Thực trạng lao động và một số giải pháp nâng cao thu nhập cho người lao động huyện Thanh Liêm

LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Vấn đề lao động việc làm và thu nhập là một vấn đề luôn luôn mang tính thời sự với bất kỳ quốc gia nào, bất kỳ địa phương và với bất kỳ cá nhân lao động nào…Trong điều kiện phát triển của nước ta hiện nay thì vấn đề việc làm và thu nhập của lao động là vấn đề rất đáng quan tâm của toàn xã hội và với thực tế nước ta đang trong quá trình Công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước để đảm bảo được các mục tiêu phát triển mà xã hội đã đặt ra và giải quyết các vấn đề vi

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1335 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng lao động và một số giải pháp nâng cao thu nhập cho người lao động huyện Thanh Liêm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệc làm, nâng cao thu nhập và để thu hẹp khảng cách giữa cách giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động thành thị và lao động nông thôn là việc làm hết sức cần thiết. Với thực tế nước ta lao động nông nghiệp, nông thôn còn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lao động của cả nước và đặc biệt chất lượng lao động trong khu vực này còn rất thấp, từ đó dẫn tới thu nhập còn thấp, cuộc sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn…và trong quá trình phát triển của Đất nước thì Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách để đẩy mạnh việc phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta… Vì những lý do trên em thấy vấn đề lao động, việc làm, thu nhập của người lao động nông thôn là một vấn đề luôn mang tính thời sự và cần được nghiên cứu giải quyết cho phù hợp với quá trình phát triển, vậy em xin chọn đề tài cho thực tập tốt nghiệp của mình là “Thực trạng lao động và một số giải pháp nâng cao thu nhập cho người lao động huyện Thanh Liêm” để hiểu thêm về vấn đề này. 2. Mục đích nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu với mục đích tìm hiểu thực trạng lao động, việc làm và thu nhập của lao động địa phương, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình thu nhập hiện nay cho lao động tại địa phương nghiên cứu. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là vấn đề lao động, việc làm và thu nhập của người dân nông thôn. Phạm vi nghiên cứu là người lao động của huyện Thanh Liêm, một huyện của tỉnh Hà Nam. 4. Nội dung nghiên cứu: Nội dung của đề tài là đi tìm hiểu về thực trạng vấn đề lao động của người dân huyện Thanh Liêm nói riêng như thế nào và từ đó đưa ra một số giải pháp để nâng cao thu nhập cho người dân huyện Thanh Liêm. 5.Phương pháp nghiên cứu: trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình em có sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, thống kê phân tích… 6.Kết cấu của chuyên đề: Chuyên đề gồm 3 chương với nội dung như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về lao động việc làm, thu nhập. Chương 2: Thực trạng lao động và thu nhập của người dân huyện Thanh Liêm. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao thu nhập cho người dân huyện Thanh Liêm. CHUƠNG 1 MỘT Số VẤN Đề LÝ LUẬN CHUNG Về LAO ĐỘNG VIỆC LÀM,THU NHẬP 1. Khái niệm, vai trò và đặc điểm của lao động nông thôn . 1.1 Khái niệm về lao động ,việc làm. 1.1.1 Các khái niệm về lao động Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người nhằm tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần khác để thoả mãn nhu cầu của bản thân và xã hội, là hoạt động gắn liền với sự hình thành pgát triển của loài người . Lao động có năng suất, chất lượng , hiệu quả là nhân tố quyết định sự tăng trưởng của xã hội. Chính vì vậy lao động được coi là hoạt động chủ yếu , là quyền và nghĩa vụ của con người và chúng ta có thể nói rằng : lao động là vinh quang .Theo thời gian lao động ngày càng phát triển theo hướng chuuyên môn hoá và hợp tác hoá. Nhờ đó ,từ nhiều thế kỷ nay đã hình thành bộ môn khoa học riêng gọi là khoa học lao động , từ đây chúng ta thấy được vai trò và vị trí quân trọng của lao động . Tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu và góc độ phân tích, lao động được phân loại thành : - Lao động trực tiếp và lao động gián tiếp. Lao động trực tiếp là sản xuất ra sản phẩm bao gồm lao động công nghệ và lao động phụ trợ . Lao động gián tiếp sản xuất là lao động quản lý và phục vụ quản lý để đảm bảo quá trình liên tục có hiệu quả . -Lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động không cần qua dào tạo , tập huấn chuyên môn hoặc nếu có cũng ở mức thấp . Nó là sự hao phí sức lao động của người không có trình độ chuyên môn, lao động không thành thạo còn lao động phức tạp là lao động của người đã qua tập huấn chuyên môn . - Lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Lao động cụ thể là lao động nhằm mục đích nhất định , lao động tạo ra giá trị sử dụng cần phải có những loại lao động nhất định, sự phân biệt các loại lao động căn cứ vào phương pháp lao động , công cụ lao động và kết quả lao động . Lao động trừu tượng là lao động xã hội, tính chất xã hội biểu hiện ra quá trình trao đổi. Trong điều kiện sản xuất hàng hoá dựa trên chế đọ tư hữu, mâu thuẫn giữa lao động trừu tượng và lao động cụ thể phản ánh giữa lao động tư nhân và lao động xã hội…. Tóm lại lao động là tất cả những hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp của con người nhằm tạo ra của cải vật chất cho xã hội, các hoạt động này được pháp luật quy định và bảo vệ. Trong khái niệm lao động còn có khái niệm vê nguồn lao động . Nguồn lao động là phạm trù phản ánh lực lượng quan trọng nhất của nền sản xuất xã hội. Theo từ điển thống kê : Nguồn lao động xã hội là toàn thể những thành viên trong xã hội có khả năng tham gia lao động , bao gồm : những người theo quy định của Nhà nước ở trong độ tuổi lao động , có khả năng lao động và những người theo quy định của Nhà nước ở ngoài độ tuổi quy định nhưng thực tế tham gia lao động . Nguồn lao động được biểu thị trên hai phương diện :số lượng nguồn lao động và chất lượng nguôn lao động . - Số lượng nguồn lao động :Về nguyên tắc, đó là tổng số sức lao động xét về mặt thể lực của người lao động với tư cáh là một yếu tố của quá trình lao động sản xuất. Tuy nhiên con người với tư cách là yếu tố của quá trình lao động còn là thành viên của xã hội tham gia các hoạt động xã hội, đảm bảo tái sản xuất tự nhiên sức lao động ..Vì vậy, thể lực của con nguời được xem xét như là yếu tố cua sản xuất, kinh doanh theo những chừng mực nhất định, tuỳ thuộc vào trhực trạng và thể lực của con người theo đặc tính chung, những biểu hiện cụ thể của từng người và thực trạng kinh tế của từng nước. Chính vì vậy, số lượng sức lao động và số lượng nguồn lao động được đo bằng số lượng người lao động theo những quy định . Bộ phận quan trọng nhất của nguồn lao động là người lao động trong độ tuổi quy định gọi tắt là lao động trong độ tuổi .Ở nước ta hiện nay quy định này đối với nam là tính từ 16 đến 60 và đối với nữ là từ 16 đến 55 , nhưng trong tương lai quy định này có thể được thay đổi để phù hợp với thực tế công việc và tính chất công việc . - Chất lượng nguồn lao động :Là phạm trù biểu hiện ở từng người lao động nhưng có mối quan hệ tương tác trong phạm vi quốc gia, khu vực, vùng lao động, lãnh thổ…trên các mặt như: trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn nghề nghiệp, trình độ tổ chức cuộc sống, các yếu tố về tâm lý, tập quánphẩm chất đạo đức, trình độ ý thức pháp luật…Như vậy chất lượng lao động chủ yếu biểu hiện ở mặt trí lực và thể lực của người lao động . 1.1.2 Một số khái niệm về việc làm. Khái niệm “việc làm” và việc xác định số người có “việc làm” là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch định cơ chế, chính sách quản lý nguồn nhân lực. Trong cơ chế thị trường, quan niệm về “việc làm” và người có “việc làm” khác căn bản với quan niệm trong cơ chế cũ. “Việc làm” là một phạm trù tổng hợp, “việc làm” và lao động liên quan chặt chẽ với nhau nhưng không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Theo Bộ Luật Lao động nước ta, khái niệm “việc làm” được xác định là “mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị luật pháp ngăn cấm” (Điều 13 - Bộ Luật Lao động). Như vậy không chỉ những người làm việc trong các ngành của nền kinh tế quốc dân, mà nhiều người khác cũng được coi là có việc làm, nếu họ gián tiếp góp phần tạo ra thu nhập. “Việc làm đầy đủ” là sự thoả mãn đầy đủ nhu cầu về việc làm của các thành viên có khả năng lao động, nói cách khác là mỗi người có khả năng lao động, muốn làm việc đều có thể tìm được việc làm trong thời gian ngắn. “Việc làm đầy đủ” mới chỉ đề cập về mặt số lượng, chưa tính đến yếu tố nguyện vọng, năng khiếu, sở trường, tức là chưa tính đến yếu tố hợp lý của việc làm. “Thiếu việc làm” là tình trạng có việc làm nhưng thời gian làm việc thấp hơn thời gian quy định và có nhu cầu làm thêm. Thiếu việc làm còn thể hiện dưới dạng làm việc có năng suất và thu nhập dưới mức thu nhập tối thiểu. Hiện nay tình trạng thiếu việc làm còn phổ biến ở khu vực ngoại thành Hà Nội, hệ số thời gian sử dụng lao động thực tế ở khu vực này hiện khoảng 65 - 70%. “Việc làm hợp lý” là sự phù hợp về mặt số lượng và chất lượng của các yếu tố con người và vật chất của sản xuất, là bước phát triển cao hơn của việc làm đầy đủ, “việc làm hợp lý” có năng suất lao dộng và hiệu quả kinh tế xã hội cao hơn. Hiện nay do nhiều người còn chưa có việc làm, nên chúng ta đang tập trung giải quyết việc làm đầy đủ cho toàn dân, nhưng về lâu dài vẫn phải tính đến giải quyết “việc làm hợp lý” để bảo đảm hiệu quả kinh tế xã hội ngày càng cao hơn. “Người chưa có việc làm” là người có nhu cầu làm việc, hiện tại chưa tìm được việc làm, hoặc trước đây đã từng có việc làm, đã có nghề nghiệp nhất định nhưng hiện do điều kiện, hoàn cảnh nào đó chưa tìm lại được việc làm. Trong số này chủ yếu là số công nhân dôi ra do sự sắp xếp lại của các doanh nghiệp Nhà nước, những người hết hạn hợp đồng làm việc, học sinh các trường chuyên nghiệp và dạy nghề ra trường chưa tìm được việc làm, người đi lao động ở nước ngoài trở về... Thực chất “người thất nghiệp” và “người chưa có việc làm” là cùng một bản chất, chỉ khác nhau về cách phân chia có tính chất chi tiết của cùng một chỉ tiêu, do đó có thể gọi chung “người thất nghiệp là người có nhu cầu làm việc nhưng không có việc làm, đang đi tìm việc làm”. Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, do sự tác động của cung - cầu về lao động, đặc biệt là do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hiện tượng có “người thất nghiệp” là không tránh khỏi, nó phản ánh một thực tế của quá trình sắp xếp lại của một cấu trúc kinh tế - xã hội mới. Tuy nhiên hiện nay, ở nước ta không chỉ có thất nghiệp tạm thời do thay đổi cơ cấu, mà còn có thất nghiệp tiềm ẩn, thất nghiệp không hoàn toàn (do hiệu suất sử dụng thời gian lao động còn thấp, nhất là ở nông thôn) chiếm tỷ trọng lớn cùng với tỷ lệ tăng cao hàng năm của nguồn lao động càng làm cho tình hình thất nghiệp càng thêm gay gắt. Thực tế đang đòi hỏi phải có chính sách, giải pháp đồng bộ để hạn chế tỷ lệ người thất nghiệp. 1.2 Đặc điểm của lao động nông thôn. Nước ta còn là một nước nông nghiệp chưa phát triển , quá trình đô thị hoá trong giai đoạn này mới đang diễn ra mạnh, dân số ở các đô thị còn ít mà vẫn tập chung chủ yếu ở khu vực nông thôn. Cụ thể năm 2008 tỷ lệ dân số đô thị của nước ta mới đạt 27,9% (trương đương với khoảng 24 triệu người.) Còn dân số sống ở khu vực nông thôn vẫn chiếm 72,1% dân số cả nước (tức là khoảng 62,16 triệu người) trong khi trung bình của thế giới là khoảng 49%. (số liệu lấy từ báo Dân số và đô thị). Như vậy chúng ta có thể thấy rằng dân số ở khu vực nông thôn của chúng ta còn rất cao so với trung bình của thế giới. Điều này cho thấy rằng lao đọng trong khu vực nông thôn của chúng ta là khá lớn. Với nộng dung của chuyên đề tập chung nghiên cứu về lao động của khu vực nông thôn nên trong phần này sẽ đề cập đến đặc điểm của lao động nông thôn . - Về số lượng nguồn nhân lực của nước ta khá dồi dào, cơ cấu dân số trẻ. Dân số trong độ tuổi lao động là khoảng 52 triệu người. Trong đó dân số ở khu vực nông thôn chiếm tới 72,1% như vậy dân số trong độ tuổi lao động ở khu vực này khoảng 37,5 triệu người . Xét theo cơ cấu độ tuổi, lực lượng lao động tuổi từ 15-34 tuổi chiếm 54,6% lực lượng lao động nông thôn. Đây là lực lượng lao động trẻ, có khả năng tiếp thu, nắm bắt và sử dụng công nghệ nhanh trong sản xuất nếu được đào tạo tốt. Tuy nhiên lao động trong nông nghiệp lại chiếm tỷ trọng cao, chiếm tới 66% lao động nông thôn . - Về chất lượng, nhìn chung trình độ lao động nông thôn của chúng ta còn thấp, theo báo cáo của bộ Lao động và Thương binh Xã hội lao động nông thôn được qua đào tạo nghề chỉ chiếm 18,7%, một con số hết sức khiêm tốn, nó phần nào nói lên được trình độ của lao động nông thôn của nước ta. Trình độ chuyên môn tay nghề của lao động nông thôn còn rất thấp và mất cân đối so với khu vực thành thị. Hiện nay, hơn 80% lao động nông thôn chưa qua đào tạo, gần 20% số lao động còn lại có trình độ chuyên môn kỹ thuật tù sơ cấp hoặc có chưng chỉ nghề trở lên. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chuyên môn ký thuật ở khu vực này so với khu vực thành thị chỉ bằng 1/3. Lao động ở trình độ càng cao thì mức độ chênh lệch giữa hai khu vực này là càng lớn. - Mặt khác lao động nông thôn còn có những đặc điểm phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và lao động, và văn hoá như: tính chất lao động mang tính thời vụ cao, tác phong công nghiệp trong lao động còn thấp, tính kỷ luật kém… 1.3 Vai trò của lao động nông thôn. Với đặc điểm về lao động của lao động nông thôn nước ta như đã nêu ở trên mặc dù còn tồn tại nhiều điểm yếu kém. Song xét về khía cạnh đóng góp của mình trong quá trình phát triển chung của đất nước thì vai trò của lao động thôn lại rất lớn. -Lao động nông thôn cùng với sự phát triển của kinh tế nông thôn sẽ góp phần tạo ra những tiền đề quan trọng không thể thiếu bảo đảm cho tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá Đất nước. +Cung cấp lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội nhằm đảm bảo về nhu cầu tiêu dùng cho con người trong cuộc sống hàng ngày đảm bảo cho sự tồn tại và khả năng tái sản xuất của con người. + Sản phẩm của lao động nông thôn không những chỉ được dùng để tiêu dùng cho cuộc sống hàng ngày mà nó còn đóng vai trò cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, từ đây ta có thể nhận thấy lao động nông thôn không những lao động để sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội mà còn là tiền đề của cho việc phát triển các ngành công nghiệp nhẹ và từ đó giúp cho quá trình tạo việc làm cho lao động trong xã hội và giải quyết việc làm đồng thời góp phần vào đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá. +Với thu nhập của lao động nông thôn cùng với sự tích lũy của mình lao động nông thôn đã thực hiện việc cung cấp một phần vốn cho quá trình phát triển. +Với số lượng đông đảo lao động nông thôn và người dân nông thôn đã tạo ra một thị rộng lớn, thị trường quan trọng vào việc tiêu dùng sản phẩm của các ngành công nghiệp và dịch vụ. + Lao động nông thôn cùng với sự phát triển nông thôn là cơ sở để đảm bảo và ổn định kinh tế xã hội trong quá trình phát triển của Đất nước. - Với số lượng lao động lớn, và có khả năng tốt trong việc tiếp thu học tập thì lao động nông thôn không những giúp cho lực lượng lao động trong nước được ổn định mà lao đông nông thôn tuy tay nghề và kiến thức còn hạn chế nhưng lại là nguồn dự bị cho lao động công nghiệp hiện đại và luôn sẵn sàng bổ xung khi cần thiết. 2.Thu nhập, và sự cần thiết phải nâng cao thu nhập. 2.1 Khái niệm thu nhập. Thu nhập là khoản tiền thu từ việc sở hữu và cung ứng các nhân tố sản xuất trong 1 thời kỳ nhất định. - Cơ cấu thu nhập bao gồm thu nhập từ kết quả lao dộng (tiền công, tiền lương: bao gồm lương hưu, các khoản trợ cấp và bao gồm cả học bổng) và thu nhập tài chính (lãi do gửi tiết kiêmk, lãi do mua bán đầu tư chứng khoán, thu từ các khoản cho thuê bất động sản) và các thu nhập khác. - Thu nhập từ lao động là tổng các khoản thu mà người lao động nhận được do đã bỏ sức lao động của họ trong quá trình tham gia sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. thu nhập từ lao động của người lao động bao gồm: + Tiền lương, thưởng và các khoản phụ cấp, thu nhập khác có tính chất như lương: Gồm tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp thưòng xuyên mang tính chất cố định và tiền thưởng trong lương; Các khoản phụ cấp và thu nhập khác của người lao động được tính vào chi phí sản xuất, vào giá thành của sản phẩm như: phụ cấp ca 3, phụ cấp đắt đỏ, phụ cấp đi lại, phụ cấp tiền điện thoại cố định, phu cấp xăng xe, tiền công tác phí, ăn giữa ca (trường hợp thuê dịch vụ ăn uống bên ngoài không tính vào yếu tố này), trợ cấp thuê nhà… và các khoản phụ cấp thường xuyên, không thường xuyên khác cho người lao động, bao gồm các hình thức trả bằng tiền, bằng hiện vật như: thực phẩm, đồ uống, nhiên liệu, quần áo (trừ quần áo bảo hộ lao động). + Bảo hiểm xã hội trả thay lương: Là khoản Bảo hiểm xã hội được chi trả cho người lao động của đơn vị kinh tế trong thời gian nghỉ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,... (theo chế độ qui định của Bảo hiểm xã hội hiện hành). + Các khoản thu nhập khác không tính vào chi phí sản xuất kinh doanh: Là các khoản chi trực tiếp cho người lao động nhưng không hạch toán vào chi phí sản xuất mà nguồn chi lấy từ quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, lợi nhuận của chủ doanh nghiệp hoặc từ các nguồn khác (quà tặng, thưởng của cấp trên,...). 2.2 Tầm quan trọng của thu nhập và sự cần thiết phải nâng cao thu nhập. Cơ quan Phát triển con người của Liên hợp quốc đã đưa ra một chỉ số gọi là Chỉ số phát triển con người ( Human Development Index – HDI ) dùng để kiểm soát, đánh giá sự tiến bộ trong phát triển con người. Ba biến số được chọn để tính nên chỉ số HDI này là: tuổi thọ trung bình từ lúc sinh, tỷ lệ người biết chữ và thu nhập bình quân đầu người theo ngang giá sức mua (GDP/người – PPPUSD ). HDI được tính theo công thức chung như sau: HDI= Trong đó: IA là chỉ số đo tuổi thọ. IE là chỉ số đo tri thức giáo dục(kiến thức) được đo bằng chỉ số tổng hợp giữa tỷ lệ biết chữ của người lớn (với trọng số bằng 2/3) và tỷ lệ nhập học cấp giáo dụctiểu học, trung học, đại học (với trọng số1/3). Hai chỉ số IA và IE được tinh toán dựa vào công thức sau : Giá trị thực tế - giá trị tối thiểu Giá trị tối đa - giá trị tối thiểu Chỉ số = Giá trị tối đa và tối thiểu (giá trị biên) được đặt ra với từng loaị chỉ số là: Bảng 1.1 Giá trị tối đa - tối thiểu của các chỉ tiêu. Chỉ tiêu Giá trị tối đa Giá trị tối thiểu Tuổi thọ (năm) 85 25 tỷ lệ người lớn biết chữ (%) 100 0 tỷ lệ nhập học (%) 100 0 GDP thực tế đầu người (PPPUSD) 40.000 100 IIN là chỉ số đo mức sống Chỉ số thu nhập đựoc đưa vào HDI với vai trò là biến đại diện cho mức sống thoả đáng. Cách tiếp cận này bị tri phối bởi thực tế là việc đạt được một mức độ đáng kể về sự phát triển con người không nhất thiết cần tới một khoản thu nhập vô hạn và cũng cũng không chỉ đòi hỏi ở mức thu nhập cao. Để phản ánh điều này, thu nhập thường được điều chỉnh trong tính toán HDI. Phương pháp được sử dụng hiện nay là làm logarit của thu nhập. log(thu nhập thực tế) – log (thu nhập tối thiểu) log (thu nhập tối đa) – (log (thu nhập tối thiểu) IIN = HDI nhận các giá trị biến thiên từ 0 đên 1. Trong thực tế giá trị của HDI của một nước chỉ ra khoảng cách giữa các mức độ tiến bộ trong phát triển con người đã đạt được với giá trị cao nhất có thể(là 1). Thách thức đặt đối với mỗi quốc gia là làm thế nào để đưa ra những giải pháp rút ngắn khoảng cách đó. (Trích .Giáo trình Kinh tế phát triển ) Việt Nam chúng ta có chỉ số HDI là 0.733 ( năm 2008) và ở mức trung bình của thế giới, đứng thư 105 trên tổng số 177 nước và vùng lãnh thổ tham gia xếp hạng. Tuy nhiên đóng góp vào chỉ số này của nước ta thì hai chỉ số đo ti thức giáo dục chiếm tỷ trọng cao do Nhà nứoc ta đã trú trọng đầu tư vào phát triển giáo dục con người, con đóng góp của chỉ số đớmc sống là thấp hơn do thu nhập bình quân của nước ta còn thấp hơn rất nhiều so vơi thế giới. Năm 2008 thu nhập bình quân đầu người của chúng ta đứng thứ 122 so với 177 nước và vùng lãnh thổ tham gia xếp hạng. Như vạy chúng ta cần phải cải thiện chỉ số này hơn nữa bằng cách nâng cao thu nhập cho người dân của chúng ta. Trong thực tế cuộc sống của chúng ta thu nhập là một yếu tố rất quan trọng, nó biểu hiện ở số tiền, hay các sản phẩm do quá trình lao động mà chúng ta tạo ra và nó có giá trị cho cuộc sống. Để duy trì và nâng cao chất lượng cuộc sống, con người cần phải có thu nhập và chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng trong đời sống hàng ngày thu nhập quan trọng như thế nào. Với mỗi người với các mức thu nhập khác nhau thì có thể nói rằng chất lượng cuộc sống mà họ được hưởng cũng khác nhau, với những mức thu nhập cao thì xẽ có được cuộc sống với chất lượng của các dịch vụ và sự sinh hoạt hàng ngày tốt hơn chẳng hạn như: bữa ăn hàng ngày xẽ đủ chất dinh dưỡng hơn, các đồ dùng sinh hoạt cũng tốt hơn, con cái được học tập trong những ngôi trường với chất lượng tốt hơn, nói tóm lại xẽ có được những thứ gần với sự mong muốn hơn, ngược lại những người có thu nhập thấp, những người nghèo thậm chí là đói thì với thu nhập thấp đó họ có thể ăn không đủ no, mặc không đủ ấm chú chưa nói gì đến việc được sử dụng các dịch vụ mà cần có tiền mới có được… Mặt khác, mức sống của dân cư bắt nguồn từ thu nhập. Thu nhập là một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá mức sống của một gia đình nông thôn. Tăng thu nhập là yếu tố quan trọng hàng đầu để cải thiện và nâng cao mức sống, là cơ sở để tăng tích luỹ và tăng đàu tư cho quá trình sản xuất tiếp theo. Tăng thu nhập cho mỗi người dân đồng nghĩa với việc thu nhập bình quân đầu người mỗi khu vực tăng lên và từ đó thu nhập bình quân quốc gia tăng lên, điều đó thể hiện sự tăng trưởng của mỗi vùng, mỗi quốc gia. Và tăng thu nhập cho phép tạo điều kiện để phát triển kinh tế xã hội nhằm đạt được những mục tiêu đã được đặt ra. Và ngược lại nếu người dan có thu nhập thấp, đời sống khó khăn xẽ là nguyên nhân để dẫn tới các vấn đề tệ nạn xã hội, huỷ hoại môi trường sống. Gia đình có thu nhập con em họ không có điều kiện được chăn sóc tốt nhất có thể và tương lai của chúng không được đảm bảo từ đó xẽ gây hậu quả lâu dài… Chính vì các lý do trên mà chúng ta thấy được việc nâng cao thu nhập cho người có thu nhập thấp, chủ yếu là người lao động nông thôn là một điều hết sức cần thiết và cũng góp phần giải quyết các vấn đề xã hội đối với mỗi cá nhân và quốc gia. 3.Những yếu tố ảnh hưởng tới lao động, việc làm và thu nhập. 3.1 Những yếu tố ảnh hưởng đến lao động. 3.1.1 Những yếu tố ảnh hưởng đến số lượng lao động Dưới góc độ của kinh tế học, lực lượng lao động phản ánh số lượng lao động mà các hộ gia đình sẵn sàng đem trao đổi trên thị trường. trong đó số lượng lao động phụ thuộc vào các yếu tố: Dân số. là cơ sở đẻ hình thành lực lượng lao động. Sự biến động của dân số là kết quả của quá trình nhân khẩu học và có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến quy mô, cơ cấu cũng như sự phân bố theo không gian của dân số trong độ tuổi lao động. Sự biến động của dân số thường được xem qua sự biến động tự nhiên và biến động cơ học. Biến động dân số tự nhiên do tác động của sinh đẻ và tử vong. Tỷ lệ sinh đẻ và tử vong phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và mức độ thành công của chính sách kiểm soát dân số. Các nước đang phát triển có tỷ lệ sinh cao hơn so với các nước phát triển do vậy tốc độ tăng dân số tự nhiên cũng cao hơn. Dân số tăng nhanh trong khi kinh tế tăng chậm đã làm cho mức sống dân cư các nước đang phát triển chậm được cải thiện và tạo ra áp lực lớn trong vấn đề giải quyết việc làm. Do vậy, việc kế hoạch hoá dân số đi đôi với phát triển kinh tế là vấn đề quan tâm đặc biệt ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên cũng cần chú ý rằng các yếu tố sinh đẻ và tử vong có tác động đến quy mô dân số trong độ tuổi lao động song có tác động trễ (sau 15 năm). Do vậy, để hạn chế tốc độ tăng dân số cần có các chính sách kiểm soát dân số có hiệu quả trong thời kỳ ít nhất là 15 năm. Biến động dân số cơ học do tác động của di dân. Ở các nước đang phát triển, di dân là một nhân tố rát quan trọng tác động đến quy mô và cơ cấu lao động, đặc biệt cơ chế lao động khu vực thành thị và nông thôn. Chính vì vậy dân số và lao động chuyển từ nông thôn ra thành thị là biểu hiện chính của xu hướng di dân trong nước. Sức ép của việc di dân cho xã hội cũng là rất lớn, nó thúc đẩy nhanh quá trình đô thị hoá và nếu chúng ta không có biện pháp hợp lý thì sẽ tạo ra gánh nặng cho xã hội gây nên nhưũng tiêu cực không dáng có. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động.Dân số trong độ tuổi lao động phản ánh khả năng lao độngcủnền kinh tế. Tuy nhiên không phảt tất cả những người trong độ tuổi lao độngđều là những người tham gia vào lực lượng lao động. Cung lao động sẽ phụ thuộc vào số lượng dân số trong độ tuổi tham gia lực lượng lao độngvà được xem xét qua chỉ tiêu “tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của dân số trong độ tuổi lao động”. Theo khái niệm lực lượng lao động thì “tỷ lệ tham gia lực lượng lao động” nói chung được hiểu là tỷ số phân trăm giữa số người đủ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động trên dân số đủ 15 tuổi trở lên. Tỷ lệ tham gia lực lưọng lao động có thể khác nhau giữa các nhóm tuổi, giữa nam và nữ. Yế tố tác động đến tỷ lệ tham gia lao độnglà yếu tố kinh tế, xã hội và văn hoá. Những yếu tố này có thể tác động làm tăng tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nhưng cũng có thể là ngược lại. 3.1.2 Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động. Số lượng lao động mới phản ánh một mặt sự đóng góp của lao động vào tăng trưởng kinh tế. mặt khác thể hiện sự đống góp của lao độngđược đánh giá ở chát lượng của lao động, nó là yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lao động, đến sự chuyển đổi cơ cấu việc làm theo trình đọ kỹ thuạtk sản xuất. Chất lượng lao động được đánh giá qua trình độ học vấn, chuyên môn và kỹ thuật cũng như sức khoẻ của lao động. Điều này lại phụ thuộc vào hoạt động giáo dục đào tạo và các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ cho người lao động. Vậy có thể nói chất lượng lao độngphụ thuộc vào các yếu tố: Giáo dục và việc cải thiện chất lượng lao động. Giáo dục theo nghĩa rộng là tất cả các dạng học tập của con người nhằm nâng cao kiến thức và kỹ năng của con người trong suốt cả cuộc đời. Giáo dục phổ thông nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản nhất để phát triển năng lực cá nhân. Giáo dục nghề và giáo dục đại học (đào tạo) vừa giúp người học có kiến thức đồng thời còn giúp cung cấp tay nghề, kỹ năng và chuyên môn. Với mỗi trình độ đào tạo nhất định, người đựơc đào tạo mới biết được họ sẽ phải đảm nhận những công việc gì? Yêu cầu kỹ năng cũng như chuyên môn nghề nghiệp phải như thế nào? Vai trò của gaío dục được các nhà kinh tế đánh giá bằng chỉ tiêu” tỷ suất lợi nhuận cho giáo dục”. Về lý thuyết, tỷ suất lợi nhuận từ đầu tư giáo dục cũng giống như lợi nhuận từ đầu tư vào bất kỳ dự án nào. Mặt khác giáo dục còn giúp cho việc cung cấp kiến thức và những thông tin để người dân đặc biệt là người phụ nữ có thể sử dụng những công nghệ nhằm tăng cường sức khoẻ dinh dưỡng và đã phần nào cải thiện được chất lượng lao động. Dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻvà cải thiện chất lượng lao động. Sức khoẻ có tác động tới chất lượng lao động cả ở hiện tại và tương lai. Người lao động có sức khoẻ tốt có thể mang lại những lợi nhuận trực tiếp hoặc gián tiếp bằng việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập chung cao trong khi làm việc. Sức khoẻ của người lao động thường được đánh giá ở thể lực, chiều cao, cân nặng. Điều này lại phụ thuộc vào chế độ dinh dưỡng chăm sóc sức khoẻ. Đối với người đang làm việc, thể lực và tuổi thọ của họ một mặt phụ thuộc vào yếu tố dinh dưỡng nhưng mặt khác lại phụ thuộc vào dịch vụ chăm sóc sức khoẻ thường xuyên (đặc biệt đối với những ngành nghề độc hại) và chính sáh bảo hiểm y tế đối với người lao động. Tác phong công nghiệp, tính kỷ luật của người lao động và chất lượng lao động. Bên cạnh hai yếu tố có ảnh hưởng đến chất lượng lao động là trình độ, kỹ năng và sức khoẻ của người lao động như đã nói ở trên thì ngày nay, các nhà quản lý cho rằng chất lượng lao động, hiệu quả của công việc còn liên quan và phụ thuộc vào tác phong, tinh thần, thái độ và tính kỷ luật của người lao động. Trong khu vực thành thị, điều kiện làm việc ngày càng có xu hướng hiện đại hoá, trong các hoạt động kinh tế, sự phối hợp trong công việc giữa các cá nhân trong cùng một tổ chức và giữa các tổ chức với nhau có xu hướng gia tăng và đặt ra yêu cầu cao. Điều này đòi hỏi người lao động phải có tác phong công nghiệp, tinh thần tự chủ sáng tạo, thái độ hợp tác và tính kỷ luật chặt chẽ. 3.2 Những yếu tố ảnh hưởng đến việc làm. Sức cầu của thị trường và sự đầu tư: Số lượng việc làm trong nền kinh tế phản ánh cầu lao động. Về lý thuyết, cầu lao động cho thấy số lượng lao động mà các tổ chức, đơn vị kinh tế sẵn sàng thuê để tiến hành các hoạt động kinh tế với mức tiền lương nhất định. Cầu lao động phụ thuộc chủ yếu vào quy mô sản lượng và hệ số co giãn việc làm đối với sản lượng (đầu ra). Lao động là yếu tố đầu vào cần thiết để sản xuất một lượng hàng hoá, dịch vị nhất định. Điều này cũng có nghĩa là quy mô của sản xuất hàng hoá dịch vụ sẽ quyết định lượng đầu vào được sử dụng để sản xuất từ đó tác đông đến càu của lao động và làm cho số việc làm tăng lên hoặc giảm xuống. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, đặc điểm của cầu lao động mang tính chất thứ phát. Nó không chỉ xuất hiện do nhu cầu mở rộng quy mô của nền kinh tế, của ngành mà chịu tác động của các yếu tố khác đặc biệt là yếu tố về vốn và đầu tư và công nghệ sản xuất. Quan hệ giữa việc làm và đầu tư thường được các nhà kinh tế xem xét qua chỉ tiêu mức đầu tư để tạo ra một việc làm mới. Mức đầu tư cần thiết để tạo một việc làm mới còn có quan hệ với công nghệ sản xuất. Những ngành có công nghệ sản xuất cao sẽ cần nhiều vốn hưn để tạo một chỗ làm việc mới và ngược lại. ở các nước đang phát triển, trong giai đoạn đầu do vốn khan hiếm, lao đọng dồi dào nhưng hạ chế về trình độ vì vậy cần lựa chọn công nghệ sản xuất ít vốn và cần nhiều lao động, vì vậy lượng cầu lao động là lớn hơn nên sức ép về việc làm trong giai đoạn này là không lớn. Năng lực của người lao động: Ngoài sức cầu của thị trường và quan hệ lao động và đầu tư thì việc làm còn phụ thuộc vao yếu tố năng lực của người lao động,một yếu tố quyết định. Năng lực của người lao động nói chung là kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm…là một yếu tố quyết đến cơ hội làm việc của mỗi cá nhân người lao động. Những người có điều kiện sức khoẻ tốt, có trình độ học vấn cao, kỹ năng và kinh nghiệm thì họ luôn có khả năng cạnh tranh cao hơn trong quá trình tìm kiếm việc làm và làm những công việc mang lại thu nhập và đãi ngộ cao. Tuy nhiên cơ hội làm việc đối với những đối tượng có trình độ thấp cũng khá lớn. Tuy nhiên họ phải làm những công viêc thường có tính rủi ro cao, độc hại, nặng nhọc và thu nhập không ổn định hoặc là thấp. 3.3 Những yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động. Đối với các khoản thu nhập ngoài lao đông như tiền lãi do tiết kiệm, tiền lãi từ đầu tư cổ phiếu, bất động sản…, thì các nhân tố ảnh hưởng tới thu nhập._. bao gồm: điều kiện kinh tế xã hội, sự phát triển của các loại thị trường ( thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường chứng khoán..), trình độ, năng lực cá nhân, hiệu quả của các chính sách vĩ mô của nhà nước. Đối với các khoản thu nhập từ lao động như tiền lương, tiền công, bảo hiểm, tiền thưởng ,phụ cấp… thì các nhân tố ảnh hưởng bao gồm: Điều kiện kinh tế xã hội, Luật lao động, thị trường lao động, khả năng tài chính doanh nghiệp, vị trí địa lý và giá cả sinh hoạt của từng vùng, công việc và năng lực của người thực hiện nó..Những nhân tố tác động tới thu nhập có rất nhiều yếu tố song có thể chia ra thành các nhóm nhân tố sau: Sự phát triển kinh tế và sự phát triển của thị trường lao động gồm các nhân tố như mức độ phát triển của nền kinh tế, mức sống của dân cư, tiền lương trung bình trên thị trường lao động, chính sách lao động xã hội, chính sách tiền lương, chính sách đãi ngộ.. Doanh nghiệp: gồm các nhân tố như khả năng tài chính của doanh nghiệp, hiệu quả của các chính sách đầu tư và các dự án đầu tư, các chính sách về thuế, thu nhập của doanh nghiệp… Công việc: bao gồm mức độ phức tạp, quan trọng của công việc và cung cầu lao động trên thị trường lao động, nghề nghiệp. Thông thường người lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp được trả lương thấp hơn những người làm việc trong lĩnh vực công nghiệp, và dịch vụ do yêu cầu kỹ năng, trình độ của ngành này thấp. Bản thân trong cùng một ngành nghề thì thu nhập của người lao động phụ thuộc vào chuyên môn và kinh nghiệm công tác của người lao động do những công việc phức tạp được trả lương cao hơn những công việc đơn giản… Người lao động: gồm những nhân tố liên quan mặt thể chất và giới tính gồm: độ tuổi, tình trạng hôn nhân, sức khoẻ và chi tiêu bình quân đàu người. Ngoài ra còn phụ thuộc vào khả năng hiện tại (kiến thức, kỹ năng, phẩm chất lao động), tiềm năng cá nhân trong tương lai, kiến thức tay nghề tích luỹ, thâm niên nghề nghiệp, thời gian gắn bó với đơn vị, mức độ hoàn thành công việc… Nhóm yếu tố địa lý: vùng thành thị/ nông thôn. Thu nhập được trả cho người lao động phải đảm bảo cho cuộc sống của bản thân và gia đình của người lao động. Do mức sống, mức chi tiêu ở các vùng khác nhau là khác nhau. Bên cạnh sực khác biệt do yếu tố vùng miền lãnh thổ, mức sống và thu nhập của người lao động còn phụ thuộc vàop khu vực sinh sống là thành thị hay nông thôn. Người ở khu vực thành thị thường có thu nhập cao hơn lao động ở khu vực nông thôn, xét theo công việc có tính chất và độ phức tạp tương đương. 4. Mối quan hệ giữa lao động việc làm và thu nhập. Cớ nhiều yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của mỗi người, đó có thể là do thừa kế, do lao động, do việc làm của mỗi người. Vì đặc thù của đề tài đang nghiên cứu mà trong đề tài chỉ xét đến mối quan hệ của thu nhập với các yếu tố việc làm và lao động. Làm thế nào để chúng ta có thu nhập cao ? Đó là câu hỏi luôn được mỗi người đặt ra và cố gắng tìm cách để trả lời nó. Chúng ta có thể nhận thấy rằng thu nhập trung bình của người dân Nhật Bản cao hơn thu nhập của người dân nước ta hay noi cách khác là thu nhập của người dân ở những nước phát triển cao hơn thu nhập của người dân ở những nước đang phát triển hay chúg ta cũng có thể thấy rõ rằng thu nhập của một người nông dân với mảnh ruộng của họ không thể cao bằng thu nhập của một anh kỹ sư được. Nguyên nhân là tại sao? Và từ thực tế ở trên chúng ta có thể nhận thấy rằng thu nhập của mỗi người phụ thuộc vào công việc mà người đó đang làm, đó là một điều tất yếu. Vậy những công việc thế nào thì sẽ mang lại thu nhập cao ? Những lao động như thế nào sẽ có được thu nhập cao ? Từ thực tế xã hội chúng ta cũng có thể tự tìm ra được câu trả lời cho vấn đề này. Về vấn đề lao động và thu nhập thì thu nhập cao có được khi người đó có khả năng, kỹ thuật và tay nghề được đào tạo hay nói cách khác là lao động có tri thức, còn về vấn đề việc làm và thu nhập thì thu nhập cao có được khi việc làm đó nằm trong lĩnh vực tạo ra các giá trị gia tăng là nhiều, những công việc trong những ngành hàm chứa trong nó những ký thuật, công nghệ cao. Vậy chúng ta có thể thấy rằng thu nhập của một lao động là tỷ lệ thuận với khả năng kiến thức, trình độ chuyên môn của người lao động đó và lĩnh vực người đó tham gia lao động. Từ các cơ sở lý luận về lao động, việc làm và thu nhập ở trên có thể kết luận rằng lao động nói chung và lao động của huyện Thanh Liêm nói riêng cũng có các nhân tố tác động tới lao động, việc làm và thu nhập có thể nói đén như: Tình hình phát triển chung của cả nước, tình hình phát triển của tỉnh, đặc điểm kinh tế xã hội của địa phương, trình độ của người dân, người lao động huyện Thanh Liêm. Đó là những yếu tố có ảnh hưởng đến việc làm, lao động và thu nhập của người dân huyện Thanh Liêm. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG VÀ THU NHẬP CỦA NGƯỜI DÂN HUYỆN THANH LIÊM 1.Tình hình chung của Lao động nông thôn và thu nhập của người lao động nông thôn ở Việt Nam. 1.1.Tình hình chung lao động ở nông thôn ở nước ta. Trong khu vực nông thôn, tư liệu sản xuất chủ yếu của người lao động là dất đai. Việc làm nông thôn phu thuộc nhiều vào đất canh tác, thiếu đất canh tác ở mức độ nào đó đồng nghĩa với thiếu việc làm của lao động nông thôn và đặc biệt là lao động nông nghiệp. Việclàm ở nông thôn hiện nay chủ yếu được thể hiện dưới hình thức kinh tế hộ gia đình sản xuất nông nghiệp kết hợp với nghề phụ hợac chuyển sang các hoạt động phi nông nghiệp nhưng vẫn giữ lại đất được giao và đăng ký là lao động nông nghiệp. Một phần vì dân số tăng nhanh, đất đai nói chung thì không thay đổi mà còn phải chuyển đổi đẻ sử dụng cho các khu công nghiệp, khu dân cư cho nên nông nghiệp hiện nay thiếu nhiều đát để canh tác, diên tích đát bình quân một hộ nông dân là 4984m2 , ở đồng bằng sông Cửu Long là 10149m2 tỷ lệ thấp nhất là ở Đồng Bằng Bắc bộ 2284m2 , chênh lệch nhau tới 4,4 lần. Nước ta là nước nằm trong khu vực khí hậu khắc nghiệt nắng lắm mưâ nhiều vì vậy hoật động sản xuát nông nghiệp nói chung phụ thuộc vào nhiều đến điều kiện thiên nhiên, khí hậu, thời tiết như mưa, gió, bão lụt, hạn hán và mang tính thời vụ cao. Do đố, tính chất thời vụ, rủi ro cao và tình trạng bất ổn định là đặc trưng của sản xuất nông nghiệp và lao động động nông thôn. Khi cày cấy, gieo hạt làm mùa song người lao động nông thôn bước vào thoài kỳ nông nhàn, lúc này việc làm thêm với họ là rất quan trọng và cần thiết để có thu nhập. Vì vậy một số bộ phận lao động nông nghiệp nông thôn có biét chút ít nghề phụ thường đi đến các địa phương khác hay các thành phố lớn để làm việc, nhằm mục đích tận dụng thời gian nông nhàn và kiếm thêm thu nhập và đến khi mùa vụ nông nghiệp họ lại trở về quê làm việc nên tính ổn định của công việc là không cao. Những năm gần đây, vấn đề việc làm càng trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Tình trạng nông nhàn ngày càng trở nên phổ biến, nếu để ý chúng ta sẽ thấy rất nhiều người ngoại tỉnh đổ sô về các thành phhó lớn để kiếm việc làm thêm từ đó có một số nơi đã hình thành nên cái gọi là “ chợ lao động”. Đặc biệt trong tình trạng thiếu việc làm trong cả nước nói chung và trong khu vực nông nghiệp nói riêng thì vấn đề nông nhàn càng trở nên bức xúc và đó còn là nguồn bổ sung đáng lo ngại vào lực lượng lao độngthiếu việc làm nói chung và làm tăng thêm dòng người di cư, di dân, di chuyển từ vùng này đến vùng khác, từ nông thôn ra thành thị. từ đó cũng nảy sinh ra nhiều tình huống phức tạp, những tệ nạn hình thành khiến xã hội phải lo lắng và quan tâm. Cơ cấu lao động nông thôn: Trong những năm vừa qua cơ cấu lao động nông thôn biến động theo xu hướng chuyển dịch một bộ phận lao động nông nghiệp sang hoạt động phi nông nghiệp, quá trình này phụ thuộc vào sự phát triển chung của kinh tế cả nước, vào sự phát triển của khu vực phi nông nghiệp ngay tại các vùng nông thôn, sự đầu tư ngay tại các vùng nông thôn, đầu tư vào cơ sở hạ tầng của nông thôn ngày càng nhiều, và sự phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp ngày càng nhiều và quy mô càng lớn. Theo số liệu điều tra năm 2001 và 2006 về nông thôn, nôngnghiệp và nông dân cho thấy hiện nay số hộ nông thôn cả nước tại thời điểm 01/07mỗi năm như sau : Bảng 2.1 Cơ cấu hộ nông thôn theo ngành năm 2001 và 2006. 01/07/2001 01/07/2006 Triệu hộ Tỷ trọng( %) Triệu hộ Tỷ trọng (%) Tổng số hộ nông thôn 13.07 100 13.77 100 Số nông hộ, lâm nghiệp và thủy sản 10.57 81.0 9.78 71.1 Số hộ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ 2.50 19.0 3.99 28.9 (Nguồn: Tổng cục thống kê, trích từ số liệu điều tra nông thôn năm 2001 và 2006) Mặc dù hộ nông thôn trong cả nước tăng nhưng tốc độ đã chậm hẳn lại so với các thời ký trước. Cơ cấu ngành nghề ở khu vực nông thôn đã có sự thay đổi nhanh theo hướng tích cực, giảm số lượng và tỷ trọng nhóm nông hộ công nghiệp và dịch vụ. Đến 01/07/2006, số nông hộ, lâm nghiệp và thuỷ sản ở nông thôn đã giảm 0,79 triệu hộ; số hộ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng 1.49 triệu hộ so với năm 2001. Ta thấy rõ rằng, so với năm 2001, tỷ trọng hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản khu vực nông thôn giảm từ 81% xuống còn 71,1% , tỷ trọng hộ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng từ 19.0% lên 28.9% . Sự chuyển dịch cơ cấu hộ nông thôn thời kỳ 2001 – 2006 diễn ra nhanh và rõ nét hơn so với các thời kỳ khác. Cùng với sự thay đổi này thì cơ cấu ngành nghề của lao động chuyển dịch nhanh hơn so với cơ cấu ngành nghề của hộ và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông thôn được tăng lên. Tỷ lệ số người trong tuổi lao động có khả năng lao động phân theo hoạt động chính thời gian này thể hiện trong bảng dưới đây: Bảng 2.2 Cơ cấu lao động nông thôn theo ngành năm 2000 và 2006 Đơn vị: % 2000 2006 Tổng số lao động nông thôn 100 100 Lao động nông nghiệp 79.0 69.0 Lao động công nghiêp – xây dựng 8.3 14.9 Lao động dịch vụ 12.7 16.1 (Nguồn: Số liệu TK Việc làm - Thất nghiệp ở VN giai đoạn 1996- 2005 của Bộ LĐTBXH và số liệu LĐVL-TN năm 2006, Bộ LĐTBXH) Từ bảng trên ta thấy rằng: Lao động nông nghiệp giảm 10.0% so với năm 2000, lao động công nghiệp – xây dựng tăng 6.6%, lao động dịch vụ tăng 3,4%. Xu hướng hoạt động đa dạng của ngành nghề của lao động ở khu vực nông thôn ngày càng tăng. Số người trong độ tuổi lao động có tham gia hoạt động nông nghiệp trong năm qua: lao động chuyên nông nghiệp chiếm 58,2%, lao động nông nghiệp kiêm ngành nghề khác chiếm 27,6% và lao động phi nông nghiệp có hoạt động phụ nông nghiệp chiếm 14,2%. Trình độ học vấn và chuyên môn của lao động nông thôn: Trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước luôn luôn chú trọng đến phát triển toàn diện nền kinh tế, trong những năm qua nước ta đã đạt được nhiều bước đột phá quan trọng và nhiều thành tựu to lớn. Khu vực nông thôn nước ta nơi chiếm tới hơn 71% dân số và chiếm gần 40% lao động trong tổng số lao động của toàn xã hội nhưng lao động ở đây vẫn đang trong tình trạng phát triển chậm và trình độ còn thấp. Trong những năm trước về trình độ học vấn chuyên môn ở nông thôn, đặc biệt là những vùng không phát triển nghề phụ mà chỉ thuần nông thì tình trạng thừa lao động giản đơn không có tay nghề và trình độ chuyên môn kỹ thuật là phổ biến. Năm 2000 trong khu vực thành thị cứ 10 người tham gia hoạt động kinh tế thì có 4 người đã tốt nghiệp trung học phổ thông, cao gấp hơng 3 lần so với khu vực nông thôn, và tỷ lệ chưa biết chữ trong nông thôn lại cao gấp hơn 6 lần so với khu vực thành thị. Tuy nhiên tỷ lệ lao động nông thôn đã tốt nghiệp trung học cơ sở và trung học phổ thông chỉ chioếm 41,9%. thấp hơn so với khu vực thành thị 19%. Đây cũng là một trở ngại lớn cho lao động nông thôn khi học nghề tạic các cơ sở đào tạo tại các thành thị. Trình độ học vấn chuyên môn của lao động nông thôn hoạt động phi nông nghiệp cũng rất thấp khoảng 65% tốt nghiệp trung học cơ sở, 35% lao động trong các doanhnghiệp, hợp tác xã chưa qua đào tạo tay nghề chuyên môn kỹ thuật, 54 – 68% lao động không được đào tạo về trình độ chuyên môn, 8% được đào tạo trình độ trung cấp trở lên làm việc trong doanh nghiệp và 4% làm việc tại các hợp tác xã và hộ gia đình. Và cũng trong gia đoạn này tại khu vực nông thôn số lao động đã được đào tạo nghề, chuyên môn kỹ thuật chỉ chiếm 10,11%, thấp hơn gần 4 lần so với khu vực thành thị (39,96%). Tỷ lệ lao động có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học là rất thấp, thấp hơn so với khu vực thành thị (8,32%) hơn 9 lần. Năm 2004 theo kết quả điều tra Nông thôn – Nông nghiệp do Tổng cục Thống kê công bố, cả nước có 93,8% số lao động nông thôn chưa qua đào tạo, chỉ có 2,3% lao động được đào tạo tay nghề trình độ sơ cấp hoặc công nhân kỹ thuật, 2,4% có trình độ trung cấp kỹ thuật, 0,8% có trình độ cao đẳng và 0,7% có trình độ đại học và tương đương. Con số trên cho thấy, đây là một trở ngại thách thức lớn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn, số liệu trên cũng minh chứng rằng hơn lúc nào hết nhu cầu đào tạo nghề cho lao động NN-NT là rất lớn và bức xúc. Năm 2005 Số liệu điều tra năm 2005 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho thấy, ở khu vực nông thôn, lao động có trình độ THPT chỉ chiếm 13,7%, tốt nghiệp trung học cơ sở 34,6%, tiểu học 20%. Tình trạng mù chữ đối với người lớn vẫn là thực tế đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ trẻ em bỏ học ở vùng nghèo, nhất là trẻ em nữ là thách thức lớn.Hạn chế này hiện đang ảnh hưởng trực tiếp đến công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn.Một mặt, lao động nông thôn bất lợi hơn so với lao động thành thị về thể trạng, sức khoẻ, mặt khác trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp của đối tượng này cũng là điều đáng bàn. Theo thống kê, 83% lực lượng lao động nông thôn chưa qua đào tạo, chỉ có hơn 2% có bằng cao đẳng hoặc đại học (khoảng 0,7 triệu người), 3% tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, 3% có chứng chỉ sơ cấp hoặc tập huấn nghề ngắn hạn, có tới 8,7% (gần 2,9 triệu người) gọi là công nhân kỹ thuật nhưng chưa được cấp bất kỳ loại văn bằng hoặc chứng chỉ nghề nghiệp nào. Theo thống kê hiện tại, tỉ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp đã qua đào tạo của nước ta hiện rất thấp. Cả nước có 10 triệu hộ nông dân với hơn 30 triệu lao động trong độ tuổi, nhưng mới có 17% trong số đó được đào tạo, song chủ yếu thông qua các lớp tập huấn khuyến nông cơ bản. Và theo bộ Công Thương trong số 16,5 triệu thanh niên nông thôn chỉ có 12% tốt nghiệp phổ thông trung học, 3,11% có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ trung cấp trở lên (thấp hơn 4 lần so với thanh niên đô thị). Tại những vùng miền núi Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ… đội ngũ cán bộ nông nghiệp, nông thôn thiếu trầm trọng, chỉ chiếm 0,5%-0,6% lao động trực tiếp ở khu vực này. Từ các số liệu thống kê trên chúng ta có thể thấy việc đào tao nghề cho lao động ở nông thôn của nưóac ta là hết sức cấp bách, bởi vì trình độ nghề nghiệp và chuyên môn của lao động nông thôn con quá thấp. Nắm bắt được vấn đề này Đảng và Nhà nước ta cũng đã xây dựng các chương trình nhằm đào nghề cho lao động nông thôn, có thể nói đến như Đề án tổ chức dạy nghề ở trình độ sơ cấp (từ 1-3 tháng) cho lao động nông thôn trong độ tuổi lao động và có nhu cầu học nghề. Để đề án dạy nghề cho lao động nông thôn đi vào cuộc sống, Chính phủ sẽ chi hơn 23.140 tỷ đồng trong 10 năm với mục tiêu: Mỗi năm đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu lao động nông thôn, nâng tỷ lệ lao động nông thôn được đào tạo từ 20% (năm 2010) lên 50% (năm 2020)…Và chúng ta mong rằng trong tương lai với các kế hoạch, chương trình về nông nghiệp, nông dân, nông thôn xẽ làm thay đổi được khu vực này một cách tốt nhất để cùng hoà nhịp với quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá của Đất nước. Thời gian làm việc của lao động nông thôn: Trong thực tế tỷ lệ thời gian làm việc được sử dụng của lao động trong độ tuổi ở khu vực nông thôn còn khá thấp .Kết quả thống kê thời gian về tỷ lệ này của cả nước và từng vùng được cho bởi bảng số liệu dưới đây, số liệu lấy từ điều tra về dân số và lao động của Tổng cục thống kê. Bảng 2.3: Thời gian làm việc của lao động nông thôn Đơn vị: % Năm Vùng 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Cả nước 74.26 75.42 77.65 79.10 80.65 81.79 Đồng bằng sông Hồng 75.36 76.08 78.25 80.21 78.75 80.65 Đông Bắc Bộ 73.05 75.32 77.09 78.68 80.31 81.76 Tây Bắc Bộ 72.78 71.08 74.25 77.42 78.44 78.78 Bắc Trung Bộ 72.52 74.50 75.60 76.13 76.45 77.91 Duyên hải Nam Trung Bộ 76.40 74.85 77.31 79.11 77.81 79.81 Tây Nguyên 77.18 77.99 80.43 80.60 81.61 82.70 Đông Nam Bộ 76.42 75.43 78.45 81.34 82.90 83.46 Đồng bằng sông Cửu Long 73.38 76.53 78.27 78.37 80.00 81.70 Nguồn: Tỷ lệ thời gian làm việc được sử dụng của lao động trong độ tuổi ở khu vực nông thôn phân theo vùng (Tổng cục thống kê ). Từ bảng thống kê trên cho ta thấy được tỷ lệ thời gian làm việc được sử dụng của lao động trong độ tuổi ở khu vực nông thôn tuy vẫn còn thấp nhưng đã thể hiện xu hướng tăng lên theo thời gian, với tốc độ tăng như thế này mục tiêu của nước ta đến năm 2010 sẽ nâng quỹ thời gian sử dụng trong lao động nông thôn lên khoảng 85%. 1.2 Tình hình chung về thu nhập. 1.2.1 Tình hình về thu nhập của người lao động Việt Nam. Nước ta là một nước nghèo và đang trong quá trình phát triển, lao động với trình độ còn thấp, tỷ trọng lao động trong nông nghiệp còn nhiều. Thu nhập bình quân của nước ta với chỉ vượt ngưỡng 1000USD/người/năm vào năm 2008 và thoát khỏi tình trạng các nước nghèo về thu nhập. Một phần thu nhập của chúng ta thấp là do năng xuất lao động còn thấp. Năng suất lao động của Việt Nam năm 2005 đạt 19,62 triệu đồng. Tốc độ tăng năng suất lao động tính theo giá so sánh bình quân năm trong thời kỳ 2002- 2005 đạt 6,7%, thuộc loại khá cao. Tuy nhiên, cũng còn nhiều vấn đề tồn tại. Một là, năng suất lao động trong ngành nông, lâm nghiệp còn rất thấp; nếu trong năm 2005 mới đạt 6,26 triệu đồng. thấp chỉ bằng 1/3 năng suất lao động chung và thấp xa so với các ngành khác, trong khi tỷ giá lao động thuộc 2 ngành này lại chiếm quá nửa tổng số lao động đang làm việc. Nguyên nhân chủ yếu do năng suất cây, con con thấp, như năng suất lúa chỉ của Việt Nam đạt 48,9 tạ/ha, trong khi Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc đạt 62 tạ/ha; năng suất ngô của Việt Nam đạt 36 tạ/ha trong khi Mỹ, Australia, Pháp đạt 80 tạ/ha… Hai là, nếu tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái, năng suất lao động Việt Nam năm 2004 là 1090,5 USD (năm 2005 đạt 1241USD, trong khi của Philippines là 2419 USD, của Trung Quốc là 2152,3 USD, của Indonesia 2483,1 USD, của Thái Lan 4514 USD, của Malaysia 11276,2 USD,của Hàn Quốc 29057,6 USD, của Bruney 34697,5 USD,của Singapore 48563,9 USD, của Nhật Bản 73014 USD…). Năng suất lao động công nghiệp đạt cao nhất trong các ngành năm 2004 cũng chỉ đạt 45,92 triệu đồng, tính ra USD cũng mới chỉ đạt 2.912 USD, thấp xa so với nhiều nước. Nguyên nhân chủ yếu là do tỷ lệ sử dụng công nghệ cao trong công nghiệp ở Việt Nam mới đạt 20%, trong khi của Philippines 29%, Thái Lan 30,8%, Malaysia 51,1%, Singapore 73%... 1.2.2 Thu nhập của lao động nông thôn. Đối với khu vực nông thôn, thu nhập của mỗi hộ gia đình, lao động là số tiền hoặc sản phẩm mà mỗi giađình nhận được trong một thời gian nhất định để chi dùng trong cuộc sống hàng ngày. Thu nhập có thể là tiền lương khi người đó làm công ăn lương hoặc thu nhập cũng có thể thu được do người đó bán trực tiếp sản phẩm nào đó có giá trị như người nông dân bán thóc hay lúa. Đối với lao động làm nông nghiệp thì các nguồn thu nhập của họ có được sau mỗi vụ mùa kết thúc là các nguồn thu từ bán các sản phẩm nông sản, thu từ chăn nuôi trong hộ gia đình và các nuồn thu từ lao động lúc nông nhàn, đó có thể là thu từ thời gian làm thêm, làm thuê và thu từ nghề phụ của hộ gia đình và lao động. Đối với các hộ phi nông nghiệp và lao động phi nông nghiệp thì thu nhập của họ có được do bán các sản phẩm mình làm ra trong suốt quá trình lao động. Ngoài ra các hộ gia đình, lao động nông thôn còn có nguồn thu từ các yếu tố lương, chế độ chính sách của xã hội…2. Điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của địa phương có ảnh hưởng tới thu nhập của người dân huyện Thanh Liêm. 2.1 Vài nét về tỉnh Hà Nam. Hà Nam nằm ở tọa độ địa lý trên 20o vĩ độ Bắc và giữa 105o-110o kinh độ Đông, phía Tây-Nam châu thổ sông Hồng, trong vùng trọng điểm phát triển kinh tế Bắc Bộ. Tỉnh Hà Nam cách thủ đô Hà Nội hơn 50 km, là cửa ngõ phía nam của thủ đô; phía bắc giáp với tỉnh Hà Tây, phía đông giáp với Hưng Yên và Thái Bình, nam giáp Nam Định và Ninh Bình, phía tây giáp Hòa Bình.  Vị trí địa lý này tạo rất nhiều thuận lợi cho phát triển kinh tế và xã hội của tỉnh. Tỉnh Hà Nam bao gồm 6 đơn vị hành chính cấp huyện và thị xã: thị xã Phủ Lý (tỉnh lỵ của tỉnh), huyện Duy Tiên, huyện Kim Bảng, huyện Lý Nhân, huyện Thanh Liêm và huyện Bình Lục. Nằm trên trục giao thông quan trọng xuyên Bắc-Nam, trên địa bàn tỉnh có quốc lộ 1A và đường sắt Bắc-Nam chạy qua với chiều dài gần 50km và các tuyến đường giao thông quan trọng khác như quốc lộ 21, quốc lộ 21B, quốc lộ 38. Hơn 4000 km đường bộ bao gồm các đường quốc lộ, tỉnh lộ cùng các tuyến giao thông liên huyện, liên xã, thị xã, thị trấn đã được rải nhựa hoặc bê tông hóa, hơn 200km đường thủy có luồng lạch đi lại thuận tiện với 42 cầu đường đã được xây dựng kiên cố và hàng nghìn km đường giao thông nông thôn tạo thành một mạng lưới giao thông khép kín, tạo điều kiện thuận lợi về đi lại và vận chuyển hàng hóa cho các phương tiện cơ giới. Từ thị xã Phủ Lý có thể đi tới các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Hồng một cách nhanh chóng và thuận tiện. Vị trí chiến lược quan trọng cùng hệ thống giao thông thủy, bộ, sắt tạo cho Hà Nam lợi thế rất lớn trong việc giao lưu kinh tế, văn hóa-xã hội, khoa học-kỹ thuật với các tỉnh trong vùng và cả nước, đặc biệt là với thủ đô Hà Nội và vùng trọng điểm phát triển kinh tế Bắc Bộ. Tài nguyên đất đai với địa hình đa dạng là nguồn lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế của tỉnh. Hà Nam có diện tích tự nhiên 851 km2 nằm trong vùng trũng của đồng bằng sông Hồng và giáp với vùng núi của tỉnh Hòa Bình và vùng Tây Bắc. Phía tây của tỉnh là vùng đồi núi bán sơn địa với các dãy núi đá vôi, núi đất và đồi rừng. Đất đai ở vùng này rất thích hợp với các loại cây lâm nghiệp, cây công nghiệp và cây ăn quả. Vùng đồng bằng phía đông của tỉnh được tạo nên bởi phù sa của các sông lớn như sông Đáy, sông Châu, sông Hồng. Đất đai màu mỡ, thích hợp cho canh tác lúa nước, hoa màu, rau, đậu, thực phẩm. Những dải đất bồi ven sông đặc biệt thích hợp với các loại cây công nghiệp ngắn ngày như mía, dâu, lạc, đỗ tương và cây ăn quả. Ngoài ra đây cũng là vùng thuận lợi cho việc nuôi trồng, đánh bắt thủy sản và phát triển nghề chăn nuôi gia cầm dưới nước. Đá vôi, nguồn tài nguyên khoáng sản chủ yếu của Hà Nam, có trữ lượng lớn tới hơn 7 tỷ m3. Đây là nguyên liệu quan trọng cho phát triển các nghành công nghiệp sản xuất xi măng, vôi, sản xuất bột nhẹ, làm vật liệu xây dựng. Phần lớn các tài nguyên khoáng sản phân bố gần trục đường giao thông, thuận tiện cho việc khai thác, vận chuyển và chế biến. Sản phẩm xi măng Bút Sơn của Hà Nam hiện đã có mặt trong hầu hết các công trình xây dựng lớn của đất nước. Với tiềm năng khoáng sản , trong tương lai, Hà Nam có thể trở thành một trong những trung tâm công nghiệp vật liệu xây dựng lớn ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Từ khi tái lập tỉnh (1997), kinh tế xã hội của Hà Nam đã có những bước tiến vượt bậc và đạt được những thành tựu quan trọng. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm (GDP) của tỉnh tăng bình quân 11,1%/năm, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng của cả nước và một số tỉnh trong vùng. Tổng sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 6,1%/năm, công nghiệp và xây dựng tăng 14,3%/năm và các ngành dịch vụ tăng 7,3%/năm. Việc chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi, giống mới, trồng cây xuất khẩu, sản xuất lúa giống và nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh giỏi như sản xuất trên vùng đất trũng, kinh tế trang trại, kinh tế vườn đồi... đang tạo cho kinh tế nông nghiệp chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ: ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 18,6% năm 1996 lên 34,6% năm 2003, dịch vụ tăng từ 31,6% năm 1996 lên 31,8% năm 2003, nông lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 49,6% năm 1996 giảm còn 33,7% năm 2003. Quá trình đổi mới theo hướng đa dạng hóa các hình thức sản xuất, kinh doanh làm cho hoạt động kinh tế trong mỗi ngành, mỗi lĩnh vực trở nên sôi động, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, kinh tế tư nhân, cá thể và các loại hình kinh tế khác trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ.Cơ cấu các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh cũng có những thay đổi đáng kể. Tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước trong cơ cấu tổng sản phẩm tăng từ 17,56% (giai đoạn 1991-1996) tới 30,29% năm 2003. Hà Nam đã quy hoạch 5 khu công nghiệp với tổng diện tích gần 800ha tại các vị trí thuận lợi giao thông, hiện đang xây dựng cơ sở hạ tầng theo hướng đồng bộ ở 3 khu công nghiệp, cùng với các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư khá hấp dẫn sẵn sàng mời gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước.  Vị trí địa lý, sự đa dạng về đất đai, địa hình và thổ nhưỡng, điều kiện khí hậu thuỷ văn thuận lợi, nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ văn hóa, có khả năng tiếp nhận và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật-công nghệ,hạ tầng kinh tế - xã hội đã phát triển của Hà Nam là những yếu tố tích cực để phát triển một nền công nghiệp hiện đại, nông nghiệp tiên tiến và đa dạng, cả về chăn nuôi và trồng trọt, lâm nghiệp và thủy sản. Tiềm năng về phát triển kinh tế của tỉnh còn rất lớn, với sự đầu tư mạnh mẽ, khai thác và sử dụng một cách hợp lý sẽ thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng về kinh tế - xã hội trong tương lai. 2.2 Điều kiện phát triển của huyện Thanh Liêm. 2.2.1 Thanh Liêm và nguồn lực cho phát triển. Điều kiện tự nhiên Vị trí địa lý: Huyện Thanh Liêm nằm ở phía nam tỉnh Hà Nam; phía bắc giáp huyện Kim Bảng, thị xã Phủ Lý, huyện Bình Lục; phía đông giáp huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định; phía nam giáp huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình; phía tây giáp huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình. Huyện có 19 xã và 1 thị trấn. Đặc điểm địa hình và khí hậu: Địa hình huyện chia thành hai vùng rõ rệt, phía tây và vùng núi đá vôi có nhiều điểm cao và hang động đẹp, phía đông là dãy đồi núi đất xen kẽ vùng đồng bằng.Khí hậu của huyện Thanh Liêm mang đặc điểm của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, thuận lợi cho trồng trọt và chăn nuôi. Tài nguyên thiên nhiên Tài nguyên đất và rừng: Tổng diện tích đất tự nhiên toàn huyện là 17.501,94 ha, trong đó đất nông nghiệp 9.200,95 ha chiếm 53%, đất lâm nghiệp chiếm 26%, đất chuyên dùng chiếm 12,2%, đất khu dân cư chiếm 4,2%, còn lại là đất chưa sử dụng. Đất vùng đồng bằng được hình thành từ phù sa sông Hồng và sông Đáy, thích hợp với việc trồng lúa và hoa màu. Vùng đồi núi chủ yếu tà đất nâu vàng và đất màu, thích hợp cho phát triển cây lấy gỗ, cây ăn quả và cây công nghiệp.Huyện có 520 ha rừng mới trồng, chủ yếu là các loại cây lấy gỗ, cây công nghiệp và cây ăn quả như vải, nhãn, na dai, hồng không hạt... Hiện nay, đã có một số loại cây mới được đưa vào trồng thí điểm như măng tre Bát Độ phát triển khá tốt, cho giá trị kinh tế cao. Tài nguyên khoáng sản và nguồn nước: Huyện có nguồn đá vôi với trữ lượng hàng tỷ m3, tập trung chủ yếu ở 5 xã Tây Đáy, trong đó có Thanh Nghị (Đồng Ao) và thị trấn Kiện Khê. Ngoài ra còn có mỏ sét ở xã Liêm Sơn: Thanh Tâm, Thanh Lưu trữ lượng hàng triệu m3 dùng làm chất liệu phụ gia cho sản xuất xi măng trên địa bàn tỉnh và khu vực lân cận cùng với mỏ đá trắng cung cấp cho ngành công nghiệp hóa chất.Thanh Liêm có nguồn nước ngầm khá dồi dào và đang được các xã khai thác xử lý phục vụ cho sinh hoạt như Kiện Khê, Thanh Nguyên, Liêm Sơn... Ngoài ra, sông Đáy và sông Châu Giang cũng là nguồn nước tới phong phú cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân). Kết cấu hạ tầng Cấp điện, cấp nước: 20/20 xã, thị trấn trong huyện đã có điện lưới quốc gia với tồng công suất 12.420 KVA và 69 trạm biến áp, có 2 trạm trung gian là Thanh Lưu và E32. Tỷ lệ hộ dùng điện đạt 99,8%. Tỷ lệ hộ dân dùng nước hợp vệ sinh đạt 65%. Dự án nước sạch khu vực trung tâm huyện lỵ đang được thi công hoàn thiện và sẽ đưa vào sử dụng trong năm 2004. Giao thông, thông tin liên lạc: Tổng chiều dài đường bộ của huyện là 921,1 km, trong đó có 2 tuyến quốc lộ dài 20 km. Tỉnh lộ có 6 tuyến với chiều dài 46,4 km, đường huyện có 8 tuyến dài 55,7 km và đường giao thông nông thôn dài 799 km. Đường sắt Bắc Nam đi qua 3 xã của huyện là Liêm Tiết, Liêm Cần, Liêm Phong với chiều dài 5 km. Đường thủy nội địa trên địa bàn có 27 km qua hai tuyến sông Đáy và sông Châu Giang. Bưu chính - viễn thông phát triển với tốc độ cao, mạng viễn thông được trang bị 3 trạm chuyển mạch với dung lượng 4.700 số, đảm bảo thông lin chất lượng cao. Năm 2003, huyện có 4.180 máy điện thoại, đạt tỷ lệ 3 máy/100 dân. 100 % số thôn trong huyện có điện thoại. 20/20 xã, thị trấn trong huyện có đài truyền thanh, đảm bảo 100% số dân được nghe đài truyền thanh bốn cấp. Tiềm năng du lịch Thanh Liêm có tiềm năng du lịch khá lớn với nhiều hang động đẹp, đã từng là căn cứ trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc. Huyện có vùng đồi rừng rất thích hợp cho phát triển du lịch sinh thái, kết hợp với các danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Kẽm Trống, chùa Tiên và hệ thống đình chùa cổ được xếp hạng di tích lịch sử như chùa Trinh Tiết, chùa Châu, chùa Đá, chùa Lại Xá thờ Lý Thường Kiệt... Huyện có 13 di tích lịch sử văn hóa được công nhận, trong đó có 9 di tích cấp quốc gia. Nguồn nhân lực Năm 2003, dân số toàn huyện là 137.552 người, số người trong độ tuổi lao động là 58.5 nghìn người (chiếm 43%), lao động trong ngành nông-lâm-thủy sản là 53.743 người. Các yếu tố trên cũng có những tác động tới tính chất nghề nghiệp của lao động nông thôn trong khu vực, tuy nhiên còn nhiều yếu tố khác nữa có sự tác động tới lao động và việc làm của người dân trong huyện. 2.2.2 Định hướng phát triển kinh tế - xã hội của huyện đến năm 2010. Các mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đến 2010, huyện phấn đấu giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 10 đến 11,5% trở lên, trong đó nông nghiệp tăng 4,5%, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp 17%, thương mại - dịch vụ 14%. Cơ cấu kinh tế phấn đấu đạt nông ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21428.doc