Thực trạng lạm phát tiền tệ và sự vận dụng ở Việt Nam

Tài liệu Thực trạng lạm phát tiền tệ và sự vận dụng ở Việt Nam: ... Ebook Thực trạng lạm phát tiền tệ và sự vận dụng ở Việt Nam

doc19 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1544 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng lạm phát tiền tệ và sự vận dụng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU Cụm từ “Lạm phát” luôn gắn liền khi chúng ta nói đến quá trình phát triển kinh tế. Tại sao vậy? Lạm phát là gì, có tác động gì đến nền kinh tế, thực trạng lạm phát ở nước ta thế nào, chúng ta có những giải pháp gì để giải quyết vấn đề này ??? Tôi chắc rằng có lẽ tất cả chúng ta đều có những kiến thức sơ qua về vấn đề này, tuy nhiên không phải ai cũng hiểu rõ và hiểu chính xác về Lạm phát tiền tệ- một cái gai nhức nhối- một căn bệnh kinh niên của nền kinh tế hàng hoá! Thực tế cho thấy rằng trong giai đoạn hơn 20 năm vừa qua ( từ 1985 đến 2007) tỷ lệ lạm phát ở nước ta đã biến động rất mạnh qua từng năm. Tỷ lệ lạm phát giữa các năm chênh lệch khá lớn, gây ra nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng đối với sự phát triển kinh tế. Về mặt lý thuyết, trong lý thuyết tiền tệ cổ điển và cận đại, cũng như hiện đại, lạm phát tiền tệ vẫn được xem như một vấn đề nan y mà không có cách nào có thể loại bỏ nó ra khỏi đời sống kinh tế. Lạm phát tiền tệ mang lại nhiều tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế vì nó luôn luôn gắn với tình trạng mất giá của đồng tiền. Khi tình trạng mất giá của đồng tiền xảy ra thường xuyên và liên tục với mức độ lớn thì moị hoạt động kinh tế sẽ bị đình trệ, nhiều vấn đề tiêu cực trong đời sống kinh tế xã hội sẽ nảy sinh. Cho đến nay, con người vẫn chưa thể tìm ra giải pháp để triệt phá nó tận gốc mà chỉ mới biết cách kìm chế và đẩy lùi nó. Vì vậy, lạm phát đã, đang, và sẽ ảnh hưởng nhiều mặt đến nền kinh tế sản xuất hành hoá hiện nay của nước ta cũng như nền kinh tế các nước trên thế giới nói riêng. Đây luôn là vấn đề kinh tế mà tính thời sự của nó có thể nói là hàng ngày hàng giờ. Đây cũng là vấn đề kinh tế rất phức tạp đòi hỏi phải có một sự trao đổi, nghiên cứu thật đầy đủ, toàn diện và sâu sắc, dựa trên cơ sở những nguyên lý về lạm phát tiền tệ cũng như thực tiễn của đất nước mới có thể có những quan niện chính xác và có tính khả thi cao. Là một sinh viên kinh tế, em có trách nhiệm phải tìm tòi học hỏi về các vấn đề của nền kinh tế, đặc biệt là những vấn đề nóng hổi như Lạm phát tiền tệ, cùng với nhưng kiến thức đã được học trên lớp, nhằm mục đích trang bị cho mình một kiến thức chuyên môn và xã hội phong phú, phục vụ cho tương lai sau này. Vì tất cả nhưng lý do trên đây, em quyết định chọn đề tài “ Thực trạng lạm phát tiền tệ và sự vận dụng lạm phát ở Việt Nam” đề nghiên cứu. Do kiến thức còn hạn hẹp nên bài tiểu luận của em không tránh khỏi những thiếu xót, mong các thầy cô chỉ bảo thêm cho em! PHẦN NỘI DUNG A/ MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT I/ Bản chất của lạm phát 1.Lạm phát là gì? Lạm phát được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các nhà kinh tế với những khái niệm khác nhau. Theo Các Mác trong bộ Tư bản: Lạm phát là việc tràn đầy các kênh,các luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa, dẫn đến giá cả tăng vọt. Ông cho rằng ngoài giá trị thặng dư, CNTB còn gây ra lạm phát để bóc lột người lao động một lần nữa do lạm phát làm tiền lương thực tế của người lao động giảm xuống. Nhà kinh tế học Samuelson thì cho rằng: Lạm phát biểu thị một sự tăng lên trong mức giá cả chung.Theo ông: “Lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng, giá bánh mì, dầu xăng, xe ô tô tăng, tiền lương, giá đất, tiền thuê tư liệu sản xuất tăng.” Còn Milton Friedman thì quan niệm: “Lạm phát là nhanh và kéo dài”. Ông cho rằng: đa số các nhà kinh tế phái tiền tệ và phái Keynes tán thành. Hiện nay, lạm phát được định nghĩa: Trong kinh tế học,lạm phát là sự tăng lên liên tục theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế. Điều này không nhất thiết có nghĩa là giá cả của mọi hàng hoá và dịch vụ đồng thời phải tăng lên theo cùng một tỉ lệ, mà chỉ cần mức giá trung bình tăng lên. Một nền kinh tế vẫn có thể trải qua lạm phát khi giá của một số hàng hoá giảm, nếu như giá của các hàng hoá và dịch vụ khác đủ mạnh. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường khi nói tới theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu nó là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn khi hiểu theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu nó như là lạm phát của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự ổn định giá cả. 2.Đo lường Để đo lường mức độ lạm phát mà nền kinh tế trải qua trong một thời kỳ nhất định, các nhà thầu kinh tế sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ lạm phát được tính bằng phần trăm thay đổi của mức giá chung. Tỷ lệ lạm phát cho thời kỳ t được tính theo công thức sau: Л t = P t – P t-1 x 100 % P t –1 Trong ®ã: Л t : Tỷ lệ lạm phát của thời kỳ t (có thể là tháng, quý, hoặc năm) P t : Mức giá của thời kỳ t P t –1 : mức giá của thời kỳ trước đó Rõ ràng là để tính được tỷ lệ lạm phát, trước hết các nhà thống kê phải quyết định sử dụng chỉ số giá nào để phản ánh mức giá. Người ta thường sử dụng chỉ số điều chỉnh GDP và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) để đo lường mức giá chung. Tuy nhiên, nếu mục tiêu xác định ảnh hưởng của lạm phát đến mức sống thì rõ ràng chỉ số giá tiêu dùng tỏ ra thích hợp hơn. Trong thực tế, các số liệu công bố chính thức về lạm phát thường được tính trên cơ sở CPI. 3.Phân loại Lạm phát thường được phân loại theo tính chất hoạc mức độ. Khi bàn về tác động của lạm phát ta sẽ nói đến việc phân loại theo tính chất, còn trong mục này, ta sẽ phân loại lạm phát theo mức độ của tỷ lệ lạm phát. Theo tiêu thức này, các nhà kinh tế thường phân biệt 3 loại lạm phát : Lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát. Lạm phát vừa phải : là lạm phát ở mức thấp và có thể dự đoán được, lạm phát dưới một con số, mọi người tin tưởng vào đồng tiền và sẵn sàng gửi tiền cũng như ký hợp đồng dài hạn theo giá trị tính bằng tiền. Lạm phát phi mã : là lạm phát trong phạm vi hai con số hoặc ba con số một năm. Làm phát phi mã làm xuất hiện nhiều biến dạng kinh tế quan trọng, có thể gây khủng hoảng các thị trường tài chính. Siêu lạm phát : là lạm phát xảy ra khi giá cả tăng với tỷ lệ cao tới con số hàng ngàn, hàng triệu phần một năm. Lạm phát ở Đức trong những năm 1992,1993 là một ví dụ điển hình. Từ tháng giêng 1992 đến tháng 1 năm 1993, chỉ số giá tăng từ 1 triệu lên 10 triệu. Siêu lạm phát làm rối loạn nền kinh tế. II / Những tác động của lạm phát tới nền kinh tế 1.Tác động của lạm phát tới tăng trưởng kinh tế Có rất nhiều tranh luận xung quanh mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Các nhà kinh tế theo trường phái lập luận cho rằng lạm phát và tăng trưởng kinh tế có quan hệ tỷ lệ thuận, nếu có tăng trưởng kinh tế tất có lạm phát. Có thể khái quát lý thuyết này qua công thức đơn giản sau : g = GDP1/GDP0 = P1xQ1/P0xQ0 Trong đó: g – Tăng trưởng kinh tế. GDP1 - tổng sản phẩm quốc nội năm tính toán. GDP0 - Tổng sản phẩm quốc nội năm trước năm tính toán. P1 - Mức giá chung năm tính toán. P0 - Mức giá chung năm trước năm tính toán. Q1 - Mức hàng hoá hiện vật năm tính toán. Q0 - Mức hàng hoá hiện vật năm trước năm tính toán. Với lí luận này, ở một số nước đang phát triển, lạm phát được coi là yếu tố tích cực để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Bởi lẽ lạm phát làm tăng tiết kiệm và đầu tư do chuyển thu nhập từ những người làm công ăn lương sang thu nhập của các nhà kinh doanh lấy lãi. Và nếu giá tăng nhanh sẽ có xu hướng làm ăn lương sang thu nhập của các nhà kinh doanh lấy lãi. Và nếu giá tăng nhanh sẽ có xu hướng làm tăng khoản tiết kiệm từ lợi nhuận cao hơn tăng khoản tiết kiệm từ tiền lương. Mức đầu tư và tiết kiệm thực tế sẽ tăng lên. Kết quả đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế khác lại cho rằng lạm phát làm mức lãi suất thực tế giảm, tạo ra mất cân bằng ở thị trường vốn. Điều này làm cho cung nguồn vốn đầu tư giảm, đầu tư tư nhân bị hạn chế. Do đó lạm phát đưa đến lãi suất thực dương và mất cân bằng ở thị trường vốn, kết quả là đầu tư và tăng trưởng kinh tế giảm. Kết quả nghiên cứu của Bruno (1995) cho thấy rằng tăng trưởng giảm mạnh trong các thời kỳ lạm phát cao (>40%). Và nhìn chung tăng trưởng được khôi phục nhanh sau khi lạm phát được ổn định. Sarel (1996) cũng cho thấy rằng ảnh hưởng xấu của lạm phát vào tăng trưởng kinh tế bắt đầu đáng kể khi mức lạm phát thấp hơn (khoảng 8 đến 10% một năm). 2.Tác động của lạm phát tới lãi suất Lãi suất và lạm phát có mối quan hệ khăng khít với nhau. Lãi suất là giá của tiền tệ, nên lãi suất phải dương mới không làm đồng tiền mất giá. Muốn có lãi xuất thực dương thì lãi suất danh nghĩa phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát, do lãi xuất thực dương bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát và lớn hơn không. Lãi suất thực dương tăng thì lạm phát giảm và lãi suất thực dương giảm thì lạm phát tăng. Nếu lãi suất dương quá cao sẽ đưa đến thiểu phát và làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Lãi suất thưc dương quá cao dẫn đến làm giảm đầu tư phát triển và có nguy cơ rủi ro cao đối với an toàn của hệ thống ngân hàng vì lãi suất thực dương cao thì khả năng kinh doanh có hiệu quả cao để đủ có lãi và trả được nợ của các doanh nghiệp cho ngân hàng là rất khó khăn. Nguy cơ phá sản và nợ không trả được cho ngân hàng của các doanh nghiệp là chắc chắn, nên các ngân hàng cũng nằm trong nguy cơ phá sản lớn. 3.Tác động của lạm phát đến thất nghiệp Năm 1958, nhà kinh tế A.W.Phillips đã chỉ ra rằng mối quan hệ giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp là mối tương quan nghịch. Nghĩa là những năm nước Anh có thất nghiệp thấp thì tiền lương thường tăng nhanh và ngược lại. Mối tương quan này nảy sinh là vì thất nghiệp thấp gắn với tổng cầu cao, đồng thời tổng cầu cao lại tạo áp lực đẩy tiền lương và giá cả tăng lên trong toàn bộ nền kinh tế. Mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa lạm phát và thất nghiệp được thể hiện qua đường Phillíp : Tỷ lệ lạm phát 6 2 Đường Phillips 0 4 7 Tỷ lệ thất nghiệp Hình 1 Đường Phillíp cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách một thực đơn về các kết cục kinh tế có thể xảy ra. Vị trí của đường Phillips ngắn hạn phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát dự kiến. Đường Phillips π dài hạn, PCLR πe1 PC1 πe0 PC0 U* U Hình 2 Nếu tỷ lệ lạm phát dự kiến tăng từ πe0 l ên πe1 thì đường Phillips dịch chuyển lên trên từ PC0 đến PC1 và sự đánh đổi mà các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt trở nên bất lợi hơn, lạm phát cao hơn tại mọi mức thất nghiệp. Ngược lại nếu tỷ lệ lạm phát dự kiến giảm từ πe1 xuống πe0 thì đường Phillíp sẽ dịch chuyển xuống dưới và sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp mà các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt trở nên thuận lợi hơn, lạm phát thấp hơn tại mọi mức thất nghiệp. Đường Phillips ngắn hạn cũng có thể dịch chuyển do các cú sốc cung. Ví dụ: giá dầu thế giới tăng vọt, điều này làm tăng chi phí sản xuất, đường tổng cung ngắn hạn của các nước nhập khẩu dầu mỏ dịch chuyển sang trái dẫn tới hiện tượng giá cả tăng, sản lượng giảm - hiện tượng lạm phát đi kèm suy thoái. Do cả lạm phát và thất nghiệp đều tăng nên hiện tượng này tương ứng với sự dịch chuyển lên trên của đường Phillips ngắn hạn. Các nhà hoạch định chính sách phải chấp nhận tỷ lệ lạm phát cao hơn tại mỗi mức thất nghiệp hoặc thất nghiệp cao hơn tại mỗi tỷ lệ lạm phát. Nếu quyết định kích tổng cầu để cắt giảm thất nghiệp, họ sẽ đẩy lạm phát tiếp tục dâng lên. B/ THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC I/ Thực trạng lạm phát ở nước ta 1.Thời kỳ trước đổi mới (trước năm 1986) Nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp nên vấn đề giá cả chưa chịu tác động của qui luật thị trường và do đó lạm phát không xuất hiện.Tuy nhiên, giai đoan 1976- 1985, nền kinh tế có nhiều biểu hiện suy thoái, khủng hoảng và lạm phát. Thời kì này, vay nợ nước ngoài chiếm 38,2% tổng số thu NSNN và bằng 61,9% tổng số thu trong nước. Bội chi NSNN vào năm 1980 là 18,1% và năm 1985 là 36,6% so với GDP. Đây là tình trạng đất nước làm không đủ ăn, tình hình kinh tế, xã hội khó khăn không kể xiết. 2.Thời kỳ bắt đầu đổi mới (1986 – 1990) Bước sang thời kì đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Sau Đại hội Đảng VI cuộc đổi mới đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ, nhất là từ năm 1989. Tuy nhiên, đây vẫn là thời kì khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế phát triển chậm và bất ổn định.Trong giai đoạn này hầu hết các cân đối lớn đều căng thẳng: Thâm hụt ngân sách ở mức 8% so với GDP, lạm phát phi mã đã được đẩy lùi song vẫn còn rất cao (từ 478,2 % năm 1986 còn 67,1% năm 1990) . 3.Thời kỳ nền kinh tế đi vào ổn định (1991 – 1995) Giai đoạn 1991-1995 ,tình hình kinh tế -xã hội nước ta có nhiều chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng đạt khá cao, liên tục và toàn diện, nền kinh tế bắt đầu vượt qua khủng hoảng và đi vào ổn định.Tổng sản phẩm trong nước tăng hơn 8,2 %, vượt trội hơn so với tất cả các giai đoạn trước đó, ổn định và liên tục tăng trưởng từ bản thân nền kinh tế ít dựa vào bao cấp và trợ lưc từ nước ngoài. Lạm phát bắt đầu được đẩy lùi. Chỉ số CPI từ 67,1% (1990) còn 12,7 % (1995). Tỉ lệ lam phát: 1991: 67,1% 1994: 14,4% 1992: 17,5% 1995: 12,7% 1993: 5,2% Tuy lạm phát vẫn ở mức hai con số song đây chỉ là một chỉ số rât nhỏ so với các năm trước đó. ( Đồ thị 1) Đồ thị 1 4.Thời kỳ nền kinh tế có dấu hiệu trì trệ ( 1996 – 2000 ) Bước sang giai đoạn 1996_2000, tình hình kinh tế - xã hội đi vào thế ổn định và phát triển. Tuy nhiên, khủng hoảng kinh tế khu vực dã có tác động không nhỏ đến nền kinh tế nước ta. Nền kinh tế phải đối mặt vơí những thách thức quyết liệt từ những yếu tố không thuận lợi bên ngoài và thiên tai liên tiếp ở trong nước. Điểm đặc biệt trong thời kì này là đi cùng vơí tốc độ tăng trưởng nền kinh tế có chiều hướng chững lại và đi xuống thì tỉ lệ lạm phát dưới mức kiểm soát và chuyển sang xu thế thiểu phát. Tỉ lệ lạm phát: 1995:12,7% đến năm 2000 là :- 0,6% (1996: 4,5% ; 1997: 3,6% ; 1998:9,0% ; 1999:0,1 % ) Đồ thị 2 5.Thời kỳ nền kinh tế có những bước phát triển mới (2001 – 2004) Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và ổn định, trong bốn năm 2001-2004, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu khả quan. Tốc độ tăng trưởng tương đối cao, mọi mặt của đời sống xã hội được cải thiện và phát triển: Tỉ lệ lạm phát trong các năm giai đoan này cũng tăng dần lên từ -0,6% năm 2000 lên 9,5 % năm 2004 (Năm 2001,chỉ số giá ở mức 0,8%, 2002 là 4%, năm 2003 là 3,0%). Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển mạnh của nền kinh tế, năm 2004, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là 9,5 %, mức tăng cao nhất trong 9 năm qua và cũng là năm đầu tiên kể từ năm 1999, tỉ lệ lạm phát vượt ngưỡng do quốc hội đề ra (5%). 6.Lạm phát trong các năm 2004, 2005, 2006 và năm 2007 a, Lạm phát hai năm 2004 - 2005 Câu chuyện lạm phát trở lại vào năm 2004, chỉ mới tháng 2 thì nó bắt đầu tăng vọt môt cách không ngờ lên 4,2 % sau hơn 10 năm yên ắng, lạm phát tiếp tục tăng cho đến những tháng cuối cùng của năm rồi dừng lại đột ngột ở mức 9,5%. Và lạm phát không chỉ như cơn gió thoảng qua, năm 2005, tỉ lệ lạm phát ở mức 8,5 %. Nguyên nhân gây nên lạm phát không chỉ do ảnh hưởng của giá cả thế giới tăng, giá dầu thô vẫn không ngừng gia tăng và dịch cúm gia cầm vẫn chưa được giải trừ. Lí lẽ thứ hai cho rằng lạm phát bắt nguồn từ tiền tệ, nghĩa là sự tăng cung tiền một cách quá mức. Ở cách lý giải này, dù bất cứ giá cả của loại hàng hoá nào có tăng thì sẽ có giá cả của hàng hoá nào đó phải giảm nếu lượng tiền trong nền kinh tế là không đổi. Và bất cứ trường hợp nào gây tăng giá đều bắt nguồn từ nguyên nhân tiền tệ. Bằng cả hai cách đo cơ bản bổ sung cho nhau là khối lượng tiền mạnh và khối lượng tiền tệ bơm ra cho nền kinh tế đều cho thấy tốc độ tăng hàng năm là quá cao và trong một thời gian dài. Lâp luận này còn thuyết phục hơn khi đặt câu hỏi so sánh lạm phát Việt Nam so với các nước có hoàn cảnh tương tự. Chẳng hạn như nhiều nước trên thế giới đều ảnh hưởng giá dầu tăng và thậm chí nền kinh tế của họ tiêu dùng nhiều xăng dầu hơn cả Việt Nam nhưng lạm phát không vượt quá mức 3% . Hai quan điểm trên có lập luận hoàn toàn dựa trên bằng chứng thuyết phục nhưng khác nhau về cách tiếp cận. Tuy nhiên, cả hai đều đưa ra được nguyên nhân gây ra lạm phát tại Việt Nam và đã có nhiều dấu hiệu cho thấy lạm phát là lạm phát tiền tệ. Trong thời gian tới, tỉ lệ lạm phát dự kiến vẫn ở mức cao và điều đó thực sự đã đặt chúng ta trước vấn đề phải kiềm chế và giảm lạm phát, bảo đảm cho mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững. b,Lạm phát năm 2006 Năm 2006, lạm phát CPI tăng 6,6%, thấp hơn nhiều so với mức tăng 8,5% của cùng kỳ năm 2005. Điều đặc biệt là nếu như năm 2005, lạm phát CPI và lạm phát nhóm hàng Lương thực thực phẩm (LTTP nằm trrong nhóm hàng Hàng ăn và dịch vụ ăn uống) đều giảm so với năm trước (8,5% so với 9.5% và 10.8% so với 15.6%) còn ngược lại lạm phát của các nhóm hàng chi phí LTTP và lạm phát bình quân lại tăng thì bước sang năm 2006, cả 4 chỉ tiêu lạm phát CPI, LTTP, phí LTTP và lạm phát bình quân đều giảm so với năm 2005. Trong 10 nhóm hàng hoá, thì 5 nhóm hàng có mức tăng thấp hơn so với mức tăng của năm 2005, đó là: Lương thực thực phẩm, Phương tiện đi lại bưu điện, Nhà ở vật liệu xây dựng, Giáo dục, Dược phẩm y tế, 5 nhóm còn lại là May mặc, mũ nón giày dép, Thiết bị đồ dùng gia đình, Đồ uống thuốc lá, Văn hoá thể thao giải trí, Hàng hoá dịch vụ khác lại có mức tăng cao hơn năm ngoái. Có thể đánh giá các nguyên nhân tác động đến lạm phát năm 2006 như sau :   - Các yếu tố làm giảm lạm phát: Thứ nhất: Mức tăng của giá cả nhiều mặt hàng trên thế giới và trong nước đều thấp hơn năm ngoái.        Năm 2006 theo đánh giá của IMF, mức tăng 15% của nhiều mặt hàng thiết yếu đầu vào của sản xuất thấp hơn mức tăng 29% của cùng kỳ năm ngoái đã góp phần làm giảm áp lực lên giá thành các hàng hoá nhập khẩu, tác động làm lạm phát nhập khẩu giảm, qua đó làm giảm lạm phát CPI.   Thứ hai: Sức ép về tăng trưởng kinh tế giảm hơn so với năm ngoái: Dự kiến tăng trưởng kinh tế của năm 2006 đạt 8,2%, thấp hơn mức tăng 8.4% của năm 2005, thể hiện sức ép về bên cầu đã giảm bớt; điều này đã góp phần làm lạm phát năm nay có mức tăng thấp hơn cùng kỳ. Thứ ba: Các giải pháp để kiềm chế giá của Chính phủ và các Bộ, ngành: Năm 2006, Chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp nhằm giảm bớt tốc độ tăng của giá cả nguyên vật liệu đầu vào của sản xuất (cơn sốc phía cung) để kiềm chế mức tăng của giá cả. Thứ tư: Điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt đã phát huy tác dụng kiềm chế tăng giá. Các yếu tố làm tăng lạm phát: Thứ nhất: Tiền lương và thu nhập của công chúng gia tăng. Thứ hai: Giá lương thực tiếp tục tăng mạnh so với cùng kỳ. Thứ ba: Thị trường chứng khoán gia tăng đột biến. Giá cổ phiếu tăng mạnh do các nhà đầu tư kỳ vọng vào việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO và Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC cùng với các cam kết của các tổ chức quốc tế và các Chính phủ về việc sẽ tăng cường tài trợ vốn cho Việt Nam. Như vậy, nếu như năm 2005 lạm phát gia tăng là do tác động từ cả cơn sốc về cung và sức ép bên cầu, thể hiện ở việc xăng dầu có mức tăng cao hơn cùng kỳ và GDP tăng 8,4%, đạt mức cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây; thì năm 2006 lạm phát giảm là do cả hai nhân tố từ bên cầu và cung đều giảm, xuất phát từ giá LTTP, xăng dầu và GDP đều có mức tăng thấp hơn cùng kỳ. b,Lạm phát hai quý đầu năm 2007 Sau đây là một số nhân tố được dự báo sẽ làm tăng hoặc giảm lạm phát trong năm nay: * Dự báo các nhân tố làm lạm phát tăng: Dự kiến tăng trưởng kinh tế năm 2007 sẽ đạt 8,2-8,5%, cao hơn mức tăng 8,2% của năm 2006 Chính phủ tiếp tục thực hiện điều chỉnh tiền lương theo Đề án cải cách tiền lương sẽ tác động mạnh làm gia tăng sức mua của nền kinh tế cũng như yếu tố lạm phát kỳ vọng. Việt Nam gia nhập WTO từ tháng 11/06 sẽ làm gia tăng nhu cầu vốn đầu tư. Giá một số mặt hàng chủ yếu sẽ được điều chỉnh tăng do theo định hướng của Chính phủ năm 2007 các mặt hàng xi măng, thép, phân bón sẽ kinh doanh theo giá thị trường và Nhà nước sẽ không bù lỗ giá xăng, giảm mạnh bù lỗ giá dầu; hạn chế xuất khẩu và không bù lỗ giá than (trừ giá than cung cấp cho phát điện), không bao cấp tràn lan.  * Dự báo các nhân tố làm lạm phát giảm: Theo lộ trình gia nhập WTO và các cam kết khác thì hàng rào bảo hộ phi thuế dần sẽ được dỡ bỏ, thuế suất nhiều mặt hàng sẽ giảm thấp cũng góp phần làm giảm chi phí của doanh nghiệp. Điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt vẫn được duy trì và phát huy tác dụng nhằm mục tiêu chỉ số giá tiêu dùng thấp hơn tăng trưởng kinh tế. Vây thực tế đầu năm 2007, Lạm phát đã biến động thế nào? N¨m Tû lÖ l¹m ph¸t 1981 - 1985 60% 1986 714 1990 51 1991 67,5 1992 17,5 1993 5,2 1994 14,4 1995 12,7 1996 4,5 1997 5,6 1998 9,2 1999 0,1 2000 -0,6 2001 0,8 (!) 2002 0,5 2003 3 2004 9,5 2005 6,5 (!) Lạm phát ở Việt Nam giảm vào cuối năm 2006, nhưng lại tăng trở lại vào đầu năm 2007. Năm 2006 chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam tăng 6,6%. Nhưng sang đầu năm 2007 CPI bắt đầu có chiều hướng tăng mạnh trở lại, cho dù Bộ Tài chính đã cắt giảm thuế nhập khẩu gần 2.000 mặt hàng theo lộ trình giảm thuế mà Việt Nam đã cam kết thực hiện khi gia nhập WTO. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong quí đầu năm nay CPI tăng tới 3,02%. Những nhóm hàng có giá tăng nhanh nhất là nhà ở và vật liệu xây dựng (4,89%), lương thực thực phẩm (4,18%) và đồ uống, thuốc lá (3,46%). Một số chuyên gia kinh tế dự báo, giá cả có thể sẽ tiếp tục tăng nóng trong quí 2 do tác động của giá dầu trên thế giới, sự nóng lên của thị trường nhà đất, cùng với những yếu tố bất lợi ảnh hưởng đến sản lượng của ngành nông nghiệp và chăn nuôi ở trong nước. Tiến sĩ Trần Đình Thiên, Trưởng ban Kinh tế vĩ mô thuộc Viện Kinh tế Việt Nam, nói: “Tuy mức chênh lệch chỉ số giá tiêu dùng quí 1 năm nay so với cùng kỳ năm ngoái chỉ có 0,22 điểm phần trăm, nhưng có nhiều cơ sở để tin rằng giá cả nhiều mặt hàng sẽ còn tăng mạnh. Chẳng hạn như việc tăng giá điện, than và xăng dầu. Tình trạng hạn hán, dịch bệnh trong nông nghiệp và chăn nuôi dẫn đến cung cầu bị mất cân đối. Ngoài ra, Chính phủ cũng đang rút dần việc kiểm soát giá đối với các mặt hàng quan trọng là xăng, dầu và than để cho thị trường tự điều chỉnh”. Nguyên nhân làm lạm phát tăng: Thứ nhất: Nhóm hàng Lương thực thực phẩm là yếu tố chính đã thúc đẩy lạm phát tăng , đóng góp nhiều nhất vào tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng trong ba tháng đầu năm nay. Theo cách tính của Tổng cục Thống kê, quyền số của nhóm hàng này chiếm tới 42,8% trong chỉ số giá chung, nên việc giá lương thực thực phẩm tăng 4,18% đã làm cho chỉ số giá tiêu dùng chung tăng gần 1,8 điểm phần trăm. Điều đáng chú ý là giá các mặt hàng lương thực, thực phẩm tăng trong thời gian qua không xuất phát từ nguyên nhân mất giá của đồng Việt Nam, mà chủ yếu là do quan hệ cung - cầu và các yếu tố khách quan khác ( dịch bệnh trên lúa, hạn hán, cúm gia cầm…làm sản lượng cua ngành chăn nuôi giảm, nghành chếcbiến thuỷ sản thiếu nguyên liệu, đồng thời giá các loại vật tư nông nghiệp, như phân bón, xăng dầu thời gian qua cũng tăng mạnh, làm tăng giá thành nông sản ) Thứ hai: Chi phí giao thông tăng đi lại do ảnh hưởng của giá dầu tăng và nhà ở cũng như các nguyên vật liệu điện, dầu ăn, xi măng, gạch xây nhà… Sự biến động của giá xăng, dầu, cùng với quyết định cho phép tăng giá bán điện, than của Chính phủ đã ảnh hưởng không ít tới giá thành sản phẩm của ngành công nghiệp và dịch vụ. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, trong điều kiện hiệu quả sử dụng năng lượng của ngành công nghiệp Việt Nam khá thấp so với nhiều nước trong khu vực, cộng với năng suất lao động thấp, chi phí quản lý cao, việc nhiên liệu, điện tăng giá sẽ làm cho giá thành sản phẩm của doanh nghiệp trong nước tăng nhanh hơn đối thủ cạnh tranh từ nước ngoài. Do vậy, sức ép tăng giá càng mạnh hơn. Ngoài ra, mức độ tăng giá cả còn liên quan trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Theo Ngân hàng Phát triển châu Á, cho đến nay tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chủ yếu dựa vào tăng tỷ lệ đầu tư. Hiện nay, tỷ lệ đầu tư cho nền kinh tế của Việt Nam đã chiếm tới 40% tổng thu nhập trong nước (GDP), cao thứ hai thế giới sau Trung Quốc (43%). Thế nhưng, hiệu quả đầu tư lại giảm sút nghiêm trọng. Số liệu của ADB công bố cho thấy, trong giai đoạn 1996-2000, để tạo ra một đồng GDP Việt Nam phải bỏ ra 3,7 đồng để đầu tư và đến 2000-2005 con số này đã tăng lên 4,6 đồng. ADB dự báo, với tình trạng như hiện nay, thì trong giai đoạn 2006-2010 tỷ lệ giữa số tiền bỏ ra đầu tư và GDP tạo ra sẽ tăng lên 5,1. Cũng theo ADB, một đô la Mỹ đầu tư cho sản xuất ở Việt Nam chỉ tạo ra 2,3 đơn vị sản phẩm, trong khi Thái Lan đạt tới 3,4 và Trung Quốc là 2,7. Các yếu tố trên kêt hợp lại làm thúc đẩy lạm phát trong năm 2007. Tuy đó chưa phải là mức đáng báo động nhưng cũng phải rất chú ý, đạc biệt đối với các nhà chính sách. Về cân đối thu chi Ngân sách Nhà nước (NSNN), năm 2006 giảm mạnh nhờ tăng trưởng về xuất khẩu dầu thô. Tuy nhiên, Ngân hàng thế giới cho rằng năm 2007,việc sản xuất dầu thô sẽ không tăng mà giảm nhẹ so với năm ngoái, vì thế giá dầu thô sẽ không có xu hướng tăng cao, vì thế ngân sách Nhà nước có thể bị thâm hụt nhiều hơn. Như vậy, để phát triển bền vững và kiềm chế lạm phát, vấn đề quan trọng là cải cách để nâng cao hiệu quả quản lý, tránh lãng phí và chống tham nhũng để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Ngoài ra, thay cho mô hình tăng trưởng dựa vào tỷ lệ đầu tư trên GDP, các chuyên gia của ADB khuyên Việt Nam nên nhanh chóng áp dụng mô hình tăng trưởng hiệu quả, nghĩa là tăng cường đầu tư cho công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực để cải thiện khả năng cạnh tranh II/ Môt số giải pháp thực hiện chống lạm phát Để thực hiện mục tiêu chống lạm phát trong dài hạn và điều chỉnh trong ngắn hạn, Chính phủ, các Bộ, các Ngành (Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Tổng cục thống kê,...) không thể chỉ sử dụng một giải pháp đơn lẻ mà cần phải sử dụng tổng hợp hệ thống các nhóm giải pháp sau một cách hài hoà và hợp lý. 1.Xây dựng phương pháp tính toán lạm phát cơ bản, dự báo lạm phát Ngân hàng nhà nước (NHNN) và tổng cục thống kê cần phối hợp nghiên cứu, sớm đưa vào phương pháp tính toán lạm phát cơ bản, dự báo lạm phát làm cơ sở dự báo cho sự phát triển kinh tế vĩ mô, loại bỏ bớt các yếu tố gây sốc về giá cả thị trường, xác định rõ nguyên nhân để có những quyết sách hợp lý. Việc tính toán và công bố chỉ số tăng giá hàng tiêu dùng CPI sẽ làm cơ sở cho việc dự báo sự phát triển kinh tế vĩ mô, tạo thế chủ động trong việc điều hành chính sách tìên tệ và nâng cao niềm tin của các chủ thể kinh tế. 2.NHNN cần tăng cường phát triển các nghiệp vụ NHNN - Tạo môi trường cho lãi suất của Ngân hàng Trung ương (NNTƯ) tác động thực sự đối với lãi suất trên thị trường. - NHNN cần nâng cấp thị trường tiền tệ, hoàn thiện công cụ điều hành lãi suất (đặc biệt lãi suất tái cấp vốn), linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ khác tương xứng với xu thế và tiến độ hội nhập. Lãi suất tái cấp vốn cần được xác định dựa trên mức độ tăng trưởng GDP mong muốn, mức độ lạm phát dự báo và những mục tiêu của chính sách tiền tệ. 3.Tăng cường quản lý và nâng cao dự trữ tiền tệ quốc gia Muốn vậy, cần tập trung quản lý chu chuyển nguồn ngoại tệ từ xuất khẩu thông qua hệ thống Ngân hàng thương mại. Điều đó sẽ giúp NHNN chủ động trong điều tiết quan hệ cung - cầu ngoại tệ, đảm bảo bình ổn tỷ giá. Việc tập trung quản lý ngoại tệ vào NHNN cũng giúp hạn chế tối đa việc sử dụng dự trữ ngoại tệ quốc gia để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu. Bên cạnh công tác quản lý, NHTƯ và Bộ Tài chính cần phối hợp nghiên cứu đưa ra chỉ tiêu mới về đo lường dự trữ ngoại tệ quốc gia (bao gồm nâng cao về lượng và đa dạng hoá về chủng loại ngoại tệ), trong đó bao quát tất cả các nhu cầu ngoại tệ quốc gia để đảm bảo cân bằng cán cân thương mại. 4.Sự phối hợp của các cơ quan nhà nước Cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhất quán (giữa NHNN và Bộ Tài chính) trong việc lập kế hoạch, điều chỉnh chính sách tài khoá cũng như chính sách tiền tệ, đặc biệt trong khâu quản lý, sử dụng các kênh bơm hút tiền nhằm đáp ứng phù hợp cung- cầu về tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát. 5.Chính sách thuế - Bộ Tài chính phối hợp với các Bộ, ngành khác xem xét, đưa ra chính sách thuế ưu đãi đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất mang tính chất hiện đại hoá, ứng dụng công nghệ khoa học tiên tiến và phát triển các loại hình sản xuất mới. - Tiến hành kiểm soát Nhà nước trong việc xây dựng biểu thuế đối với ngành, lĩnh vực độc quyền Nhà nước. Việc thay thế biểu thuế cần được lập kế hoạch và tính toán phù hợp với việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. 6.Đối với NSNN Bộ Tài chính cần phối hợp chặt chẽ với NHNN dựa trên cơ sở cân đối các chỉ số kinh tế vĩ mô tiến hành lập dự toán NSNN, xác định quy mô thâm hụt, nhu cầu tài trợ, cơ cấu của các khoản tài trợ cho thâm hụt, thời gian dự kiến giải ngân các khoản chi tiêu của Chính phủ. 7.Đối với nguồn vốn nước ngoài NHNN cùng Bộ Tài chính kiểm soát chặt chẽ cao luồng vốn nước ngoài, đặc biệt là nguồn vốn ngắn hạn. Tăng cường thực hiện quản lý nợ nước ngoài thông qua các công cụ gián tiếp như tỷ giá, lãi suất để thay thế các công cụ trực tiêp có tính chất hành chính. 8.Kiểm soát tình trạng thanh toán bằng tiền mặt NHNN phối hợp cùng các Bộ, Ngành kiểm soát chặt chẽ tình trạng thanh toán bằng tiền mặt đối với các tổ chức kinh tế (thông qua việc quản lý về hạn mức sử dụng tiền mặt), tăng cường các biện pháp trong tình trạng đô la hoá. 9.Chính sách đầu tư - Chính sách đầu tư cần được điều chỉnh có trọng điểm, tuân thủ theo quy hoạch và theo kế hoạch. - Cần xây dựng cơ chế giám sát chặt chẽ quá trình đầu tư, đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí. Quy trách nhiệm cá nhân rõ ràng cho tất cả các bên liên quan đến đầu tư của Nhà nước. 10.Xây dựng hoàn thiện chính sách ngoại thương phù hợp với chiến lược tăng cường và hội nhập kinh tế quốc tế - Mở rộng thị trường, nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường thế giới. - Kết hợp chặt chẽ giữa quan hệ xuất khẩu và nhập khẩu, qua đó tận dụng những ưu thế của nhập khẩu để đề ra những điều kiện xuất khẩu cho đối tác: hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc định hướng thị trường, cơ cấu lại hàng hoá xuất khẩu, đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu. Tăng cường các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. - Chuẩn bị triển khai xây dựng các văn bản huớng dẫn Luật cạnh tranh, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. - Tập tru._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35838.doc
Tài liệu liên quan