các quan hệ nhập khẩu trực tiếp hay xét thấy nhập khẩu trực tiếp không có lợi ( do quan hệ bạn hàng và ngành hàng... ) nên đã uỷ thác cho doang nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu hàng hoá hay dịch vụ theo yêu cầu đặt ra. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán ký kết hợp đồng với nước ngoài làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác và nhận được một khoản phí gọi là phí uỷ thác. _ Nhập khẩu theo hình thức tạm nhập tái xuất là hình thức nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài vào trong nước nhưng không nhằm mục đích tiêu thụ trong nước mà để xuất khẩu sang nước thứ 3 nhằm mục đích thu về một số ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu. Hoạt động này luôn thu hút 3 nước: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, nước tái xuất. _ Nhập khẩu dưới hình thức liên doanh liên kết là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp ( trong dó ít nhất một doanh nghiệp được quyền xuất nhập khẩu trực tiếp ) nhằm phối hợp thế mạnh để cùng tiến hành giao dịch nhập khẩu đề ra chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này theo hướng có lợi cho cả hai bên, cùng chia lãi và cùng chịu lỗ. Nhập khẩu thông qua đấu thầu quốc tế là phương thức giao dịch đặc biệt , trong đó người mua ( người gọi thầu ) công bố trước các điều kiện mua hàng để người bán ( người dự thầu ) báo giá cả và các điều kiện khác . Sau đó người mua sẽ lựa chọn mua hàng của người nào báo giá và các điều kiện khác phù hợp với yêu cầu của người mua dặt ra . Đấu thầu là hình thức được các nhà nhập khẩu sử dụng phổ biến, đặc biệt la ở những nước đang phát triển . Nó có ơu điểm chỉ có một người mua và có nhiều người bán nên thông qua đấu thầu sẽ phát huy được tính cạnh tranh giữa các nhà cung cấp , nhờ đó người mua sẽ có khả năng lựa chọn được người dự thầu thoả mãn nhu caauf cao nhất. Nhập khẩu thông qua hình thức đối lưu bao gồm các hình thức hàng đổi hàng ( Barter ), chuyển giao công nghệ – mua sản phẩm hay buôn bán bù trừ . Đây là một hình thức phổ biến ở các nước đang phát triển vì nó giúp cho các nước này tránh được những khó khăn do không có khả năng thanh toán nhập khẩu , đồng thời nhập khảu thông qua mậu dichj đối lưu còn tạo ra thị trường cho việc nhập khẩu các sản phẩm được sản xuất ra trong nước . Tuy nhiên , người nhập khẩu cũng có thể sẽ phải trả giá cao hơn cho hàng nhập khẩu và sẽ mất nhiều thời gian hơn . 1.1.3. Những chính sách của nhà nước đối với nhập khảu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường ở nước ta . 1.1.3.1. Chính sách mặt hàng nhập khâủ Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường việc kinh doanh mua bán giữa các nước đều tính theo thời giá quốc tế và thanh toán với nhau bằng ngoại tệ tự do .Vì vậy tất cả các hợp đồng nhập khẩu phải dựa trên lợi ích và hiệu quả . Nhập khẩu vừa đảm baỏ phù hợp với lợi ích của xã hội , vừa tạo ra lợi nhuận các doanh nghiệp chung và riêng phải hài hoà với nhau . Do đó đòi hỏi các cơ quan quản lí cũng như mỗi doanh nghiệp cần phải : Xác định mặt hàng nhập khẩu phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội , khoa học kỹ thuạt của đất nước và nhu càu tiêu dùng cua nhân dân . Trước hết phải ưu tiên nhập khẩu kỹ thuật công nghệ tiên tiến và hiện đại phù hựp vứi điều kiện nước ta . Giành ngoại tệ cho nhập khẩu đầu tư để phục vụ sản xuất , hàng tiêu dùng thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được , sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu hay sản xuất trong nước hay sản xuất trong nước không có lợi bằng nhập khẩu . Nghiên cứu thị trường để nhập khẩu được hàng hoá thích hợp với giá cả có lợi phục vụ cho nhu cầu sản xuất , nâng cao đời sống nhân dân . Nhập khẩu những vật tư thiết bị chủ yếu có tátc động tích cực đến sản xuất kinh doanh . Ưu tiên nhập khẩu kỹ thuật công nghệ để sản xuất và chế biến hàng hoá xuất khẩu . 1.1.3.2. Chính sách thương nhân trong nhập khẩu . Thương nhân là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo quy định của pháp luật được nhập khẩu hàng hoá theo nghành nghề đã ghi trong giấy chứng nhân dăng kí kinh doanh sau khi đă đăng ký mã số tại cục hải quan tỉnh ( Thành phố ) tại khoản 3điều 8 , nghị định 57/1998/NĐ- CP , ngày 31/07 /1998 qui định chi tiết thi hành luật thương mại về hoạt động nhập khẩu . Nhằm hạn chế hưn nữa sự can thiệp của nhà nước và hoat động kinh doanh, tạo hành lang pháp lý thông thoáng , bình đẳng cho hoatj động nhập khẩu của các doanh nghiệp .Nghị định 57 CP đă xoá bỏ hoàn toàn chế độ giấy phép kinh doanh xuát nhập khẩu , đem lại sự chuyển biến cơ bản cho cơ chế quản lý xuât nhập khẩu . Quyền kinh doanh và quyền tự chủ của doanh nghiệp được tôn trọng . Các hàng hoá hầu hêt được làm thủ tục nhập khẩu trực tiếp tại hải quan và chụi sự điều tiết của chính sách thuế 1.2. Nội dung của hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu của các doanh nghiệp 1.2.1. Khái niệm kinh doanh hàng nhập khẩu . Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của thương mại quốc tế . Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống . Nhập khẩu là để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật , công nghệ tiên tiến , hiện đại cho sản xuất và các hàng hoá cho tiêu dùng mà trong nước không sản xuất được , hoăc sản xuất không đáp ứng nhu cầu . Nhập khẩu còn để thay thế , tức là nhập khẩu những thứ mà sản xuất trong nước không có lợi bằng nhập khẩu . Hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu là một hoat động mà viêc mua bán được thực hiện giữa các quốc gia với nhau , do đó nó rất phức tạp , mua bán qua trung gian chiếm tỉ trọng lớn , đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh , hàng hoá vận chuyển qua biên giới , cửa khẩu của các quốc gia khác , hoạt động mua bán phải tuân theo những tập quán , những thông lệ quốc tế cũng như địa phương . Hoạt động kinh doanh hàng nhập khảu có liên quan trực tiếp đến các mối quan hệ chính trị và kinh tế giữa nước nhập khẩu và xuất khẩu . Nhập khẩu là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài tiếp xúc, , giao dịch , học hỏi được nhiều kinh nghiệm và qua đó củng cố thêm các mối quan hệ giữa các nước có liên quan . Đối tượng của hoạt động kinh doanh nhập khẩu rất phong phú và đa dạng , thường xuyên chịu sự chi phối của chính sách , luật pháp của mỗi quốc gia . 1.2.2. Điều tra nghiên cứu thị trường và mở rộng thị trường . 1.2.2.1. Nghiên cứu nhu cầu trong nước về nhập khẩu . Nghiên cứu nhu cầu trong nước về nhập khẩu hàng hoá là một khâu không thể thiếu được trong quá trình kinh doanh thương mại nói chung và kinh doanh hàng nhập khẩu nói riêng . Cầu về hàng hoá là nhu cầu về hàng hoá đó . Do đó mà khi nghiên cứu nhu cầu thị trường về một loại hàng hoá nào đó cần phải trả lời các câu hỏi sau : Thị trường trong nước dang cần những sản phẩm gì ? Tình hình cung cấp và tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào ? Tỉ suất ngoại tệ mặt hàng đó là bao nhiêu ? , Tỉ suất ngoại tệ với mặt hàng nhập khẩu là số lượng tiền bản tệ có thể thu về khi chi ra một đơn vị ngoại tệ . 1.2.2.2. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu để lựa chon nhà cung cấp . Việc lụa chon nhà cung cấp để phgù hợp với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và phù hợp với nhu cấu thị trường là một khâu rất quan trọng , nó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp . Lựa chọn nhà cung cấp ảnh hưởng đến hoạt đọng kinh doanh hàng nhập khẩu của doanh nghiệp : Nếu doanh nghiệp lựa chọn được nhà cung cấp đáng tin cậy , thực hiện đúng hợp đồng về tên hàng , phẩm chất , số lương, bao bì , cơ sở giao hàng , giá cả , thời gian giao hàng thì sẽ giúp cho doanh nghiệp đáp ứng được đúng , kịp thời về nhu cầu của thị trường . Khi đó doanh nghiệp sẽ đạt hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh của mình . Nghiên cứu thị trường nhập khẩu để lựa chọn nhà cung cấp cần phải quan tâm đến những vấn đề sau : Giá bán mặt hàng đó trên thi trường và giá cả mà nhà cung cấp bán cho doanh nghiệp . Khả năng cung ứng hàng hoá của nhà cung cấp . Uy tín của nhà cung cấp Thương hiệu của nhà cung cấp về mặt hàng đó : Nghiên cứu về phản ứng của người tiêu dùng đối với nhãn hiệu hàng hoá . Nói tóm lại , việc điều tra nghiên cớu và mở rộng thị trường là rất cần thiết . 1.2.3. Lập phương án kinh doanh hàng nhập khẩu . Các bước trong việc lập phương án kinh doanh hàng nhập khẩu : Lựa chọn mặt hàng nhập khẩu : Các doanh nghiệp chuyên kinh doanh hàng nhập khảu thì những mặt hàng được lựa chon phải thuộc phạm vi được xác định trong giấy phép kinh doanh , còn với các tổ chưc mua sắm hàng nhập khẩu thì các mặt hàng này được cân nhắc trên cơ sở nhu cầu mua sắm hàng hoá của mình . Lựa chon mặt hàng : Trong giao dịch và đàm phán kinh doanh phải tuân theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi . Thường thì các doanh nghiệp nên lựa chọn những bạn hàng quen thuộc để hạn chế những rủi ro , cũng có thể lại có những chính sách ưu tiên đặc biệt mà bạn hàng giành cho . Ngoài ra , cũng có thể lựa chon bạn hàng theo các tổ chức như : ASEAN , WTO ,... để có những chính sách ưu đãi . Lựa chon các phương thức giao dịch . Có rất nhiều các phương thức giao dịch khác nhau như : Giao dich thông thường , giao dịch qua trung gian , buôn bán đối lưu , đấu giá quốc tế , đấu thấu quốc tế . Lựa chọn điều kiện cơ sở giao dịch: Trong từng trường hợp giao dịch cụ thể, từng mặt hàng cụ thể mà các bên lựa chọn cơ sở giao dịch cho phù hợp. Thực tế các doanh nghiệp còn phải dựa trên các phương thức vận tải trong và ngoài nước để chọn điều kiện giao dịch cho phù hợp. Lựa chọn phương thức thanh toán: có rất nhiều phương thức thanh toán mà các bên có thể lựa chọn. Tuy nhiên trên thực tế phương thức thanh toán bằng L/C được sử dụng phổ biến nhất. 1.2.4. Quản lý và đánh giá hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu. Về quản lý hoạt động nhập khẩu: Điều 16 luật thương mại đã khẳng định chính sách quản lýthương mại quốc tế ở nước ta là:” Nhà nước thống nhất quản lý ngoại thưong, có chính sách mở rộng giao lưu hàng hoá với nước ngoài trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng cùng có lợi theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá; khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất hàng xuất khẩu và tham gia xuât khẩu theo quy định của pháp luật có chính sách ưu đãi để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo các mặt hàng xuất khẩu có sức cạnh tranh cao, tăng xuất khẩu dịch vụ thương mại, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được và có khả năng đáp ứng nhu cầu, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, ưu tiên nhập khẩu vật tư thiết bị, công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại để phát triển sản xuất”.Đó là chính sách quản lý hoạt động xuất nhập khẩu nói chung, còn xét riêng đối với lĩnh vực quản lý hoạt động nhập khẩu thì nhà nước ta áp dụng bằng các biện pháp khác nhau như: thuế nhập khẩu, quản lý ngoại tệ, hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu, ngoài ra còn có thể dùng biẹn pháp phi thuế quan. Đánh giá hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu. Để đánh giá hiệu quả kinh doanh hàng nhập khẩu ta sử dụng các chỉ tiêu so sánh như sau: -Số lượng thực hiện nhập khẩu so với đơn hàng. -Chủng loại mặt hàng thực hiện so với kế hoạch. -Tiến độ nhập khẩu hàng so với hợp đồng đã ký. Doanh số mua và bán hàng hoá. Chi phí kinh doanh. Lợi nhuận đạt được so với cùng kỳ năm trứơc. 1.3. Đặc điểm và những yếu tố tác động đến hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu ở các doanh nghiệp. 1.3.1. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu ở các doanh nghiệp Hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu la hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế, nó không là hành vi mua bán riêng lẻ mà nó bao gồm nhiều quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế nên nó có những nét riêng phức tạp hơn trong nước như: giao dịch với người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán bằng ngoại tệ mạnh, hàng hoá vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác nhau phải tuân theo các tập quán quốc tế cũng như địa phương. Hoạt động kinh doanh nhập khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều tra thị trường nứơc ngoài, lựa chọn hàng hoá nhập khẩu, thương nhân giao dịch, các bước tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng chuyển giao quyền sở hữu cho người mua, hoàn thành các thanh toán. Đới với người tham gia vào hoạt động nhập khẩu trước khi bước vào nghiên cứu, thực hiện các khâu nghiệp vụ phải nắm bắt đựơc các thông tin về nhu cầu hàng hoá, thị hiếu, tập quán tiêu dùng, khả năng mở rộng sản xuất, tiêu dùng trong nước, giá cả, xu hướng biến động của nó. Những điều đó phải trở thành nếp thường xuyên trong tư duy mỗi nhà kinh doanh nhập khẩu để nắm bắt được những cơ hội trong kinh doanh thương mại quốc tế nói chung và kinh doanh nhập khẩu nói riêng. 1.3.2. Những yếu tố tác động đến hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu. 1.3.2.1. Nhóm yếu tố bên trong doang nghiệp. Cơ cấu tổ chức lao động: dù nền kinh tế có phát triển thế nào đi nữa thì yếu tố con người vẫn không thể thiếu. Khi xã hội càng phát triển thì nhu cầu đòi hỏi yếu tố con người ngay càng cao, cơ cấu tổ chức hoạt đọng phải gọn nhẹ, linh hoạt. Ttình độ quản lý và sử dụng vốn: yếu tố này cũng không thể thiếu, muốn kinh doanh thi phải có vốn, đó là điều tất yếu. Song vấn đề quản lý và sử dụng vốn như thế nào cho hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất, là vấn đề không phải đơn giản. Là một nhà quản lý cần phải biết cách sử dụng vốn sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Cơ sở vật chất kỹ thuật: yếu tố này cũng là một yếu tố quan trọng nó ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh của môt doanh nghiệp. Cơ sở vật chất kỹ thuật bao gồm các phương tiện vận chuyển, kho tàng thiết bị kỹ thuật phục vụ cho quá trình nhập khẩu. 1.3.2.2. Nhân tố ngoài doanh nghiệp. Quản lý nhà nước về hoạt động nhập khẩu: những chính sách nhập khẩu quan trọng nhất của Việt Nam bao gồm: Giấy phép nhập khẩu. hạn nghạch nhập khẩu. thuế nhập khẩu, kiểm soát ngoại tệ, tỷ giá hối đoái. -Thuế nhập khẩu: làm tăng giá thành nhập khẩu, dẫn đến giảm lợi nhuận của các nhà nhập khẩu. khi muốn khuyến khích nhập khẩu một loại hàng nào đó thì nhà nước chỉ cần giảm mức thuế nhập khẩu,hoặc là cũng có thể trợ cấp thêm cho nhà nhập khẩu và ngựơc lại, nếu muốn hạn chế nhập khẩu một loại hàng hoá nào đóthì tăng thuế nhập khẩu lên. Nói chung thuế nhập khẩu nhằm mục đích bảo vệ và phát triển sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng trong nứơc và góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nứơc. -Hạn ngạch nhập khẩu: là hình thức hạn chế về số lượng và thuộc hệ thống giấy phép không tự động. Mục tiêu của biện pháp này của nhà nước nhằm: bảo hộ sản xuất trong nước, sử dụng hiệu quả quỹ ngoại tệ, bảo đảm các cam kết của chính phủ ta với nước ngoài. -Giấy phép nhập khẩu: áp dụng đối với một số hàng hoá yêu cầu phải có giấy phép nhập khẩu như: + Hàng nhập khẩu theo hợp đồng mua bán ngoại thương + Vật tư, nguyên liệu, thiết bị nhập khẩu đẻ gia công xuất khẩu + Hàng nhập khẩu theo các dự án đầu tư chuyển giao công nghệ +Hàng dự hội trợ triển lãm, hàng quảng cáo +Hàng nhập khẩu theo con đường viện trợ và vay nợ Quyết định số 89-CP ngày 15/12/1995 nhà nước ta đã bác bỏ thủ tục giấy phép nhập khẩu từng chuyến. Các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu chỉ việc làm thủ tục Hải quan . Ngoài ra trong quết định số 28/ TTg ngày 13 /07/ 1997 của Thủ tướng chính phủ còn quy định cấp giấy phép nhập khẩu một số mặt hàng cụ thể. Quản lý ngoại tệ: biện pháp này được áp dụng bằng cách điều tiết nhập khẩu một số loại sản phẩm thông qua viêc phân phối ngoại tệ để nhập khẩu các hàng hoá dó qua ngân hàng quốc gia nhiều nước quy định ( Hạn ngạch ngoại tệ ) trên cở “Hạn ngạch” nhập khẩu được cấp. Người nhập khẩu có thể ký hợp đồng mua hàng ở nước ngoài nhhưng phaỉ xin được quyền sử dụng ngoại tệ của nước mình. Sự biến động về cung- cầu, giá cả của thị trong và ngoài nước. Hệ thống Ngân hàng tài chính: yếu tố này ảnh hưởng lớn đến việc cung cấp, cho vay vốn, và đảm bảo cả việc thanh toán. Hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc: là yếu tố có tác động mạnh mẽ vào quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu.Thông tin liên lạc phát triển giúp cho doanh nghiệp dễ tim hiểu về thị trường mà không phải tốn nhiều thời gian, thông tin sẽ được bảo đảm hơn. Còn với một hệ thống giao thông vận tải hiện đại giúp cho quá trình vận chuyển rút ngắn được thời gian, hàng hoá được bảo quản tốt hơn. Chương 2: thục trạng kinh doanh hàng nhập khảu của công ty Tranimexco- hà nội 2.1 Tổng quan về hoạt động kinh doanh nói chung và kinh doanh hàng nhập khẩu nói riêng của công ty. Hoạt động trao đổi hàng hoá trong nền kinh tế tạo ra tiền đề và cơ hội cho sự hình thành và phát triển một lĩnh vực kinh doanh , đó là kinh doanh thương mại. Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Tiến hành bất kỳ hoạt động kinh doanh nào đều có nghĩa là tập hợp các phương tiện , con người .... và đưa họ vào hoạt động để sinh lời cho doanh nghiệp . Kinh doanh thương mại là sự đầu tư tiền của , công sức của cá nhân hay tổ chức kinh tế vào lĩnh vực mua bán hàng hoá nhằm tìm kiếm lợi nhuận .Tranimexco- Hà nội là một công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu . Hàng năm doanh thu chủ yếu của công ty từ mặt hàng linh kiện xe máy , hàng hoá chất , săm lốp ô tô , nhựa đường , máy công trình . Để hiểu rõ hơn về hoạt dộng kinh doanh của công ty Tranimexo –hà nội chúng ta hãy nghiên cứu chi tiết đối với từng mặt hàng . 2.2 Hoạt động kinh doanh hàng nhập khẩu của Cty . 2.2.1 Về mặt hàng . 2.2.1.1. Mặt hàng xe máy: Xe máy là một phương tiện rất phổ biến đối với Việt Nam trong những năm gần đây, vì vậy trong giai đoạn 2001 - 2004 giá trị nhập khẩu mặt hàng này tăng liên tục. Tuy nhiên xe máy lại không phải là mặt hàng kinh doanh chính của công ty nên giá trị nhập khẩu ở mức thấp nhất trong 5 loại mặt hàng kinh doanh nhập khẩucủa công ty, nó chỉ chiếm 7% tổng kim ngạch nhập khẩu. Bảng 6. Giá trị nhập khẩu xe máy giai đoạn 2001 - 2004. STT Nước nhập khẩu Giá trị nhập khẩu qua các năm 2001 2002 2003 2004 1 Nhật Bản 124.998,1 43.124,3 - - 2 Thái Lan 99.998,5 57.499,1 84.092,5 89.084,9 3 Trung Quốc 24.999,6 186.872,2 252.277,4 347.052,2 Tổng 249.996,2 287.495,7 336.369,9 436.137,1 Nguồn: Báo cáo XNK giai đoạn 2001 - 2004 của công ty Tranimexco - HN. Trong những năm trước, do thói quen dùng xe Nhật và Thái của người dân Hà Nội và các thành phố tương đối cao nên công ty đã tiến hành nhập khẩu mặt hàng này từ Nhật và Thái Lan. Năm 1998, kim ngạch nhập khẩu của các loại xe Nhật là 232.541,6 USD. Nhưng trong những năm gần đây, do thói quen tiêu dùng của người dân thay đổi và chất lượng xe máy của Trung Quốc cũng được cải thiện đáng kể, xe máy của Việt Nam cũng đã có chỗ đứng trên thị trường trong nước nên công ty đã chuyển hẳn sang kinh doanh chủ yếu là xe máy nhập khẩu từ Trung Quốc. Năm 2001 và 2002 công ty nhập khẩu từ các nước Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc đến năm 2003 và 2004 công ty đã chuyển hẳn sang thị trường các nước Thái Lan và Trung Quốc (trong đó Trung Quốc là chủ yếu). Trong năm 2001 giá trị nhập khẩu xe máy từ Nhật Bản và Thái Lan chiếm tỷ trọng rất lớn, tổng kim ngạch nhập khẩu từ 2 thị trường này là 224.996,6 USD chiếm tới 90% tổng kim ngạch nhập khẩu của loại mặt hàng này. Năm 2002, điều kiện tiêu dùng của người dân thay đổi làm cho kim ngạch nhập khẩu xe máy của công ty từ các thị trường Nhật Bản và Thái Lan thay đổi đáng kể. Tổng kim ngạch nhập khẩu từ cả hai thị trường Nhật Bản và Thái Lan trong năm 2002 chỉ đạt 100.6234 USD chiếm 35% tổng kim ngạch nhập khẩu của mặt hàng này. Trong năm 2001 giá trị nhập khẩu xe máy từ thị trường Trung Quốc đạt 24.999,6 USD chiếm 10% tổng kim ngạch nhập khẩu xe máy trong năm 2001. Đến năm 2002 giá trị nhập khẩu đã tăng đến 186.872,2USD (tăng 7,5lần so với năm 2001) chiếm 65%. Đến năm 2003 công ty đã không nhập khẩu xe máy từ thị trường Nhật Bản nữa mà đã chuyển hẳn sang thị trường Trung Quốc do thị yếu của người dân Việt Nam. Kim ngạch nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc đạt 252.277,4USD chiếm 75% tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2003 còn lại là nhập khẩu từ thị trường Thái Lan. Năm 2004 kim ngạch nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc vẫn tăng rất cao đạt 347.052,2 USD chiếm 79,5%, nguyên nhân là do giá của xe máy Trung Quốc chỉ bằng 1/2; 1/3 giá của các loại xe của các nước Nhật Bản, Thái Lan, thậm chí cả xe máydo Việt Nam lắp ráp, không chỉ vậy mà chủng loại mẫu mã của xe máy Trung Quốc cũng rất đa dạng và phong phú. 2.2.1.2. Mặt hàng Hóa chất: Cũng là một trong 5 loại mặt hàng kinh doanh nhập khẩu của Công ty. Tuy nhiên mặt hàng này chiếm tỷ trọng không cao trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Công ty, giai đoạn 2001 - 2005 chiếm 16%. Để cóthể đi sâu hơn vào lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu mặt hàng này của Công ty ta sẽ phân tích bảng sau: Bảng 5: Giá trị nhập khẩu hóa chất của Công ty giai đoạn 2001 - 2004 Đơn vị tính: USD STT Nước NK Giá trịNK qua các năm 2001 2002 2003 2004 1 Trung Quốc 322.800,9 95.013,1 122.376,9 157.934,1 2 Thái Lan 79.177,6 76.010,5 - -= 3 Tây Đức 76.132,3 - - - 4 Mỹ 58.576,6 - - - 5 Nhật Bản 75.371,0 158.355,2 334.680,3 420.457,2 6 Pháp - 63.342,1 62.349,5 62.746,9 7 Hàn Quốc - 95.013,1 11.690,5 11.948,2 8 Singapore - 82.344,7 119.399,8 152.173,8 9 Anh - - 15.587,4 14.395,3 Tổng 609.058,4 633.420,7 728.433,8 819.655,5 Nguồn: Báo cáo xuất nhập khẩu giai đoạn 2001 - 2004 của Công ty Tranimexco - Hà Nội. Thông qua báo cáo trên ta thấy hoạt động nhập khẩu hóa chất của Công ty liên tục có sự thay đổi về thị trường. Trong năm 2001 Công ty kinh doanh nhập khẩu háo chất từ các thị trường Trung Quốc, Thái Lan, Tây Đức, Mỹ, Nhật Bản. Trong đó đứng đầu về giá trị nhập khẩu hóa chất là thị trường Trung Quốc với giá trị nhập khẩu đạt 322.800,9 USD chiếm khoảng 53% tổng kim ngạch nhập khẩu hóa chất trong năm 2001. Đến năm 2002 hoạt động kinh doanh nhập khẩu hóa chất của Công ty có sự thay đổi về thị trường. Nếu năm 2001 thị trường Tây Đức và Mỹ chiếm tỷ trọng nhập khẩu (10 - 13%) thì đến năm 2002 Công ty đã chuyển hẳn sang nhập khẩu ở các thị trường khác: Pháp, Hàn Quốc, Singapore. Trong năm 2002 này tỉ trọng nhập khẩu lớn nhất từ Nhật Bản đạt 158.355,2 USD chiếm 25% trong tổng kim ngạch nhập khẩu hóa chất của Công ty trong năm 2002, có thể nói Công ty luôn chú trọng tới chiến lược tìm kiếm thị trường thay thế, điều này tiếp tục được thể hiện thông qua 2 năm tiếp theo 2003 và 2004. Trong 2 năm này thị trường nhập khẩu hóa chất của Công ty được mở rộng hơn sang thị trường Anh, không nhập khẩu từ thị trường Thái Lan một thị trường nhập khẩu ổn định trong2 năm 2001, 2002 ở mức (12 - 13%). Trong 2 năm 2003, 2004 Công ty tập trung chủ yếu vào các nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore, Anh. Trong các thị trường này, Công ty tập trung vào khai thác từ thị trường Nhật Bản vì phần lớn hóa chất nhập khẩu dùng cho công việc xây dựng và sản xuất thiết bị công nghệ nên từ thị trường Nhật Bản là thích hợp nhất. Tỷ trọng nhập khẩu hóa chất từ thị trường Nhật Bản chiếm 46% trong năm 2003 trong tổng kim ngạch nhập khẩu hóa chất năm 2004 và 51,3% vào năm 2004, năm 2003 tiếp theo là thị trường Trung Quốc chiếm 17% năm 2003 và 19,3% năm 2004 đứng thứ 3 là Singapore với tỷ trọng nhập khẩu hóa chất là 16% năm 2003 và 18,5% năm 2004. Thấp nhất là thị trường Hàn Quốc, sau đó là thị trường Anh. Như vậy ta thấy Công ty đã có sự thay đổi rất nhiều trong lĩnh vực tìm kiếm thị trường. Sở dĩ như vậy là do một vài nguyên nhân như do khá khăn trong quá trình vận chuyển và giao dịch hay do sự phù hợp về chiến lược kinh doanh của công ty. 2.2.1.3. Mặt hàng Săm lốp ô tô: Từ năm 1999 trở về trước, kim ngạch nhập khẩu săm lốp ô tô của Công ty rất lớn, nhưng trong những năm gần đây nhà máy cao su sao vàng đã sản xuất được mặt hàng này ở trong nước do đó Công ty đã không nhập một số loại săm lốp mà trong nước sản xuất đã sản xuất được. Vì vậy Công ty đã nhập khẩu một số loại săm lốp chuyên dụng chất lượng cao và sản phẩm trong nước chưa đáp ứng được. Thị trường nhập khẩu săm lốp của Công ty tập trung ở các nước thuộc Châu á như: Ân Độ, Inđônêxia, Hàn Quốc, Nhật…ta có thể tham khảo giá trị nhập khẩu săm lốp ô tô từ một số nước thông qua bảng sau: Bảng 4: Giá trị nhập khẩu săm lốp ô tô của Cty Tranimexco - Hà Nội 2001 - 2004 Đơn vị tính: USD STT Nước nhập khẩu Giá trị nhập khẩu qua các năm 2001 2002 2003 2004 1 ấn Độ 181.776,6 - - - 2 Inđônêxia 254.487,2 168.488,6 236.164,1 239.341,2 3 Hàn Quốc 254.487,2 168.688,6 236.164,1 239.341,2 4 Nhật Bản - 295.205,1 330.629,7 341.579,5 Tổng 727.106,2 843.443,2 944.656,4 977.488,3 Nguồn: Báo cáo XNK giai đoạn 2001 - 2004 của Công ty Tranimexco - Hà Nội. Tình hình kinh doanh nhập khẩu săm lốp ô tô của Công ty Tranimexco - Hà Nội giai đoạn 2001 - 2004 đã tăng liên tục. Đất nước ngày càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng nâng cao. Trong những năm gần đây nhu cầu về ô tô riêng đang tăng, nắm bắt được thực tế này Công ty đã tăng nhập khẩu săm lốp ô tô. Cụ thể trong năm 2001 tổng kim ngạch nhập khẩu săm lốp ô tô của Công ty đạt 727.106,2 USD chiếm khoảng 17% định mức trong kế hoạch 5 năm của Công ty về nhập khẩu săm lốp ô tô. Trong đó Công ty đã nhập khẩu một lượng săm lốp ô tô nhiều nhất từ Hàn Quốc, với giá trị nhập khẩu là 290.842,5 USD chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch nhập khẩu săm lốp ô tô trong năm 2001. Inđônêxia là nước đứng thứ 2 về nhập khẩu săm lốp ô tô với trị giá 254.487,2 USD chiếm khoảng 35% tổng kim ngạch nhập khẩu săm lốp ô tô trong năm 2001. Cuối cùng là ấn Độ với giá trị nhập khẩu 181.776,6 USD chiếm 25% tổng kim ngạch nhập khẩu săm lốp ô tô trong năm 2001. Đến năm 2002 thị trường nhập khẩu săm lốp ô tô của Công ty đã có sự thay đổi. Nếu như trong năm 2001 Công ty nhập khẩu một lượng săm lốp ô tô chiếm 25% tổng kim ngạch nhập khẩu săm lốp ô tô ở thị trường ấn Độ thì đến năm 2002 Công ty không nhập khẩu ở thị trường này nữa mà chuyển hẳn sang thị trường Nhật, với giá trị nhập khẩu đạt 295.205,1 USD chiếm khoảng 35% tổng kim ngạch nhập khẩu săm lốp ô tô trong năm 2002, đứng thứ 2 sau thị trường Hàn Quốc. Giá trị nhập khẩu từ Hàn Quốc đạt 379,549,4 USD chiếm 45% (tăng so với năm 2001 là 5%) tổng kim ngạch nhập khẩu săm lốp ô tô trong năm 2002. Cuối cùng là Inđônêxia giá trị nhập khẩu đạt 168.688,6 USD chiếm 20% (giảm so với 2001 là 5%) tổng kim ngạch nhập khẩu săm lốp ô tô năm 2002. Năm 2003, 20054 thị trường nhập khẩu săm lốp ô tô của Công ty không có sự thay đổi, Công ty tiếp tục nhập khẩu mặt hàng này từ 3 thị trường Inđônêxia, Hàn Quốc và Nhật Bản. Trong năm 2003 giá trị nhập khẩu tại thị trường Hàn Quốc vấn chiếm tỷ lệ cao nhất, trị giá nhập khẩu đạt 377.862,6 USD chiếm 40%, tuy nhiên năm 2003 giá trị nhập khẩu từ thị trường này có giảm hơn so với năm 2002. Nguyên nhân do giá trị nhập khẩu tại thị trường Nhật Bản tăng đạt 330.629,7 USD chiếm 35% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng săm lốp ô tô của năm 2003. Cũng trong năm này giá trị nhập khẩu mặt hàng này từ Inđônêxia lại tăng đạt 236.164,1 USD và vẫn tiếp tục tăng trong năm 2004 đạt 239.341,2 USD chiếm khoảng 24,5%. Lượng giá trị nhập khẩu săm lốp ô tô không chỉ tăng từ nước Inđônêxia mà tăng ở cả 3 nước: Inđ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34208.doc
Tài liệu liên quan