Thực trạng kinh tế đối ngoại của Việt Nam hiện nay

I.Đặt vấn đề Những năm gần đây , Việt Nam tiếp tục và tăng cường công cuộc Đổi mới kinh tế trên nhiều lĩnh vực và đã đạt được những thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế . Tuy giành lại được độc lập từ ngày 2/9/1945,nhưng Việt Nam phải trải qua 30 năm kháng chiến ,đến năm 1975 đất nước mới hoàn toàn thống nhất .Tuy nhiên do xuất phát điểm của nền kinh tế quá thấp ,hậu quả chiến tranh quá nặng nề cùng với những thiếu sót ,sai lầm trong chỉ đạo kinh tế ,duy trì quá lâu cơ chế tập trung bao c

doc22 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2097 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng kinh tế đối ngoại của Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ấp nên đến năm 1985 kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng Trứơc tình hình đó ,Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam diêbx ra vào tháng 12/1986 đã đưa ra đường lối đổi mới trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm mà nội dung chủ yếu là xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp ,phát triển kinh tế nhiều thành phần dưới sự quản lí của nhà nước ,theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Tiếp đó ,tháng 6/1991,Đại hội VII của Đảng đã tiến hành đánh giá thành quả đổi mới và tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới ,đề ra chính sách đối ngoại phù hợp với xu thế lớn của thế giới là đa dạng hoá đa phương hoá quan hệ quốc tế để tạo thêm thế mạnh tranh thủ thêm vốn và công nghệ cho phát triển kinh tế quốc dân . Tiếp tục phát huy hơn nữa những thành quả đã đạt được , Đại hội Đảng lần thứ IX (tháng 4/2001) đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001- 2010 nhằm xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh ,xã hội công bằng ,dân chủ văn minh” theo phương châm “ Việt Nam sẵn sàng là bạn ,là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ ,bình đẳng cùng có lợi ,không can thiệp công viêc nội bộ ,cùng phấn đấu vì hoà bình ,độc lập và phát triển.” Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “… Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá đa dạng hoá: chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của Việt Nam và đảm bảo thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương .Tiến tới gia nhập WTO" trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ,Việt Nam có được nhiều cơ hội thuận lợi để phát triển nền kinh tế của mình ,song cũng phải đương đầu với nhiều thách thức và khó khăn. II.Giải quyết vấn đề. Chương I : Những vấn đề cơ bản về kinh tế đối ngoại trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. .Tính tất yếu khách quan mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại trong điều kiện hiện nay. Kinh tế đối ngoại là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, là tổng thể các quan hệ kinh tế ,khoa học kĩ thuật ,công nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia khác còn lại hoặc với các tổ chức kinh tế khác , được thực hiện dưới nhiều hình thức ,hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Các nhà chuyên môn cho rằng : kinh tế đối ngoại là tổng thể các mối quan hệ, các hoạt động về kinh tế, khoa học kĩ thuật và dịch vụ nhằm thu ngoại tệ của một nước đối với nước ngoài( qua đó, mỗi nước có thể tham gia vào sự phân công, hợp tác lao động quốc tế và trao đổi mậu dịch quốc tế) . Hoạt động kinh tế đối ngoại có những chức năng rất đặc thù. Nó tham gia hiệu quả vào sự phân công lao động quốc tế. Sử dụng hợp lí các nguồn tài nguyên, không ngừng tạo thêm việc làm mới tăng thêm các nguồn thu ngoại tệ. Kinh tế đối ngoại là đối trọng tích cực có chức năg hỗ trợ, tương tác ,làm hài hoà cân đối, đồng thời tạo ra sức hút, kích thích sự phát triển cả nền kinh tế quốc dân và những lĩnh vực liên quan đến kinh tế hướng ngoại. Tận dụng các lợi thế so sánh cuả từng nước để tập trung xây dựng các ngành kinh tế mũi nhọn, tranh thủ các điều kiện hợp tác quốc tế sao cho các lĩnh vực sản xuất có thể đạt quy mô, phạm vi tối ưu, thúc đẩy các nhân tố tăng trưởng cả chiều sâu và chiều rộng. Cở sở khách quan của việc hình thành phát triển kinh tế đối ngoại. 1.1.1.1.Phân công lao động quốc tế Phân công lao động quốc tế xuất hiện như là một hệ quả tất yếu của phan công lao động xã hội phát triển vượt khuôn khổ mỗi quốc gia. Nó diễn ra giữa các ngành , giữa những người sản xuất của những nước khác nhau và thể hiện như là một hình thức đặc biệt của sự phân công lao động theo lãnh thổ diễn ra trên phạm vi thế giới Phân công lao động quốc tế là quá trình tập trung việc sản xuất và cung cấp một hoặc một số loại sản phẩm và dịch vụ của một quốc gia nhất định dựa trên cở sở những lợi thế của quốc gia đó về các điều kiện tự nhiên ,kinh tế ,khoa học, công nghệ ,và xã hôị để đáp ứng nhu cầu của quốc gia khác thông qua trao đổi quốc tế .Phân công lao động quốc tế diễn ra trên phạm vi ngày càng rộng lớn bao quát nhiều lĩnh vực và với tốc độ nhanh .Dưới tác động như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, phân công lao động quốc tế diễn ra theo chiều sâu. Bởi vậy trong sản xuất các quốc gia thường chú ý phát triển loại sản phẩm “ vô hình” ,các sản phẩm co hàm lượng khoa học và công nghệ cao so với loại sản phẩm có hàm lượng nguyên liệu và lao động giản đơn nhiều như trước đây. Sự phát triển cao của phân công lao động quốc tế làm xuất hiện ngày càng nhiều các hình thức hợp tác mới về kinh tế, khoa học công nghệ chứ không đơn thuần chỉ có hình thức ngoại thương như các thế kỉ trước. Phân công lao động quốc tế làm biến đổi nhanh chóng cơ cấu ngành và cơ cấu lao động trong từng nước và trên phạm vi quốc tế. Sự phân công lao động quốc tế thường được biểu hiện qua các tổ chức kinh tế quốc tế và các công ty xuyên quốc gia, khiến cho vai trò của chúng ngày một nâng cao trên trường quốc tế . 1.1.1.2. Cở sở lựa chọn của thương mại quốc tế và xu thế thị trường thế giới . Từ những thập kỉ 70 của thế kỉ XX lại đây, toàn cầu hoá và khu vực hoá trở thành xu thế tất yếu của thời đại dẫn đến “mở cửa” và “hội nhập”của mỗi quốc gia vào cộng đồng quốc tế, trong đó có xu thế phát triển của thị trường thế giới. Xu thế này có liên quan đến sự phân công lao động quốc tế và việc vận dụng lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong thương mại giữa các nước với nhau. Những biểu hiện của xu thế phát triển thị trường thế giới Thương mại trong ngành tăng rõ rệt Sau chiến tranh thế giới thứ hai, cùng với khoa học và công nghệ phát triển, sự phân công quốc tế đã có thay đổi rất lớn về hình thức, chủ yếu thể hiện sự phân công giữa các ngành từng bước chuyển sang phân công nội bộ ngành, do đó thương mại trong các ngành phát triển rất mạnh. Theo dự báo, cùng với cạnh tranh quốc tế càng gay gắt và cùng với tiến bộ khoa học công nghệ, thương mại trong nội bộ ngành sẽ chiếm tỉ trọng ngày càng lớn hơn trong thương mại thế giới. + Khối lượng thương mại trong nội bộ các tập đoàn kinh tế khu vực không ngừng mở rộng . + Thương mại công nghệ phát triển nhanh chóng Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, hàng hoá cuả một nước có thể chen chân vào thị trường quốc tế được hay không trong một chừng mực nhất định còn tuỳ thuộc vào nước đó áp dụng công nghệ tiến bộ như thế nào vào sản xuất hàng hoá xuất khẩu, nâng cấp và thay đổi thế hệ hàng hoá. + Thương mại phát triển theo hướng tập đoàn hoá kinh tế khu vực. Nền kinh tế thế giới đang phát triển theo xu hướng tập đoàn hoá khu vực do: Cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Cục diện thế giới thay đổi từ hai cực sang đa cực, so sánh sức mạnh kinh tế thế thế giới cũng thay đổi rõ rệt. Để duy trì lợi ích của mình và củng cố vị trí trong đàm phán, nhiều nước đang phát triển cũng tổ chức các loại hình liên minh kinh tế khu vực. Khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng làm thay đổi cơ cấu ngành trên quy mô thế giới. Xu thế tập đoàn hoá kinh tế khu vực ngaỳ càng có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình kinh tế thương mại thế giới,làm cho hướng chuyển dịch tiền vốn và kĩ thuật trên phạm vi thế giới có thay đổi lớn. Điều này vừa đem lại cơ hội cho sự phát triển thương mại và kinh tế thế giới, vưà có ảnh hưởng bất lợi đối với nhiều nước, nhất là các nước nằm ngoài khu vực và các nước đang phát triển. 1.1.1.2.Vai trò của kinh tế đối ngoại. Trên thế giới ngày nay, quốc gia nào cũng quan tâm nhiều đến kinh tế đối ngoại. Mọi quốc gia muốn tăng trưởng kinh tế cao và phát triển bền vững đều mở rộng hoạt động ngoại thương, hợp tác quốc tế về đầu tư, hợp tác chuyển giao công nghệ, đồng thời đẩy mạnh các dịch vụ thu ngoại tệ.Có thể nói kinh tế đối ngoại có vai trò vô cùng to lớn trong điều kiện hiện nay. Và có thể khái quát vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại qua các mặt sau đây: Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế; nối liền thị trường trong nước với thị trường thế giới và khu vực . Hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn viện trợ chính thức từ các chính phủ và các tổ chức tiền tệ quốc tế (ODA); thu hút khoa học, kĩ thuật, công nghệ; khai thác và ứng dụng những kinh nghiệm xây dựng và quản lí nền kinh tế hiện đại vào nước ta. Góp phần tích luỹ vốn phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu lên nước công nghiệp tiên tiến hiện đại. Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân theo mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tất nhiên, những vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại chỉ đạt được khi hoạt động kinh tế đối ngoại vượt qua được nhũng thách thức (mặt trái) của toàn cầu hoá và giữ đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.2.Những hình thức chủ yếu của kinh tế đối ngoại. Kinh tế đối ngoại gồm nhiều hình thức: hợp tác sản xuất (nhận gia công xây dựng xí nghiệp chung, khu chế xuất, khu công nghệ, khu kĩ thuật cao); hợp tác khoa học – công nghệ (trong đó có hình thức đưa lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài); ngoại thương, hợp tác tín dụng quốc tế, các hoạt động dịch vụ như du lịch quốc tế, giao thông vận tải, thông tin liên lạc quốc tế, dịch vụ thu, đổi và chuyển giao ngoại tệ…; đầu tư quốc tế, v v… Trong các hình thức kinh tế đối ngoại, ngoại thương, đầu tư quốc tế và dịch vụ thu ngoại tệ là những hình thức chủ yếu và có hiệu quả nhất và cần được coi trọng. 1.2.1. Ngoại thương. Ngoại thương, hay còn gọi là thương mại quốc tế, là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các quốc gia thông qua xuất nhập khẩu. Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, ngoại thương giữ vị trí trung tâm và có tác dụng to lớn: góp phần làm tăng sức mạnh tổng hợp, tăng tích luỹ của mỗi nước nhờ sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong trao đổi quốc tế; là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; “điều tiết thừa thiếu” trong mỗi nước; nâng cao trình độ và cơ cấu ngành nghề trong nước. Tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của người lao động nhất là các ngành trong xuất khẩu. Nội dung cảu ngoại thương bao gồm: xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá, thuê nước ngoài gia công tái xuất khẩu, trong đó xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại Mấy thập kỉ gần đây, dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ và xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá và thương mại quốc tế có những đặc điểm mới: Tốc độ tăng trưởng của ngoại thương quốc tế tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc dân. Tốc độ tăng trưởng ngoại thương hàng hoá “vô hình” có xu hướng tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng ngoại thương hàng hoá “hữu hình” .Điều đó bắt nguồn từ sự thay đổi cơ cấu kinh tế giữa các ngành sản xuất vật chất và ngành dịch vụ trong mỗi quốc gia và quốc tế. Cơ cấu mặt hàng có sự biến đổi sâu sắc theo hướng: hàng hoá nhu cầu tầng 1 (nhu cầu về đời sống vật chất) giảm xuống và hàng hoá nhu cầu tầng 2 (nhu cầu về đời sống văn hoá tinh thần) tăng nhanh; tỷ trọng xuất khẩu hàng thô, nguyên liệu giảm xuống, còn hàng dầu mỏ khí đốt, sản phẩm công nghệ chế biến nhất là máy móc thiết bị lại tăng. Phạm vi phương thức và công cụ cạnh tranh của thương mại quốc tế diễn ra rất đa dạng và phong phú, không chỉ về mặt chất lượng, giá cả, mà còn về điều kiện giao hàng, bao bì, mẫu mã, thời hạn thanh toán, các dịch vụ sau bán hàng. Phạm vi thị trường ngày một mở rộng không chỉ hàng hoá, dịch vụ thông thường mà còn mở rộng sang lĩnh vực tài chính, tiền tệ- lĩnh vực này càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Chu kì sống của từng loại ngày càng rút ngắn lại. Các hàng hoá có hàm lượng khoa học công nghệ cao có sức mạnh cạnh tranh hơn so với các hàng hoá truyền thống. Quá trình phát triển thương mại quốc tế đòi hỏi, một mặt phải tự do hoá thương mại, mặt khác phải thực hiện bảo hộ mậu dịch một cách hợp lí. Cần nhấn mạnh rằng, muốn biến ngoại thương thành đòn bẩy có sức mạnh phát triển kinh tế quốc dân, cần phải nắm bắt được lợi thế so sánh. 1.2.2. Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất. Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất bao gồm gia công, xây dựng xí nghiệp chung, chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất quốc tế… 1.2.2.1. Nhận gia công. Do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, các nước công nghiệp tiến hành cải tổ cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng tập trung ưu tiên những ngành có hàm lượng khoa học cao, chuyển những ngành có hàm lượng lao động và nguyên liệu cao sang các nước đang phát triển. Các ngành có hàm lượng lao động cao cũng thích hợp với các nước đang phát triển bởi vì chúng đòi hỏi ít vốn đầu tư, việc đào tạo công nhân cũng nhanh hơn việc đầu tư công nhân cho các ngành có hàm lượng khoa học cao. Dĩ nhiên chúng ta mong muốn và phấn đấu đi vào những ngành công nghệ tiên tiến. Song cần thấy rằng, muốn mở rộng việc nhận gia công cho nước ngoài phải chọn những gì thế giơí cần chứ không thể chọn những gì mà chủ quan chúng ta mong muốn. 1.2.2.2. Một hình thức phổ biến khác là xây dựng những xí nghiệp chung với sự hùn vốn và công nghệ của nước ngoài. Xí nghiệp chung hay hỗn hợp là kiểu tổ chức xí nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ và tổ chức tài chính – tín dụng …Hiện nay, những xí nghiệp loại này đang tồn tại một cách phổ biến ở nhiều nước. Về mặt pháp lí, xí nghiệp chung thường được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần với trách nhiệm hữu hạn tương ứng với số vốn đóng góp của các thành viên. Các xí nghiệp này thường được ưu tiên xây dựng ở những ngành kinh tế quốc dân hướng vào xuất khẩu và trở thành nguồn thu ngoại tệ chuyển đổi hay tạo điều kiện cho nhà nước tiết kiệm ngoại tệ 1.2.2.3. Hợp tác sản xuất quốc tế trên cơ sở chuyên môn hoá. Hợp tác sản xuất quốc tế có thể diễn ra một cách tự giác theo những hiệp định hay hợp đồng giữa các bên tham gia, cũng có thể hình thành một cách tự phát do kết qủa cạnh tranh, do đầu tư và lập các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia tại các nước. Chuyên môn hoá bao gồm chuyên môn hoá những ngành khác nhau và chuyên môn hoá trong cùng một ngành (chuyên môn hoá theo sản phẩm, theo bộ phận sản phẩm hay chi tiết và theo công nghệ) .Hình thức hợp tác này làm cho cơ cấu kinh tế ngành của các nước tham gia đan kết vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau. 1.2.3. Hợp tác khoa học kĩ thuật. Hợp tác khoa học kĩ thuật đựoc thực hiện dưới nhiều hình thức, như trao đổi những tài liệu – kĩ thuật và thiết bị, mua bán giấy phép, trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ, phối hợp nghiên cứu khoa học kỹ thuật, hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân… Đối với những nước lạc hậu về kỹ thuật, vốn chi cho nghiên cứu khoa học kĩ thuật còn ít, đội ngũ cán bộ khoa học còn chưa nhiều, phưong tiện vật chất còn thiếu thốn thì việc tham gia hợp tác khoa học kĩ thuật với nước ngoài là vo cùng quan trọng. Đó là một điều kiện thiết yếu để rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến. Việc đưa lao động và chuyên gia đi làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài cũng là một hình thức hợp tác đào tạo cán bộ và công nhân. 1.2.4. Đầu tư quốc tế. Đầu tư quốc tế là một hình thức cơ bản của kinh tế đối ngoại. Nó là quá trình trong đó hai hay nhiều bên cùng góp vốn để xây dựng và triển khai kột dự án đầu tư quốc tế nhằm một đích sinh lợi. Có hai hình thức đầu tư quốc tế: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. + Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tưmà quyền sở hữu và quyền sử dụng quản lí vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là người có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức quản lí và điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận. Ngày nay, trong nền kinh tế thế giới, hình thức đầu tư trực tiếp vốn là hình thức chủ yếu của các nước phát triển có nền kinh tế phát triển va f có xu hướng ngày càng tăng. Đầu tư quốc tế được thực hiện dưới các hình thức: Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng Xí nghiệp liên doanh mà vốn do hai bên cùng góp theo tỷ lệ nhất định để hình thành xí nghiệp mới có hội đồng quản trị và ban điều hành chung. Xí nghiệp 100% vốn nươcs ngoài. -Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT). Hình thức này đòi hỏi cần có nguồn vốn của bên ngoài và thường đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng. Thông qua các hình thức trên mà các khu chế xuât, khu công nghiệp mới, khu công nghệ cao … được hình thành và phát triển. + Đầu tư gián tiếp là loại hình thức đầu tư mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn đầu tư, tức là người có vốn không trực tiếp tham gia vào tổ chức, điều hành dự án mà thu lợi dứơi hình thức lợi tức cho vay, hoặc lợi tức cổ phần, hoặc có thể không thu lợi trực tiếp. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp rất đa dạng về chủ thể và hình thức. Chủ thể đầu tư gián tiếp có thể là chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, v v, với các hình thức như: Viện trợ có hoàn lại, viện trợ khồng hoàn lại, cho vay ưu đãi hoặc không ưu đãi; mua cổ phiếu và các chứng khoán theo mức quy định của từng nước. 1.2.5. Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ và du lịch quốc tế. Các dịch vụ thu ngoại tệ là một bộ phận quan trọng của kinh tế đối ngoại. Xu thế hiện nay là tỷ trọng các hoạt động dich vu tăng lên so với các hàng hoá khác trên thị trường thế giới. Du lịch quốc tế Du lịch là nhu cầu khách quan, vốn có của con người. Kinh tế càng phát triển năng suất lao đọng càng cao thì nhu cầu du lịch – nhất là du lịch quốc tế càng tăng vì thu nhập con người tăng lên, thời gian nhàn rỗi, vá nghỉ ngơi cũng nhiều hơn . Ngành kinh tế du lịch nẩy sinh trên cơ sở nhu cầu khách quan đó là một sản phẩm và là một bộ phận trong hệ thống phân công lao động xã hội. Đây là một ngành kinh doanh tổng hợp bao gồm các hoạt động tổ chức, hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hoá và dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu đi lại, ăn uống, nghỉ ngơi, lưu trú, tham quan , giải trí,… của du khâch. Vận tải quốc tế Đây là hình thức chuyên hàng hoá vá hành khách giữa hai nước hoặc nhiều nước. Sự phát triển của vận tải quốc tế có tác dụng tăng nguồn thu ngoại tệ thông qua vận tải và tiết kiệm chi ngoại tệ do phải thuê vận chuyển khi nhập khẩu hàng hoá. Vận tải quốc tế sử dụng các phương thức như: đường biển, đường sắt, đường bộ (ô tô) , đường hàng không… trong các phương thức đó, vận tải đường biển có vai trò quan trọng nhất. Xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ Hiện nay nhu cầu lao động ở các nước phát triển vẫn còn lớn do kinh tế phát triển, tỷ lệ tăng dân số ở các nước này có xu hướng giảm và nhất là do chuỷên dịch cơ cấu kinh tế bởi cách mạng khoa học công nghệ. Các hoạt động dịch vụ thu ngoai tệ khác. Như dịch vị thu bảo hiểm, dịch vụ thông tin bưu điện, dịch vụ kiều hối, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tư vấn… Do giá trị dân tộc và quốc tế không giống nhau, nên trong việc xuất khẩu có thể diễn ra các tình huống su đây: Một là, thu được lợi nhuận siêu ngạch trong xuất khẩu. Hai là, lỗ khi xuất khẩu, nhưng lãi ở nhập khẩu. Cũng có thể thu chênh lệch giá dựa trên cơ sở vận dụng sự tách rời giữa giá cả và giá trị nhằm điều tiết phân phối thu nhập quốc dân, nhưng chỉ nên giới hạn ở những mặt hàng tiêu dùng cao cấp ., Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại của một số quốc gia trong khu vực. Vào những năm 1980, thế giới đựơc chứng kiến sự thành công về kinh tế của một số quốc gia và vùng lãnh thổ khác ở Đông á và Đông Nam á như : Đài Loan, Xinhgapo, Macao, Thai Lan đựoc xem như những Con Rồng mới. Điểm chung sự thành công của những nước này có thể thấy ở một số phương diện sau: Quyết tâm mở cửa nền kinh tế đất nước hướng vào cuộc cạnh tranh quốc tế dựa trên chính sách công nghiệp nhất quán và hiệu quả của Chính phủ. Chính sách công nghiệp mà các nước nàyđã thực hiện để hỗ trợ các doanh nghiệp có thể gói gọn lại với các nguyên tắc: + Chọn lọc ngành nghề; +Tiêu điểm về nội dungl; +Bảo hộ theo giai đoạn; +Nâng đỡ gián tiếp hơn trực tiếp, từng phần hơn toàn bộ. Chính phủ có chiến lược áp dụng các nỗ lực để thông thương thị trường trong nước với thị trường quốc tế, chủ yếu thông qua các quan hệ song phương và đa phương với các nước có vai trò quan trọng trên trường quốc tế, và xây dựng các định chế kinh tế của nước mình không phải với tư cách là để bảo hộ trong nước mà để tạo điều kiện hội nhập tích cực hai cjiều trong và ngoài nước Xây dựng bộ máy quản lí nhà nước trong sạch và hiệu quả. Đặc biệt nhấn mạnh các yếu tố văn hoá truyền thống của nước mình như một nền tảng để ổn định và phát triển toàn diện. áp dụng triệt để tiến bộ của công nghệ,đặc biệt là tin học vào hoạt động tổ chức và quản lí kinh tế với hiệu quả và hiệu suất cao. Tất cả cái đó hợp thành điều kiện tiên quyết để tạo dựng môi trường đầu tư và kinh doanh hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hiện nay Xinhgapo trở thành một hải cảng hoạt động hiệu quả nhất thế giới nhờ việc áp dụng tổ chức mạng lưới (SNS) điều khiển và vận hành mậu dịch – bao gồm tinhọc hoá hệ thống khai báo hải quan, hệ thống tính thuế xuất, nhập khẩu, cung cấp thông tin và xử lí thủ tục kinh doanh: đơn giản hoá công khai hoá việc quản lí mậu dịch của Chính phủ. Thành viên của hệ thống này là giới thương nhân, nhân viên hải quan, uỷ ban phát triển mậu dich và một cơ quan chính phủ xử lí tài liệu, giấy phép, dịch vụ hành chính vơí các cơ quan của các nước khác. Và đặc biệt ở Trung Quốc với mức tăng trưởng kinh tế trung bình hằng năm trên 9% được coi là “thần kì”. Hiện nay Trung Quốc sản xuất 46% thịt lợn của thế giới, 24% bông sợi, … Trung Quốc hiện đứng đầu thế giới về xuất khẩu rau khô, nấm chế biến, tỏi và quả đóng hộp. Trung Quốc hiện đứng đầu về xuất khẩu thuỷ sản vơí giá trị 4,5 tỉ USD. Có thể thấy rõ mậu dịch hàng nông sản của Trung Quốc đã tăng lên với tốc độ cao. Mặt khác ngành công nghiệp và dệt may xuất khẩu Trung quốc cũng phát triển một cách mạnh mẽ. Ngoại thương Trung Quốc sau khi phá kỉ lục 1 nghìn tỉ USD năm 2004, vẫn giữ xu hướng tăng tương đối nhanh trong năm 2005, đồng thời xuất hiện đặc trưng xuất khẩu cao, nhập khẩu thấp. Năm 2005, Xuất siêu mậu dịch Trung Quốc đạt mức khá cao, chỉ 9 tháng đầu năm, con số đã lên đến 68,33 tỉ USD, gấp đôi tổng mức 31,98 tỉ USD của năm 2004. Mức thặng dư thương mại khổng lồ này, chủ yếu do tăng trưởng xuất khẩu mạnh mẽ của các mặt hàng dệt may, các sản phẩm công nghiệp nhẹ, nông sản và các sản phẩm dầu mỏ. Để đạt được những thành công trong hoạt động kinh tế đối ngoại, các nước đi sau có thể học hỏi rất nhiều kinh nghiệm của các nước đi trước. Những kinh nghiệm : Có chính sách đảm bảo cho các nhà đầu tư nước ngoài về quyền sở hữu chắc chắn đối với tài sản vốn và lợi nhuận. Đảm bảo khả năng tiếp cận tự do và không hạn chế về điều kiện tín dụng, thanh toán quốc tế, ngoịa hối và các giao dịch khác có liên quan đến hoạt động xuất khẩu. Mở rộng hình thức mậu dịch tự do đối với các hoạt động cảu khu chế xuất. Giảm thiểu tối đa sự phiền hà về thủ tục hành chính, cung ứng và dịch vụ công đầy đủ và hiệu quả cho hoạt động của doanh nghiệp xuất khẩu. Cần có chính sách công nghiệp của Chính phủ. Từ những phân tích trên, có thể coi những kinh nghiệm đó là những bài học xác đáng đối với Việt Nam trong hoạt động kinh tế đối ngoại của mình. Chương II: Thực trạng kinh tế đối ngoại của Việt Nam hiện nay. 2.1. Thực trạng và những thành tựu đã đạt được trong kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Quan hệ quốc tế được mở rộng, các cam kết quốc tế được triển khai thực hiện tốt; đồng thời đã tiến hành ký kết nhiều hiệp định đa phương, song phương, tạo bước phát triển mới về kinh tế đối ngoại. Thị trường xuất khẩu được duy trì và mở rộng; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh (16,2%/năm), vượt kế hoạch đề ra; tổng kim ngạch xuất khẩu đã chiếm trên 50% GDP và đạt 370 USD/người. Nguồn vốn tài trợ phát triển chính thức (ODA) liên tục tăng qua các năm và nguồn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) tăng khá. Vay trả nợ nước ngoài được quản lý tốt. Bước đầu đã có một số dự án đầu tư ra nước ngoài. Ngoaị thương. Ngoại thương đã có những sự tăng trưởng vựot bậc: + Về xuất khẩu Hoạt động xuất khẩu đã có bước phát triểm tốt, đáp ứng gần 80% nhu cầu nhập khẩu.Trong 13 năm qua, đặc biệt từ năm 1995 cơ cấu mặt hàng xuất khẩu có sự thay đổi lớn. Từ năm 1993 trở về trước, kim ngạch xuất khẩu cảu Việt Nam phụ thuộc vào hai mặt hàng xuất khẩu là gạo và dầu thô thì từ năm 1997 trở lại đây đã hình thành 15 mặt hàng xuất khẩu chủ lực với giá trị xuất khẩu chiếm xấp xỉ 80% tổng kim ngạch xuất khẩu. Chất lượng hàng xuất khẩu đã nâng lên đáng kể, bước đầu tạo bước cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường thế giới, đồng thười tác động tích cực tới chất lượng hàng hoá trong nước. Hiện nay gạo, dầu thô, thuỷ sản, hàng may mặc, giày dép, cà phê, hạt điều,…xuất khẩu ở Việt Nam đã từng bước được thừa nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Tổng kim ngạch năm 2005 ước đạt 32,233 triệu USD, cao nhất từ trước tơi nay. Bình quân 1 tháng đạt gần 2,69 tỷ USD, còn cao hơn mức đạt được trong cả năm của các năm từ 1992 trở về trước. Tỷ lệ kim ngạch XK so vơi GDP đạt trên 60%. Tốc độ tăng đạt 21,6%, vừa cao hơn tốc độ tăng 16% theo mục tiêu, vừa cao gấp 2,6 lần tốc độ tăng GDP. Tốc độ tăng 2 chữ số đạt được ở cả hai khu vực.. Tính chung 5 năm, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 109,1 tỷ USD, tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 16,2% (đạt chỉ tiêu tăng trưởng 16% do Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra). Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm 2005 đạt gần 370 USD. Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, nhìn chung các nhóm mặt hàng đều có tốc độ tăng trưởng khá. Tính bình quân 5 năm 2001- 2005, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tăng 12,7% và chiếm tỷ trọng 32,8% tổng kim ngạch xuất khẩu; nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng 20,8%, chiếm tỷ trọng 40,2%; nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản tăng 14,6%, chiếm tỷ trọng 27%. Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất, đã dần chiếm ưu thế trong tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu. Đến năm 2005, ngoài dệt may và dầu thô có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 5 tỷ USD còn có thêm 5 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD là thuỷ sản, giày dép, hàng điện tử, sản phẩm gỗ và gạo. Các mặt hàng gạo, cà phê tiếp tục duy trì vị trí thứ 2 thế giới, hạt tiêu đứng đầu thế giới, hạt điều đứng thứ 3 thế giới... Đã bước đầu thực hiện được mục tiêu cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định. Chất lượng hàng xuất khẩu từng bước được nâng lên; năng lực cạnh tranh được cải thiện. Xuất khẩu dịch vụ thời kỳ 2001-2005 dự kiến đạt 21,1 tỷ USD, tốc độ tăng bình quân 15,7%/năm, bằng khoảng 19% so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá, xấp xỉ mức bình quân của thế giới (bình quân của thế giới là 20%), trong đó, một số ngành dịch vụ xuất khẩu đạt khá như: hàng không, bưu chính viễn thông, hàng hải, tài chính - ngân hàng, du lịch. Cơ cấu thị trường xuất khẩu có nhiều chuyển biến tích cực, giảm dần sự phụ thuộc vào khu vực thị trường Châu á, ổn định xuất khẩu vào thị trường Châu Âu, tăng nhanh xuất khẩu vào thị trường Châu Mỹ đặc biệt là thị trường Mỹ. Ngoài ra còn mở được nhiều thị trường mới có nhiều tiềm năng trong những năm tới. + Về nhập khẩu. Cùng với chủ trương khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu có vai trò hết sức quan trọng và nhà nước rất quan tâm nhằm vào mục tiêu cho phát triển sản xuất, thị trường nội địa phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và nhanh chóng hội nhập vào thị trường quốc tế. Nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 2001- 2005 đạt 129,6 tỷ USD, tăng gần 2,1 lần so với tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá thời kỳ 1996-2000, tốc độ tăng bình quân 18,5%/năm. Nhập khẩu hàng hoá về cơ bản đã thực hiện được chủ trương nhập khẩu đảm bảo phục vụ có hiệu quả cho phát triển sản xuất và đổi mới công nghệ, thúc đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hoá, đáp ứng nhu cầu cần thiết của đời sống và xuất khẩu. Về cơ cấu nhập khẩu, nhóm hàng nguyên, nhiên vật liệu chiếm tỷ trọng ưu thế, tốc độ tăng bình quân 5 năm đạt 17,9%, chiếm tỷ trọng 61,5% tổng kim ngạch nhập khẩu; nhóm hàng máy móc, thiết bị, phụ tùng: tốc độ tăng bình quân 5 năm là 19,6%, chiếm tỷ trọng 31,5%; nhóm hàng tiêu dùng có tốc độ tăng bình quân 5 năm là 18,9%, chiếm tỷ trọng 7,1%. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị và phụ tùng, giảm tỷ trọng nhập khẩu nguyên, nhiên vật liệu. Nhập khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước chiếm tỷ trọng chi phối nhưng có xu hướng giảm dần, dự kiến năm 2005 chiếm 65%, toàn thời kỳ 2001-2005 chiếm 65,8%. Tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước có xu hướng tăng dần, toàn thời kỳ 2001-2005 chiếm 34,2%. Nhập siêu hàng hoá tuy ở mức khá cao, nhưng đã được kiềm chế và nằm trong tầm kiểm soát; cả thời kỳ 2001-2005 nhập siêu khoảng 20,5 tỷ USD, bằng 18,8% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá. Tình trạng nhập siêu gia tăng xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là: nhóm hàng nguyên, nhiên vật liệu, máy móc, thiết bị phục vụ đầu tư xây dựng cơ bản và mở rộng năng lực sản xuất, phục vụ xuất khẩu tăng nhanh. Giá cả nhiều mặt hàng nhập khẩu chủ chốt trên thị trường thế giới tăng cao do giá dầu thô tăng nhanh. Một số đồng tiền mạnh như Euro, Yên Nhật đã tăng giá khá mạnh so với USD, làm cho chi phí nhập khẩu tính theo USD tăng lên. Nhu cầu mua sắm hàng hoá nhập khẩu để cải thiện cuộc sống của dân cư cũng tăng mạnh. Nhập khẩu dịch vụ: Tổng kim ngạch nhập khẩu dịch vụ 5 năm 2001-2005 dự kiến đạt 21,2 tỷ USD, tăng bình quân 10,3%. Trong hợp tác đầu tư vốn nước ngoài. + Đầu tư gián tiếp. Bước vào kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, do khó khăn kinh tế toàn cầu, nguồn ODA của thế giới có xu hướng giảm đáng kể. Tuy nhiên, nguồn ODA mà các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam vẫn liên tục tăng lên; điều này thể hiện sự đồng tình và ủng hộ của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đối với chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Việc ký kết các điều ước quốc tế cụ thể về ODA trong 5 năm đã diễn ra ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35790.doc
Tài liệu liên quan